Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 89
PHÁP HỘI THIỆN THUẬN BỒ TÁT
THỨ HAI MƯƠI BẢY
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc tại nước Xá Vệ cùng các đại chúng: năm trăm
Thanh Văn , mười ngàn Bồ Tát cung kính vây
quanh..
Bấy giờ trong thành Xá Vệ có một Bồ Tát tên Thiện Thuận, đã ở nơi vô lượng Phật quá khứ trồng các thiện căn kính thờ cúng dường được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, an trụ đại từ lòng chẳng giận hờn, an trụ đại bi rộng cứu không mỏi, an trụ đại hỉ lành an pháp giới, an trụ đại xả khổ vui bình đẳng, tiết lượng ăn đúng giờ, ít muốn biết đủ, thường được chúng sanh ưa thấy, luôn đem ngũ giới và bát giới trai ở trong thành ấy thương xót giáo hóa sau đó lại khuyến hóa mọi người hành bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tiến thiền định trí huệ từ bi hĩ xả phạm hạnh thanh tịnh.
Bấy giờ Thiện Thuận Bồ Tát vì khiến chúng sanh thấy Phật nghe pháp nên cùng đại chúng sau trước vây quanh sắp đi đến chỗ đức Phật.
Thiên Đế Thích dùng thiên nhãn thấy Thiện Thuận Bồ Tát thường tinh tiến hành đầu đà đủ tịnh giới tế độ vững chắc, Thiên Đế nghĩ rằng nay Bồ Tát Thiện Thuận ấy ở nơi phạm hạnh chẳng hề biếng trễ, phải chăng là vì cầu ngôi Đế Thích hay muốn làm vua và hưởng dục lạc? Nghĩ như vậy rồi Thiên Đế hóa làm bốn người trai tráng đến trước Thiện Thuận Bồ Tát nói lời xấu ác mắng nhiếc lại dùng dao gậy chém đập và ngói đá ném chọi Bồ Tát. Thiện Thuận Bồ Tát an trụ sức từ nhẫn đều chịu đựng những sự gia hại ấy không hề giận hờn. Thiên Đế lại hóa làm bốn người trai tráng khác đến bão Bồ Tát «Ôi thưa Ngài Thiện Thuận! Bọn người ác kia đánh mắng Ngài thậm tệ nếu Ngài bão chúng tôi
báo thù cho Ngài thì chúng tôi sẽ vì ngài mà giết chết bọn ác ấy « Thiện Thuận Bồ Tát liền nói với bốn trai tráng ấy rằng: «Nầy các thiện nam tử! Các anh chớ nói như vậy, nếu giết hại thì thành ác nghiệp. Dầu cho có người đến chém nát thân thể tôi như lá táo tôi trọn chẳng sanh lòng giận thù giết hại. Tại sao? Vì kẻ giết hại bị đọa địa ngục ngạ quỉ súc sanh cho đến dầu được thân người họ cũng chẳng yêu thương cha mẹ đẻ của họ, thường bị mọi người ghét bỏ. Nầy thiện nam tử! tất cả pháp phàm có hai loại thiện và bất thiện. Do pháp bất thiện mà đọa ác đạo. Nếu y theo pháp thiện thì được pháp lợi."
Muốn tuyên lại nghiã ấy Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
Thiện ác như gieo trồng
Đều theo nghiệp mà sanh
Nào có hột giống đắng
Mà sanh trái chín ngọt
Hiện thấy pháp như vậy
Người trí phải suy xét
Khổ báo đền ác nghiệp
Làm lành thường an vui "
Bị từ chối bọn người nầy liền bỏ đi.
Bấy giời Thiên Đế lại hóa ra khối châu báu vàng bạc rồi sai các trai tráng đến nói với Bồ Tát ấy rằng Ngài có thề phương tiện lấy của báo ấy tùy ý tiêu dùng.
Thiện Thuận Bồ Tát bảo rằng: Các anh chớ nói như vậy. Tại sao? Vì nghiệp trộm cắp hay khiến chúng sanh nghèo
cùng hạ tiện không chỗ nương tựa. Dầu tôi có nghèo đến không đủ sống cũng trọn chẳng trộm cắp. Kẻ phàm phu ngu mê
tham cầu trộm cắp. Nào có người trí lại làm nghiệp ác ấy ".
Bồ Tát nói kệ rằng:
«Chứa của đến ngàn ức
Lòng tham lam chẳng xà
Người trí nói người ấy
Thường nghèo khổ ở đời
Người dầu không một vật
Mà lòng luôn xả ly
Người trí nói kẻ ấy
Ở đời rất giàu sang
Người trí lìa các ác
Tất cả đều đoan nghiêm
Người ngu do tạo nghiệp
Toàn thân đều thô xấu
Người trí khuyên làm
lành
Người ngu luôn làm ác
Thà bị người trí mắng
Chẳng cần người ngu khen".
Nghe Bồ Tát nói như vậy các người ấy liền bỏ đi.
Thiên Đế lại tự thân đến chỗ Bồ Tát tay cầm trăm ngàn lượng vàng bão rằng: « Vừa rồi ở trước vua Ba Tư Nặc trong thành xá vệ tôi cùng người tranh luận cần có một người làm chứng, nếu Ngài có thể làm chứng nhơn cho tôi thì tôi xin tặng cả số vàng nầy ».
Thiện Thuận Bố Tát nói với Thiên Đế: Ngài nên biết rằng phàm vọng ngữ là nghiệp bất thiện, đã tự dối mình còn dối cả Thiên Long Bát Bộ. Vọng ngữ còn có thể làm gốc cho tất cả điều ác cảm lấy ác báo: Hư tịnh giới, hoại sắc thân, hơi miệng hôi thúi, lời nói ra bị người coi rẻ *.
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
« Người phạm vọng ngữ
Hơi miệng thường hôi
Vào ác đạo khổ
Không ai cứu được
Phàm người vọng ngữ
Tự dối lấy mình
Cũng phỉnh Thiên Long
Bát Bộ Quỉ Thần
Nên biết vọng ngữ
Làm gốc nhữ ác
Phá giới thanh tịnh
Chết đọa tam đồ
Dầu ông cho tôi
Vàng đầy diêm phù
Tôi trọn chẳng thể
Làm người vọng ngữ « .
Nghe những lời trên Thiên Đế bỏ đi rồi lại sai Xá Chi phu nhơn Nhựt Quang Phu nhơn và Ngũ Kế các phu nhơn lại đến chỗ Thiện Thuận Bồ Tát thử phá tịnh giới của Bồ Tát ấy. Chư phu nhơn cùng năm trăm
thanh nữ ướp hương đeo hoa đêm khuya ấy đến trước Bồ Tát nói rằng: « Chúng nữ nhơn tôi thanh niên sắc đẹp tình nguyện hầu dưới gối cùng ông hoan lạc. Thiện Thuận Bồ Tát dùng mắt vô nhiễm quan sát chúng nữ nhơn mà bão họ rằng: Những kẽ cuồng loạn những kẻ tà tâm ở địa ngục súc sanh ngạ quỉ say đắm hôi dơ mủ máu bất tịnh các la sát hung ác là thân hữu của các người chớ chẳng phải quyến thuộc của chư Thiên thanh tịnh « .
Thiện thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
« Người ngu hôn mê nhớ bất tịnh
Nhiễm trước thân mũ máu hôi dơ
Dục lạc mau hết đều vô thường
Đọa mãi địa ngục súc ngạ quỉ
Dầu có biến hóa như các người
Thân hình xinh đẹp đầy thế gian
Ta trọn không sanh một niệm nhiễm
Thường tưởng như mộng như oán thù ".
Các phu nhơn Xá chi v.v…dầu dùng hết cách quyến rũ mà Bồ Tát ấy không hề tham nhiễm nên cùng trở về thiên cung thưa với Thiên Đế rằng: Chúng tôi thấy Thiện thuận chí nguyện vững chắc sẽ thành Chánh giác không nghi. Tại sao? Vì Bồ Tát ấy đối với chúng tôi không có chút niệm tham ái chỉ có tâm yểm ly. Dầu nghe nói như vậy nhưng Thiên Đế vẫn lo buồn như bị trúng tên độc sợ người ấy sẽ đoạt ngôi vị của mình, ta nên đến thử lại coi, ông ấy thiệt nguyện cầu sự gì? Nghĩ xong Thiên Đế đến trước Bồ Tát ấy bỏ kiêu mạn đảnh lễ nơi chưn rồi nói kệ hỏi rằng:
"Nay Ngài siêng tu hạnh thanh tịnh
Trong các ước nguyện cầu những gì
Là cầu Thích Phạm các Thiên Vương
Hay cầu các ngôi vua ba cõi "
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Đế:
« Tôi xem Thích Phạm các Thiên Vương
Ngôi vua loài người báo ba cõi
Tất cả vô thường không vững chắc
Nào có người trí cầu như vậy ».
Thiên đế lại hỏi « Như lời Ngài nói thì Ngài
cầu sự gì? "..
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Đế:
« Tôi vốn chẳng tham vui thế gian
Chỉ cầu được thân bất sanh diệt
Siêng tu phương tiện cứu quần sanh
Nguyện cầu lên kia đường Bồ Đề «.
Nghe kệ xong lòng Thiên Đế an vui biết chắc Bồ Tát chẳng cầu ngôi Thiên Đế, vui mừng hớn hở nói kệ rằng:
«Ngài nói tế độ các chúng sanh
Tâm ấy rộng lớn không gì bằng
Nguyện phá ma quân chứng cam lộ
Do đó hằng chuyễn diệu pháp luân «
Nói kệ tán thán xong, Thiên Đế cung kính đi nhiễu vòng quanh lạy chưn Bồ Tát rồi bỗng ẩn mất.
Sáng sớm Thiện Thuận Bồ Tát vào Thành Xá Vệ du hóa qua lại được cái linh bằng vàng Diêm phù thưở kiếp sơ. Cái linh vàng ấy giá trị hơn cõi Diêm Phù. Bồ Tát cầm linh vàng ất đứng tại ngã tư đường to tiếng xướng rằng: « Ai là người nghèo cùng nhất nơi thành Xá Vệ tôi sẽ thí cho cái linh
vàng nầy «.
Bấy giờ có vị tối thắng lão cựu trưởng giả vội chạy đến nói trong thành nầy tôi là kẻ nghèo cùng nhứt xin thí cho tôi
cái linh ấy. Bồ Tát nói ông chẳng phải người nghèo cùng, vì
trong thành nầy còn có một thiện nam nghèo nhứt trong các người nghèo sẽ được thí cho cái linh nầy. Trưởng giả hỏi người đó là ai vậy. Bồ Tát đáp chính là vua Ba Tư Nặc. Trưởng giả nói « Vua Ba Tư Nặc giàu sang nhứt kho tàng đầy dẫy dùng không cùng tận sao ông lại bão là nghèo nhứt trong các kẻ nghèo «.
Ở giữa đại chúng Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp rằng:
« Dầu có phục tàng ngoài ngàn ức
Do lòng tham ái không chán đủ
Dường như biển cả nuốt trăm sông
Người ngu như vậy nghèo cùng nhứt
Do đó lại khiến thêm lòng tham
Xoay vần lan tràn nối nhau sanh
Trong đời hiện tại và vị lai
Người vô trí ấy thường nghèo thiếu «.
Nói kệ xong Thiện Thuận Bồ Tát cùng đại chúng đi Đến chỗ vua Ba Tư Nặc. Nhằm lúc nhà vua ấy với năm trăm trưởng giả đại thần tính lường các kho tàng của báu. Bồ Tát liền đến trước nhà vua tâu rằng: « Vừa rồi tôi qua lại du hóa trong thành nầy được cái linh vàng
Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho ngừời nghèo nhứt trong thành đây. Tôi lại nghĩ rằng người nghèo cùng không
ai hơn nhà vua, nên tôi
đem cái linh vàng nầy đến dâng . Nhà vua đã là người nghèo cùng nhứt xin nhận lấy cái linh vàng nầy «.
Tâu xong Thiện Thuận Bồ Tát lại nói kệ rằng:
« Nếu người nhiều tham cầu
chứa của không chán đủ
Người cuồng loạn như vậy
Gọi là nghèo cùng nhất
Vua luôn thâu thuế nhiều
Phạt ngang kẻ vô tội
Tham mến nơi quốc thành
Chẳng thấy nghiệp đời sau
Ở đời được tự tại
Chẳng giúp đỡ chúng sanh
Thấy các người nghèo khổ
Không hề biết thương xót
Say mê các nữ nhơn
Chẳng sợ đọa ác đạo
Tà loạn chưa từng tỉnh
Há chẳng phải nghèo cùng
Nếu người biết tịnh tín
Quy y Phật Pháp Tăng
Nơi thân mạng của cải
Thường nghĩ là chẳng bền
Biết là chẳng bền rồi
Chẳng mê hoặc thân của
Nên được thân mạng tài
Vĩnh viễn thường vững chắc
Nếu siêng tu niệm xứ
Ưa thích bất phóng dật
Người nầy gọi là giàu
Của nhiều thường an vui
Như lúc lửa cháy hừng
Chẳng chê nhàm rừng cây
Nay vua cũng như vậy
Tham ái không chán đủ
Nước chẳng chán mây mù
Biển chẳng chán nhiều nước
Nhà vua cũng như vậy
Có lúc nào chán đủ
Nhựt nguyệt thường luân chuyển
Chẳng chán đi bốn phương
Nhà vua cũng như vậy
Đến chết không thôi dứt
Như lúc lửa cháy lên
Chẳng chán bỏ cỏ cây
Người trí cũng như vậy
Luôn luôn làm điều lành
Như nuớc chẳng chán mây
Như biển chẳng chán nước
Người trí cũng như vậy
Chẳng chán tăng trưởng lành
Ngôi vua dù tự tại
Rốt ráo về vô thường
Tất cả đều bất tịnh
Người trí nên xả ly».
Nghe xong nhà vua hổ thẹn bảo Bồ Tát rằng: «Lành thay, thưa Ngài, dầu Ngài khuyên điều lành mà tôi còn
chưa tin. Theo những điều Ngài vừa nói đó là Ngài tự nói hay có người chứng minh «.
Thiện Thuận Bồ Tát nói: «Nhà vua chẳng nghe ư? Đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác Nhứt thiết trí nay hiện ở ngoài thành Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng vô lượng Thiên Nhơn Bát Bộ sẽ chứng minh Đại Vương là người nghèo cùng «.
Vua Ba Tư Nặc nói: «Tôi xin
cùng Ngài đến chỗ đức Phật để được nghe lời răn dạy và quy y cúng dường «.
Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Đại Vương nên biết cảnh giới Phật chẳng phải hàng phàm ngu lường biết được. Đức Phật đã phá phiền não mạn thương xót chúng sanh thành tựu thánh trí hay biết rõ đời nay và đời sau. Nếu người có ý nguyện thiện căn thù thắng thì dù ở rất xa đức Phật cũng thường gia hộ.Nếu đức Phật biết lòng tôi muốn được Đại Vương tin nơi lời tôi, đức Phật sẽ đến đây tác chứng cho tôi. «.
Bồ Tát liền trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính nói kệ thỉnh Phật:
Như Lai chơn thiệt trí
Thương yêu các quần sanh
Nguyện biết thâm tâm tôi
Đoái thương đến tác chứng «.
Lúc Bồ Tát tuyên kệ thỉnh xong đại địa bỗng rung động nứt ra, năm trăm Thanh Văn mười ngàn Bồ Tát Thiên Long Bát
Bộ đoanh vây đức Như Lai từ đất vọt lên. Thiện Thuận Bồ Tát đến trước đức Phật chấp tai cung kính bạch rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi tôi đi du hóa trong thành Xá Vệ nầy được cái linh vàng
Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho người nghèo cùng nhứt trong thành Xá Vệ. Tôi lại nghĩ rằng vua Ba Tư Nặc là người nghèo cùng nhứt trong thành nầy. Tại sao? Vì cậy ngôi vua nên đối với các chúng sanh chưa từng thương xót, tàn hại bóc lột cướp đoạt xâm tổn ngang của người, bị tham ái che lấp chẳng biết chán đủ. Tôi cho nhà vua
là người nghèo cùng nhứt nên đem linh vàng
dâng lên vua. Nhà vua ấy hỏi tôi ông bảo tôi nghèo có ai chứng minh chăng? Tôi đáp rằng đức Như Lai Đại Sư Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác dứt bỏ phiền não không còn sót thừa bình đẳng thương yêu chúng sanh sẽ chứng minh lời của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn dạy bảo cho được lợi ích vui mừng «.
Vì muốn điều phục nên đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc rằng: «Hoặc có ở nơi pháp Thiện Thuận nghèo cùng còn vua thì giàu sang, hoặc có ở nơi pháp vua nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang. Như thân lên ngôi vua tự tại vàng bạc châu báu kho tàng
đầy dẫy, bấy giờ vua giàu sang mà Thiện Thuận thì nghèo cùng. Như siêng tu phạm hạnh thích tịnh giới xuất gia đa văn lìa
phóng dật đem ngũ giới bát trai cứu tế không mỏi thì vua thiệt nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang.
Đại Vương nên biết rằng tất cả tài vật của tất cả chúng sanh trong nước Kiều Tát La đem so với ngũ giới bát trai của Thiện Thuận thọ trì kiên cố thanh tịnh không bằng một phần trăm ngàn.
Vua Ba Tư Nặc nghe lời dạy chơn thiệt của Đức Như Lai liền bỏ kiêu mạng chắp tay ân cần chiêm ngưỡng Thiện Thuận mà kệ rằng:
Lành thay xô dẹp ngã mạn tôi
Sẽ được thân Phập rất tối thắng
Tôi đem ngôi vua xả cho ngài
Nguyện hằng làm chúng Bồ Đề ngài
Thiệt tôi nghèo cùng Ngài thì giàu
Nay biết lời nầy chẳng phải dối
Ngôi vua luống làm nhơn gây khổ
Trái với pháp lành sanh ác đạo «.
Nói kệ xong vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát
tâm Vô thượng đại Bồ đề nguyện cho chúng sanh an
lạc giải thoát sanh tử trói buộc. Nay tôi nguyện đem kho tàng vàng bạc tài vật chia làm ba phần: Một phần cúng dướng đức Như Lai và chúng Tỳ Kheo, một phần thí cho người nghèo cùng khổ não không nơi nương tựa trong thành Xá Vệ, một phần tài vật lưu dụng việc nước. Tất cả vườn ao hoa quả của tôi đều nguyện dâng lên Đức Như Lai và chùng Tỳ Kheo. Mong đức Như Lai đoái thương nạp thọ «.
Bấy giờ năm trăm trưởng giả nước Kiều Tát La thấy sự việc như vậy đều phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
Thiện Thuận Bồ Tát bạch Phật: «Ngửa mong đức Thế Tôn vì hàng đại chúng nói pháp yếu, khiến các chúng sanh những người được gặp Phật không luống uổng «.
Đức Phật phán dạy: «Các thiện nam tử! Có ba tư lương vô lượng công đức dầu chư Như Lai có tuyên nói
cũng chẳng hết được, huống là hàng Thanh
Văn Duyên Giác. Những gì là ba tư lương? Một là hộ trì chánh pháp, hai là phát tâm Bồ Đề, ba là khuyên các
chúng sanh khởi nguyện vô thượng.
Lại còn có ba mươi hai pháp, nếu các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể siêng tu tập thì là chẳng luống uổng thấy đức Như Lai. Những gì là ba mươi hai pháp? Một là ở nơi chư Phật sanh lòng tin bất hoại, hai là hộ trì chánh pháp cho còn lâu, ba là đối với Tăng tôn trọng thì chẳng khinh mạn,bốn là đối với người ứng cúng thì cung kính thân cận, năm là nơi thương nơi ghét tâm thường bình đẳng, sáu là hằng đối với chánh pháp thích nghe cung kính, bảy là an trụ vắng vẻ rời lìa ồn ào, tám là ở nơi Phật thừa diễn nói không mỏi, chín là lúc thuyết pháp chẳng vì danh lợi, mười là chí cầu chơn thiệt đúng lý siêng tu, mười một là xả thí, mười hai là trì giới, mười ba là nhẫn nhục, mười bốn là tinh tiến, mười lăm là chánh định, mười sáu là chánh huệ, mười bảy là đối với chúng sanh tùy hỉ hộ niệm, mười tám là thành thục chúng sanh chẳng quên mất chánh pháp, mười chín là ở nơi tự thân khéo tự điều phục, hai mươi là dùng pháp yếu lành điều phục mọi người hai mươi mốt là chẳng nhiễm phiền não, hai mươi hai là thường thích xuất gia, hai mươi ba là ở a lan nhã, hai mươi bốn là biết đủ đối với bốn thánh chủng, hai mươi lăm là siêng tu đầu đà, hai mươi sáu là bỏ pháp bất thiện, hai mươi bảy là hoằng thệ vững chắc, hai mươi tám là vắng vẻ không giải đãi, hai mươi chín là trồng các gốc lành, ba mươi là thường chẳng phóng dật, ba mươi mốt là xa rời kiến chấp Nhị thừa, ba mươi hai là tán thán đại thừa «.
Nghe pháp nầy năm trăm Tỳ Kheo
xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh và một vạn hai ngàn chúng
sanh đồng phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Đem pháp giáo hóa khiến các chúng sanh được thiện lợi xong, đức Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo và chúng Bồ Tát bỗng ẩn mất. Vua Ba Tư Nặc thấy sự ấy rồi vui mừng hớn hở liền đem hai cái y giá trị trăm ngàn lượng vàng thí cho Thiện Thuận Bồ Tát mà thưa rằng: «Lành thay thưa Ngài xin thương tôi mà nạp thọ «.Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: «Tâu Đại Vương! Tôi chẳng nên nhận hai cái y nầy. Tại sao? Vì tôi đã có
y bá nạp hằng máng trên nhánh cây như là đựng trong rương tủ, tất cả mọi người không có ý tưởng trộm lấy. Tôi đã tự không lòng tham lẫn cũng làm cho người chẳng sanh lòng ái trước, có ai bố thí thì gọi là thanh tịnh bố thí «.
Vua Ba Tư Nặc lại nói nếu Ngài chẳng nhận thì xin vì tôi mà
đạp lên hai y nầy, khiến tôi mãi mãi an lạc lợi ích.
Bồ Tát liền vì vua nên hai chưn đạp lên hai cái y ấy.
Vua Ba Tư Nặc lại bão Bồ Tát rằng:»Nay hai cái y ấy đã được chính thân Ngài vì tôi mà nhận rồi, tôi nên dùng nó làm việc gì?».
Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Đại Vương đem hai cái y nầy thí cho kẻ nghèo cùng không
chỗ nương tựa trong thành «.
Vua Ba Tư Nặc y lời Bồ Tát hội hộp chúng người nghèo lại rồi đem hai cái y ấy thí cho họ. Các người nghèo chạm đến hai cái y ấy, người cuồng được tỉnh, người điếc được nghe, người mù được thấy, người thiếu căn được đủ căn, đó là do sức oai thần của Bồ Tát vậy. Mọi người đồng lên tiếng rằng: «Chúng tôi lấy gì báo ơn Bồ Tát! «.Trên hư không có tiếng bảo rằng: Chúng nhơn nên biết đối với Thiện Thuận Bồ Tát chẳng thể dùng hoa hương ăn uống báo ơn được, chỉ phải mau phát tâm Bồ đề thôi.
Năm trăm người nghèo nghe tiếng nói trên không,
họ liền nói kệ rằng:
Nay đây chúng tôi
Phát tâm Bồ Đề
Sẽ thành chánh giác
Tuyên thuyết thắng pháp
Ở nơi chúng sanh
Ban cho an lạc
Tôi thích Bồ Đề
Vì được Phật Pháp «.
Vua Ba Tư Nặc nói với Bồ Tát rằng: «Lành thay thưa Ngài, nếu lúc nào Ngài muốn đến gặp đức Phật xin báo cho tôi biết tôi sẽ xin tùy tùng «.
Thiện Thuận Bồ Tát nói: « Đại Vương nên biết chư Phật khó gặp chánh pháp khó nghe, há có riêng mình nhà vua đi đến chỗ đức Phật! Đại Vương nên cùng chúng sanh làm thiện hữu. Đại Vương nên truyền lịnh cho tất cả người thành Xá Vệ đều tùy tùng, người nào trái lệnh thì dùng pháp luật trị phạt. Tại sao? Vì chư Bồ Tát còn có quyến thuộc đoanh vây huống là đại vương «.
Vua Ba Tư Nặc hỏi: «Ai là quyến thuộc của Bồ Tát? «.
Thiện Thuận Bồ Tát đáp: «khuyên phát tâm Bồ Đề là quyến thuộc của Bồ Tát vì là cho giác ngộ vậy khuyên thấy đức Như Lai là quyến thuộc của Bồ Tát vì chẳng hư vọng vậy. Khuyên nghe chánh pháp là quyến thuộc cuả Bồ Tát vì được đa văn vậy. Khuyên thấy Thánh chúng là
quyến thuộc của Bồ Tát vì được thiện hữu vậy. Tứ nhiếp là quyến thuộc cuả Bồ Tát vì nhiếp chúng sanh vậy. Sáu Ba La mật là quyến thuộc của Bồ Tát vì tăng trưởng Bồ đề vậy. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là quyến thuộc của Bồ Tát vì hướng đạo tràng vậy. Bồ Tát có ngần ấy quyến thuộc trang nghiêm thị vệ hay dẹp quân ma đến sư tử hống lên tọa tối thắng vậy «.
Vua Ba Tư Nặc cùng đại chúng vui mừng hớn hở, chín ngàn chúng
sanh lìa cấu phiền não được thanh tịnh nhãn.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Thiện Thuận Bồ Tát, vua Ba Tư Nặc cùng hàng trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật nói hoan hỉ phụng hành.
PHÁP HỘI DŨNG MÃNH THỌ TRƯỞNG GIẢ
THỨ HAI MƯƠI TÁM
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, được thượng điều phục như đại long, chỗ làm đã xong bỏ những gánh nặng đã được lợi mình hết kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát tâm được tự tại, tối thượng ứng cúng mọi người được quen biết, chỉ có Ngài A Nan còn ở tại bực hữu học. Tên của các Ngài ấy là:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma
Ha Ca Thấp Ba, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên,
Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Câu Si La,
Ma Ha Phạm Phả, La Hầu La, Nan Đà v.v…làm bực thượng thủ.
Lại có năm trăm đại Bồ Tát câu hội đều được tam muội và đà la ni.
Bấy giờ trong thành Xá Vệ có trưởng giả tên Dũng Mãnh Thọ giàu có nhiều của báu kho đụn đầy tràn, những vàng bạc lưu ly xa cừ mã não san hô hổ phách ma ni chơn châu voi ngựa bò dê kẻ hầu người hạ các loại buôn bán tất cả đều nhiều. Trưởng giả Dũng mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả yến hội nghị rằng: «Nầy các Ngài! Phật xuất thế khó, được thân người khó, gặp Phật cũng khó, ở trong Phật pháp do lòng tinh xuất gia cũng khó, thành tánh
Tỳ kheo lại càng khó, đúng phép tu hành cũng khó, biết ơn báo ơn mang chút ơn chẳng quên người nầy khó có, ở nơi Phật pháp có thể sanh lòng tin ưa người nầy khó được, tin ưa thành tựu việc nầy lại khó, trang nghiêm Phật pháp sự nầy cũng khó, giải thoát sanh tử càng khó gấp bội. Chúng ta vì Thanh Văn thừa Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu tối thượng Phật thừa».
Mọi người đều xướng lên rằng: «Chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn ».
Chúng trưởng giả quyết nghị xong cùng xuất thành đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một bên.
Đức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi: «Chư trưởng giả có duyên gì nay đến chỗ Phật? ».
Trưởng giả Dũng Mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay cung kính bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đồng tập hội nghị rằng: Phật xuất thế khó, thân người khó được nhẫn đến giải thoát sanh tử càng khó gấp bội, nay chúng ta sẽ ở nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu vô thượng Phật thừa! Chúng tôi đồng xướng lên rằng: chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết bàn. Do quyết nghị ấy mà chúng tôi đến chỗ đức Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Bạch đức ThếTôn! Đại Bồ Tát chí cầu vô thượng Bồ đề, phải học thế nào? Trụ thế nào? Tu thế nào? .
Đức Phật nói: «Lành thay lành
thay! Các ông phát xu Vô thượng Bồ đề đến chỗ Phật phải lắng nghe kỹ khéo nghĩ nhớ lấy. Như chư đại Bồ Tát nên học nên trụ nên tu sẽ vì các ông mà nói ».
Chúng trưởng giả vâng lời dạy lắng nghe.
Đức Phật phán dạy: «Nầy chư trưởng giả! Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bố đề có chí nguyện thù thắng phải đối với tất cả chúng sanh khởi tâm đại bi, phải rộng tu hành phải siêng huân tập. Vì thế nên Bồ Tát ở nơi thân thể sanh mạng tài sản vợ con kho tàng nhà cửa uống ăn y phục xe cộ mền nệm hoa hương tất cả đồ dùng phải là không ái trước. Tại sao?Vì chúng sanh chấp trước nơi thân mà tạo nghiệp ác, do nghiệp ác mà đọa trong địa ngục. Nếu đối với chúng sanh khởi tâm đại bi thì chẳng chấp trước thân mạng tài và sẽ sanh thiện đạo. Đại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bồ đề có chí nguyện thù thắng đối với chúng sanh khởi từ bi rồi phải tu đại xả mà chẳng cầu báo, người chẳng cầu báo phải an trụ giới luật, ba giới thanh tịnh rồi phải đủ nhẫn nhục hay nhẫn các điều ác hại rồi nên phát khởi tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, nên tu nhứt tâm an trụ thiền định, nên tu trí huệ thiện xảo phương tiện, phải ở nơi ngã nhơn chúng sanh thọ mạng đều xả ly. Vì chúng sanh nên hành bố thí thọ trì cấm giới, vì chúng sanh nên tu nhẫn nhục phát khởi tinh tiến, vì chúng sanh nên nhập thiền định tu tập trí huệ thiện xảo phương tiện ».
Chúng trưởng giả bạch Phật: «Bạch đức Thế Tôn! Ở nơi thân mạng và vợ con tất cả tài vật lòng chúng tôi thường mến tiếc. Đại Bồ Tát quan sát thế nào ở nơi thân mạng tài có thể không tham lẫn? ».
Đức Phật phán dạy: «Nầy thiện nam tử! Đại Bồ Tát có chí nguyện thù thắng nơi Vô thượng Bồ Đề phải quan sát thân nầy có vô lượng lỗi họa, các vi trần tích tập sanh trụ dị diệt niệm niệm dời đổi, chín cửa chảy dơ như hang rắn độc, trong ấy không chủ như xóm hoang vắng, rốt ráo phá hoại như ngói bình chưa nung, nước dơ đầy tràn như chậu phẩn dãi, chứa những bất tịnh như hầm tiêu, chẳng động chạm đến được như nhọt dữ, tham ngon bị họa như món ăn lộn chất độc, chẳng biết ơn đức như Vị Sanh Oán, khi dối mọi người như ác tri thức, bị si ái hại như làm bạn khỉ vượn, dứt mạng trí huệ như sát nhơn, đoạt các pháp lành như trộm cướp, thường tìm dịp hại như oán thù, không có từ tâm như người hàng thịt, khó hầu gần như kẽ bạo ác, như tên cắm vào thân động tới thì đau như nhà hư mục phải luôn sửa sang, như xe cũ hư khó dùng, như hộp rắn độc khó gần, như quán trọ chỗ họp của kẻ mệt mõi, như nhà cô độc không bị nhiếp thuộc, như lính ngục chuyên hai,như vua lo nước, như thành trì biên giới phải phong sợ, như ác quốc nhiều tai họa, như chén bể khó cầm, như thờ lửa không chán, như dương diệm hư dối, như huyễn hóa mê hoặc người như lột dây chuối không lõi cứng, như khối bọt nước chẳng nắm cầm được, như bong bóng nước mau sanh mau diệt, như cây bờ sông lâm nguy lai động, như giòng sông chảy xiết trọn đến biển chết.
Bồ Tát lại quan sát thân nầy nhơn duyên trước sau của nó, ban đầu do dục ái hòa hiệp mà sanh, vì nuôi lớn lên nuốt đồ ăn vào đến sanh tạng đàm ấm tiêu hóa, kế vào đến huỳnh tạng lúc sắp thục thì biến làm chất chua, kế vào đến phong tạng do phong lực chia ra nước và cặn bã lưu hành riêng thành đại tiểu tiện. Nước biến ra máu máu biến thành thịt, trong thịt sanh mỡ, nơi mỡ sanh xương sanh tủy. Nhơn duyên của thân thể trước sau đều bất tịnh như vậy.
Khi quan sát như trên Bồ Tát lại nên suy nghĩ: Thân nầy do ba trăm sáu mươi khối xương ráp thành như nhà mục hư, các lóng đốt chi trì dùng bốn lưới mạch giăng bủa giáp vòng, năm trăm phần thịt như bùn tô trét, sáu mạch cột nhau, năm trăm gân ràng rịt, bảy trăm mạch nhỏ dùng làm lạc bện, mười sáu mạch to câu mang liền nhau, có hai sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút nơi trong, mười sáu trường vị vây quanh sanh tạng thục tạng, hai mươi lăm mạch hơi như kẻ song, ,một trăm lẻ bảy cửa huyệt như bình bể nát, tám vạn lỗ lông như cỏ loạn trùm, năm căn bảy khiếu đầy tràng chất dơ, bảy lớp da gói ghém, lục vị nuôi lớn như thờ lửa nuốt thâu chẳng chán.
Thân thể như vậy tất cả hôi dơ tánh chất thúi rã. Có ai nên ái trọng nó mà sanh kiêu mạn.Chỉ nên quan sát nó như giữ cái bình, như gìn chiếc xe, nuôi dưỡng nó để được đến Bồ Đề vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
«Thân nầy là chậu dơ
Dường như bình đựng phẩn
Phàm phu không trí huệ
Cậy sắc sanh kiêu mạn
Trong mũi hằng chảy mũi
Hơi miệng luôn hôi hám
Mắt ghèn thân đầy trùng
Ai nên tưởng lạc sạch
Như người cầm hòn than
Mài dồi muốn trắng bóng
Dầu mài đến mòn hết
Thể sắt than không đổi
Dầu muốn thân mình sạch
Rửa hết cả nước sông
Thân trọn không sạnh được
Vì thể chất vốn dơ.
Nầy các thiện nam tử! Nếu Bồ Tát phát chí nguyện thù thắng hướng đến vô thượng Bồ đề thì nên quan sát thân thể nầy bốn mươi bốn thứ:
Một là thân nầy đáng chán vì tánh không
hòa hiệp vậy. Hai là thân nầy hôi dơ vì máu mủ thường chảy vậy. Ba là thân nầy chẳng bền vì cứu cánh bại hoại vậy. Bốn là thân nầy yếu đuối vì chi tiết trì nhau vậy. Năm là thân nầy chẳng sạch vì chất dơ dáy đầy tràn vậy. Sáu là thân nầy như ảo thuật vì phỉnh gạt phàm phu vậy. Bảy là thân nầy như miệng nhọt vì cửu khiếu thường chảy vậy. Tám là thân nầy lửa cháy vì lửa dục thạnh vậy. Chín là thân nầy là lửa vì lửa giận mạnh vậy. Mười là cháy khắp vì lửa si cháy khắp vậy. Mười một là thân nầy tối tăm vì tham sân si vậy. Mười hai là thân nầy sa lưới vì bị lưới ái trùm vậy.Mười ba là thân nầy là khối ung nhọt vì đầy ung nhọt vậy. Mười bốn là thân nầy chẳng an vì bốn trăm lẻ bốn bệnh vậy. Mười lăm là chỗ ở của côn trùng vậy. Mười sáu là thân nầy vô thường vì cứu cánh phải chết vậy. Mười bảy là thân nầy ngoan si vì không rõ các pháp vậy. Mười tám là như đồ sành vì sanh trụ hoại vậy. Mười chín là bức bách vì nhiều lo sầu vậy. Hai mươi là không được cứu hộ vì chắc hoại diệt vậy. Hai mươi mốt là hiểm ác vì siễm cuống khó biết vậy. Hai mươi hai là như hố không đáy vì tham muốn không chán vậy. Hai mươi ba là như lửa nhận củi vì tham sắc chẳng nhàm vậy. Hai mươi bốn là không nhàm đủ vì tham thọ ngũ dục vậy. Hai mươi lăm là như bị đập đánh vì bị tổn hại vậy. Hai mươi sáu là bất định vì thạnh suy tăng giảm vậy. Hai mươi bảy là thân chuyển theo tâm vì chẳng chánh tư duy vậy. Hai mươi tám là chẳng biết ơn vì chắc bỏ gò mả vậy. Hai mươi chín là bị kẻ khác ăn vì chồn sói kiến mối ăn vậy. Ba mươi là như bộ máy vì gân xương chi trì vậy.Ba mươi mốt là chẳng khả quan vì máu mủ phẩn dơ vậy. Ba mươi hai là chẳng tự do vì phải nương uống ăn vậy Ba mươi ba là hư vọng gói cột vì trọn bại hoại vậy. Ba mươi bốn là ác hữu vì nhiều nghịch hại vậy. Ba mươi lăm là kẻ giết hại vì nó tự tàn hại vậy. Ba mươi sáu là đồ khổ họa vì nhiều khổ bức bách vậy. Ba mươi bảy là khối khổ vì năm uẩn sanh vậy. Ba mươi tám là không có chủ vì các duyên sanh vậy. Ba mươi chính là không có mạng vì rời lìa tướng nam nữ vậy.Bốn mươi là rỗng không vì phải quán uẩn giới xứ vậy. Bốn mươi mốt là hư vọng vì như chiêm bao vậy. Bốn mươi hai là chẳng thiệt vì như huyễn hóa vậy. Bốn mươi ba là huyễn hoặc vì như dương diệm vậy. Bốn mươi bốn là thân nầy khi dối vì như bóng tượng trong gương vậy.
Lúc quan sát thân thể như vậy, đối với thân mạng vợ con tài vật Bồ Tát đều lìa chán không còn ái luyến mau thành tựu sáu Ba la mật sớm được vô thượng Bồ đề ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
« Được thân người tốt rất là khó
Chớ vì thân nầy tạo nghiệp ác
Cứu cánh gò hoanh nuôi chồn sói
Chớ vì ác kíến sanh tham ái
Phàm ngu mê hoặc vì cuồng si
Do ái thân nầy tạo ác nghiệp
Thân nầy cũng lại chẳng biết ơn
Ngày đêm chỉ thêm duyên khổ họa
Cơ quan động chuyển thường mỏi nhọc
Mũi qiải tiên lợi hằng tràn đầy
Đói khát nóng rét luôn bức ngặt
Nào có người trí lại ái thân
Thân nầy không nhàm như hố sâu
Luống hay nuôi lớn những oán hại
Do nơi thân nầy thường làm ác
Phải thọ khổ báo vô lượng kiếp
Nên nhớ gìa chết siêng tu phước
Chánh tín sanh vào trong Phật pháp
Uống ăn y phục các hương thoa
Dưỡng nuôi thân nầy đã từ lâu
Ai hay nắm giữ cho chẳng hoại
Phải biết vô ích chớ đam mê
Đức Phật Như Lai rất khó gặp
Trong vô lượng kiếp một lần hiện
Đối với Phật pháp nên tin sâu
Ác đạo đáng sợ chớ theo nó
Dầu cho sống lâu ngàn kiếp năm
Còn sợ vô thường sanh lòng chán
Huống là giây lát chẳng bảo đảm
Phải bị trầm luân trong ác đạo
Hoặc có ác hữu đến khuyên bảo
Thân người khó được nay đã được
Cầu nhiều của báu hưởng dục lạc
Kịp thuở khỏe mạnh vui chơi thỏa
Có ai cầu của mà sung sướng
Dầu được giữ gìn vẫn khổ nhọc
Người ngu như vậy luống vọng ngôn
Thế nên người trí phải quan sát
Tài vật như ảo cũng như mộng
Chúng sanh ngu si bị phỉnh lầm
Trong sát na được sát na mất
Đâu có người trí lại mến luyến
Như nhà ảo thuật hóa ảo sự
Thành càn Thát Bà nhiều hình sắc
Của báu cũng vậy gạt phàm ngu
Ở trong hư vọng nào có thiệt
Chiu nhiều khổ não cầu tài lợi
Nước lửa vua giặc thường xâm đoạt
Do đây hay làm nhơn duyên khổ
Đâu có người trí sanh mến luyến
Có những kẻ thường hoài tham ái
chạy theo tài lợi không biết chán
Đối với cha mẹ không từ tâm
Cho đến thân thuộc sanh oán hại
.Lời nói thuận hành lòng sâu độc
Gây tạo nhiều nghiệp duyên khi dối
Hoặc học tà luận tà chú thuật
Dối khoe tài nghệ như dâm nữ
Hoặc lại siểm cuống hiện nhu hòa
Hoặc lại cang cường hiện oai mãnh
Vô lượng ác nghiệp nhiều như vậy
Không gì chẳng do tài lợi sanh
San hô vàng ngọc châu ma ni
Vật ấy bổn lai như bọt bóng
Chẳng biết được nó như ảo hóa
Vì vật hư giả đọa tham đồ
Thời kỳ Di Lạc Phật xuất thế
Bổ xứ thành Phật nối Thích Ca
Cõi nước hoàng kim lót mặt đất
Thất bửu hiện ra từ đâu đến
Kiếp tận thế gian bị thiêu hoại
Tu Di sông biển khô cháy hết
Cứu cánh hư mất hoàn hư không
Những của báo nầy đi về đâu
Gây tạo nghiệp báo ác cầu tài vật
Nuôi nấng vợ con cho rằng vui
Đến lúc lăm chung khổ bức thân
Hoặc vợ hoặc con không cứu được
Ở trong tam đồ kinh sợ kia
Chẳng thấy vợ con cùng thân thuộc
Ngựa xe của báu thuộc người khác
Thọ khổ có ai chia sớt được
Cha mẹ anh em cùng vợ con
Bằng hữu bè bạn và của cải
Chết đi không một cùng gần kề
Chỉ có ác nghiệp thường theo sát
Người trí trọn chẳng vì thân ái
Mà tạo nghiệp mãn mời ra khỏi
Thân thuộc không ai thay thế được
Diêm La sứ giả chỉ khảo nghiệp
Chẳng hỏi thân quyến và bằng hữu
Người được thân người chẳng bỏ ác
Khổ sở nay phải cam nhận chiu
Diêm La thường bảo người tội ấy
Ta không gia được một chút tội
Người tự tạo tội nay tự đến
Nghiệp báo tự chiệu không ai thế
Cha mẹ vợ con không cứu được
Chỉ nên siêng tu nhơn xuất thế
Thế nê phải bỏ nghiệp xích xiềng
Khéo biết xa lìa cầu an lạc
Với vợ con nhà nên biết sợ
Hằng nương Phật giáo chánh tu hành
Tại gia phùng thạnh là gốc khổ
Dường như lò lữa rất đáng sợ
Thân tâm nóng bức bị đốt cháy
Đâu có người trí sanh tham ái
Ưa thích tu hành các Phật pháp
Không hề doanh cầu là khoái lạc
Phàm phu ngu tối chẳng biết hay
Nhà là gốc khổ lại tham ái
Nơi khối da xương gân thịt kia
Mê lầm vọng tưởng là chồng vợ
Chẳng biết thân thể như ảo hóa
Phàm phu ngu tối sanh tham ái
Người trí biết thân là lỗi họa
Dục lạc trong đời đều vất bỏ
Cầu pháp phải như cầu lương dược
Phải mau bỏ lìa dây tại gia ».
Nghe pháp xong năm trăm trưởng giả được vô sanh nhẫn vui mừng hớn hở nói kệ rằng:
«Mừng thay được lợi lớn
Tối thượng trong lợi ích
Chúng tôi đối Phật pháp
Đều sanh lòng vui thích
Phát xu đại Bồ đề
Lợi lạc cho chúng sanh
Pháp lành dùng nuôi mạng
Giác huệ tự an tâm
Thương xót các chúng sanh
Nguyện sẽ thành Phật đạo
Chúng tôi đều đã phát
Tâm Bồ đề vô thượng
Thân vàng tướng trang nghiêm
Chiếu sáng khắp thế giới
Người thích tâm Bồ đề
Sẽ được tâm Như Lai
Đại tâm Bồ đề tâm
Tối thượng trong các tâm
Giải thoát tất cả phược
Đầy đủ các công đức
Các chúng sanh ít phước
Nơi đây không ưa thích
Chẳng nhìn lỗi sanh tử
Chẳng thích tâm Bồ đề
Tâm Bồ đề công đức
Nếu có sắc phương phần
Rộng khắp cõi hư không
Không gì dung chứa được
Trong sát độ chư Phật
Nhiều như các sông Hằng
Giả sử trải trân bửu
Dùng cúng dường chư Phật
Có người hay chấp tay
Hồi hướng tâm Bồ đề
Phước đây hơn phước trên
Chẳng thể suy tính được
Nào riêng phước cúng dường
Phước khác cũng như vậy
Tâm Bồ đề như vậy
Đấng Tối Thắng tuyên nói
Tâm Bồ đề tối thắng
Như thuốc a già đà
Trừ được tất cả bịnh
Cho tất cả an vui
Tôi thấy các chúng sanh
Bị ba độc nhiệt não
Trí giả vô lượng kiếp
Cần khổ thường tu tập
Như Y Vương dũng mãnh
Đầy đủ hạnh Bồ đề
Cứu vớt chúng sanh khổ
Lìa hẳn các ưu não
Tất cả chỗ thọ sanh
Trọn chẳng bỏ thân nầy
Siêng tu các hạnh nguyện
Dũng mãnh cầu Phật pháp
Chúng tôi được lợi lành
Chúng tôi lòng vui thích
Nay gặp Phật Thích Ca
Sẽ được thân Như Lai ».
Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ diện môn của đức Phật phóng ra những thứ tia sáng sanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu đến vô lượng vô biên thế giới cho đến trời Phạm Thế, oai quang cùa nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất, trở về nhiễu ba vòng rồi nhập vào đảnh Phật.
Tôn giả An Nan đứng vậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: «Bạch thế Tôn! Có nhân duyên gì mà đức Phật mỉm cười ».
Tôn giả liền nói kệ rằng:
«Chư Phật là đạo sư tối thượng
Chẳng không duyên cớ hiện mỉm cười
Đấng thương xót lợi ích thế gian
Xin nói nhơn duyên của sự ấy
Chúng sanh nghèo thiếu không pháp tài
Nên ban nói thừa lớn tối thượng
Hay làm mắt sáng cho thế gian
Xin nói nhơn duyên Phật cười mỉm».
Đức Phật phán dạy: «Nầy A Nan! Ông có thấy năm trăm trưởng giả nay ở trước Phật phát tâm vô thượng Bồ đề chăng?
-Vâng tôi đã thấy, bạch đức Thế Tôn!
-Nầy A Nan! Năm trăm trưởng giả nầy thuở xưa đã ở nơi trăm ngàn ức na do tha chư Phật thừa sự cúng dường, trồng các thiện căn, nay nghe ta nói pháp đều được vô sanh nhẫn. Các trưởng giả nầy về sau chẳng còn sanh ác đạo thường thọ khoái lạc trong Nhơn Thiên. Đời sau ở chỗ Phật Di Lạc, các trưởng giả nầy thân cận cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, với tất cả chư Phật trong Hiền kiếp cũng như vậy, ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp thọ trì đọc tụng vì người mà giảng nói. Quá hai mươi lăm kiếp, các trưởng giả nầy sẽ ở trong các Phật độ thành Vô thượng Bồ đề đều thành một danh hiệu Thắng Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác».
Tôn Giả An Nan bạch đức Phật: «Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Nên đặt tên pháp môn quảng đại nầy là gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào? ».
Đức Phật phán dạy: «Nầy A Nan! Pháp môn nầy tên là Du Già Sư Địa, cũng gọi là Dũng Mãnh Thọ Trưởng Giả Sở Vấn, ông nên thọ trì».
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo năm
trăm trưởng giả các chúng Bồ Tát, Trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment