Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 127
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI LĂM
Lúc Đức Phật nói môn phân biệt các pháp ấy có bẩy mươi hai na do tha
chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Đề, ba vạn hai ngàn Bồ Tát Được Vô sanh Pháp nhẫn. Nhà Đại Bửu Trang Nghiêm Đường chấn Động sáu cách, áng
sáng lớn chiếu khắp. Chư Thiên ở trên không trỗi trăm ngàn kỹ nhạc mưa các thứ hoa trời và Đồng thanh nói rằng : «Các chúng sanh ấy Được ấn Như Lai cho, Đã vào trong pháp Như Lai nghe pháp môn ấy Được tịnh tín giải thọ trì thông thạo có thể diễn nói cho mọi người và như pháp tu hành".
Chư Thiên bạch Đức Phật rằng : «Bạch Đức Thế Tôn ! Tất cả chúng tôi hướng về Phật Độ nầy thâm tâm cúng dường cung kính lễ lậy vì Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất thế vậy. Chúng tôi nghe nói pháp môn phương tiện ấy và thấy chư Bồ Tát ở quốc Độ nầy".
Hư Không Tạng Bồ Tát nghe Đức Phật giải nói rồi, tâm tịnh hoan hỷ. Tâm tịnh hoan hỷ rồi Đem màn báu vô
giá cúng dường Đức Phật. Trong màn báu
phóng ánh sáng lớn chiếu mười phương chư Phật quốc Độ.
Cúng dường rồi Hư Không Tạng Đại Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn ! Thiệt là chưa từng có. Như Lai vô ngại trí thậm thâm khó hiểu như vậy. Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri như pháp môn Được nghe, Đức Phật dùng vô ngại trí như thiệt giải nói, tất cả Đại chúng Đều Được hoan hỷ".
Lúc bấy giờ trong Đại chúng có một Bồ Tát hiệu là Tốc Biện liền từ tòa ngồi Đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm Đất cung kính chắp tay bạch rằng : «Bạch Đức Thế Tôn ! Hư Không Tạng Bồ Tát nầy có nhơn duyên gì mà tên là Hư Không Tạng ?".
Đức Phật nói : «Nầy Tốc Biện ! Như Đại phú trưởng giả có dân chúng Đông kho tàng vô lượng của báu Đầy dẫy hay làm việc bố thí tâm không lẫn tiếc. Lúc làm việc bố thí nếu người nghèo cùng Đến thì tùy ý họ cần dùng, trưởng giả khai kho báu lớn Đều có thể cấp cho cả, các người xin kia Đều Được vừa ý. Trưởng giả ấy bố thí rồi trong lòng vui mừng không hối tiếc.
Cũng vậy, Hư Không Tạng Bồ Tát vì thường làm công Đức thành tựu phương tiện lực hồi hướng, vì giới thân thiện thanh tịnh, vì Được thành tựu thần túc lực, vì thuần chí cứu cánh thiện thanh tịnh, vì sở nguyện tăng ích thành tựu, vì biết tất cả pháp như ảo hóa, vì Được Như Lai thần túc lực, nên ở trong hư không tùy chúng
sanh cần dùng, hoặc pháp hoặc tài Đều có thể thí cho, Đều làm cho hoan hỷ. Vì Đại Sĩ ấy chứng phương tiện trí như vậy nên gọi tên là Hư Không Tạng.
Còn nữa, nầy Tốc Biện ! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, lại quá vô lượng a tăng kỳ kiếp, bất khả tư nghị, bất khả xưng bất khả lượng, bất khả toán số kiếp, lúc bấy giờ có Phật xuất thế hiệu là Phổ Quang Minh Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Đại Vân Thanh Tịnh, kiếp tên Hư Không Tịnh. Thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy thạnh vượng Đầy Đủ an ổn khoái lạc, hàng trời người Đông Đúc, mặt Đất bằng phẳng không có những cát sỏi gai góc, dây báu
giăng thành khu thành Đường trang nghiêm với nhiều thứ châu báu như nhuyến như thiên y, hoa vàng
diêm phù Đàn trải khắp mặt Đất xen lẫn các châu báu. Chúng sanh trong thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy không có phân biệt thượng trung hạ, trời và người Đồng Đẳng như Trời Đâu Suất. Trong thế giới ấy không có tụ lạc thôn ấp, tất cả hàng trời người Đều ở lâu Đài báu Đẹp, lầu các của người ở mặt Đất, cung Điện chư Thiên ở hư không, chỉ có thế này là khác, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai thọ mười sáu trung kiếp, dùng Bồ Tát làm Tăng có mười sáu na do tha chúng Đều Được thần thông du hí Đều Được tự tại nơi Bồ Tát hạnh.
Lúc ấy ở giữa Đại Thiên thế giới Đại Vân Thanh Tịnh ấy có một tứ thiên hạ tên là Nhựt Minh, Đức Phật Phổ Quang Minh Vương Như Lai thành Vô thượng Chánh giác tại nơi ấy, rồi làm Phật sự khắp cõi Đại Thiên.
Trong tứ thiên hạ Nhựt Minh có Chuyển Luân Thánh Vương tên Công Đức Trang Nghiêm trị cả tứ thiên hạ thành tựu Đủ bảy báu.
Trong Nhựt Minh tứ thiên hạ, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm trị cả tứ thiên hạ thành tựu Đủ bảy báu.
Trong Nhựt Minh tứ thiên hạ, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm xây
Đài bảy báu, từ Đông sang Tây rộng tám do tuần, từ Nam Đến Bắc rộng bốn do tuần, vòng quanh bửu Đài có năm trăm khu vườn nhà.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm có
ba mươi ba vạn sáu ngàn cung nhơn thể nữ xinh Đẹp lộng lẫy như ngọc nữ cõi trời, có bốn vạn Đồng tử Đoan chánh dũng kiện Đều riêng có sức khoẻ bằng nửa na la diên.
Thánh Vương ấy cùng các Đồng tử thể nữ quyến thuộc Đồng Đến vườn Đại Lạc trang nghiêm dạo chơi trỗi nhạc ca vũ Để tự vui. Trong chúng ấy có hai Đại phu nhơn tên là Đức Oai và Đức Quang rời chỗ Đến dưới một cội cây ngồi tư duy các hành vô thường. Lúc Đương tư duy trên gối mỗi phu nhơn có một con trai hóa
sanh. Hai trẻ nhỏ ấy thân hình xinh tốt Đoan nghiêm thành tựu sắc thân vi diệu Đệ nhứt, người thấy không chán, trên
thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp khu vườn. Trên không chư Thiên xướng rằng : hai Đồng tử này một người tên là Sư Tử, một người tên là Sư Tử Tiến. Do Đó mà mọi người gọi tên hai Đồng tử ấy là Sư Tử và Sư Tử Tiến.
Hóa sanh chẳng bao lâu, hai Đồng tử ấy nói kệ khen Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng :
Xưa tạo thiện ác chẳng hư mất
Cúng dường chư Phật cũng chẳng mất
Thuần chí chẳng bỏ tâm Bồ Đề
Kiên trì chỗ nghe chẳng quên trí
Điều phục tự gìn chẳng mất giới
Nhẫn nhục nhu hòa khéo phòng hộ
Người hay báo ơn tạo nghiệp lành
Hay siêng tinh tiến chẳng mất Đạo
Khéo hay chuyên tâm Định các căn
Tâm hay phân biệt tư duy huệ
Do trí hay tạo nghiệp chẳng trược
Dùng tịnh pháp ấy chứng Bồ Đề
Chẳng bị phiền não làm nhiễm trước
Khéo hay phân biệt các nghĩa thú
Vì vậy bỏ Được thân thọ thai
Hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh
Chúng tối từ Phật Thượng Y Vương
Nghe Phật Phổ Quang Minh Vương nầy
Trí huệ vô Đẳng chẳng nghĩ bàn
Vì pháp nên Đến thế giới Đây
Mong cùng Phụ Vương Đến chỗ Phật
Lễ bái cúng dường Đại Pháp Vương
Chư Phật Thế Tôn rất khó gặp
Cũng như hoa ưu Đàm bát la.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe
lời nói của hai Đồng tử rất vừa ý, cả Đại chúng Đồng hoan hỷ cùng vây quanh Thánh Vương số Đến trăm ngàn vạn Đồng Đến chỗ Đức Phật Phổ Quang Minh Vương Đem các thứ hoa hương vi diệu, các chuỗi ngọc trân châu và các
thứ kỹ nhạc cúng dường lễ lậy hữu nhiễu bảy vòng rồi chắp tay cung kính Đứng nơi trước.
Lúc ấy Sư Tử và Sư Tử Tiến Đảnh lễ chơn Phật dùng miệng úp lên chưn Phật mà nói lời khen ngợi khéo thuận pháp nghĩa :
Phật là nhà là chỗ dựa nương
Khai sáng lớn cho Đời tối tăm
Biết rõ tâm hành của chúng sanh
Tùy chúng tin ưa làm vui Đẹp
Nay Đại vương nầy cậy ngôi vua
Tham sắc thanh hương vị xúc pháp
Vì vậy chẳng chịu Đến chỗ Phật
Mất sự cúng dường chẳng nghe pháp
Lành thay Thế Tôn phát Đại bi
Xin nói pháp Bồ Đề Vô thượng
Khiến Đại vương nầy phát Đạo tâm
Kiên cố bất thối nơi Phật trí.
Nghe lời thỉnh cầu của hai Đồng tử, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai dũng thân lên hư không cao tám mươi cây Đa la.
Đức Phật ở hư không nói kệ bảo Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm rằng :
Nay nhơn vương chí tâm nghe
Nghe rồi y pháp mà phụng hành
Ngũ dục vô thường dụ như mộng
Mạng người như lửa cỏ sương mai
Vua và nước thành như ảo hóa
Vì vậy người trí chẳng nên tham
Quen ham dục lạc không nhàm Đủ
Quen dục càng thêm lòng khát ái
Tham dục chưa Đủ mà mạng chung
Chỉ người Được thánh trí mới Đủ
Vua nên khéo thuận quán thân mình
Ngũ ấm như huyễn chẳng kiên cố
Tứ Đại kia như bốn rắn Độc
Sáu căn không thiệt như khối rỗng
Vợ con trân bửu và ngôi vua
Lúc vua lâm chung không ai theo
Chỉ có giới thí bất phóng dật
Đời nay Đời sau làm bạn lữ
Xem Phật thần thông lực vô úy
Dùng các tướng hảo trang nghiêm thân
Thuyết pháp dạy chúng hàng Đệ tử
Vì vậy vua nên phát Đạo tâm.
Nghe Đức Phật xong, Thánh Vương cùng vợ con quyến thuộc bảy mươi sáu ngàn ức người Đều rất vui mừng Đồng phát tâm Vô thượng Bồ Đề rằng :
Nay chúng tôi phát Đạo tâm thệ cứu Độ tất cả chúng sanh, vì chúng sanh chúng tôi tu diệu hạnh lúc thành Phật rồi sẽ Độ thoát họ.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm nghe
Đức Phật Phổ Quang Minh Vương nói pháp và thấy thần biến rồi càng thêm kiên cố tâm Bồ Đề, vua Đảnh lễ chưn Phật bạch rằng :
Ngưỡng mong Đức Thế Tôn và Bồ Tát Đệ tử thọ tôi thỉnh cúng dường suốt tám vạn bốn ngàn năm những y phục, món ăn, giường nệm, thuốc men và tất cả vật cần dùng.
Đức Phật cùng Đại chúng vì thương mến vua nên thọ thỉnh.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm biết Phật Đã thọ thỉnh vui mừng hớn hở Đảnh lễ hữu nhiễu rồi lui về.
Hai Vương tử Sư Tử và Sư Tử Tiến cùng hai vạn Vương tử bỏ giàu sang thế tục Đồng ở trong Phật pháp xuất gia tu hành chuyên cần tinh tiến thích cầu pháp lành. Xuất gia chẳng lâu, Sư Tử và Sư Tử Tiến Được ngũ thần thông kiên cố bất thối. Biết hai người này Đã Được ngũ thần thông, Đức Phật gia hộ oai thần cho hai người này thường vì chúng sanh mà
nói diệu pháp. Hai Tỳ Kheo ấy ở trong cõi Đại Thiên Đại Vân Trang Nghiêm từ quốc Độ này Đến quốc Độ kia, từ tứ thiên hạ này Đến tứ thiên hạ kia thuyết pháp hóa Độ vô lượng a tăng kỳ chúng
sanh khiến họ kiên cố bất thối Vô thượng Đại thừa.
Trong tám vạn bốn ngàn năm, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm cúng
dường Đầy Đủ cho Đức Phật và Đại chúng xong, vì
nghe pháp nên nhà vua cùng quần thần quyến thuộc qua Đến chỗ Đức Phật. Nhà vua tự nghĩ rằng, các vương tử con trai của ta cạo bỏ râu tóc xuất gia tu hành thường thọ cúng dường mà tự mình chẳng làm việc bố thí cũng chưa thấy Được pháp hơn người, có lẽ chúng nó nên về nhà xả của cải bố thí tu tạo các công Đức như ta Đã làm Để vun trồng căn lành chăng ?
Biết tâm niệm của Thánh Vương, Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai bảo Sư Tử Tiến Bồ Tát rằng :
Nầy Sư Tử Tiến ! Ông hiện sức tự tại thần thông Bồ Tát biến hiện Để khắp Đại chúng Được thấy nghe trừ bỏ tà tâm Được chánh tri kiến cũng Để hàng phục các ma ngoại Đạo.
Vâng lời Đức Phật, Sư Tử Tiến Bồ Tát liền nhập Định hiện ra các cảnh tượng như vầy :
Cả Đại Thiên thế giới Đại Vân Trang Nghiêm chấn Động sáu cách, trên không mưa xuống các thứ vật vi diệu, những là các thứ hoa hương, hương bột, hương xoa, lọng lụa, tràng phan, trổi các thứ kỹ nhạc. Những món ăn uống ngon lành, những y phục Đẹp quí, những chuỗi ngọc, những trân bửu Đều từ trên không mưa xuống. Mưa châu báu như vậy Đầy cả cõi Đại Thiên. Tất cả chúng sanh Được sự chưa từng có Đều rất vui mừng. Địa thần chư Thiên Đến Trời Sắc Cứu Cánh hớn hở mừng vui Đồng thanh xướng rằng :
Đại Bồ Tát nầy nên gọi tên là Hư Không Tạng. Tại sao, vì từ trên không có thể mưa xuống vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả.
Đức Phổ Quang Minh Vương Như Lai liền ấn khả lời xướng của chư Thiên gọi Sư Tử Tiến là Hư Không Tạng.
Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm thấy Sư Tử Tiến hiện vô lượng thần biến như vậy trong lòng kính tin thanh tịnh vui mừng hớn hở chưa từng có bỏ tâm kiêu mạn chắp tay hướng lên Đức Phật bạch rằng :
Bạch Đức Thế Tôn ! Bồ Tát công Đức trí huệ bèn có thể như vậy, tự nhiên mà mưa vô lượng trân bửu sung túc khắp tất cả trọn không cùng tận.
Bạch Đức Thế Tôn ! Người tại gia bố thí lợi ích không bao
nhiêu, còn người xuất gia dùng sức thần thông bố thí không bờ mé. Người tại gia bố thí chẳng xứng ý người, dầu bố thí mà còn lẫn tiếc khổ não, còn người xuất gia bố thí có thể xứng ý người, lợi không có lẫn tiếc chẳng sanh khổ não.
Lúc ấy Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm trao
ngôi vua cho Vương tử Cát Ý, rồi do tín tâm chơn thiệt cạo bỏ râu tóc ở trong Phật pháp xuất gia tu hành, vì tăng trưởng pháp lành nên
vua chuyên cần tinh tiến, chẳng bao lâu vua tu Được tứ thiền tứ vô lượng tâm và Được ngũ thần thông. Còn Cát Ý
Vương dùng chánh pháp
trị nước toàn thể nhơn dân Đều mến Đức, vua cũng tinh tiến chẳng bỏ việc cúng dường Đức Phật Phổ Quang Minh Vương và Đại chúng.
Nầy Tốc Biện ! Thuở xa xưa ấy, Thánh Vương Công Đức Trang Nghiêm là Câu Lưu Tôn Như Lai Đức Thế Tôn thứ nhất trong Hiền kiếp này, còn Sư Tử Bồ Tát chính là thân
ta Phật Thích Ca Mâu Ni, Sư Tử Tiến Bồ Tát là Hư Không Tạng Bồ Tát, vì nhơn duyên hiện thần lực từ trên không mưa xuống các loại trân báu sung túc khắp nơi nên từ thuở ấy luôn Được tên là Hư Không Tạng. Còn Cát Ý Vương thì nay là Di Lặc Bồ Tát. Hai vạn Vương Tử theo Phật xuất gia thuở ấy nay là chúng Bồ Tát cùng chung với Hư Không Tạng hiện Đang nghe pháp
Đây vậy. Còn vô lượng chúng sanh Được Thánh Vương cùng các Vương Tử và quyến thuộc sau khi xuất gia giáo hớa, thì hiện nay là chư Bồ Tát hành Bồ Tát Đạo tại mười phương thế giới vậy.
Nầy Tốc Biện ! Chư Bồ Tát phải thường thanh tịnh giới tụ tăng trưởng bổn nguyện, do Đây mà tùy muốn làm việc gì Đều có thể hoàn thành cả".
Lúc bấy giờ Đại hội Bồ Tát chúng khát ngưỡng muốn Được thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát và tướng mạo của Bồ Tát Hư Không Tạng thế nào.
Đức Phật biết tâm niệm của Đại chúng liền bảo Hư Không Tạng Bồ Tát rằng : «Này Hư Không Tạng ! Ông nên hiện tướng thần biến hư không tạng !".
Hư Không Tạng Bồ Tát liền nhập xứng nhứt thiết chúng sanh ý tam
muội.
Do sức tam muội ấy, khắp hư không trên Diệu Bửu Trang Nghiêm Đường mưa xuống các thứ vật vi diệu, tùy chỗ chúng sanh muốn Đều cung cấp Đủ cả. Đó là cần hoa thì mưa hoa, cần tràng hoa thì mưa tràng hoa, cần hương bột hương xoa thì mưa hương bột hương xoa, cần lọng lụa, cần tràng phan, cần các thứ âm nhạc, cần món trang sức, cần những chuỗi ngọc y phục, cần món uống ăn ngon, cần xe cộ kẻ tùy tùng, cần vàng bạc bảy báu v.v… tất cả Đều tùy ý muốn cần dùng của mọi người mà mưa xuống thứ ấy.
Có những người cần pháp muốn pháp thích pháp,
tùy theo chỗ muốn nghe, trên không phát ra các pháp âm vi diệu làm vui Đẹp nhĩ căn : những là diệu âm tu Đa la, kỳ dạ, thọ ký, già Đà, ưu Đà na, ni Đà na, a ba Đà na, y Đế mục Đa già, xà Đà
già, tỳ phật lược, a phù Đà, Đạt ma, ưu ba Đề xá. Người cần nghe những kinh ấy thì hư không Đều phát âm ứng Đó. Người cần na la Đẳng biến âm, người cần xảo ngôn ngữ âm, người cần các thứ tạp âm, người cần thậm thâm âm, người cần phương tiện thiển âm, trên không Đều phát âm ứng Đó.
Người cần Thanh Văn thừa Được Độ thì phát tiếng pháp Tứ Đế ứng Đó, người cần Duyên Giác thừa Được Độ thì phát tiếng pháp thậm thâm Thập nhị nhơn duyên ứng Đó. Người cần Đại thừa Được Độ thì hư không phát ra tiếng pháp Lục Ba la mật tiếng pháp bất thối chuyển ứng Đó.
Trong hư không còn phát ra
tiếng diệu kệ rằng :
Các pháp tánh với hư không Đồng
Nay nói môn ấy Đại chúng nghe
Như hư không không cao không hạ
Không cao hạ nên không thể tánh
Như hư không vô sanh vô diệt
Không sanh diệt nên tánh chẳng hư
Như hư không không tăng không giảm
Không tăng giảm nên Đồng pháp tướng
Như hư không không sáng không tối
Không sáng tối tâm tánh cũng vậy
Như mặt nhựt chiếu sáng hư không
Hư không cũng không
có vui mừng
Chẳng chiếu sáng hư không chẳng buồn
Người trí học Đạo cũng như vậy
Như mâu, tên Đâm bắn hư không
Không làm thương tổn hư không Được
Người hành Đạo tu tập quán không
Cũng không gì làm tổn thương Được
Như hư không Được nước nhuần thấm
Hư không không hề có vui mừng
Người trí Được khen Được lợi lộc
Vẫn không mừng vui cũng như vậy
Như hư không bị chê Được khen
Hư không không hề có phân biệt
Người trí bị chê hoặc Được khen
Không có phân biệt cũng như vậy
Như cả Đại Địa Đều rúng Động
Hư không không hề có Động lay
Người trí vô y vô sở Đắc
Chẳng Động pháp tánh cũng như vậy
Như hư không lửa chẳng cháy Được
Phiền não chẳng cháy Được người trí
Như hư không thường trụ chẳng hoại
Pháp giới cũng thọ tất cả pháp
Như hư không không có sắc thấy
Tâm tánh vô tướng Đồng hư không
Hư không giả danh không hình mạo
Tâm ý thức cũng là giả danh
Hư không vô biên chẳng lấy Được
Thánh trí vô biên Đồng hư không
Như chim bay không chẳng dấu vết
Hành Bồ Đề chẳng thấy Được hành
Thân mất quá khứ Đồng hư không
Hiện tại ngũ ấm Đồng hư không
Tứ Đại cũng vậy Đồng hư không
Như sau tam tai không
tướng khác
Tất cả chúng sanh không biết Đủ
Phàm phu ngũ dục không hề Đầy
Người có thánh trí biết các pháp
Biết Đủ chẳng cầu lìa tham trước
Hư không rộng lớn không bờ mé
Phật pháp rộng lớn cũng như vậy
Người biết pháp tánh là Phật pháp
Chẳng dựa lấy vật chẳng bỏ vật
Biết vật chẳng vật trụ thiệt tế
Nơi vật chẳng vật không hai tướng
Tiếng rõ không không chẳng phải tiếng
Không âm thanh gọi là hư không
Phật dầu nói không trọn không nói
Tánh chẳng nói Được gọi là không
Huyễn hóa mộng dã mã bóng vang
Chư Phật thuyết pháp cũng như vậy
Vì dắt chúng sanh nói những dụ
Nghĩa chơn tịnh không ví dụ Được
Pháp không tướng dùng tướng Để nói
Tướng không tướng pháp tánh Đều không
Tướng không rỗng không không có tướng
Biết Được tướng nầy là Bồ Tát
Không trệ ngại không hí không Động
Không thỉ không chung là Bồ Tát
Chẳng rời chúng sanh chẳng chúng sanh
Như chúng sanh tánh là
Bồ Tát
Như ảo sư giết các người ảo
Không ai chết Được Độ cũng vậy
Ảo chúng sanh Niết bàn Phật pháp
Biết Đồng một tánh không tánh tướng
Đại Sĩ Được tạng không vô tận
Ban Đủ tất cả không cùng tận
Xưa trồng công Đức Được tạng nầy
Chẳng tham chứa mới Được như vậy
Biết Được các pháp nhơn duyên sanh
Tạng ấy vô tận chẳng nghĩ bàn
Đấng cứu Đời nói bốn vô tận
Không, Đạo tâm, chúng sanh, Phật pháp
Nếu các của cải là có thiệt
Thì mới có thể chức nhóm Được
Chẳng phải thiệt có nên vô cùng
Vì chẳng phải thiệt nên vô tận
Pháp khôn cứu cánh tận vô tận
Vô tận chẳng tận là vô tận
Biết pháp môn này gần Bồ Đề
Trụ môn này mau thành Bồ Đề.
Do thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát nên từ hư không vang ra những pháp âm vi diệu như vậy và tất cả của cải vật báu làm sung túc
tất cả chúng sanh. Làm cho tất cả chúng sanh khắp cõi Đại Thiên Được vô lượng bất tư nghị khoái lạc thỏa mãn sở nguyện. Chúng sanh bịnh khổ Được thuốc chữa lành. Chúng sanh nghèo cùng Được vô lượng trân bửu. Chúng sanh bị trói nhốt Được cởi mở giải thoát. Chúng sanh
chẳng Đủ các căn thì Được Đủ các căn. Chúng
sanh Đáng bị tử hình thì trên không rơi hóa nhơn thay thế họ. Người thân yêu ly biệt từ lâu nay Được Đoàn tụ. Chúng sanh lo rầu nay Đều hết lo. Chúng sanh Đọa tam Đồ Được ánh sáng ấy chạm thân trừ tất cả khổ não thân tâm an lạc.
Lúc bấy giờ trong Đại Thiên thế giới, chúng sanh ăn uống no Đủ vui vẻ dạo chơi Đầy Đủ ngũ dục. Hoặc có kẻ bố thí tạo các công Đức. Chúng sanh có Đủ trọn vẹn những sự an lạc như vậy, họ Đều nói rằng : mới Được bực Đại Sĩ này có thể ban vui cho Đời, do Bồ Tát Hư Không Tạng xuất thế nên thế gian Được ban bố cam lộ. Đại Sĩ này mới có thể thường siêng tinh tiến, vì ban vui cho tất cả chúng sanh không hề mỏi mệt vậy.
Hư Không Tạng Bồ Tát hiện những thần biến như vậy làm vui Đẹp tất cả chúng sanh tánh, thị hiện Bồ Tát thần lực dùng tài thí và pháp thí Để nhiếp thủ chúng sanh, khiến vô lượng a tăng kỳ chúng
sanh phát tâm Vô thượng Bồ Đề, làm cho vô lượng Bồ Tát Được Vô sanh Pháp nhẫn. Còn làm cho vô lượng a tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát phát cần tinh tiến Được thành tựu các môn tam muội, các môn Đà la
ni, các môn thần thông du hí.
Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Sanh Nghi tự nghĩ rằng : Việc này là bất tư nghị bị tằng hữu. Bồ Tát Hư Không Tạnh chỉ hiển hiện thần thông lực ở Ta Bà thế giới này, hay là cũng hiển hiện thần thông nơi thế giới phương khác.
Biết tâm niệm của Sanh Nghi Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát từ nơi thân phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương chư Phật thế giới.
Sanh Nghi Bồ Tát cùng chư Bồ Tát Đều thấy thần lực của Hư Không Tạng Bồ Tát ở nơi mười phương vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật thế giới ứng hóa chúng sanh cũng Đồng như tại thế giới Ta Bà này.
Thấy thần biến như vậy rồi, Sanh Nghi Bồ Tát cung kính lễ Hư Không Tạng Bồ Tát rồi chắp tay bạch rằng : «Hi hữu thay Đại Sĩ có thể Đặt tạng báu vô tận ơ hư không mưa Đầy Đủ khắp vô lượng thế giới mà vẫn không hết. Đại Sĩ Đặt tạng ấy ở trong hư không Đã Được bao lâu rồi ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Từ lúc tôi phát tâm
Vô thượng Bồ Đề thì tạng báu ấy thường ở trong hư không".
Sanh Nghi Bồ Tát lại hỏi : «Đại Sĩ phát tâm Vô thượng Bồ Đề từ lúc nào ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Đức Thế Tôn biết rõ, Đại Sĩ nên bạch hỏi".
Sanh Nghi Bồ Tát bạch Đức Phật : «Bạch Đức Thế Tôn ! Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ Đề từ lúc nào, mong Được Thế Tôn nói cho chúng
tôi hết nghi".
Đức Phật nói : «Nầy Sanh Nghi ! Sự ấy lâu xa thậm thâm khó biết. Nếu nói Đó thì sẽ làm cho hàng thiên nhơn Đều sanh nghi hoặc chẳng tin lời Phật. Vì chẳng tin họ mắc vô lượng tội".
Sanh Nghi Bồ Tát lại bạch rằng : «Ngưỡng mong Đức Thế Tôn nói Đó. Nếu có người từ lâu Đã trồng căn lành quyết sẽ tin thọ".
Đức Phật nói : «Nầy Sanh Nghi ! Ông Đã ân cần cầu thỉnh, Đâu Được chẳng nói. Lắng nghe lắng nghe khéo suy
nghĩ Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói, Để người có căn lành kiên
cố Đã lâu trồng cội công Đức sanh lòng vui mừng.
Này Sanh Nghi ! Như những hằng hà bằng số cát một hằng hà, số cát trong tất cả những hằng hà ấy, cứ một hột cát là một Phật thế giới, nghiền nhỏ tất cả hằng hà sa số thế giới ấy thành vi trần rồi tụ lại một chỗ. Có một người trường thọ cứ một kiếp mới lượm lấy một vi trần trong Đống vi trần ấy mãi Đến lúc lấy hết số vi trần. Thời gian Hư Không Tạng Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ Đề Đến nay số kiếp còn quá hơn số kiếp vi trần kia chẳng phải toán số biết Được.
Nầy Sanh Nghi ! Nên Đem Đây Để so sánh biết thời gian phát tâm Vô thượng Bồ Đề của Hư Không Tạng Đến nay bao lâu vậy.
Lại này Sanh Nghi ! Về quá khứ, quá số cát những sông Hằng bằng số cát sông Hằng, lấy số cát này một hột cát là một Phật Độ, nghiền tất cả quốc Độ này thành vi trần, một vi trần là một kiếp, lại quá số này trăm ngàn muôn kiếp, lúc bấy giờ có Phật hiệu là Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ, kiếp ấy tên là Chúng Bửu Trang Nghiêm.
Tại sao thế giới ấy có tên là Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ?
Nầy Sanh Nghi ! Vì cõi nước ấy chơn tịnh có thể hiện mười phương chư Phật sát Độ, như mặt trăng tròn sáng không bị che chướng hiện bóng trong nước trong. Vì vậy nên mười phương vô lượng a tăng kỳ chư Phật quốc Độ và chư Phật ấy cùng tòa sư tử cả việc làm của chúng sanh Đều hiện rõ trong thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy. Thế giới ấy bằng một trăm ức Đại Thiên thế giới. Thế giới ấy rộng rãi trang nghiêm thanh tịnh giàu dư an ổn, trời người Đông Đúc, mặt Đất bằng phẳng không có gò nổng cao lõm dơ dáy hôi thúi. Có
nhiều loại trân bửu xen tạp làm thành xinh Đẹp Đáng thích, khắp nơi treo những lụa màu tràng phan lọng tốt trang nghiêm, Đốt các thứ hương tốt như chiên Đàn trầm thủy, phía trên thì
giăng màn kiếp ba nhiều màu, dưới thì trải Đầy những hoa tươi Đẹp. Khắp mọi nơi mọc những cây hoa báu, cây
quả trái, cây y phục, cây chuỗi ngọc, cây kỹ nhạc, cây bửu khí, cây hương, cây Đèn Đuốc, cây thuốc men, khắp nơi trang nghiêm làm ranh tám hướng Đường sá bằng thẳng phân minh. Những chuỗi ngọc chơn châu, lưới báu trang nghiêm
làm người xem không nhàm
chán. Trong thế giới ấy chẳng nhờ ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, dùng những cây Đèn Đuốc và cây báu ma ni phát ánh sáng mát lành chiếu khắp mọi nơi và luôn sáng không có ngày Đêm, chỉ lấy bửu hoa lúc nở lúc búp Để biết thời tiết. Chúng sanh trong
cõi ấy không có tàn tật, Đui mù, câm Điếc, què thọt, lùn xấu, không có thân thể chẳng toàn vẹn dung mạo xấu ác. Tất cả mọi chúng sanh Đều thành tựu ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân thể. Trong thế giới ấy nhẫn Đến không có tên ác xấu tam Đồ bát nạn, cũng chẳng nghe tiếng tăm ngoại Đạo các dị học, tất cả chúng sanh Đều quyết Định Vô thượng Bồ Đề, cũng không có tên
hiệu Thanh Văn, Bích Chi Phật. Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai thuần nói pháp Đại thừa Bồ Tát. Trong cõi ấy không có nữ nhơn và thai sanh, tất cả chúng sanh Đều tự nhiên hóa sanh,
lúc hóa sanh Đều ngồi kiết già Đoan nghiêm, không có già cùng bịnh tật trọn cả thọ mạng. Lúc sau khi mạng chung Đều sanh về Tịnh Độ phương khác hoặc sanh trở lại bổn quốc. Thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ ấy thành tựu vô lượng vô biên bất khả tư nghị công Đức như vậy, nếu ta ở trong thời gian một kiếp hoặc dưới một kiếp nói cũng chẳng hết Được.
Nầy Sanh Nghi ! Lúc ấy trong quốc Độ Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ có một Chuyển Luân Thánh Vương tên là Chúng
Thiên Quán Đảnh thống lãnh cả cõi Đại Thiên. Thánh Vương ấy ở chỗ chư Phật Đã từ lâu vun trồng cội công Đức, thành tựu lợi căn trí huệ oai Đức, có ba vạn sáu ngàn Vương Tử tất cả Đều hóa sanh ngồi kiết già trong hoa
sen, cũng từ lâu trồng căn lành ở chỗ chư Phật quá khứ.
Bấy giờ Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai cùng hàng trời người Đại chúng vi nhiễu Đi Đến chỗ ở của Thánh Vương.
Có chúng Bồ Tát vô lượng vô số chẳng phải các toán sư và Đệ tử của toán sư mà có thể tính biết.
Đức Phật ấy thọ một trăm ngàn kiếp, mỗi kiếp thời gian dài ngắn như kiếp Hiền ở Đây. Chúng sanh
cõi ấy trải qua ngần ấy kiếp số mà gọi là một kiếp.
Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh thỉnh Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai và chư Bồ Tát Tăng trong bốn mươi trung kiếp, mỗi trung kiếp ấy thời gian dài ngắn như một trung kiếp tại Đây, thọ sự cúng dường thích ý những món ăn uống ngon lành, những y phục, ngọa cụ, phòng nhà, Đền Đài, vườn tược, rừng cây, ao tắm v.v…tất cả món cần dùng.
Để cúng dường Đức Phật, Thánh Vương Chúng Thiên Quán Đảnh trang nghiêm một Tiểu Thiên thế giới làm ngôi nhà Đẹp, Đất toàn bằng lưu ly bửu, tường thành bao quanh
bằng các thứ báu hiệp thành. Cột nhà ấy bằng gỗ xích chiên Đàn và gỗ ưu Đà la sa la chiên
Đàn xen chạm cẩn với báu xa cừ. Ngôi nhà báu Đẹp trang nghiêm dường ấy rất Đáng ưa thích.
Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai sau giờ ăn giữa ngày, từ tam muội dậy, ở trong ngôi nhà ấy vì Đại chúng thuyết pháp.
Thánh Vương ấy còn trang nghiêm
một ngôi nhà lớn rộng bằng một tứ thiên hạ, muốn Đức Thế Tôn và chư Bồ Tát Tăng thọ thực trong Đó, mỗi ngày cần dùng vật thực giá trị bằng khối trân bửu như tòa núi lớn.
Trong thời gian bốn mươi trung kiếp cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng, Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh thường chuyên nhứt niệm chưa từng phóng dật chẳng làm việc gì khác, thường dùng tất cả món thích dùng Để cúng dường Phật và Tăng. Làm công Đức trong thời gian ấy, Thánh Vương cũng chẳng phát nguyện chẳng cầu mong sự gì cả. Mãn bốn mươi trung kiếp ở ngày sau rốt, Thánh Vương Đem ba y vô giá
cúng dường Phật và Bồ Tát Tăng. Ngày ấy sau giờ ăn giữa ngày, Đức Thế Tôn ấy vì Đại chúng nói rộng diệu pháp. Lúc ấy vì nghe pháp,
Thánh Vương và hàng thị tùng cùng Đến chỗ Phật.
Đức Phật Tịnh Nhứt Thiết Nguyện Oai Đức Thắng Vương Như Lai biết Thánh Vương công Đức thuần thục kham nghiệm hữu dụng, Đức Phật ngồi yên bất Động trên tòa sư tử suốt bảy ngày bảy Đêm không có ý tưởng ăn uống nói kinh Đại thừa tên là Nhiếp Bồ Tát Tịnh Hạnh Bất Thối Chuyển Luân Phương Tiện Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh và hàng Đại chúng trong bảy ngày bảy Đêm nghe pháp cũng không có ý tưởng ăn uống.
Đức Thế Tôn ấy nói pháp như vậy muốn cho Đại chúng nghe thọ trì hết chẳng quên mất.
Trong bảy ngày Đêm Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh tâm chẳng phân tán theo Phật nghe pháp vui mừng hớn hở thân tâm vui thích, Đứng dậy lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi gối hữu chấm Đất chắp tay hướng lên Phật thâm tâm thuần chí phát tâm Vô thượng Bồ Đề nói kệ rằng :
Tôi phát tâm Vô thượng
Thỉnh triệu các quần sanh
Người không cứu tôi cứu
Đời tối tôi khai sáng
Chẳng vì một pháp hành
Chẳng vì cúng một Phật
Chẳng vì một chúng sanh
Tôi nguyện Độ không thừa
Khổ sanh già bịnh chết
Kẻ bị khổ bức não
Tất cả chớ sầu lo
Tôi thề sẽ Độ họ
Tham sân si mạn trùm
Thất Đạo tạo nghiệp ác
Chánh pháp trừ tà nghiệp
Dẫn Đến thành vô úy
Chúng sanh Đọa tam Đồ
Chỗ nạn chịu các khổ
Bền chí chớ lo sợ
Tôi Đến ban vô úy
Bị vô minh si che
Chẳng biết môn giải thoát
Vì họ tôi Đốt Đuốc
Được sáng Đến Niết bàn
Bị bốn dòng cuốn trôi
Chìm Đắm chẳng Được bờ
Tôi tạo thuyền thắng pháp
Cho họ khỏi các dòng
Ở sanh tử Đói khát
Ăn hết phước lành trước
Vì họ làm Đạo Sư
Sẽ khiến Đến an vui.
Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh nói kệ xong, thế giới Hiện Vô Lượng Chư Phật Sát Độ liền chấn Động sáu cách, có ánh sáng chiếu khắp nơi. Thánh Vương phát Đạo tâm rồi Được Bồ Tát tam muội tên là Bất Thối Bồ Đề tâm, do sức tam muội ấy nên thường Được thấy chư Phật vô ngại, cho Đến trong chiêm bao các phiền não cũng chẳng hiện hành, từ Đó về sau, tâm Thánh Vương chẳng cùng chung với tật Đố, chẳng cùng chung với phá giới, chẳng cùng chung với sân hận, chẳng cùng chung với giải Đãi, chẳng cùng chung với tán loạn, chẳng cùng chung với ngu si. Vì nghe
pháp nên trọn Đời Thánh Vương thường hầu hai bên Đức Thế Tôn, cũng thường giáo hóa ba vạn sáu ngàn Vương Tử khiến phát tâm Vô thượng Bồ Đề, cũng giáo hóa vô
lượng vô biên chúng
sanh khác khiến họ phát Bồ Đề tâm.
Này Sanh Nghi ! Thánh Vương Chúng Thiên Quán
Đảnh thuở xa xưa ấy nay chính là Bồ Tát Hư Không Tạng vậy. Còn chư Vương Tử và Đại chúng Được Thánh Vương giáo hóa khiến phát Bồ Đề tâm ấy thì nay là chư Đại Bồ Tát Đại lực tinh tiến Đại trí huệ Đang nghe pháp Đây
vậy.
Này Sanh Nghi ! Hư Không Tạng từ lúc phát tâm Đến nay trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát Đạo. Hư Không Tạng Bồ Tát từ lúc phát tâm về sau chưa từng mất tâm Bồ Đề, chưa từng thai sanh, thường gặp chư Phật nghe pháp và cúng
dường chúng Tăng, ở chỗ chư Phật thọ trì chánh pháp nhiếp thủ kiên trì chưa từng thất niệm, hay khéo phân biệt thật hành Đầy Đủ. Lúc sơ phát tâm rồi Được bực thậm thâm nan giải Bồ Tát sơ Địa, hay làm các sự bố thí thành tựu Đại bi, Được không hí luận phát siêng tinh
tiến không hề nhàm mỏi, học tất cả các sách luận, biết tất cả thế pháp, thành tựu Đức tàm quí, Được niệm lực kiên cố. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Địa trong vô lượng a tăng kỳ bất khả xưng, bất khả lượng, bất khả tư nghị, bất khả thuyết bất khả thuyết a tăng kỳ kiếp hay thanh tịnh thuần chí Đầy Đủ hành Đàn Ba la mật, với các chúng sanh thường hành Đại bi, siêng tu pháp
tứ nhiếp tất cả Ba la mật và các pháp trợ Đạo, thành tựu dục tinh tiến bất phóng dật Đều tùy thuận Đàn Ba la mật. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Địa thường siêng hầu hạ cúng dường chư Phật siêng cầu phương tiện giáo hóa chúng
sanh tịnh Phật quốc Độ. Bồ Tát ấy trụ bực Sơ Địa Được nhập tất cả các bực Địa trí huệ quang minh mà chẳng quá Sơ Địa, sau Đó mới thành tựu vô lượng công Đức trí huệ tư lương, Được Như Lai lực trì bất thối thần thông Đã lìa các chướng ngại của chư Địa. Rời từ bực Sơ Địa nhập Bồ Tát Đệ Nhị Địa, trụ vô lượng a tăng kỳ kiếp thanh tịnh bực Nhị Địa tu Thi Ba la mật. Nhẫn Đến Bồ Tát Đệ Thập Địa vì tất cả chúng sanh, mỗi Địa trải qua kiếp số cũng như vậy. Trong mỗi mỗi Địa quá vô lượng a tăng kỳ kiếp thành tựu Bồ Tát hạnh, vì các chúng sanh hiện làm Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát sơ hành.
Nầy Sanh Nghi ! Ít có Bồ Tát nào có thể thật hành thậm thâm bất tư nghị thù thắng bất tán loạn thuần chí siêng tu tinh
tiến như Hư Không Tạng Bồ Tát Đã thật hành thành tựu như vậy".
Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát : «Hi hữu Đại Sĩ bèn có thể hoằng thệ nguyện như vậy ở trong Đại thừa, trụ lâu nơi sanh tử không có mỏi mệt".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói với Sanh Nghi Bồ Tát :"Thưa Đại Sĩ ! Như Đại Địa này chuyên chở núi sông Đá vách
cây cối lùm rừng tất cả thảo mộc trăm thứ lúa Đậu và các loại chúng sanh, nó có mỏi mệt chăng ?".
Sanh Nghi Bồ Tát Đáp rằng : «Không hề có mỏi mệt, thưa Đại Sĩ".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Tâm của chư Bồ Tát như Đại Địa, vì thuần chí thành tựu nên thật hành Bồ Tát hạnh không hề có mỏi mệt. Như Đại Địa, Đại thuỷ, Đại phong thường làm tất cả phận sự vẫn không hề mỏi mệt, như hư không chứa trì tất cả Đại Địa, Đại thủy, Đại phong, hư không không có ý chỉ không có chướng ngại cũng không có mỏi mệt. Tâm của chư Bồ Tát như hư không. do sức Bát Nhã Ba la mật tập họp tất cả Phật pháp không hề có lười bỏ mỏi mệt cũng như vậy. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp tướng mà Được thành tựu không có ai sanh
ai làm ai thọ. Do nhơn duyên hiệp lại mà có làm ra. Các
pháp Được làm ra cũng không
có thiệt, vì bổn tế rỗng không, vì bổn tế rời lìa vậy nên thiệt không có thành tựu, vì tự tánh rỗng không nên không có sanh không có diệt. Vì biết tất cả pháp tánh tướng như vậy nên không thấy có pháp gì là có
thể sanh ra sự mỏi mệt và cũng không có ai là người mỏi mệt. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả các pháp không có
hai, biết tánh sanh tử bình Đẳng với tánh Niết bàn, biết tánh Niết bàn bình Đẳng với tánh tất cả các pháp, biết tánh tất cả các pháp bình Đẳng với vô tánh, cũng chẳng dựa cậy chẳng trụ trước. Biết tất cả pháp quá khứ và vị lai Đều không có tự tánh, Bồ Tát do Định lực và nguyện lực nên chẳng khởi Định mà có thể hiện tất cả việc làm".
Sanh Nghi Bồ Tát nói với Hư Không Tạng Bồ Tát : «Ngưỡng mong Đại Sĩ nói rõ tam muội hành nghiệp của chư Bồ Tát. Sao gọi là tam muội ? Sao gọi là hành tam muội nghiệp ?".
Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Có tám
vạn bốn ngàn môn tam muội. Các môn tam muội nầy có thể tổng nhiếp tất cả môn tam muội khác. Những gì là tám vạn bốn ngàn môn tam muội ?
Bồ Tát có tam muội tên là bất vong Bồ Đề tâm, hay thành tựu hạnh chẳng tán loạn.
Có tam muội tên hàng phục, hay thanh tịnh thuần chí.
Có tam muội tên bất hiển hành, hay cứu cánh thành tựu bất thối việc Được làm.
Có tam muội tên vô y, hay tăng tiến thành tựu cứu cánh.
Có tam muội tên vô cấu, hay thành tựu tự tâm.
Có tam muội tên chiếu diệu, hay khai thị thiện pháp.
Có tam muội tên chơn tịnh, hay quá tất cả ma nghiệp.
Có tam muội tên dũng xuất, trọn chẳng bị các luận thuyết ngoại Đạo chế phục.
Có tam muội tên xả ly, hay Điều phục tất cả phiền não kiết sử.
Có tam muội tên hồi phục, hay khiến tất cả nhập vào Đạo chơn thiệt.
Có tam muội tên chuyển tiến, hay lìa Thanh Văn Địa và Bích Chi Phật Địa.
Có tam muội tên là lạc du, hay chẳng nhàm sanh tử.
Có tam muội tên xu hướng, hay từ một Địa Đến một Địa.
Có tam muội tên di dịch, hay thành tựu vui Đẹp Đại chúng.
Có tam muội tên vô ngại quang, hay khiến tất cả chúng sanh thành tựu tâm bình Đẳng.
Có tam muội tên tri sở tác, hay thuận tất cả sở tác không trái nghịch.
Có tam muội tên sư tử tướng, hay thành tựu Đại chúng vô sở úy.
Có tam muội tên tâm dũng, hay hàng phục tứ ma.
Có tam muội tên liên hoa trang nghiêm, hay thành tựu chẳng nhiễm thế pháp.
Có tam muội tên quang trang nghiêm, hay chiếu khắp chư Phật thế giới.
Có tam muội tên thanh lương, hay dứt lìa tắng ái.
Có tam muội tên tràng tướng, hay thành tựu tất cả Phật pháp quang minh.
Có tam muội tên cự vương, hay thành tựu Đại trí huệ quang minh.
Có tam muội tên nhựt quang, hay thành tựu Đoạn trừ vô minh tối tăm.
Có tam muội tên tập Đức, hay thành tựu biện từ vô tận.
Có tam muội tên na la diên, hay thành tựu thân kim cương.
Có tam muội tên kiên cố, hay thành tựu tâm chẳng Điệu Động.
Có tam muội tên di lâu tràng, hay thành tựu vô kiến Đảnh tướng.
Có tam muội tên kiên tự tại, hay thành tựu cứu cánh bổn nguyện.
Có tam muội tên kim cương thổ, hay thành tựu bất thối thần thông.
Có tam muội tên kim cương tràng, hay thành
tựu thăng lên Đạo tràng.
Có tam muội tên dụ như kim cương, khéo hay soi suốt tất cả các pháp.
Có tam muội tên hành vương, hay thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh.
Có tam muội tên huệ vương, hay thành tựu thắng trí biết các căn Đầy Đủ hoặc chưa Đầy Đủ.
Có tam muội tên tùy loại, hay thành tựu tùy chúng sanh tánh mà vì họ thuyết pháp.
Có tam muội tên tu nhứt thiết thân, hay thành tựu pháp thân.
Có tam muội tên bất thuấn, hay thành tựu vô ngại thấy chư Như Lai.
Có tam muội tên vô tranh, hay Được phân biệt tất cả nhơn duyên.
Có tam muội tên vô cấu luân, hay thành tựu chuyển diệu pháp luân.
Có tam muội tên Điện quan, hay biết Được nhơn duyên các pháp.
Có tam muội tên thiện phân biệt, hay biết các giới Đều Đồng một giới.
Có tam muội tên trang nghiêm vương, hay thành tựu các tướng hảo.
Có tam muội tên tùy giải vương, hay dùng một âm thanh Đáp tất cả.
Có tam muội tên bất phân biệt pháp giới, hay biết tất cả tam muội Đồng một tam muội.
Có tam muội tên kiên cố, hay Được bất thối nơi các pháp tánh.
Có tam muội tên bất khả hoại, hay biết các pháp Đồng với pháp tánh.
Có tam muội tên vô chung, hay biết bổn tế chẳng phải tế.
Có tam muội tên vô tác, hay thành tựu như như không có biến Đổi.
Có tam muội tên vô Động, hay biết các pháp bình Đẳng như hư không.
Có tam muội tên tịnh trụ, hay thành tựu các Ba la mật.
Có tam muội tên thiện nhiếp, hay thành tựu tứ nhiếp pháp.
Có tam muội tên Đẳng hạnh, hay thành tựu bốn phạm hạnh.
Có tam muội tên vô ngại quán, hay thành tựu các pháp trợ Đạo.
Có tam muội tên hải ấn, hay tổng trì tất cả pháp Được chư Phật nói.
Có tam muội tên là khôn, hay dứt trừ tất cả giác quán.
Có tam muội tên vô nguyện, hay thành tựu tất cả tịnh nguyện.
Có tam muội tên quyết liễu, hay Được thành tựu vô sanh pháp nhẫn.
Có tam muội tên bất thoát, hay Được thành tựu chẳng mất pháp Đã Được nghe.
Có tam muội tên vô ế, hay dùng thiện thuyết làm vui Đẹp chúng sanh.
Có tam muội tên Đắc phong, hay Được thành tựu bửu thủ.
Có tam muội tên pháp vân, hay mưa tất cả các pháp môn.
Có tam muội tên bửu trang nghiêm, hay Được thành tựu chẳng dứt Tam bửu thắng chủng.
Có tam muội tên vô tỉ, hay thành tựu các sự nghiệp do trí làm ra.
Có tam muội tên hư không môn, hay Được rời lìa tất cả chướng ngại.
Có tam muội tên trí ấn, hay Được biết khắp tất cả các pháp.
Có tam muội tên hiện kiến chư Phật, hay Được thành tựu Như Lai công Đức.
Có tam muội tên tuyển trạch tịch tĩnh như ý, hay Được thành tựu rời lìa nơi bổn tế.
Có tam muội tên phân biệt nhứt tướng pháp môn, hay Được thành tựu Đời vị lai nói pháp môn nhứt tướng.
Có tam muội tên liễu tri nhứt thiết pháp bình Đẳng tánh, hay Được thành tựu hiểu rõ tất cả kinh sách.
Có tam muội tên tập chư công Đức, hay Được nhuận ích tất cả chúng sanh.
Có tam muội tên du hí thần thông, hay Được thành tựu bất tư nghị giải thoát.
Có tam muội tên tự giác, hay nhập vào tạng bí mật của Như Lai.
Có tam muội tên thủ lăng nghiêm, có thể ở trong Bồ Tát Địa cho Đến thị hiện Đại Niết bàn.
Có tam muội tên biến chí, hay Được thành tựu thị hiện thọ sanh các nơi các xứ.
Có tam muội tên quán Đảnh vương, hay Được thành tựu Bồ Tát sở hành không còn dư.
Có tam muội tên vô thắng, hay Được thành tựu Như Lai thập lực.
Có tam muội tên vô tận, hay Được thành tựu tứ vô sở úy.
Có tam muội tên vô Đẳng Đẳng, hay Được thành tựu Phật bất cộng pháp.
Có tam muội tên nguyện vương, hay Được thành tựu pháp Thanh Văn tự lợi lợi tha công chẳng luống uổng.
Có tam muội tên vô cấu ấn, hay Được hiền tiền giác liễu chư Phật pháp.
Có tam muội tên thiện tri giác, hay thành tựu Nhứt thiết trí không có sót dư.
Có tam muội tên tận vô biên, hay thành tựu tất cả Phật sự thọ hành không dư thừa.
Có tam muội Được nói ở trên làm Đầu cho tám vạn bốn ngàn môn tam muội. Mỗi mỗi tam muội dùng vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tam muội là quyến thuộc.
Thưa Sanh Nghi Đại Sĩ, các tam muội ấy hay biết rõ các pháp sở hành của tám vạn bốn ngàn loại chúng sanh, cũng
hay hiển hiện tám vạn bốn ngàn pháp tụ. Đây là lược nói Bồ Tát hạnh và phần ít pháp tạng của chư Phật. Nhưng Bồ Tát hạnh có vô lượng vô biên và pháp tạng của chư Phật thì bất khả tư nghị vậy".
Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có một vạn sáu ngàn Bồ Tát Được nhu thuận nhẫn và vô lượng tam muội hiện ra. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh
phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
Đức Thế Tôn khen rằng : «Lành thay, lành thay ! Hư Không Tạng khéo nói pháp
môn tam muội ấy, khéo nói thành tựu Như Lai. Như chính thân ông Được chứng Được hiện hành, pháp ấy chẳng từ người mà Được".
Sanh Nghi Bồ Tát chắp tay hướng về Hư Không Tạng Bồ Tát mà bạch rằng : «Hi hữu Đại Sĩ có thể thành tựu công Đức bất khả tư nghị như vậy, chẳng từ người khác mà Được nhập vào cảnh giới thắng trí Như Lai. Tôi cũng nguyện thích muốn làm cho tất cả chúng sanh Được pháp giới Như Lai bất khả tư nghị ấy".
Lúc bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Sanh Nghi Bồ Tát : «Thưa Đại Sĩ ! Ai vì Ngài
mà Đặt cho tên Sanh Nghi ấy ?".
Sanh Nghi Bồ Tát nói : «Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Chính Bồ Đề tâm Đặt tên Sanh Nghi cho
tôi. Tại sao như vậy ? Vì người chẳng phát Bồ Đề tâm thì ở trong Phật pháp trọn chẳng sanh nghi. Người mà phát tâm Vô thượng Bồ Đề thì Đối với tất cả Phật pháp sanh nghi hoặc, tại sao, vì người ấy muốn Được biết rõ hiện tiền tất cả Phật pháp.
Ví như Thái Tử của vua Quán Đảnh Sát Đế Lợi thành tựu tướng vua Đáng nên làm quốc vương, kế sau vua cha phải nối ngôi vua, vì vậy mà Thái Tử ấy luôn luôn thường hỏi pháp trị nước, như là tôi sẽ làm thế nào giám lãnh quốc sự. Cũng vậy, Đại Bồ Tát cứu cánh tâm Vô thượng Bồ Đề, kế sau Đức Như Lai cũng phải nối ngôi tôn quí Vô Thượng Pháp Vương, cũng luôn luôn thường suy nghĩ hỏi han những pháp tương ưng Nhứt thiết trí, như là tôi sẽ phải thế nào thọ trì pháp Phật vô thượng, vì vậy mà ở nơi Phật pháp thường sanh nghi. Vì nhơn duyên ấy nên do nơi Bồ Đề tâm mà lập nên tên Sanh Nghi này vậy.
Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất ! Tôi từ xưa Đến nay chẳng nhớ có lúc nào gặp chư Phật, chư Bồ Tát, chư thiện tri thức mà chẳng thưa hỏi Phật pháp vi diệu, thế nên tôi chơn thiệt tên là Sanh Nghi
vậy".
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment