Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 110
PHÁP HỘI THẮNG MAN PHU NHƠN
THỨ
BỐN MƯƠI TÁM
Như
vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở
nước
Xá Vệ vườn Kỳ Thọ Cấp
Cô Độc.
Bấy giờ vua nước Xá Vệ là Ba Tư
Nặc Vương
và Mạc Lợi phu nhơn
mới chứng đạo pháp xong cùng bảo nhau rằng : Con gái chúng ta là Thắng Man sáng suốt từ ái đa văn trí huệ, nếu nó được thấy đức Như
Lai thì ở nơi pháp thậm thâm sẽ có thể mau thấu hiểu, không còn các sự nghi hoặc. Chúng ta nên sai người giỏi khuyến dụ đến
phát khởi lòng thành kính của nó .
Bàn luận xong, vua và phu nhơn
viết thư
khen ngợi công đức chơn
thiệt của Như
Lai, sai quan Chơn Đề La làm sứ mang thư
đến thành Vô Đấu trao cho Thắng Man phu nhơn.
Sau khi
xem thơ của cha mẹ, Thắng Man phu nhơn
vui mừng đảnh thọ, hướng Chơn
Đề La mà nói kệ rằng
:
Tôi nghe
tiếng Như
Lai
Thế gian khó được gặp
Lời nầy nếu chơn
thiệt
Sẽ ban người y phục
Nếu đức Phật Thế Tôn
Vì lợi thế gian hiện
Tất phải được xót thương
Cho tôi
thấy chơn
tướng.
Thắng Man phu nhơn
nghĩ tưởng
đến Phật mà nói ra lời ấy,
trong giây lát sau đức Phật hiện thân tướng bất tư
nghì tại hư
không phóng quang minh chiếu khắp thế giới.
Thắng Man phu nhơn
cùng quyến thuộc đều hợp đến chiêm ngưỡng chắp tay đảnh lễ Phật nói kệ khen rằng :
Như
Lai thân sắc đẹp
Thế gian không ai bằng
Không
sanh chẳng nghĩ bàn
Thế nên nay kính lạy
Thân Như
Lai vô tận
Trí huệ cũng như
vậy
Tất cả pháp thường trụ
Vì thế tôi quy y
Khéo điều tâm lìa lỗi
Điều thân khẩu cũng vậy
Đều đến bất tư nghị
Thế nên tôi kính lạy
Biết các pháp sở tri
Thân và
trí vô ngại
Nơi pháp không quên mất
Vì thế tôi kính lạy
Cúi lạy đấng Vô Lượng
Cúi lạy đấng Vô Đẳng
Cúi lạy đấng Pháp Vương
Cúi lạy đấng Nan Tư
Mong thương gia hộ tôi
Cho giống pháp thêm lớn
Mãi đến thân rốt sau
Thường ở tại
trước Phật
Bao nhiêu
phước tôi tu
Đời nầy và đời khác
Do sức căn lành nầy
Mong Phật luôn nhiếp thọ.
Nói kệ xong, Thắng Man phu nhơn cùng quyến thuộc và tất cả đại
chúng đảnh lễ chưn Phật.
Bấy giờ đức
Thế Tôn vì Thắng Man phu nhơn mà nói kệ rằng
:
Xưa ta vỉ Bồ
đề
Đã từng khai thị ngươi
Nay ngươi lại gặp ta
Đến đời sau cũng vậy
Nói kệ xong, đức Phật ở
giữa chúng hội thọ ký Vô thượng Chánh Đẳng Giác cho Thắng Man rằng : « Nay ngươi ca ngợi công đức thù thắng của Như Lai, do căn lành nầy, ngươi sẽ ở
trong a tăng kỳ kiếp làm vua tự tại
trong hàng trời người đầy đủ đồ
thọ dụng.
Ngươi sanh tại chỗ nào cũng thường được gặp Phật cúng dường khen ngợi như nay không khác. Ngươi còn sẽ cúng dường vô lượng vô số chư Phật Thế Tôn. Quá hai vạn a tăng kỳ kiếp ngươi sẽ thành Phật hiệu Phổ Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, quốc độ của
Phật Phổ Quang ấy không có các ác đạo suy già bệnh khổ, cũng không có danh từ bất
thiện ác nghiệp đạo, chúng sanh cõi ấy hình sắc đoan nghiêm, đủ cảnh
đẹp cõi trời, thuần thọ hưởng
vui sướng hơn cả Trời Tha Hóa Tự Tại.
Chúng sanh cõi ấy đều hướng về Đại
Thừa, ai học Đại Thừa như vậy
đều sanh về quốc độ ấy
».
Khi Thắng Man phu nhơn được thọ ký xong, có vô lượng trời người sanh lòng vui mừng hớn hở đều
nguyện sanh về thế giới của Phật Phổ Quang. Đức Thế Tôn đều thọ ký cho họ sẽ
được sanh cõi nước ấy.
Được nghe đức Phật thọ ký xong, Thắng Man phu nhơn chắp tay đứng trước Phật phát mười hoằng thệ : « Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi chẳng sanh tâm niệm phạm nơi giới đã được thọ .
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày Bồ đề,
tôi chẳng sanh lòng kiêu mạn đối với các bực Sư Trưởng.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi chẳng lòng giận hờn đối với các chúng sanh.
Bạch dức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi chẳng sanh lòng đố kỵ
với người hơn mình và sự hơn
mình.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi chẳng sanh lòng bỏn xẻn dầu chỉ có ít thức ăn.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi chẳng vì mình mà nhận chứa của cải. Nếu có nhận chứa thì chỉ vì cứu tế loài hữu tình nghèo khổ.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi hành tứ nhiếp sự mà chẳng cầu ân báo, không lòng tham lợi, không lòng nhàm đủ, không lòng hạn ngại, luôn nhiếp thọ chúng sanh.
Bạch đức thế Tôn ! từ nay đến ngày thành Bồ đề,
thấy có chúng sanh nào không chỗ nương
tựa, bị giam cầm trói buộc bịnh tật khổ não các thứ nguy ách, thì tôi trọn chẳng bỏ lìa họ, quyết mong cho họ được
an ổn đem lợi ích lành cho họ.
Bạch dức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
nếu tôi thấy có ai hủy phạm cấm giới thanh tịnh của đức Như Lai, nếu thuộc về thành ấp tụ lạc
của tôi quản nhiếp, kẻ đáng điều phục tôi sẽ điều phục, kẻ đáng nhiếp thọ tôi sẽ nhiếp thọ. Tại sao ? Vì điều phục nhiếp thọ kẻ
phá giới thì làm cho chánh pháp được còn lâu, chánh pháp còn lâu thì
trời người đông đúc, mà ác đạo giảm ít có thể làm cho pháp luân của Như Lai được thường chuyển.
Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay đến ngày thành Bồ đề,
tôi nhiếp thọ chánh pháp không để quên mất. Nếu quên mất Đại thừa thì quên Ba la mật, nếu quên Ba la mật thì quên Đại thừa. Nếu chư Bồ
Tát chẳng quyết định nơi Đại thừa thì nhiếp thọ chánh pháp không được bền vững thì chẳng kham siêu việt bực phàm phu, là mất mát lớn.
Bạch đức Thế Tôn ! Hiện tại và vị lai chư Bồ
Tát nhiếp thọ chánh pháp phát hoằng thệ nầy
thì đầy đủ vô biên lợi ích rộng lớn.
Đức Thế Tôn dầu là chứng biết mà các loài hữu tình căn lành kém mỏng hoặc phát khởi lưới nghi, do đây nên mười hoằng thệ khó thành tựu được, họ sẽ
mãi mãi chứa hợp các pháp bất thiện, thọ những khổ não. Vì lợi ích cho các chúng sanh ấy nên nay tôi ở trước đức Phật phát thệ thành thiệt.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi phát mười hoằng thệ ấy
nếu là chơn thiệt chẳng hư luống thì trên đại chúng sẽ mưa
hoa trời phát âm thanh cõi trời ».
Thắng Man phu nhơn ở
trước đức Phật nói vùa dứt lời, trên hư không liền mưa hoa trời và phát ra âm thanh trời rằng : « Lành thay, lành thay ! Như lời
thệ cúa Thắng Man phu nhơn chơn thiệt không sai khác ».
Bấy giờ chúng hộì thấy cảnh lành nầy dứt lòng nghi hoặc rất đỗi vui mừng đồng thanh xướng rằng : « Nguyện cùng Thắng Man phu nhơn sanh nơi nào đều đồng một nguyện hạnh ».
Đức Phật thọ ký cho tất cả đại
chúng ấy đều mãn sở nguyện.
Thắng Man phu nhơn lại ở
trước Phật phát ba hoằng nguyện, do nguyện lực nầy mà lợi ích vô biên loài hữu tình.
Điều nguyện thứ nhứt : Tôi do căn lành trong tất cả đời
được chánh pháp trí.
Điều nguyện thứ hai : Chỗ tôi sanh nếu tôi được chánh trí rồi vì các chúng sanh diễn thuyết không hề mỏi.
Điều thứ ba : Tôi vì nhiếp thọ hộ
trì chánh pháp nên đối với thân thể không tiếc sanh mạng.
Đức Phật nghe ba điều nguyện xong, bảo Thắng Man phu nhơn rằng : « Như tất
cả hình sắc đều nhập vào không giới, hằng sa điều nguyện của Bồ Tát đều nhập vào ba nguyện ấy.
Ba nguyện ấy
chơn thiệt quảng đại ».
Thắng Man phu nhơn lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi sẽ nương
sức oai thần biện tài của đức Phật muốn nói đại nguyện, mong đức Thế Tôn thương mà hứa khả cho ».
Đức Phật dạy : « Nầy Thắng Man ! Cho phép ngươi nói ».
Thắng Man phu nhơn nói :“ Bồ Tát có hằng sa điều nguyện, tất cả đều
nhập vào trong một đại nguyện, đó là nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp như vậy
chơn thiệt quảng đại ».
Đức Phật bảo : « Lành thay, nầy Thắng Man ! Ngươi từ lâu tu tập trí huệ phương tiện thậm thâm vi diệu. Có ai hiểu rõ ý nghĩa của ngươi nói, người nầy đã vun trồng cội lành từ lâu.
Nầy Thắng Man ! Nhiếp thọ chánh pháp như ngươi đã nói, đều là quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đã nói, sẽ nói, nay nói. Ta được Vô thượng Bồ đề
cũng thường dùng nhiều thứ tướng
để nói nhiếp thọ chánh pháp. Ca ngợi nhiếp thọ chánh pháp như vậy
được công đức không ngằn mé. Như Lai trí huệ cũng không nguyện của Bồ Tát đêu nhập vào ba nguyện ấy.
Ba nguyện ấy
chơn thiệt quảng đạỉ.
Thắng Man phu nhơn lại bạch rằng :“ Bạch đức Thế Tôn nay tôi sẽ nương
sức oai thần biện tài của đức Phật muốn nói đại nguyện, mong đức Thế² Tôn thương mà hứa khả cho ’’.
Đức Phật dạy :“ Nầy Thắng Man cho ! Cho phép ngươi nói ’’.
Thắng Man phu nhơn nói :“ Bồ Tát có hằng sa điều nguyện, tất cả đều
nhập vào trong một đại nguyện, đó là nhiếp thọ chánh pháp.Nhiếp thọ chánh pháp như vậy
chơn thiệt quảng đại’’.
Đức Phật bảo :“Lành thay, ngươi từ lâu tu tập trí huệ phương tiện thậm thâm vi diệu. Có ai hiểu rõ ý nghĩa của ngươi nói, người nầy đã vun trồng cội lành từ lâu.
Nầy Thắng Man ! Nhiếp thọ chánh pháp do ngươi đã nói, đều là quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đã nói, sẽ nói, nay nói. Ta được Vô thượng Bồ đề
cũng thường dùng nhiều thứ tướng
để nói nhiếp thọ chánh pháp như
vậy được công đức không ngằn mé. Như
Lai trí huệ cũng không ngằn mé, Tại sao ? Vì nhiếp thọ chánh pháp đây có đại công đức có đại lợi ích’’.
Thắng Man phu nhơn
bạch rằng :“ Bạch đức Thế Tôn ! tôi sẽ nương thần
lực của đức Phật mà nói nghĩa nhiếp thọ chánh pháp quảng đại’’.
Đức Phật dạy :“ Nầy Thắng Man ! Cho phép ngươi
nói’’.
Thắng Man phu nhơn
nói :“ Nghĩa nhiếp thọ chánh pháp quảng đại là vì được vô lượng tất cả Phật pháp nhẫn đến hay nhiếp tám vạn hành môn.
Ví như
kiếp sơ
nổi lên các sắc mây mưa
các trận mưa
báu. Cũng vậy, mây thiện căn nhiếp thọ chánh pháp hay mưa
các trận mưa
vô lượng phước báu.
Ví như
kiếp sơ
trong đại thủyhay sanh tam thiên Đại Thiên giới tạng và bốn trăm ức các thứ loại lục địa. Cũng vậy, nhiếp thọ chánh pháp xuất sanh Đại thừa vô lượng giới tạng cùng các thứ thần thông lực các thứ pháp môn của Bồ Tát, thế gian và xuất thế gian đầy đủ an lạc mà tất cả thiên nhơn
chưa
hề có.
Ví như
đại địa mang nặng bốn gánh nặng : Đó là biển cả, núi non, cây cỏ và chúng sanh. Cũng vậy, thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp thì có thể kham được bốn trọng nhiệm hơn
đại dịa kia : Đó là đối với các loài hữu tình rời lìa thiện hữu không nghe pháp phạm các tội lỗi thì dùng căn lành trời người để thành thục họ, với kẻ cầu
Thanh Văn dạy họ Thanh Văn thừa, với kẻ cầu
Duyên Giác dạy họ Duyên Giác thừa và với kẻ cầu
Đại thừa dạy họ Đại
thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp như
vậy thì kham được bốn trọng nhiệm hơn
cả đại
địa, khắp vì chúng sanh làm bạn lành chẳng chờ mời,
đại bi thương
xót làm lợi ích cho các loài hữu tình, là mẹ pháp của thế gian.
Ví như
đại địa là chỗ sản
sanh bốn thứ báu : Đó là các báu vô giá, thượng giá, trung giá và hạ giá. Cũng vậy, thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp, các hữu tình gặp rồi thì được bốn báu lớn thù thắng nhứt trong các thứ báu, đó là các hữu tình gặp bạn lành nầy rồi thì hoặc được căn lành trời người, hoặc chứng Thanh Văn, chứng Bích Chi Phật và hoặc được thiện căn công đức Vô thượng thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Xuất sanh báu lớn ấy
thì gọi là chơn
thiệt nhiếp thọ chánh pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói nhiếp thọ chánh pháp là chánh pháp vô dị biệt, nhiếp thọ chánh pháp vô dị biệt là nhiếp thọ chánh pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Ba la mật vô dị biệt nhiếp thọ Ba la mật vô dị biệt là nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp là Ba la mật. Tại sao ? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp, nếu đáng dùng bố thí để thành thục thì dùng bố thí nhẫn đến xả thân mạng tùy thuận ý họ để
thành thục họ cho họ an trụ nơi chánh pháp, đây gọi là Bố thí Ba la mật.
Nếu đáng dùng giới luật để thành thục thì thủ hộ
sáu căn tịnh thân ngữ ý nhẫn đến oai nghi tùy thuận ý họ mà thành thục họ cho hữu tình ấy an trụ chánh pháp, đây gọi là Giới Ba la mật.
Nếu người đáng dùng nhẫn nhục để thành thục, thì hoặc có bị người ấy
mắng chửi hủy nhục chê bai não loạn liền dùng lòng không giận hờn và lòng làm lợi ích cùng sức nhẫn tối thượng nhẫn đến nhan sắc cũng chẳng đổi khác tùy thuận ý người ấy
để thành thục họ cho họ an trụ chánh pháp, đây gọi là Nhẫn Ba la mật.
Nếu người đáng dùng tinh tỉến để thành thục thì đối với người ấy
chẳng sanh lòng giải đải hạ liệt mà khởi lòng thích muốn tinh tiến tối thượng, trong bốn oai nghi tùy thuận ý người ấy
mà thành thục họ cho họ an trụ chánh pháp, đây là Tinh tiến Ba la mật.
Nếu người dùng tĩnh lự để
thành thục thì dùng tâm không tán loạn thành thục chánh niệm, việc đã làm trọn chẳng quên mất tùy thuận ý họ mà thành thục họ cho họ an trụ chánh pháp, đây gọi là Tĩnh lự Ba la mật.
Nếu người đáng dùng trí huệ để
thành thục, người ấy
vì lợi ích mà hỏi các pháp nghĩa thì dùng lòng
không mỏi chán mà vì họ diễn nói tất cả các luận tất cả minh xứ nhẫn đến các thứ công xảo xứ cho được cứu cánh, tùy thuận ý người ấy
mà thành thục họ, cho họ an trụ chánh pháp, đây gọi là Trí huệ Ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nên Ba la mật không dị biệt, nhiếp thọ chánh pháp không dị biệt, nhiếp thọ chánh pháp tức là Ba la mật”.
Thắng Man phu nhơn
lại bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nương
sức oai thần biện tài của đức Phật sẽ nói về đại
nghĩa. Mong đức Thế Tôn hứa khả”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Thắng Man ! Ta cho phép ngươi
nói ».
Thắng Man phu nhơn
nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Nhiếp thọ chánh pháp là nhiếp thọ chánh pháp không dị biệt. Nhiếp thọ chánh pháp không dị biệt là nhiếp thọ chánh pháp. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn
phải nhiếp thọ chánh pháp như
vậy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp vì chánh pháp mà xả bỏ
thân mạng tài sản. Do xả bỏ
thân thể nên những người ấy
chứng sanh tử tối
hậu lìa xa già bịnh dược pháp thân Như
Lai chẳng hư
hoại thường hằng không biến đổi cứu cánh tịch tĩnh chẳng thể nghĩ bàn. Do xả bỏ
sanh mạng nên những người ấy
chứng sanh tử tối
hậu lìa hẳn sự chết được vô biên thường trụ, thành tựu các công đức lành, chẳng thể nghĩ bàn, an trụ nơi tất
cả Phật pháp thần biến, do xả bỏ
tài sản nên những người ấy
chứng sanh tử tối
hậu vượt qua khỏi hữu tình không cùng tận không tổn giảm quả báo viên mãn có đủ công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, được các loài hữu tình tôn trọng cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn
nhiếp thọ chánh pháp xả bỏ
thân mạng tài được chư
Như
Lai thọ ký.
Bạch đức Thế Tôn !Lúc chánh pháp sắp diệt, có hàng Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu
Bà Tắc, Ưu
Bà Di kết bè kết đảng phát khởi những tranh tụng, nếu nam tử, thiện nữ nhơn
dùng lòng chẳng siểm khúc chẳng khi dối mến thích chánh pháp nhiếp thọ chánh pháp mà vào trong nhóm bạn lành, người vào nhóm bạn lành nầy tất được chư
Phật thọ ký.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi thấy người nhiếp thọ chánh pháp có sức mạnh lớn như
vậy, đức Như
Lai dùng làm con mắt dùng làm cội gốc pháp, dùng làm pháp dẫn đạo, dùng làm pháp thông đạt ».
Đức Thế Tôn nghe Thắng Man phu nhơn
nói về nhiếp thọ chánh pháp có đại oai lực thì khen rằng : « Đúng như
vậy, đúng như
vậy, lành thay ! Nầy Thắng Man đúng như
lời ngươi
nói nhiếp thọ chánh pháp có oai lực lớn.
Như
đại lực sĩ hơi
chạm chà bóp ai thì người ấy
đau đớn khổ lắm
còn thêm bịnh nặng. Cũng vậy, giả sử
chút phần nhiếp thọ chánh pháp cũng làm cho ma Ba Tuần dau đớn sầu não khóc rên than thở.
Nầy Thắng Man ! Ta thường chẳng thấy một thiện pháp nào khác làm cho ma sầu não hằng nhiếp thọ chánh pháp một ít phần.
Nầy Thắng Man ! Ví như
ngưu
vương
hình sắc đoan chánh thân lượng đặc biệt lạ hơn hẳn
các loài ngưu
khác. Cũng vậy, người tu Đại thừa nếu ít phần nhiếp thọ chánh pháp thì hơn
hẳn tất cả pháp lành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác.
Lại như
núi Tu Di cao rộng trang nghiêm xinh đẹp hơn
các núi khác, cũng vậy, người mới đến Đại thừa dùng lòng lợi ích chẳng đoái thân mạng mà nhiếp thọ chánh pháp thì có thể vượt
hơn
tất cả thiện căn của người ở
lâu nơi
Đại thừa mà đoái thân mạng.
Nầy Thắng Man ! Thế nên phải dùng nhiếp thọ chánh pháp mà khai hóa tất cả hữu
tình. Nhiếp thọ chánh pháp được phước lợi lớn và đại quả báo.
Nầy Thắng Man ! Trong vô số a tăng kỳ kiếp ta ca ngợi nhiếp thọ chánh pháp như
vậy được công đức vô lượng vô biên. Nhiếp thọ chánh pháp thì thành tựu vô lượng công đức như
vậy”.
Đức Phật bảo Thắng Man phu nhơn
: “Nay ngươi
lại nên diễn tả nhiếp thọ chánh pháp đã được ta nói mà tất cả chư
Phật đồng ưa
thích”.
Thắng Man phu nhơn bạch rằng : “Lành thay, bạch đức Thế Tôn ! Nhiếp thọ chánh pháp thì gọi là Đại Thừa. Tại sao ? Vì Đại thừa xuất sanh bao nhiêu pháp lành của tất cả Thanh Văn, Duyên giác thế gian và xuất thế gian.
Như
ao A Nậu Đạt phát xuất tám sông lớn, cũng vậy, Đại thừa xuất sanh bao nhiêu pháp lành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác.
Lại như
tất cả cây cỏ lùm rừng đều nương
đại địa mà được sanh trưởng, cũng vậy, tất cả pháp lành của Thanh Văn, Duyên Giác đều nương
Đại thừa mà được sanh trưởng. Vì thế nên an trụ Đại
thừa nhiếp thọ Đại
thừa tức là trụ và nhiếp bao nhiêu pháp lành của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác thế gian và xuất thế gian.
Như
đức Phật Thế Tôn đã nói sáu xứ : Đó là chánh pháp trụ, chánh pháp diệt, biệt giải thoát, tỳ nại gia, chánh xuất gia, thọ cụ
túc. Vì Đại thừa mà đức Phật nói sáu xứ ấy.
Tại sao ? Vì chánh pháp trụ là vì đại thừa mà nói, Đại thừa trụ thì chánh pháp trụ. Chánh pháp diệt là vì Đại thừa mà nói, Đại thừa diệt thì chánh pháp diệt. Biệt giải thoát và Tỳ Nại gia, hai pháp nầy tên khác mà nghĩa một. Tỳ nại gia là Đại thừa, tại sao, vì Phật mà xuất gia mà thọ cụ
túc, thế nên khối giới Đại thừa là Tỳ nại gia , là chánh xuất gia, là thọ cụ
túc.
Bạch Thế Tôn ! A La Hán không có xuất gia không thọ cụ
túc, tại sao, vì A La Hán chẳng vì Như
Lai mà xuất gia thọ cụ
túc, A La Hán có ý tưởng bố úy mà quy y Như
Lai, tại sao, vì đối với tất cả hành A La Hán có tưởng bố úy coi như
người cầm kiếm muốn đến hại mình, do đây nên A La Hán chẳng chứng được giải thoát an lạc cứu cánh.
Bạch đức Thế Tôn ! Quy y nơi chằng cầu quy y, như
các chúng sanh không chỗ quy y, chúng nó sợ hải
nên tìm nơi
quy y để được
an ổn. Cũng vậy, vì có bố úy mà A La Hán quy y nơi
Như
Lai.
Vì thế nên hàng A La Hán Bích Chi Phật còn có sanh pháp, chưa
lập phạm hạnh, chỗ làm chưa
xong, sẽ còn có chỗ dứt
diệt vì chưa
cứu cánh vậy. Họ còn cách xa Niết bàn. Tại sao ? Vì chỉ có Như
Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác chứng được Niết bàn thành tựu vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, chỗ đáng dứt đã dứt hết cứu cánh thanh tịnh, được các loài hữu tình chiêm ngưỡng, vượt quá cảnh giới của nhị thừa và Bồ Tát. Còn hàng A La Hán thì chẳng phải như
vậy. Nói rằng A La Hán được Niết bàn đó chỉ là phương
tiện của Phật thôi. Thế nên A La Hán cách Niết bàn rất xa.
Đức Thế Tôn nói A La Hán và Bích Chi Phật quán sát giải thoát bốn trí cứu cánh được rồi xong đó, đều là lời tùy tha ý và thuyết bất liễu nghĩa của Như
Lai. Tại sao vậy ? Có hai thứ tử
: một là phần đoạn, hai là biến dịch. Phần đoạn tử là hữu tình tương
tục, biến dịch tử là A La Hán và Bích Chi Phật cùng bực tự tại
Bồ Tát được ý sanh thân nhẫn đến Bồ đề.Trong
hai thứ tử
ấy đem phần đoạn tử nói về A La Hán và Bich Chi Phật là sanh nơi
trí ngã sanh đã hết. Vì đã chứng được quả hữu
dư
y nên sanh nơi
trí phạm hạnh đã lập. Vì tất cả ngu phu chẳng làm được, bảy hàng học nhơn
chưa
làm xong và tương
tục phiền não đã dứt rốt ráo, nên sanh nơi
trí việc làm đã xong.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói rằng sanh chẳng thọ lấy
thân sau, người trí bảo là A La Hán và Bích Chi Phật chẳng dứt được tất cả phiền não, trí họ chẳng biết rõ tất cả thọ sanh. Tại sao ? Vì A La Hán và Bích Chi
Phật còn có thừa phiền não chẳng dứt hết nên chẳng biết rõ được tất cả thọ sanh vậy.
Phiền não có hai loại, đó là trụ địa
phiền não và khởi phiền não.
Trụ địa
phiền não có bốn thứ, đó là kiến nhứt xứ trụ địa
phiền não, dục ái trụ địa
phiền não, sắc ái trụ địa
phiền não và hữu ái trụ địa
phiền não.
Bạch đức Thế Tôn ! Bốn thứ trụ địa
ấy hay sanh tất cả biến khởi phiền não. Khởi phiền não ấy sát na sát na cùng tương
ưng
với tâm.
Bạch đức Thế Tôn ! Vô minh trụ địa
từ vô thỉ đến
nay chẳng tương
ưng
với tâm.
Bạch đức Thế Tôn ! Sức lực của bốn trụ địa
phiền não làm sở y cho biến khởi phiền não sánh với vô minh trụ địa
thì toán số thí dụ chẳng bằng được.
Đúng vậy, đối với hữu ái trụ địa
phiền não thì sức lực của vô minh trụ địa
rất lớn.
Ví như
Ma Vương
và chúng quyến thuộc sắc lực oai đức hơn
hẳn bốn trụ địa
hơn
hẳn chư
Thiên Tha Hóa Tự Tại.
Cũng vậy, vô minh trụ địa
hơn
hẳn bốn trụ địa
hơn
số hằng
hà sa lần, nó làm sở y cho phiền não và cũng làm cho bốn thứ phiền não còn mãi. Trí của Thanh Văn và Duyên Giác chẳng dứt được vô minh trụ địa,
chỉ có trí của Như
Lai là dứt hết được nó.
Bạch đức Thế Tôn ! Đúng vậy, đúng vậy sức lực của vô minh trụ địa
rất lớn.
Như
thủ chi làm duyên hữu lậu nghiệp nhơn
mà sanh ra ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, cũng vậy, vô minh trụ địa
làm duyên vô lậu nghiệp nhơn
hay sanh A La Hán, Bích Chi Phật và đại lực Bồ Tát tùy ý sanh thân và vô lậu nghiệp đều lấy vô minh trụ địa
làm chỗ sở
y, dầu là sở duyên mà cũng hay làm duyên. Thế nên tùy ý sanh thân và vô lậu nghiệp đều dùng vô minh trụ địa
làm duyên đồng như
hữu ái trụ địa
phiền não.
Bạch đức Thế Tôn ! Hữu ái trụ địa
chẳng đồng nghiệp vời vô minh trụ địa.
Vô minh trụ địa
khác bốn trụ địa.
Khác bốn trụ địa
đây chỉ có Phật dứt được hết. Tại sao ? Vì A La Hán và Bích Chi
Phật dứt bốn trụ địa
mà đối với lậu tận lực chẳng được tự tại
chẳng hiện chứng được. Thế nên A La Hán, Bích Chi Phật nhẫn đến chư
Bồ Tát tối hậu hữu vì bị vô minh trụ địa
nó che lấp nên ở nơi các pháp ấy chẳng biết chẳng thấy nên đáng dứt chẳng dứt đáng hết chẳng hết. Vì ở nơi các pháp ấy chẳng dứt chẳng hết nên được hữu dư
giải thoát mà chẳng phải nhứt thiết giải thoát được hữu dư
thanh tịnh mà chẳng phải nhứt thiết thanh tịnh, được hữu dư
công đức mà chẳng phải nhứt thiết công đức.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì được hữu dư
nên ở nơi Thánh đế,
các bực ấy
biết khổ hữu
dư,
dứt tập hữu dư,
chứng diệt hữu dư
và tu đạo hữu dư.
Nếu còn là biết hữu dư
khổ dứt,
hữu dư
tập chứng, hữu dư
diệt và tu hữu dư
đạo, thì là chút phần diệt độ chúng, chút phần Niết bàn giới.
Nếu biết tất cả khổ dứt,
tất cả tập
chứng, tất cả diệt và tu tất cả đạo,
bực nầy ở
nơi
thế gian vô thường, bại hoại chứng được Niết bàn thường tịch thanh tịnh, bực nầy ở
nơi
thế gian không giúp không nương
làm chỗ giúp chỗ nương.
Tại sao ? Vì người ở
nơi
các pháp mà thấy có cao thấp thì chẳng chứng được Niết bàn. Người trí bình đẳng, giải thoát bình đẳng, thanh tịnh bình đẳng mới chứng được Niết bàn. Vì thế nên Niết bàn gọi là bình đẳng nhứt vị, đó là vị giải thoát vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu vô minh trụ địa
chẳng dứt chẳng hết thì chẳng chứng được Niết bàn nhứt vị bình đẳng. Tại sao ? Vì vô minh trụ địa
chẳng dứt chẳng hết thì hơn
số hằng
hà sa những pháp sai lầm đáng dứt còn chằng dứt, đáng hết còn chẳng hết. Vì còn hơn
số hằng
hà sa những pháp sai lầm chẳng dứt chẳng hết nên quá hằng hà sa số các pháp công đức chẳng trọn chẳng chứng được. Thế nên vô minh trụ địa
là nơi
sanh ra các tùy phiền não tất cả pháp lỗi lầm đáng dứt đáng hết. Từ đó sanh ra phiền não chướng tâm, phiền não chướng chỉ, phiền não chướng quán, phiền não chướng tịnh lự, nhẫn đến chướng tam ma đề gia hạnh trí quả chứng thập lực tứ vô sở úy
Hơn
cả số
hằng hà sa các phiền não, các khởi phiền não mà trí kim cương
Đẳng Chánh Giác của Như
Lai hay dứt diệt, tất cả đều
nương
nơi
vô minh trụ địa,
vì vô minh trụ địa
làm nhơn
duyên vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Khởi phiền não đây sát na sát na cùng tương
ưng
với tâm. Từ vô thỉ đến
nay vô minh trụ địa
chẳng tương
ưng
với tâm.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví như
tất cả giống của cây cỏ đều
nương
nơi
đại địa mà sanh trưởng, nếu đại địa hoại hư
thì chúng nó cũng hoại hư.
Cũng vậy, hơn
số hằng
hà sa các pháp đáng được dứt diệt bởi trí kim cương
Đẳng Chánh Giác của đức Như
Lai đều nương
nơi
vô minh trụ địa
mà sanh trưởng, nếu vô minh trụ địa
dứt hết thì các pháp phiền não ấy cũng dứt hết. Vì hơn
số hằng
hà sa các pháp đáng dứt diệt cùng tất cả phiền não và khởi phiền não đã dứt diệt hết nên chứng được quá số hằng
hà sa các pháp chư
Phật bất khả tư nghị,
ở nơi các pháp chứng được vô ngại thần thông, được các trí kiến, rời lìa tất cả sai lầm, được tất cả công đức, làm Đại Pháp Vương
tự tạI
nơi
tất cả pháp chứng bực nhứt thiết pháp tự tại,
chánh sư
tử hống
rằng : Ngã sanh đã hết phạm hạnh đã lập việc làm đã xong chẳng còn thọ thân sau. Do đó đức Thế Tôn dùng sư
tử hống
y nơi
liễu nghĩa một mực ghi nhận như
vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Trí chẳng thọ thân sau ấy có hai thứ :
Một là chư
Phật Như
Lai dùng sức điều ngự xô dẹp bốn ma siêu việt các thế gian được các loài hữu tình chiêm ngưỡng, chứng pháp thân thanh tịnh chẳng nghĩ bàn, nơi
bực sở tri được pháp tự tại
tối thắng vô thượng, không còn phải làm, chẳng thấy còn có bực nào phải được chứng nữa, đầy đủ mười
trí lực lên bực tối thắng vô úy, nơi
tất cả pháp quan sát vô ngại chánh sư
tử hống
chẳng thọ thân sau.
Hai là A
La Hán và Bích Chi Phật được khỏi vô lượng sanh tử bố
úy, thọ vui giải thoát, tự nghĩ rằng : Nay ta đã rời lìa sanh tử bố
úy chẳng thọ các sự khổ.
Bạch đức Thế Tôn ! Hàng A La Hán và Bích Chi
Phật quan sát như
vậy rồi chẳng thọ thân sau, họ chẳng chứng được Niết bàn tịch diệt đệ nhứt, vì họ ở
nơi
các bực chưa
chứng chẳng gặp được pháp để có thể hiểu biết rằng nay ta chứng được bực Hữu dư
y quyết định sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác.
Tại sao ? Vì Thanh Văn và Duyên
Giác đều nhập vào Đại thừa, mà Đại thừa là Phật thừa, thế nên Tam thừa tức là Nhứt thừa. Người chứng Nhứt thừa thì được Vô thượng Bồ đề.
Vô thượng Bồ đề
tức là Niết bàn. Nói Niết bàn đây tức là Pháp thân thanh tịnh của Như
Lai. Người chứng Pháp thân tức là Nhứt thừa không có Như
Lai khác, không có Pháp thân khác. Nói Như Lai ấy
tức là Pháp thân. Người chứng Pháp thân cứu cánh là cứu cánh Nhứt thừa. Người cứu cánh Nhứt thừa tức là rời lìa tương
tục.
Tại sao ? Bạch đức Thế Tôn ! Vì Như
Lai thường trụ không có hạn lượng bằng với hậu tế ! Như
Lai hay dùng đại bi vô hạn, thệ nguyện vô hạn đem lợi ích lại cho các thế gian. Người nói như
trên đây thì gọi là lời nói phải.
Nếu lại nói rằng Như
Lai là thường là pháp vô tận chỗ y tựa cứu cánh của tất cả thế gian thì cũng gọi là lời nói phải.
Vì thế nên Như
Lai ở nơi thế
gian không được giúp đỡ không chỗ y tựa làm chỗ quy y vô tận, chỗ quy y thường trụ, chỗ quy y cứu cánh mãi đến hậu tế.
Nói rằng pháp Như
Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ấy là đạo nhứt thừa. Tăng đó là chúng tam thừa, hai chỗ quy y nầy chẳng phải là cứu cánh quy y mà gọi là thiểu phần quy y.
Tại sao ? Vì nói đạo nhứt thừa, chứng pháp thân cứu cánh rồi sau đó không còn nói đạo nhứt thừa. Chúng tam thừa vì có khủng bố nên quy y Như
Lai cầu xuất gia tu học, vì có sở tác, vì hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Thế nên Pháp và Tăng chẳng phải chỗ quy y cứu cánh, là chỗ quy y hữu hạn.
Nếu các hữu tình được Như
Lai điều phục quy y nơi
Như
Lai được pháp thấm nhuần do lòng tin ưa
mà quy y nơi
Pháp và Tỳ Kheo
Tăng. Hai sự quy y nầy do pháp thấm nhuần mà tín nhập quy y.
Như
Lai ấy chẳng phải pháp thấm nhuần tín nhập quy y. Nói Như
Lai ấy là chơn
thiệt quy y.
Hai sự quy y kia cứ nơi nghĩa chơn thiệt
thì gọi là cứu cánh quy y Như
Lai Tại sao ? Vì Như
Lai chẳng khác với hai sự quy y ấy, thế nên Như
Lai tức là tam quy y.
Tại sao ? Vì nói đạo nhứt thừa, Như
Lai tối thắng đủ tứ
sở úy chánh sư
tử hống.
Nếu chư
Như
Lai tùy theo sở dục
của người mà dùng phương
tiện nói pháp nhị thừa tức là Đại thừa. Bởi đệ nhứt nghĩa không có nhị thừa. Nhị thừa ấy
đồng vào nhứt thừa. Nhứt thừa ấy
tức là thắng nghĩa thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Hàng Thanh Văn và Duyên
Giác lúc mới đầu chứng Thánh đế chẳng phải dùng nhứt trí mà dứt các trụ địa
phiền não, cũng chẳng phải dùng nhứt trí chứng các công đức như
tứ biến tri v.v... cũng chẳng phải dùng pháp hay khéo biết rõ nghĩa bốn pháp nầy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nơi
trí xuất thế không có bốn trí tuần tự đến
tuần tự duyên . Trí xuất thế không có pháp lần lượt đến như
kim cương
dụ.
Bạch đức Thế Tôn ! Hàng Thanh Văn và Duyên
Giác dùng các thứ trí Thánh đế để
dứt các trụ địa
, họ thấy có trí xuất thế đệ
nhứt nghĩa.
Chỉ có đức Như
Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác dùng trí bất tư
nghị không tánh phá được vỏ của
các phiền não. Trí phá vỏ phiền não cứu cánh ấy gọi là trí xuất thế đệ
nhứt nghĩa, chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác
Trí Thánh đế sơ khởi
chẳng phải trí cứu cánh, mà là trí hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Chơn
Thánh đế nghĩa ấy thì chẳng phải thuộc về nhị thừa. Tại sao ? Vì hàng Thanh Văn và
Duyên Giác chỉ thành tựu được chút phần công đức mà gọi là Thánh.
Nói rằng Thánh đế ấy,
chẳng phải là đế của
hàng Thanh Văn, Duyên Giác và công đức
của họ.
Mà Thánh
đế nầy,
chỉ có đức Như
Lai biết rõ rồi đem diễn nói khai thị cho thế gian chúng sanh bị nhốt trong vỏ vô minh, do đây mà gọi là Thánh đế.
Bạch đức Thế Tôn ! Thánh đế nầy
rất sâu rất vi diệu khó thấy khó rõ, chẳng thể phân biệt chẳng phải cảnh giới suy lường, tất cả thế gian chẳng tin hiểu được chỉ có đức Như
Lai là biết rõ. Tại sao ? Vì Thánh đế nầy
nói về Như
Lai tạng thậm thâm, mà Như
Lai tạng là cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh Văn, Duyên Giác.
Cứ nơi Như Lai tạng
mà nói Thánh đế nghĩa, Như
Lai tạng nầy rất sâu vi diệu, Thánh đế được
nói ra ấy cũng rất sâu vi diệu. Khó thấy khó rõ chẳng thể phân biệt chẳng phải cảnh tư
lương,
tất cả thế gian khó tin hiểu, chỉ có đức Như
Lai biết rõ.
Nếu ở
nơi
Như
Lai tạng bị triền phược bởi vô lượng phiền não mà chẳng nghi hoặc thì đối với Như
Lai pháp thân tạng ra khỏi tất cả phiền não cũng không nghi hoặc.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có ai ở trong tạng Như
Lai nầy và ở nơi Phật
pháp thân cảnh giới bí mật bất tư
nghị của
Phật mà tâm được cứu cánh, thì đối với hai nghĩa Thánh đế đã nói kia hay tin hay rõ hay
sanh thắng giải.
Những gì là hai nghĩa Thánh đế ? Đó là hữu tác Thánh đế và vô tác Thánh đế.
Hữu tác Thánh đế là nghĩa tứ Thánh đế chẳng viên mãn. Tại sao ? Vì y hộ nơi tha mà chẳng biết được tất cả khổ, dứt tất cả tập,
chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo.
Do đó nên chẳng biết hữu vi và Niết bàn.
Vô tác
Thánh đế là nói nghĩa tứ Thánh đế viên mãn. Tại sao ? Vì tự y hộ nên biết tất cả khổ, dứt tất cả tập,
chứng tất cả diệt, tu tất cả đạo.
Tám nghĩa
Thánh đế đã nói như
vậy, đức Như
Lai chỉ đem tứ Thánh đế ra nói. Nơi nghĩa vô tác tu Thánh đế nầy
chỉ có đức Như
Lai là hoàn thành cứu cánh, chẳng phải sức lực của A La Hán và Bích Chi Phật đến được. Tại sao ? Vì chẳng phải các pháp thắng liệt hạ trung thượng mà có thể chứng được Niết bàn.
Thế nào là đức Như
Lai đối với vô tác Thánh đế được
hoàn thành cứu cánh ? Chư
Như
Lai biết khắp tất cả khổ, dứt hẳn khổ tập
bị nhiếp bởi tất cả phiền não và khởi phiền não, chứng được khổ diệt, sở hữu
của tất cả khối ý sanh thân và tu tất cả đạo
khổ diệt.
Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng phải hoại mất pháp mà gọi là khổ diệt. Nói khổ diệt là vô thỉ vô tác vô khởi vô tận thường trụ bất
động bổn tánh thanh tịnh ra khỏi vỏ phiền não.
Bạch đức Thế Tôn ! Chư
Phật Như
Lai thành tựu quá số hằng
hà sa pháp bất tư
nghị đủ
trí giải thoát gọi là pháp thân. Pháp thân nầy chẳng rời lìa phiền não thì gọi là Như
Lai tạng. Như
Lai tạng đây là trí Như
Lai không tánh mả tất
cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác chưa
hề thấy chưa
hề được,
chỉ có Phật thấy biết rõ và chứng được.
Bạch đức Thế Tôn ! Trí không tánh Như
Lai tạng nầy lại có hai thứ : đó là không và bất không Như
Lai tạng. Không Như
Lai tạng là Như
Lai tạng rời lìa nơi
trí chẳng giải thoát tất cà phiền não. Bất không Như
Lai tạng là Như
Lai tạng có đủ quá số hằng
hà sa pháp bất tư
nghị trí Phật giải thoát.
Bạch đức Thế Tôn ! Hai thứ không trí nầy các đại Thanh Văn do tin mà được vào. Trí không tánh của tất cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác như
vậy đối với cảnh tứ điên đảo luôn phan duyên mà chuyển hiện. Do đó nên đối với tất cả khổ diệt ấy,
tất cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác chưa
hề thấy chưa
hề chứng, chỉ có Phật hiện chứng, đoạn hoại các phiền não, tu tất cả đạo
khổ diệt.
Bạch đức Thế Tôn ! Trong bốn Thánh đế, ba vô thường một thường trụ. Vì ba đế vào trong tướng hữu vi, tướng hữu vi là vô thường . Nói rằng vô thường ấy là pháp phá hoại, pháp phá hoại thì chẳng phải đế chẳng phải thường chẳng phải chỗ quy y. Do đệ nhứt nghĩa nên ba đế ấy
chẳng phải đế chẳng phải thường chẳng phải chỗ quy y.
Bạch đức Thế Tôn ! Một đế khổ diệt rời lìa tướng hữu vi, lìa tướng hữu vi thì tánh thường trụ, tánh thường trụ chẳng phải pháp phá hoại, chẳng phải pháp phá hoại thì là đế, là thường, là chỗ quy y. Do thắng nghĩa nên khổ diệt đế là đế, là thường, là chổ quy y.
Khổ diệt đế nầy
là bất tư
nghị, quá cảnh giới tâm thức của hữu tình, cũng chẳng phải trí của hàng Thanh Văn và Duyên Giác kịp được.
Ví như
người sanh manh chẳng thấy được các màu sắc, trẻ sơ sanh bảy
ngày chẳng thấy mặt trời. Cũng vậy, khổ diệt đế chẳng phải cảnh duyên của tâm thức hàng phàm phu, mà cũng chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác.
Tâm thức hàng phàm phu là hai biên kiến. Trí của hàng Thanh Văn Dưyên
Giác thì gọi là tịnh trí.
Nói rằng biên kiến đó là đối với ngũ thủ uẩn
chấp nắm làm ngã rồi sanh ra phân biệt sai khác, đó là thường kiến và đoạn kiến hai thứ kiến chấp.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có ai thấy sanh tử vô thường, Niết bàn là thường, thì chẳng phải kiến chấp đoạn thường mà gọi là chánh kiến.
Tại sao ? Vì kẻ kế
đạt ấy
thấy các thân căn và nào thọ nào tư
hiện hành diệt hoại, với thân tương
tục họ chẳng biết được, là kẻ mù không mắt trí huệ nên phát khởi đoạn kiến, với tâm tương
tục sát na diệt hoại, họ ngu tối chẳng biết cảnh giới ý thức nên phát khởi thường kiến.
Nhưng
những nghĩa ấy quá các phân biệt và quá kiến thức hạ liệt, do hàng ngu phu vọng sanh ý tưởng dị biệt rồi điên đảo chấp trước cho là đoạn là thường.
Bạch đức Thế Tôn ! Hàng hữu tình điên đảo đối ngũ thủ uẩn
vô thường tưởng là thường, khổ tưởng
là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh.
Hàng
Thanh Văn và Duyên Giác có tịnh trí, đối với cảnh giới và pháp thân của Phật chưa
hề thấy được hoặc vì tin Như
Lai nên đối với Như
Lai sanh ra ý tưởng là thường, là lạc là ngã, là tịnh, đây chẳng phải kiến chấp điên đảo mà là chánh kiến. Tại sao ? Vì Như
Lai pháp thân là
Thường Ba la mật, là Lạc Ba la mật, là Ngã Ba la mật, là Tịnh Ba la mật vậy.
Nếu các hữu tình có ý tưởng như
trên đây thì gọi là chơn
Phật tử từ
miệng Phật sanh, từ chánh pháp sanh, từ pháp hóa sanh được Phật pháp phần.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói rằng tịnh trí ấy là Trí Ba la mật của hàng Thanh Văn và Duyên Giác. Tịnh trí nầy đối với khổ diệt đế còn chẳng phải cảnh giới, huống khổ diệt đế là sở hành của bốn trí nhập lưu.
Tại sao ? Vì hàng tam thừa sơ
nghiệp, người chẳng ngu pháp, có thể ở
nơi
nghĩa ấy sẽ chứng sẽ tỏ.
Bạch đức Thế Tôn ! Do nghĩa gì mà nói bốn nhập lưu
?
Bạch đức Thế Tôn ! Bốn nhập lưu
nầy là pháp thế gian. Chỉ có một nhập lưu
đối với các nhập lưu
là hơn
hết là trên hết, bởi đệ nhứt nghĩa là nhập lưu
là khổ diệt đế.
Bạch đức Thế Tôn ! Sanh tử ấy
y tựa Như
Lai tạng. Do Như
Lai tạng nên nói rằng tiền tế chẳng biết được.
Bạch đức Thế Tôn ! Do có Như
Lai tạng nên được có sanh tử , đây là lời nói phải.
Bạch đức Thế Tôn ! Sanh tử ấy,
các thọ căn diệt vô gián tương
tục thọ căn kế khởi, gọi là sanh tử.
Bạch đức Thế Tôn ! Hai pháp sanh tử là Như
Lai tạng, nơi
pháp thế tục
gọi đó là sanh tử.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói rằng tử là nói thọ căn diệt và sanh là các thọ căn khởi. Như
Lai tạng thì chẳng sanh chẳng tử chẳng thăng chẳng trụy rời lìa tướng hữu vi.
Bạch đức Thế Tôn ! Như
Lai tạng ấy thường hằng chẳng hoại , nên Như
Lai tạng là y là trì là kiến lập cho tạng trí chẳng lìa giải thoát và cũng là y trì kiến lập cho các pháp hữu vi trí rời lìa chẳng giải thoát.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu không có Như Lai tạng thì không có chán khổ vui cầu Niết bàn. Tại sao ? Vì ở nơi sáu thức
nầy và cảnh sở tri, bảy pháp như
vậy sát na không dừng chẳng nhận chịu các khổ chẳng kham nhàm lìa nguyện cầu Niết bàn. Như
Lai tạng ấy không có tiền tế không sanh không diệt pháp nhĩ nhận chịu các khổ, nó là nhàm khổ nguyện cầu Niết bàn.
Bạch đức Thế Tôn ! Như
Lai tạng ấy chẳng phải là có ngã nhơn
chúng sanh thọ giả. Như
Lai tạng ấy chẳng phải là cảnh sở hành của các hữu tình thân kiến, điên đảo và không kiến.
Bạch đức Thế Tôn ! Như
Lai tạng ấy là tạng pháp giới, tạng pháp th ân, tạng xuất thế gian, tạng tánh thanh tịnh, là bổn tánh thanh tịnh.
Như
chỗ tôi hiểu thì Như
Lai tạng ấy dầu bị khách trần phiền não làm ô nhiễm vẫn còn là cảnh giới Như
Lai bất khả tư nghị.
Tại sao ? Vì sát na sát na tâm bất thiện tâm thiện cùng khách trần phiền não chẳng ô nhiễm được Như
Lai tạng. Tại sao ? Vì phiền não chẳng chạm đến tâm, mà tâm cũng chẳng chạm đến phiền não. Pháp chẳng chạm xúc làm sao có thể nhiễm được tâm.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì có phiền não nên có tâm tùy nhiễm. Tùy theo phiền não nhiễm ấy
khó hiểu khó rõ. Chỉ có đức Phật Thế Tôn là mắt, là trí, là cội rễ pháp, là tôn thượng, là Đạo Sư,
là chỗ y tựa của chánh pháp mới như
thiệt thấy biết thôi ».
Bấy giờ đức
Thế Tôn khen ngợi Thắng Man phu nhơn
: « Lành thay, lành thay ! Đúng như lời
ngươi
vừa nói. Tánh thanh tịnh tâm theo phiền não khó rõ biết được.
Nầy Thắng Man ! Còn có hai thứ pháp khó rõ biết được : đó là tánh thanh tịnh tâm khó rõ biết được và tâm ấy bị phiền não ô nhiễm cũng khó rõ biết được. Hai pháp nầy, ngươi
và Bồ Tát thành tựu đại pháp mới có thể nghe hiểu nhận lãnh. Các hàng Thanh Văn do tín
tâm mả hiểu được.
Nầy Thắng Man ! Nếu các đệ tử
ta, người có tăng thượng tín tâm tùy thuận pháp trí, ở nơi pháp nầy
mà được cứu cánh.
Thuận pháp trí là quán sát tâm thức và cảnh, quán sát nghiệp báo, quán sát A La Hán ngủ, quán sát tâm tự tại
ưa
thích thiền duyệt, quán sát thánh thần thông biến của Thanh Văn Duyên Giác, do thành
tựu năm pháp quán sát thiện xảo nầy nên hiện tại và vị lai các hàng Thanh Văn đệ tử
do nơi
tăng thượng tín tâm tùy thuận pháp trí khéo hiễu rõ được tánh thanh tịnh tâm bị phiền não ô nhiễm mà được cứu cánh.
Nầy Thắng Man ! Cứu cánh nầy là nhơn
của Đại thừa, nay ngươi
nên biết, ngươi
tin Như
Lai thì đối với pháp thậm thâm chẳng sanh lòng phỉ báng”.
Thắng Man phu nhơn
bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Còn có các nghĩa hay đem lại nhiều lợi ích, tôi sẽ thừa sức oai thần của đức Phật diễn nói các sự ấy”.
Đức Phật bảo : “Lành thay ! Nay cho phép ngươi
nói”.
Thắng Man phu nhơn
nói :“ Có ba hạng thiện nam tử, thiện nữ nhơn
đối pháp thậm thâm rời lìa sự tự
phá hại sanh nhiều công đức vào đạo Đại thừa : Một là người thành tựu thậm thâm pháp trí, hai là người tùy thuận pháp trí, ba là người đối với pháp thậm thâm nầy chẳng hiểu rõ được mà kính tôn đức Như
Lai chỉ có đức Phật biết được chẳng phải cảnh giới của tôi.
Trừ ba hạng người nầy, các hữu tình khác đối với pháp thậm thâm tùy theo chỗ mình nắm lấy mà chấp trước vọng thuyết, chống trái chánh pháp, huân tập chủng tử hủ
bạI các ngoại đạo. Dầu họ có ở phương
khác cũng phải đến đó trừ diệt những kẻ hủ
bại ấy.
Tất cả nhơn
thiên cũng phải cùng nhau xô dẹp họ’’.
Nói lời ấy
xong, Thắng Man phu nhơn
và các quyến thuộc đảnh lễ chưn
Phật.
Đức Phật khen rằng : “Lành thay ! Thắng Man ở nơi pháp thậm
thâm phương
tiện thủ hộ
hàng phục oán địch, khéo có thể thông đạt.
Ngươi
đã gần gũi muôn ngàn cu chi chư
Phật Như
Lai nên có thể nói được nghĩa ấy”.
Bấy giờ đức
Thế Tôn phóng quang minh thù thắng chiếu khắp đại chúng, hiện thân lên hư
không cao bảy cây đa la, dùng sức thần thông chưn
bước trên hư
không trở về
thành Xá Vệ.
Thắng Man phu nhơn
và các quyến thuộc chiêm ngưỡng đức Như
Lai mắt không tạm rời. Quá tầm mắt rồi tất cả vui mừng hớn hở cùng nhau thay phiên ca ngợi công đức của Như
Lai và đồng nhứt tâm niệm Phật, trở về
thành Vô Đấu khuyên vua Hữu Xưng
kiến lập Đại thừa. Nữ nhơn
trong thành từ bảy
tuổi trở lên, Thắng Man phu nhơn
đem Đại thừa giáo hóa. Vua Hữu Xưng
cũng đem Đại thừa giáo hóa các nam tử từ
bảy tuổi trở lên. Nhơn
dân trong nước không ai là chẳng học Đại thừa pháp.
Bấy giờ đức
Thế Tôn vào rừng Thệ Đa gọi Tôn giả A Nan và nghĩ đến Thiên Đế. Ứng
theo tâm nghĩ của Phật, Thiên Đế Thích cùng quyến thuộc chư
Thiên đến chỗ đức
Phật.
Đức Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích : Nầy Kiều Thi Ca ! Ngài nên thọ trì kinh nầy rồi diễn thuyết khai thị cho chư
Thiên cõi Đao Lợi để họ
được an lạc”
Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả A Nan : “Ông cũng thọ trì vì hàng tứ chúng là phân biệt diễn thưyết’’.
Thiên Đế Thích bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ đặt
tên là gì và phụng trì thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Kiều Thi Ca ! Kinh nầy thành tựu vô biên công đức lực của Thanh Văn và Duyên Giác không đến được huống là các hữu tình khác. Nên biết rằng kinh nầy là khối đại công đức thậm thâm vi diệu. Nay sẽ vì Ngài mà nói lược tên kinh.
Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ nhớ lấy
!”.
Thiên Đế Thích và Tôn giả A Nan đồng bạch rằng : “ Lành thay đức Thế Tôn ! Kính vâng thọ giáo”.
Đức Phật dạy : “Kinh nầy tán thán Như
Lai chơn
thiệt công đức, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói mười điều hoằng thệ bất
tư
nghị, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy dùng một đại nguyện nhiếp tất cả nguyện, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói nhiếp thọ chánh pháp bất tư
nghị, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói nhập nhứt thừa, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói vô biên tế, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói Như
Lai tạng, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói Phật pháp thân, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói không tánh nghĩa che ẩn chơn
thiệt, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói nghĩa một Thánh Đế, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói một sở y thường trụ bất
động tịch tĩnh, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói điên đảo chơn
thiệt, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói tự tánh thanh tịnh tâm bị phiền não che ẩn, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói chơn
Phật tử, phải thọ trì như
vậy. Kinh nầy nói Thắng Man phu nhơn
chánh sư
tử hống,
phải thọ trì như
vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca ! Chỗ nói của kinh nầy dứt tất cả nghi hoặc quyết định liễu nghĩa nhập vào đạo Nhứt thừa.
Nầy Kiều Thi Ca ! Nay đem kinh Thắng Man phu nhơn
sư
tử hống
đã được nói đây giao phó cho Ngài mãi đến thời gian chánh pháp còn. Ngài nên
đem diễn thuyết khai thị khắp mười phương’’.
Thiên Đế Thích bạch rằng : “ Lành thay đức Thế Tôn ! Kính vâng thọ giáo”.
Bấy giờ Thiên Đế Thích, Tôn giả A Nan và các chúng trong đại hội, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v...
nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment