Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 57
PHÁP HỘI VĂN THÙ SƯ LỢI THỌ KÝ
THỨ MƯỜI LĂM
Vua Phổ Phúc nghe Phật nói vui mừng hớn hở được chưa từng có, liền ở trước đại chúng đại sư tử hống mà nói kệ rằng :
"Nay đối trước đại chúng
Phát tâm đại Bồ đề
Vì mỗi mỗi chúng sanh
Thệ tận vị lai tế
Thọ vô lượng sanh tử
Mà làm lợi ích lớn
Tu đủ hạnh Bồ Tát
Cứu các chúng sanh khổ
Từ nay nếu trái thệ
Phát khởi tâm tham dục
Bỏn xẻn ganh oán hờn
Là dối Phật mười phương
Tôi từ ngày hôm nay
Nhẫn đến thành Bồ đề
Thường phải học chư Phật
Tu hành các phạm hạnh
Tùy thuận giới thanh tịnh
Xa rời các lỗi lầm
Tôi ở nơi Bồ đề
Cũng chẳng nguyện mau chứng
Sẽ tận vị lai tế
Rộng lợi ích chúng sanh
Nghiêm tịnh các Phật độ
Vô lượng bất tư nghị
Sẽ khiến danh hiệu tôi
Nghe khắp mười phương cõi
Nay tôi tự thọ ký
Quyết định sẽ thành Phật
Chí nguyện thắng thanh tịnh
Nơi đây vốn không nghi
Tôi sẽ sạch ba nghiệp
Chẳng cho sanh các ác
Tôi dùng chơn thiệt nầy
Thành Phật Lưỡng Túc Tôn
Nếu tâm tôi chơn thiệt
Đất sẽ động sáu cách
Nếu lời tôi thành thiệt
Không có chút hư vọng
Sẽ khiến trong hư không
Âm nhạc tự nhiên trỗi
Nếu tôi không siểm khúc
Cũng không tâm oán hận
Do tâm chơn thiệt ấy
Sẽ mưa hoa mạn đà".
Lúc vua Phổ Phúc nói kệ rồi, tâm vua chơn thiệt nên mười phương các ức thế giới chấn động sáu cách, trên không âm
nhạc tự nhiên hòa tấu và mưa hoa mạn đà la.
Hai mươi ức người tùy tùng nhà vua đều rất vui mừng mà tự bảo rằng chúng tôi sẽ được Vô thượng Bồ đề, rồi bắt trước nhà vua mà phát Bồ đề tâm.
Đức Phật bảo đại chúng : "Vua Phổ Phúc thuở xưa ấy đâu phải ai khác, chính là Văn Thù Sư Lợi ngày nay vậy. Ông ấy thuở quá khứ
bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng sa kiếp tối sơ phát tâm Bồ đề, kế đó quá sáu mươi bốn hằng sa kiếp được vô sanh pháp nhẫn hay đầy đủ Bồ Tát thập địa và thập trí lực Như Lai, các pháp ở Phật địa thảy đều viên mãn, mà ông ấy chưa từng khởi tâm, nghĩ rằng tôi sẽ thành Phật.
Nầy chư thiện nam tử ! Thuở ấy, hai mươi ức người tùy tùng nhà vua đồng phát Bồ đề tâm ấy, đều do Văn Thù Sư Lợi khuyên dạy cho vào sáu Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, nay tất cả đều đã chứng Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân, xong Phật sự, nhập Niết bàn. Văn Thù Sư Lợi đều cúng dường chư Phật ấy và hộ trì chánh pháp của chư Phật ấy. Chỉ còn có một đức Phật hiện tại là Địa Trì Sơn Như Lai ở thế giới tên Địa Trì tại Hạ phương cách đây bốn mươi hằng sa Phật độ, cũng có vô số chúng sanh Thanh Văn và Bồ Tát.
Lúc đức Phật nói nhơn duyên đời trước của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, trong đại chúng có bảy ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : "Thưa Ngài ! Ngài đã đầy đủ thập địa và Như Lai thập lực đầy đủ tất cả Phật pháp, cớ sao chẳng thành Vô thượng Bồ đề ?".
Văn Thù Sư Lợi nói : "Thưa Ngài ! Không có đã viên mãn
tất cả Phật pháp rồi lại còn chứng Bồ đề. Tại sao ? Vì đã viên mãn thì chẳng nên lại chứng.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào viên mãn tất cả Phật pháp?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Phật pháp viên mãn như chơn như viên mãn. Chơn như viên mãn như hư không viên mãn. Phật pháp chơn như và hư không như vậy cũng không có hai. Như Ngài hỏi rằng thế nào viên mãn tất cả Phật pháp ? Như sắc viên mãn, như thọ tưởng hành thức viên mãn, Phật pháp viên mãn cũng như vậy.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là sắc v. v ... viên mãn ?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Sắc được Ngài thấy, là thường hay vô thường ?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Đều chẳng phải cả.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Nếu pháp đã chẳng phải thường chẳng phải vô thường, nó có tăng giảm chăng ?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Chẳng tăng giảm.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Nếu pháp chẳng tăng giảm thì gọi là viên mãn. Thế nào là viên mãn ? Nếu ở nơi các pháp chẳng biết rõ được thì sanh phân biệt, nếu biết rõ được thì không phân biệt. Nếu không phân biệt thì không tăng giảm. Nếu không tăng giảm thì là bình đẳng. Nếu thấy sắc bình đẳng tức là sắc viên mãn. Thọ tưởng hành thức và tất cả pháp viên mãn cũng như vậy.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Từ lúc Ngài được pháp nhẫn đến nay không một tâm niệm nguyện thành Chánh giác, nay sao
lại khuyên người xu hướng Bồ đề ?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Tôi thiệt chẳng hề khuyên một chúng sanh xu hướng Bồ đề. Tại sao ? Vì chúng sanh vô sở hữu vậy. Vì chúng sanh tánh tự ly vậy. Nếu chúng sanh là có thì khiến họ xu hướng Bồ đề. Chúng sanh đã bất khả đắc nên không có được khuyên. Tại sao ? Vì là bình đẳng vô phân biệt vậy. Chẳng phải đem bình đẳng cầu bình đẳng, cũng không có khởi. Vì thế nên thường nói rằng phải quan sát các hành : tới không từ đâu, đi không đến đâu, đây gọi là bình đẳng, là tánh không. Ở trong tánh không, chẳng có sở cầu.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Như lời Ngài hỏi tôi rằng từ lúc đắc nhẫn đến nay không có một niệm tâm sẽ được Bồ đề ! Thưa Ngài ! Ngài có thấy tâm ấy chăng, mà dùng tâm ấy được Bồ đề chăng ?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Không. Tại sao ? Vì tâm chẳng phải sắc nên chẳng thấy được. Bồ đề cũng vậy chỉ là danh tướng thôi. Hoặc tâm danh hay Bồ đề danh đều vô sở hữu cả.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Như lời Ngài nói tôi chẳng sanh một niệm tâm được Bồ đề, đó là mật ý mà nói. Tại sao ? Vì tâm bổn lai không có sanh nên là vô sanh. Đã vô sanh thì gì được gì chứng ?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Sao gọi là bình đẳng chứng nhập ?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Ở trong các pháp mà không buộc dính thì gọi là bình đẳng chứng. Nói chứng nhập là trí vi tế ấy chẳng sanh diệt không khác với chơn như không phân biệt, đây gọi là chứng nhập. Nếu là người chánh kiến tu hành thì trong bình đẳng không có một pháp để được, rời lìa các thứ tánh, cũng chẳng dính mắc nơi một, đây gọi là chứng nhập. Nếu dùng thân chứng các pháp vô tướng, biết rõ tướng ấy là vô tướng, mà đối với thân tâm cũng chẳng chấp trước, đây gọi là viên mãn chứng nhập.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là được ?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Do ngôn thuyết thế gian mà gọi là được. Chỗ được của chư Thánh chẳng phải ngôn ngữ nói được. Tại sao ? Vì pháp không y chỉ rời lìa ngôn thuyết ấy.
Lại nữa, thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Lấy không được làm được, cũng chẳng phải được chẳng phải chẳng được gọi đó là được".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật : "Bạch đức Thế Tôn ! Xin nói Phật độ của Văn Thù Sư Lợi được".
Đức Phật bảo Ngài Sư Tử Dũng Mãnh hỏi nơi Ngài Văn Thù Sư Lợi.
Sử Tử Dũng Mãnh Bồ Tát bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng : "Thưa Ngài ! Ngài sẽ được Phật độ công đức trang nghiêm nào ?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Nếu tôi cầu Bồ đề, Ngài có thể hỏi Phật độ sẽ được.
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài há lại chẳng cầu Bồ đề ư ?
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Tôi chẳng cầu. Tại sao ? Vì nếu có chỗ cầu thì có nhiễm trước, nếu có nhiễm trước thì có tham ái, nếu có chỗ ái thì có chỗ sanh, nếu có sanh thì có ái, nếu có ái thì trọn chẳng xuất ly. Vì thế nên tôi chẳng cầu Bồ đề. Tại sao ? Vì Bồ đề bất khả đắc vậy. Do vì bất khả đắc nên chẳng cầu.
Nhưng Ngài hỏi tôi Phật độ nào tôi sẽ được. Tôi không thể nói. Tại sao ? Vì đối với đức Như Lai Nhứt thiết trí mà tự nói Phật độ công đức trang nghiêm của mình, thì thành ra Bồ Tát tự khen công đức của mình".
Đức Phật nói : "Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Ông có thể tự nói dùng những nguyện gì trang nghiêm Phật độ. Khiến chư Bồ Tát nghe rồi quyết định thành mãn nguyện ấy".
Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi tuân lời Phật, liền đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng : "Bạch Thế Tôn ! Nay tôi thừa thần lực Phật sẽ tuyên nói, những ai muốn cầu đại Bồ đề đều nên lắng nghe. Nếu nghe điều nguyện ấy phải như thiệt tu học cho được viên mãn".
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát gối hữu chấm đất, mười phương đều có hằng sa Phật độ chấn động sáu cách.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật ; "Bạch Thế Tôn ! Tôi từ thuở xa xưa trăm ngàn ức na do tha a tăng kỳ kiếp đến nay phát khởi nguyện như vầy :
Tôi dùng thiên nhãn vô ngại thấy trong vô lượng vô biên Phật độ có tất cả chư Phật Như Lai, nếu chẳng phải là do tôi khuyên phát tâm
quyết định Bồ đề và giáo hóa khiến tu sáu Ba la mật cho đến thành vô thượng Bồ đề, thì ở nơi Bồ đề tôi trọn chẳng nên chứng. Mà tôi quyết phải viên mãn sở nguyện nầy, rồi sau sẽ chứng Vô thượng Bồ đề".
Chư Bồ Tát đều nghĩ rằng : Ngài Văn Thù Sư Lợi dùng thiên nhãn vô ngại thấy bao nhiêu như Lai ?
Đức Phật biết tâm niệm ấy mới bảo Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát rằng : "Nầy thiện nam tử ! Ví như đem cả tam thiên Đại Thiên thế giới nầy nghiền nát thành vi trần, có thể dùng toán số biết là bao nhiêu chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Không thể biết được.
- Nầy thiện nam tử ! Thiên nhãn vô ngại của Văn Thù Sư Lợi thấy vô lượng chư Phật ở phương Đông lại quá số ấy, chín phương kia cũng như vậy".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có nguyện là lấy hằng sa Phật độ làm một Phật độ vô lượng báu đẹp xen lẫn trang nghiêm. Nếu không như vậy thì tôi trọn chẳng chứng Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi còn có nguyện khiến trong nước tôi có cây Bồ đề lượng bằng mười cõi Đại Thiên, ánh sáng của cây ấy chiếu khắp nước.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi còn có nguyện là tôi ngồi Bồ đề rồi chứng Vô thượng Bồ đề nhẫn đến Niết bàn, trong thời gian ấy chẳng rời khỏi tòa Bồ đề mà chỉ dùng biến hóa hiện thân khắp mười phương vô lượng vô số Phật độ thuyết pháp cho các chúng sanh.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi còn có nguyện là khiến nước tôi không tên nữ nhơn, chỉ thuần có Bồ Tát rời lìa phiền não cấu đủ phạm hạnh, lúc sơ sanh ca sa theo thân ngồi kiết già bỗng nhiên hiện ra, Bồ Tát như vậy đầy khắp nước tôi. Không có tên Thanh Văn và Bích Chi Phật, ngoại trừ đức Như Lai biến hóa qua đến mười phương vì các chúng sanh nói
pháp tam thừa".
Bấy giờ Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi đương lai thành Phật hiệu là gì ?".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Lúc Văn Thù Sư Lợi thành Phật hiệu Phổ Kiến. Tại sao lại hiệu là Phổ Kiến ? Bởi đức Như Lai ấy, ở nơi mười phương vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật độ đều khắp làm cho được thấy. Nếu các chúng sanh thấy đức Phật Phổ Kiến thì tất định sẽ được vô thượng Bồ đề.
Nay Phổ Kiến Như Lai dầu chưa thành Phật, khi ta hiện tại đây và sau khi ta nhập Niết bàn, có ai nghe danh hiệu ấy, cũng đều tất định sẽ được Vô thượng Bồ đề, chỉ trừ người đã nhập ngôi vị ly sanh và người tâm nguyện hẹp kém".
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện là như cõi nước đức Phật A Di Đà lấy pháp hỉ làm món ăn, mà trong nước tôi Bồ tát sơ sanh lúc khởi ý nghĩ ăn liền có món ăn trăm vị đầy trong bát tại tay hữu, liền nghĩ rằng nếu chưa cúng dường mười phương chư Phật và bố thí những chúng sanh nghèo cùng khổ não và ngạ quỉ v.v... cho họ no đủ thì tôi quyết định chẳng nên tự ăn. Lúc nghĩ như vậy liền được ngũ thần thông bay đi vô ngại đến mười phương vô lượng vô số Phật độ cúng dường chư Phật và chúng Thanh Văn, cùng chu cấp cho chúng sanh nghèo khổ, rồi thuyết pháp cho họ rời lìa khát ái, trong khoảng một niệm trở về đến bổn xứ.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn ! Tôi còn có nguyện là trong nước tôi chư Bồ Tát sơ sanh cần dùng y phục, trong tay họ tùy ý xuất hiện các thứ bửu y tốt sạch vừa mặc đúng y phục của Sa Môn tự nghĩ rằng nếu chưa cúng dường mười phương chư Phật tôi chẳng nên tự dùng, trong khoảng một niệm qua đến mười phương vô lượng Phật độ, đem bửu y ấy cúng dường chư Phật rồi trở về bổn xứ mới tự thọ dụng.
Lại nữa, bạch đức Thế Tôn ! tôi còn có nguyện là trong nước tôi, chúng Bồ Tát được của báu và những đồ dùng, cần phải chia cúng chư Phật và chúng Thanh Văn. Khắp cúng dường rồi sau mới thọ dụng.
Trong nước tôi lại rời lìa tám nạn và pháp bất thiện. Đã không tội lỗi lại không cấm giới, không có các nhiệt não bất như ý".
Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Phật độ ấy tên là gì ?".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Nước ấy tên là Tùy Nguyện Tích Tập Thanh tịnh Viên Mãn".
- Bạch đức Thế Tôn ! Phật độ ấy ở phương nào ?
- Nầy thiện nam tử ! Phật độ ấy ở tại phương Nam. Thế giới Ta Bà nầy cũng ở trong Phật độ ấy.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng : Bạch đức Thế Tôn ! Tôi còn có nguyện trong nước tôi chứa họp vô lượng diệu bửu làm thành. Lại dùng vô lượng báu ma ni xen lẫn trang nghiêm. Báu ma ni ấy ở trong các thế giới mười phương chưa từng có. Tên của các báu ấy, trong câu chi năm nói cũng chẳng hết được. Tùy ý thích của chư Bồ Tát muốn nước ấy bằng vàng thì thấy là vàng. Thích bằng bạc thì thấy nước ấy bằng bạc, nhưng với người thấy vàng không hề tổn giảm. Hoặc thích bằng pha lê lưu ly mã não xích chơn châu vô lượng thứ báu đều tùy sở thích mà thấy không chướng ngại nhau. Cho đến thích bằng chiên đàn hương a già la hương xích chiên đàn hương v.v... đều tùy sở thích riêng mà thấy không chướng ngại nhau.
Trong nước ấy chẳng dùng ánh sáng nhựt nguyệt tinh tú châu ngọc đèn lửa để soi sáng, chư Bồ Tát ấy đều dùng ánh sáng của tự thân mình chiếu suốt ngàn ức na do tha cõi.
Trong nước ấy lấy hoa nở xòe làm ngày, hoa khép lại làm đêm, tùy ý thích thời tiết của chư Bồ Tát mà đều ứng đúng theo, nhưng không có lạnh nóng già bệnh chết. Chỉ tùy sở nguyện của chư Bồ Tát muốn chứng Bồ đề liền qua thế giới khác ở cung trời Đâu Suất mãn thọ giáng sanh mà thành Phật. Trong nước ấy không có nhập Niết bàn. Trăm ngàn thứ nhạc ở hư không, dầu chẳng hiện tướng hình mà nghe tiếng nhạc. Nhạc ấy chẳng phát thanh thuận tham ái, chỉ phát thanh Phật Pháp Tăng và các Ba la mật, các pháp môn Bồ Tát tạng. Tùy theo chỗ hiểu của chư Bồ Tát thảy đều được nghe diệu pháp.
Chư Bồ Tát nếu muốn thấy Phật, tùy chỗ đến kinh hành đứng ngồi, theo ý nghĩ liền thấy Phổ Kiến Như Lai ngồi cây Bồ Đề. Nếu các Bồ Tát có chỗ nghi, chỉ cần thấy đức Phổ Kiến Phật chẳng đợi giải thích mà liền hết nghi hiểu rõ pháp nghĩa.
Lúc ấy trong hội có vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Bồ Tát đồng thanh nói rằng :
- Nếu có ai được nghe danh hiệu Phổ Kiến Phật bèn được lợi lành tối thượng, huống là người sanh về cõi nước ấy.
- Nếu có ai được nghe pháp môn Văn Thù Sư Lợi thọ ký nầy và nghe tên Văn Thù Sư Lợi thì gọi là diện kiến chư Phật.
Đức Phật bảo chư Bồ Tát rằng : Đúng như vậy. Đúng mhư lời các ông nói. Nầy thiện nam tử. Nếu có ai thọ trì trăm ngàn ức danh hiệu chư Phật, nếu lại có ai xưng danh hiệu Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì phước nhiều hơn, huống là xưng danh hiệu Phổ Kiến Phật. Tại sao ? Vì trăm ngàn ức na do tha đức Phật ấy lợi ích chúng sanh chẳng bằng Văn Thù Sư Lợi làm lợi ích trong một kiếp.
Lúc ấy trong chúng có vô lượng trăm ngàn ức na do tha Thiên Long Bát
Bộ Nhơn Phi Nhơn đồng thanh xướng rằng :
"Nam mô Văn Thù Sư Lợi đồng Chơn bồ Tát
Nam mô Phổ Kiến Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác".
Xướng lời trên rồi có tám vạn bốn ngàn ức na do tha chúng sanh phát
tâm Bồ đề. Vô lượng chúng sanh căn lành thành thục được bất thối chuyển trong ba thừa.
Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Tôi còn có nguyện như tôi đã được thấy Vô lượng vô số trăm ngàn ức na do tha chư Phật Thế Tôn, bao nhiêu Phật độ công đức trang nghiêm của chư Phật ấy tất cả đều có đủ trong một Phật độ của tôi, chỉ trừ nhị thừa và ngũ trược.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu tôi tự nói các thứ công đức trang nghiêm trong Phật độ hơn hằng sa kiếp cũng nói chẳng hết. Như sở nguyện của tôi, chỉ có đức Phật biết được".
Đức Phật nói : "Đúng vậy. Nầy Văn Thù Sư lợi ! Ở trong tam thế, tri kiến của đức Như Lai không có hạn lượng chướng ngại".
Bấy giờ trong đại chúng có chư Bồ Tát nghĩ rằng : Phật độ công đức trang nghiêm của Văn Thù Sư Lợi được có bằng quốc độ của đức Phật A Di Đà chăng ?
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát nên nói với Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát rằng : "Nầy thiện nam tử ! Ví như có người phân tích một sợi lông làm trăm phần, đem một phần lông chấm lấy một giọt nước trong đại hải. Một giọt nước biển ấy đem dụ cho sự trang nghiêm của quốc độ Phật A Di Đà, còn toàn nước đại hải đem lại dụ cho quốc độ trang nghiêm của Phật Phổ Kiến, lại còn hơn đây nữa. Tại sao ? Vì Phật độ trang nghiêm của Phổ Kiến Như Lai chẳng thể nghĩ bàn được vậy".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Những loại Phật độ trang nghiêm như vậy, trong tam thế chư Phật còn có quốc độ như vậy chăng ?".
Đức Phật nói : "Có. Nầy thiện nam tử ! Phương Đông cách đây quá trăm ức hằng sa thế giới có Phật độ tên Trụ Tối Thượng Nguyện, có Phật hiệu Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai thọ mạng vô lượng vô biên thường thuyết pháp cho chúng Bồ Tát. Cõi nầy công đức trang nghiêm đồng như cõi của Phổ Kiến Như Lai.
Nầy thiện nam tử ! Có bốn Bồ Tát mặc giáp hoằng thệ bất tư nghị quyết định thành mãn thệ nguyện ấy, cũng sẽ được Phật độ trang nghiêm như Phật độ của Phổ Kiến như Lai.".
Ngài Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Xin nói danh hiệu và chỗ ở của chư Bồ Tát ấy. Lại xin hiển thị quốc độ của Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai để cho đại chúng đây được nhiều lợi ích. Tại sao ? Vì chư Bồ Tát đây nếu được thấy nghe thì ở nơi đại nguyện ấy sẽ được thành mãn".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Các ông lắng nghe, Phật sẽ nói cho. Nầy thiện nam tử ! Bốn Bồ Tát ấy, một người tên Quang Minh Tràng ở tại Phật độ phương Đông của Phật Vô Ưu Đức. Người kế tên Trí Thượng ở tại Phật độ phương Nam của Phật Trí Vương. Người thứ ba tên Chư Căn Tịch Tĩnh ở tại quốc độ phương Tây của Phật Huệ Tích. Người thứ tư tên Nguyện Huệ ở tại quốc độ phương Bắc của Phật Na La Diên".
Đức Thế Tôn dùng sức thần thông hiện Phật độ của Phổ Quang Thường Đa Công Đức Hải Vương Như Lai cho trong đại hội nầy thấy đức Phật ấy và chúng Bồ Tát cùng những công đức trang nghiêm ở thế giới ấy, từ trước chưa từng thấy cũng chưa từng nghe, tất cả sự trang nghiêm ấy chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng trăm ngàn ức na do tha châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trong một kiếp nói công đức ấy cũng chẳng hết. Đại chúng đây đều thấy rõ như xem trái am ma lặc trong bàn tay. Bồ Tát cõi ấy thân cao bốn vạn hai ngàn do tuần. Thân của Phật cao tám vạn bốn ngàn do tuần, ánh sáng chiếu khắp như tòa núi vàng diêm phù đàn,
thành tựu công đức trang nghiêm rộng lớn ngồi dưới cây Bồ đề, chư Bồ Tát cung kính vây quanh,
hiện trăm ngàn ức những sự biến hóa qua đến trong các thế giới mười phương thuyết pháp cho các chúng sanh.
Đức Phật bảo chư Bồ Tát : "Các thiện nam tử ! Các ông có thấy Phật độ ấy trang nghiêm và chúng Bồ Tát chăng ?".
Đại chúng đồng thanh bạch phật rằng : "Vâng, chúng tôi
đã thấy. Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi sẽ học hạnh Bồ Tát ấy như chỗ tu hành của Văn Thù Sư lợi, chúng tôi cũng sẽ thành tựu phật độ trang nghiêm như vậy".
Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ diện môn của Phật phóng ra nhiều tia sáng màu chiếu vô lượng vô biên thế giới, chiếu song tia sáng ấy trở lại quanh Phật ba vòng rồi rót vào đảnh phật.
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười ?".
Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng : "Trong đại chúng đây có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát thấy sự trang nghiêm của Phật độ ấy, dầu đã phát tâm mà nay muốn sẽ thành tựu Phật độ như vậy. Nhưng trong số ấy có mười sáu thiện đại trượng phu đủ chí nguyện thù thắng mà phát đại tâm, họ sẽ thành mãn như đại nguyện của Văn Thù Sư lợi. Chư Bồ Tát khác cũng mau sẽ được Vô thượng Bồ đề, sẽ được Phật độ trang nghiêm như cõi nước của Phật A Di Đà.
Di Lặc nên biết, chư Bồ Tát chí nguyện đã thù thắng, chỗ thành tựu cùng lớn. Người chí nguyện thù thắng thì nói tôi thành tựu như Văn Thù Sư Lợi trang nghiêm Phật độ.
Những người chí nguyện kém dầu cũng khởi lòng tin nói lời như vậy. Do ngữ nghiệp phát ra lời ấy có thể bỏ dứt sáu mươi ức trăm ngàn na do tha kiếp sanh tử lưu chuyển, cũng được viên mãn năm ba la mật".
Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát thấy bốn phương nơi quang minh tràng, bốn đại Bồ tát đều ngồi trong lâu các lưu ly quang minh có trăm ngàn ức chư Thiên vây quanh mưa hoa trổi nhạc hiện đại thần biến chấn động đại địa mà đến cõi nầy.
Di Lặc Bồ Tát liền bạch Phật hỏi sự ấy.
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử: ! Bốn Bồ Tát ấy vì thấy ta nên chư Như Lai ở bốn phương đều khiến đến đây".
Bốn Bồ Tát ấy đến đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi qua một phía, ánh sáng các Ngài chiếu khắp đại hội nầy.
Đức Phật bảo các Bồ Tát rằng : "Nầy đại chúng ! Bốn thiện đại trượng phu đây chí nguyện xu hướng đều chẳng nghĩ bàn, phải nên tôn trọng thỉnh hỏi pháp yếu ấy. Mà sở nguyện của bốn Bồ Tát ấy đối với chư Bồ Tát là tối thù thắng.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn được thấy bốn Bồ Tát ấy thì tất định sẽ được Vô thượng Bồ đề bỏ dứt hai mươi ức kiếp sanh tử lưu chuyển, đầy đủ viên mãn năm ba la mật. Nếu có nữ nhơn nghe tên chư Bồ Tát thì mau rời khỏi thân nữ nhơn".
Đức Phật nhiếp thần lực, cõi ấy bỗng chẳng còn hiện.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả pháp đều như huyễn. Tại sao ? Ví như nhà ảo thuật huyễn biến ẩn hiện. Các pháp sanh diệt cũng như vậy. Mà sanh diệt ấy tức là không sanh diệt. Do không sanh diệt tức là bình đẳng. Bồ Tát tu bình đẳng ấy thì có thể chứng được vô thượng Bồ đề".
Trí Thượng Bồ Tát nói : "Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nơi Bồ đề nầy thế nào chứng được ?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Bồ đề nầy chẳng phải là được cũng chẳng phải là hoại được, chẳng phải an trụ được".
Trí Thượng Bồ tát nói : "Nhưng Bồ đề nầy chẳng phải do an trụ mà được, cũng chẳng phải chẳng an trụ mà được. Tại sao ? Vì pháp tánh ấy bổn lai vô sanh, chẳng phải đã có, chẳng phải sẽ có, chẳng phải hư hoặc được, vì thế nên không được".
Văn Thù Sư Lợi hỏi chư Bồ Tát rằng : "Thế nào gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng ?".
Di Lặc Bồ Tát nói : "Nếu có người chẳng thấy uẩn giới và xứ, cũng chẳng phải chẳng thấy, không chỗ phân biệt, cũng chẳng thấy hợp tan. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Sử Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát nói :"Nếu chẳng phát khởi các thứ phân biệt : nầy là pháp phàm phu, nầy là pháp nhị thừa, nầy thời chẳng trái pháp tánh, không
phân biệt như vậy mà nhập nhứt
tướng nghĩa là vô tướng. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Lạc Kiến Bồ Tát nói : "Nếu có người tu chơn như hạnh mà cũng chẳng sanh tưởng chơn như, nơi thậm thâm nầy không chỗ phân biệt. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Vô Ngại Biện Bồ Tát nói : "Nếu có thể cứu cánh tận hết nơi các pháp, cũng đem pháp ấy nói cho người. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Thiện Tư Bồ Tát nói : "Nếu dùng tư nghị nhập vào bất tư nghị, bất tư nghị ấy cũng bất khả đắc. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Diệu Ly Trần Bồ Tát nói : "Nếu có ai chẳng nhiễm tất cả tướng, cũng chẳng phải nhiễm chẳng phải chẳng nhiễm, không trái không thuận cũng chẳng mê hoặc, chẳng phải một chẳng phải hai, cũng chẳng phải các thứ, chẳng lấy chẳng bỏ. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Ta Kiệt La Bồ Tát nói : "Nếu có ai nhập vào được pháp thậm thâm khó vào như biển, mà ở nơi pháp ấy cũng chẳng phân biệt, dầu vì người mà nói nhưng không có ý tưởng nói pháp. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Nguyệt Thượng Bồ Tát nói : "Nếu ở nơi tất cả chúng sanh tâm hành bình đẳng dường như trăng tròn không có ý tưởng là chúng sanh. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Ly Ưu Ám Bồ Tát nói : "Thế nào là nhổ mũi tên ưu khổ chúng sanh ? Đó là ngã và
ngã sở là gốc khổ của họ, nếu có thể an trụ được ngã ngã sở bình đẳng. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Vô Sở Duyên Bồ Tát nói : "Nếu chẳng phan duyên dục giới, sắc giới, vô sắc giới, pháp Thanh Văn, pháp
Duyên Giác, pháp chư Phật. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Phổ Kiến Bồ Tát nói : "Nếu lúc thuyết pháp nên nói pháp bình đẳng, nghĩa là tánh không
bình đẳng cũng không có ý tưởng là không và ý tưởng là bình đẳng. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Tịnh Tam Luân Bồ Tát nói : "Nếu lúc thuyết pháp phải tịnh tam luân, nghĩa là chúng
sanh được dạy, ngã bất khả đắc, cũng chẳng phân biệt mình làm Pháp Sư, nơi pháp được nói mà không trụ trước. Thuyết pháp như vậy gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Thành Tựu Hạnh Bồ Tát nói : "Nếu có ai có thể nói nơi tất cả pháp, tu bình đẳng hạnh, chỗ biết như thiệt chẳng văn phải văn tự thuyết, vì tất cả pháp rời lìa ngôn thuyết vậy. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Thâm Hạnh Bồ Tát nói : "Nếu ai có thể thuyết pháp rõ thấu tất cả pháp thậm thâm, cũng chẳng thấy năng thuyết sở thuyết kia và người được nghe. Đây gọi là : Nói pháp môn nhứt tướng".
Lúc nói pháp môn nhứt tướng ấy, ba mươi bảy ức Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn. Tám vạn bốn ngàn na do tha trăm ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bảy ngàn Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tận hết các hữu lậu tâm được giải thoát. Chín mươi sáu na do tha chư Thiên và
Nhơn ở trong các pháp được nhãn tịnh.
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề ? Phật ấy thọ mạng và chúng Bồ Tát có bao nhiêu ?".
Đức Phật bảo hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Thưa Ngài ! Bao giờ Ngài sẽ được Vô thượng Bồ đề".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói : "Nầy thiện nam tử ! Chừng nào hư không giới làm sắc thân, tôi mới sẽ được Vô thượng Bồ đề. Nếu ảo nhơn được Bồ đề thì tôi mới sẽ được. Nếu lậu tận A La Hán là Bồ Tát thì tôi mới sẽ được. Nếu lúc nào mộng hưởng ảnh và hóa nhơn được Bồ đề tôi mới sẽ được. Nếu mặt nguyệt chiếu làm ngày, mặt nhựt chiếu làm đêm tôi mới sẽ được Vô thượng Bồ đề. Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Lời hỏi của Ngài nên đem hỏi người cầu Bồ đề".
Sư Tử Dũng Mãnh Bồ Tát nói : "Ngài há chẳng cầu Bồ đề ư ?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Chẳng có cầu. Tại sao ? Vì Văn Thù Sư Lợi tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Văn Thù Sư Lợi. Tại sao ? Vì Văn Thù Sư Lợi chỉ có danh từ, Bồ đề cũng chỉ có danh từ. Danh từ ấy cũng là ly là vô tác nên
là không. Không tánh ấy tức là Bồ đề".
Đức Phật hỏi Ngài Sư Tử Dũng Mãnh rằng : "Nầy thiện nam tử ! Ông có nghe thấy các chúng hội Thanh Văn và Bồ Tát của A Di Đà Như Lai chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thấy nghe.
- Nầy thiện nam tử ! Số ấy là bao nhiêu ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng phải toán số nghĩ bàn đến được.
- Nầy thiện nam tử ! Như pháp đo lường của nước Ma Kiệt, một hộc dầu mè, lấy một hột tỉ dụ cho chúng Thanh Văn và Bồ Tát ở nước Phật A Di Đà. Còn bao nhiêu thì tỉ dụ lúc Văn Thù Sư Lợi được Bồ đề số chúng Bồ Tát, lại còn quá số ấy .
Nầy thiện nam tử ! Như đem tam thiên Đại Thiên thế giới vi trần số kiếp so với số kiếp thọ lượng của Phổ Kiến Như Lai, trăm phần ngàn phần trăm ngàn ức phần, nhẫn đến toán số thí dụ chẳng bằng được. Nên biết thọ mạng của Phổ Kiến Như Lai không có toán số cũng không hạn lượng.
Ví như có một người đem tam thiên Đại Thiên thế giới nghiền nát ra vi trần, người thứ hai người thứ ba cũng đem Đại Thiên thế giới nghiền nát ra vi trần. Lại có một người mang vi trần ấy đi qua phương Đông quá chừng ấy số vi trần thế giới mới bỏ xuống một vi trần, lại đi quá vi trần số thế giới nữa mới bỏ xuống một vi trần, thứ đệ đi và bỏ như vậy đến hết số những vi trần. Lại chín phương kia mỗi phương cũng đều có một người đi và bỏ đến hết vi trần như vậy. Nầy các thiện nam tử ! Những thế giới mười phương được đi qua ấy có thể biết được số chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Không thể biết.
- Nầy thiện nam tử ! Tất cả thế giới mà các người ấy đã đi qua, hoặc có dính vi trần hay không đều đem nghiền nát thành vi trần. Có thể toán số biết được số vi trần ấy chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Không thể biết được. Nếu có ai tính lường thì tâm sẽ mê loạn mà chẳng biết được.
- Nầy thiện nam tử ! Chư Phật Như Lai đều biết rõ hết số vi trần ấy. Giả sử có quá số ấy, Như Lai cũng biết rõ"
- Di Lặc Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chư Bồ Tát vì cầu đại trí huệ như vậy, nên dầu ở địa ngục vô lượng ức kiếp thọ khổ cũng trọn chẳng bỏ rời trí ấy".
Đức Phật nói : "Đúng như vậy. Đúng như lời Di Lặc nói. Có ai ở trong đại trí huệ ấy mà chẳng sanh lòng thích muốn. Chỉ trừ kẻ hạ liệt và người giải đãi".
Lúc Phật nói trí ấy, có một vạn người phát tâm Bồ đề.
Đức Phật bảo Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát rằng : "Nầy thiện nam tử ! Như tất cả thế giới mười phương mà mười phương ấy đã đi đều làm thành vi trần hết, Văn Thù Sư Lợi sẽ ở trong kiếp vi trần ấy thật hành Bồ Tát đạo. Tại sao ? Vì đại nguyện của Văn Thù Sư Lợi chẳng thể nghĩ bàn, xu hướng cũng chẳng thể nghĩ bàn, được Bồ đề rồi thọ lượng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chúng hội Bồ Tát cũng chẳng thể nghĩ bàn".
Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi xu công hạnh sở tu rất lớn, sở nguyện cũng rất quảng đại mới ở nơi bấy nhiêu vi trần số kiếp mà chẳng sanh mỏi mệt".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Đúng vậy. Đúng như lời Ngài nói. Thưa Ngài ! Hư không giới có nghĩ rằng đã qua ngày đêm thời tiết tháng năm số kiếp v. v. . . chăng ?
- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Không vậy .
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Đúng vậy, nếu có ai tỏ biết tất cả pháp đồng với hư không, trí vi tế ấy không có phân biệt, cũng không quan niệm rằng trải qua ngày đêm thời tiết tháng năm các kiếp số v. v. . . Tại sao ? Vì trí vi tế ấy ở nơi các pháp không có tưởng niệm vậy.
- Nầy thiện nam tử ! Như hư không giới không có mỏi mệt và ý tưởng nhiệt não. Tại sao ? Dầu cho quá hằng sa kiếp, hư không giới cũng không sanh khởi cũng không thiêu diệt, chẳng phải bị phá hoại được. Tại sao ? Vì hư không giới vô sở đắc vậy.
Nầy thiện nam tử ! Nếu Bồ Tát rõ biết tất cả pháp vô sở hữu rồi thì cũng có ý tưởng nhiệt não và mỏi mệt v. v. . .
Nầy thiện nam tử ! Danh từ hư không ấy cũng không có thiêu diệt nhiệt não mỏi mệt, cũng chẳng động lay, chẳng sanh chẳng lão, chẳng đến chẳng đi. Danh hiệu Văn Thù Sư Lợi cũng vậy, không có nhiệt não mỏi mệt v .v . . . Tại sao ? Vì danh tự tánh ly vậy".
Lúc nói pháp ấy, Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương và chư Thiên Tử đại oai đức đồng thanh xướng rằng : "Các chúng sanh nghe pháp môn ấy đước lợi lành lớn, huống là thọ trì đọc tụng. Nên biết họ được thiện căn rất rộng lớn.
Bạch đức Thế Tôn ! Nơi pháp môn ấy, chúng tôi thọ trì đọc tụng rộng tuyên lưu bố, vì chúng tôi muốn hộ trì pháp thậm thâm ấy".
Sư Tử Dũng Mãnh bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có ai được nghe pháp môn ấy, thọ trì đọc tụng suy gẫm và phát tâm công đức trang nghiêm phật độ như vậy được bao nhiêu phước ?".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai dùng vô ngại nhãn thấy chư Phật và Phật độ của chư Phật, nếu có Bồ Tát đem thất bửu đầy những phật độ ấy để cúng dường mỗi mỗi Như Lai đều cùng tận vị lai tế, khiến Bồ Tát nầy an trụ tịnh giới, với tất cả chúng sanh được tâm bình đẳng. Nếu lại có Bồ Tát ở nơi pháp môn công đức trang nghiêm Phật độ nầy mà thọ trì đọc tụng, lại có thể phát tâm theo sở học của Văn Thù Sư Lợi đi bảy bước. Hai công đức sau nầy đem so với công đức cúng dường thất bửu trên kia, thì công đức trên trăm phần chẳng bằng một, nhẫn đến thí dụ toán số chẳng đếm được".
Di lặc Bồ Tát bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Pháp môn nầy tên là gì, và chúng tôi
phải thọ trì thế nào ?".
Đức Phật nói : "Pháp môn nầy tên là chư Phật du hí, cũng tên là chư nguyện cứu cánh, cũng tên là Văn Thù
Sư Lợi công đức trang nghiêm Phật độ, cũng tên là linh phát Bồ đề tâm Bồ Tát hoan hỉ, cũng tên là Văn Thù Sư Lợi thọ ký, nên thọ trì như vậy".
Bấy giờ chư Bồ Tát từ mười phương đến muốn cúng dường pháp môn ấy nên mưa các thứ hoa và ca ngợi rằng : "Hi hữu Thế Tôn ! Hi hữu Thế Tôn ! Chúng tôi được nghe pháp môn bất tư nghị Văn thù Sư Lợi sư tử rống trang nghiêm".
Chư Bồ Tát nói lời ấy rồi đều trở về bổn độ.
Lúc nói pháp nầy, có hằng sa Bồ Tát được bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh thiện căn thành thục.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi liền nhập tam muội tên Bồ Tát xuất sanh quang minh phổ chiếu như huyễn. Nhập tam muội rồi làm cho chúng hội nầy thấy khắp tất cả Như Lai trong vô lượng vô biên Phật độ mười phương. Trước mỗi đức Như Lai đều có Văn Thù Sư lợi Bồ Tát nói Phật độ công đức trang nghiêm của mình. Chúng tôi được thấy như vậy rồi, đối với đại nguyện thù thắng của Văn Thù Sư Lợi sanh lòng hi hữu.
Phật nói kinh nầy rồi, tất cả Bồ Tát, chư Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà Di, Thiên Long Bát Bộ, Nhơn và Phi Nhơn, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment