Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 136
PHÁP HỘI BỬU TRÀNG
THỨ NĂM MƯƠI TÁM
PHẨM ĐIỀU PHỤC MA
Quang Vị chấp tay cung kính, cầm hoa vi diệu đầy một bụm nói kệ tán thán đức Phật :
Như Lai thành tựu vô lượng đức
Dường như đại hải nước tràn đầy
Công đức quang minh rất vi diệu
Đều chiếu khắp Đại Thiên thế giới
Dũng mãnh tinh tiến đại trí huệ
Cao hơn tất cả các chúng sanh
Có đủ tâm đại từ đại bi
Vì vậy tôi lạy Vô Thượng Tôn
Như Lai dứt hẳn các phiền não
Nên tôi cúi lạy Đại Tiên Sư
Thanh tịnh kim sắc hoặc quang minh
Nay tôi lễ kính mặt nhựt Phật
Hay khô chúng sanh các phiền não
Hay nói chơn thiệt Bồ đề hạnh
Hay hoại tất cả núi phiền não
Chuyển chánh pháp luân tối vô thượng
Nay tôi tu tập hạnh Bồ đề
Để được vô thượng đại trí huệ
Như Lai đầy đủ tất cả hướng
Nguyện ký lúc tôi được Bồ đề
Tôi sẽ dứt phiền não thế nào
Độ các chúng sanh khổ thế nào
Diễn nói chánh chơn đạo thế nào
Bình đẳng dường như mưới phương Phật
Chúng sanh tam thế tạo nghiệp ác
Tôi sẽ làm sao khiến họ dứt
Thân khẩu ý tôi có nghiệp lành
Nguyện nhơn duyên nầy dứt kiết họ
Dứt hẳn tất cả bịnh phiền não
Thân thọ diệu lạc như Phật trước
Khiến thân diệu sắc các căn đủ
Xa lìa các ác tu pháp lành
Dứt trừ chúng sanh các tà kiến
Tu tập đầy đủ chánh tri kiến
Được biết túc mạng thích nghiệp lành
Vượt biển sanh tử đến bờ kia
Sáu Ba la mật được đầy đủ
Biết Phật thâm pháp thường tại thế
Thích tuôn mưa pháp lớn vô thượng
Khiến các chúng sanh lìa nghèo đói
Thân khẩu ý tôi nếu có ác
Nay ở trước Phật đều sám hối
Nay tôi có bao nhiêu phước đức
Ban cho chúng sanh sớm thành Phật
Tôi mời tất cả các chúng sanh
Khuyên họ vun trồng giống Bồ đề
Lúc tôi vì chúng sanh thọ khổ
Nghiệp chẳng sanh hối và thối chuyển
Thanh tịnh thế giới và chúng sanh
Được vô ngại trí tịnh pháp giới
Nếu tôi chơn thiệt được Phật đạo
Nguyện rãi hoa nầy thánh lọng hoa
Quang Vị liền rải hoa, lúc ấy Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, có vô lượng chúng sanh lòng
kính vui. Những chúng sanh thờ voi thấy Phật là hình voi ấy nói rằng : Tại sao voi nầy có đại phước đức khiến tiên nhơn ấy kính lễ cúng dường. Các chúng sanh
tuỳ theo chỗ thờ mà tự thấy Phật hình ấy đều nói như vậy. Cho đến chúng sanh kính
thờ Phật thấy tiên nhơn ấy kính lễ cúng dường Phật, họ thấy như vậy rồi sanh lòng tin lễ lạy cúng dường.
Bấy giờ Thế Tôn xuất Thủ Lăng Nghiêm định. Xuất định rồi, tất cả chúng sanh đều thấy thân Phật, họ đều sanh lòng cung kính vui mừng, mỗi người theo sức mình đều cung kính cúng dường.
Đức Thế Tôn bảo Quang Vị rằng : “Nầy thiện nam tử ! Tất cả chư Thiên thấy ông quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề họ đều vui mừng hớn hở nên khiến đại địa chấn động sáu cách.
Nầy thiện nam tử ! Ông sẽ thành tựu vô lượng trí huệ rồi sau mới được Phật đạo vô thượng, sẽ ở nơi vô lượng thế giới thắp đèn pháp lớn.
Nầy Quang Vị ! Đời vị lai quá Ba Tuần a tăng kỳ kiếp phương Bắc thế giới nầy có thế giới tên là Hương Hoa, cõi nước ấy công đức trang nghiêm như Cực Lạc thế giới của Phật A Di Đà. Ông sẽ ở trong thế giới Hương Hoa ấy thành Phật hiệu Quang Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn thường tuyên nói pháp Đại thừa, trọn chẳng nói pháp Thanh
Văn, Duyên Giác.
Đại chúng tai nghe mắt thấy Quang Vị tiên nhơn được Thế Tôn thọ ký thành Phật thảy đều vui mừng cung kính cúng dường. Năm trăm tiên
nhơn đệ tử và vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề kiên cố không thối chuyển.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn biết rõ tâm của chúng ma, Phật liền nhập tam muội, do sức tam muội khiến thành Vương Xá có mười hai thành môn, trong mỗi thành môn có một Như Lai.
Chúng ma thấy mười hai Như Lai, họ tự hiện thân hoặc hình tiên ngũ thông cho đến hoặc tự hiện thân ra hình Phạm Thiên đồng dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật.
Lúc đức Thế Tôn vào thành rồi lấy chưn ấn đất làm cho toàn cõi
Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, trong ấy tất cả Nhơn, Thiên, A Tu La,
Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, tất cả chúng sanh thảy đều được thấy. Chúng sanh thập phương thế giới đều đến tập họp tại thành Vương Xá mang theo hương hoa dâng cúng dường Phật. Do Phật thần lực khiến trong khối hương hoa nói kệ rằng :
Ai muốn dứt hẳn ba ác đạo
Phải nên phát khởi tâm Bồ đề
Ở trong sanh tử tự giác ngộ
Thì hay độ thoát các chúng sanh
Ai muốn lìa các việc nhọc ác
Phải nên tu tập nơi chánh định
Nếu ai được gặp chư Như Lai
Người ấy liền được thọ ký đạo
Như Lai Đại Sĩ lợi chúng sanh
Nay đến vào thành Vương Xá nầy
Muốn dẹp tất cả các chúng ma
Muốn chuyển vô thượng chánh pháp luân
Phật vì ngũ trược các chúng sanh
Tuyên nói tam thừa Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai nay muốn đại thọ ký
Muốn nghe thiệt nghĩa nên qua đó.
Âm thanh nói kệ ấy được nghe khắp mọi nơi.
Ca Lan Đà Trúc Lâm tinh xá chư Bồ Tát Chư A La Hán đều đến tập họp trong Vương Xá thành, cho đến mười phương vô lượng thế giới hoặc tịnh độ hay uế độ, cõi có Phật hay cõi không có Phật, tất cả chúng sanh đều đến tập họp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nhập Phật trang nghiêm anh lạc tam muội. Do sức tam muội ấy làm cho toàn cõi Ta Bà thế giới thanh tịnh trang nghiêm dường như quốc độ của đức Như Lai Biến Kiến Phật. Quang minh của Thế Tôn tịnh diệu chúng sanh thích
thấy. Tất cả chúng sanh trong vi trần thế giới mười phương cũng đều thích thấy quang minh thanh tịnh vi diệu của Thế Tôn, cũng thích nghe âm thanh của Thế Tôn.
Chư Bồ Tát ở mười phương vô lượng Phật độ cũng đến thành Vương Xá tụ họp. Vô lượng Bồ Tát đều dâng cúng đức Thế Tôn, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hương thơm, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hoa đẹp, hoặc có Bồ Tát mưa chơn châu bữu, hoặc có Bồ Tát mưa diệu anh lạc, hoặc có Bồ Tát mưa kim ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, chơn châu, thất bữu, hoặc có Bồ Tát mưa chiên đàn trầm thủy các thứ hương, hoặc có Bồ Tát mưa ngưu đầu chiên đàn, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hoa như là hoa tu mạn na. hoặc có Bồ Tát dùng chơn bữu pháp tán thán đức Phật. Hoặc có Bồ Tát hiện làm hình Phạm Thiên, Đế Thích, Thiên Vương, hình Ma Vương, hình Tự Tại Thiên, hình Kiền Đà Thiên, hình
Bát Tý Thiên, hình Chuyển Luân Vương, hình trân bửu, hình núi, hình rừng cây, hình đại thần, trưởng gỉa, nam nữ, sư tôn, hình các thú
vương voi ngựa thủy ngưu v.v… chư Bồ Tát hiện các hình tượng như vậy rồi đồng thẳng đến Vương Xá thành chỗ hoa sen báu lấy tay chạm hoa làm hoa lay động. Liền lúc ấy tất cả chúng ma nam nữ lớn nhỏ và các quyến thuộc ma thảy đều dao động sanh lòng kinh hãi nói rằng cớ chi mà cung điện chúng ta khuynh động thế nầy. Hay là bực tôn quí của chúng ta ắp thối thất mất phước trời chăng ? Lúc trước chúng ta thường thấy thế giới nầy có đủ ngũ trược uế hôm nay cớ sao lại trang nghiêm thanh tịnh. Chúng ma thấy mười phương thanh tịnh Bồ Tát tụ hội Vương Xá thành, tự nghĩ rằng đây là do quang
minh nghiêm lệ của Phật Thế Tôn mà chúng sanh thích thấy nên có cảnh tượng như vậy. Chúng ma nhẫn đến chẳng thấy quyến thuộc mình còn có một người nào nên lại tự nghĩ tại sao ta không đến chỗ đức Phật để được gần gũi cúng dường.
Ma Vương Ba Tuần đến chỗ đức Phật chắp tay cung kính bói
kệ rằng :
Nay tôi quy y đức Như Lai
Đã được hoan hỉ chí tâm ưa
Nguyện được buông thả về nhà mình
Về rồi sẽ nghe diễn chánh pháp.
Đức Phật nói kệ đáp rằng :
Ta chẳng dùng khứ lai khuyên ngươi
Tánh tướng các pháp cũng như vậy
Nay ngươi nếu có đại thần thông
Tùy ý tự tại không ai ngăn.
Ba Tuần lại nói kệ rằng :
Như Phật Thế Tôn chơn thiệt ngữ
Nay thiệt không ai ngăn cản tôi
Lúc tôi vừa muốn trở về nhà
Liền thấy thân mình bị ngũ trược
Đức Phật nói : “Ta đã dứt hẳn tất cả hệ phược muốn cởi hệ phược cho tất cả chúng sanh, ta cũng chẳng nghĩ nhớ các ác của chúng sanh, nên ta được gọi là giải thoát hệ phược”.
Thấy mười phương chúng sanh đều đã tập họp, đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Tất cả đại chúng chí tâm nghe
Xa lìa tất cả lưới tâm nghi
Nay lời ta nói bất tư nghị
Nên phải xem kỹ nghiệp nhơn duyên
Vô thượng Thế Tôn đời khó có
Pháp Tăng hai bửu cũng như vậy
Thân người khó được tin cũng khó
Tâm bố thí phước điền đều khó
Khó được xa lìa khỏi bát nạn
Được như pháp nhẫn cũng khó hơn
Tâm ấy khó được mà điều phục
Tu không tam muội lại cũng khó
Tu thiện tư duy như pháp tánh
Hai sự như vậy cũng đều khó
Tất cả phiền não khó xa lìa
Chứng được Bồ đề lại cũng khó
Nay ta nói sự đến Bồ đề
Dường như người đời nói biến hóa
Pháp của ta nói rời lìa ái
Hay phá tối tăm tu pháp lành
Phật dạy vô thượng chánh chơn đạo
Nên phải chí tâm siêng tu tập
Nếu muốn xa lìa ba ác cấu
Và tất cả các ma nghiệp khác
Chẳng bị phiền não nó làm hại
Phải nên theo Phật nghe chánh pháp
Nếu muốn có đủ ba thứ giới
Phải học đủ ba giải thoát môn
Liền hay phá hoại tam giới kiết
Cũng hay qua khỏi ba ác đạo
Nếu chẳng dứt tuyệt tánh Tam bửu
Vì hộ chánh pháp tăng thân mạng
Thì hay có đủ vô lượng thông
Người ấy gọi là như pháp trụ
Ở nơi tam thế không giác quán
Cũng chẳng còn trước tam thế pháp
Người ấy hay qua khỏi tam giới
Cũng còn chứng được như pháp nhẫn
Phàm phu thường bị vô minh che
Luôn bị tứ đảo nó vây bọc
Nơi không có pháp tưởng là pháp
Nơi không có vật tưởng là vật
Vì nhơn duyên ấy gọi điên đảo
Người như vậy đi nơi tà đạo
Nếu ai nói rằng mắt thấy sắc
Cho đến nói ý hay biết pháp
Người như vậy đi nơi điên đảo
Lưu chuyển sanh tử vô lượng kiếp
Nếu ai tu tập được tứ thiền
Thì được gọi là thế gian huệ
Hay độ tất cả các điên đảo
Ở nơi sanh tử cũng giải thoát
Ai hay điều phục các chúng sanh
Cũng hay xa lìa khỏi tứ lưu
Người như thế ấy khô sanh tử
Cũng hay đến được nơi bỉ ngạn
Nếu ai đầy đủ tứ như ý
Thì gọi Bồ Tát vô sở uý
Cũng hay dứt hẳn dòng sanh tử
Khiến các chúng sanh thoát khủng bố
Nếu ai tỏ rõ biết ngũ ấm
Người ấy hay đến bờ vô lậu
Biết rõ bất sanh cũng bất diệt
Hay khiến chúng sanh đến bỉ ngạn
Nếu ai ở trước Phật Thế Tôn
Sám hối phát lộ tất cả tội
Người ấy xa lìa các từ kiến
Hay đến bỉ ngạn khỏi sanh tử
Quán sát sanh tử nhiều thọ khổ
Hạnh nghiệp nhơn duyên đọa ác đạo
Do vì nhơn duyên gần ác hữu
Nên tạo vô lượng các ác nghiệp
Nếu hay xa lìa ác trí thức
Cũng hay xa lìa các tà kiến
Người ấy hay quán lỗi sanh tử
Cũng hay học hỏi đệ nhứt nghĩa
Nếu ai hay quán đệ nhứt không
Người ấy hay uống vị cam lộ
Phật thường tuyên nói đệ nhứt nghĩa
Người chí tâm nghe
không có tướng
Phật nói lục nhập chơn thiệt không
Không có tạo tác không kẻ thọ
Chúng sanh điên đảo nói có tướng
Pháp tánh chơn thiệt vô sở hữu
Nếu có chúng sanh lục thọ ái
Thì hay sanh ra nhơn lục xá
Lục xúc như vậy chơn thiệt không
Tất cả các pháp cũng đều không
Như nhứt pháp tánh các
pháp vũ
Như tất cả pháp một cũng vậy
Tất cả các pháp không sanh diệt
Cũng không tướng mạo không có vật
Như Lai tuyên nói vô
thượng đạo
Tất cả các pháp như một pháp
Nếu thấy các pháp không tánh tướng
Người ấy chứng được chơn pháp nghĩa
Nếu ai tu hành mười ba nhẫn
Thì được giải thoát bờ sanh tử
Thiệt biết pháp tánh chúng sanh tánh
Được đạo vô thượng như Phật trước.
Lúc đức Thế Tôn nói kệ ấy, mười phương hàng hà sa số thế giới ngũ trược, tất cả chúng sanh đều được nghe. Mỗi mỗi thế giới chúng sanh nghe rồi liền được bất thối chuyển Bồ đề tâm, hoặc có chúng sanh chứng được đà lúc ấy ni, hoặc có chúng sanh được tam muội chánh định, hoặc có thành tựu được các nhẫn. Chúng sanh thế giới nầy nghe Phật nói kệ rồi, cũng có vô lượng chúng sanh được chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh ở tam thừa.
Quang vị Bồ Tát ở bên hoa sen tạo nấc thang thất bữu đủ các thứ hoa chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai Phật nhựt đại từ bi quang vô lượng chúng sanh thọ nhiều khổ não, ngửa mong tuôn xối pháp vũ vô thượng diệt trừ chúng sanh phiền não tật bịnh. Có những chúng sanh kham
làm pháp khí có thể lãnh thọ vô thượng pháp vị của Như Lai. Nguyện Phật nói bát đạo tịnh nơi pháp nhãn thăng
lên hoa sen xô dẹp chúng ma. Mười phương thế giới vô lượng Bồ Tát đều làm chứng nhơn. Tỏ rõ hay thấy các pháp không tịch không có tướng mạo dường như hư không biết pháp vô ngã. Ngửa mong Như Lai nhớ lại thuở xưa lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề lập thệ nguyện. Lúc ấy đức Như Lai nói, nếu ta được đủ thập lực tứ vô sở úy sẽ thí ban chúng sanh
cam lộ pháp vị đều khiến được khỏi biển lớn sanh tử. Ngày nay đã được quả toại mong Phật diễn nói pháp thanh tịnh độ các chúng sanh nơi biển sanh tử, hóa vô lượng người nơi đạo Bồ đề”.
Đức Thế Tôn liền lên thang báu vào ngồi trên đài hoa sen quán sát mười phương nói với Ba tuần rằng : “Nầy Ba tuần ! Ngươi cùng nên sanh tâm
hoan hỉ, tại sao, vì do ngươi làm nhơn duyên mà có hội đại tập nầy, cũng nhơn nơi người làm cho Phật thuyết pháp. Nhơn duyên thuyết pháp dứt các sanh tử qua khỏi tứ lưu khiến các chúng sanh đều được chánh pháp được tướng hư không. Các sự việc như vậy đều nhơn nơi người. Vậy ngươi nên thỉnh Phật, Phật sẽ thuyết pháp”.
Ba tuần nói : “Cù Đàm nếu không có sân tâm kiêu mạn tật đố sao lại làm não tôi mà tuyên nói pháp. Nếu sân hận kiêu mạn tật đố sao lại nói rằng ta được giải thoát”.
Đức Phật nói : “Nầy Ba tuần ! Lúc ta ở thai mẹ trải qua mười tháng. Ngươi muốn đến hại ta, lòng ta lúc ấy đối với ngươi cũng không có sân
hận. Lúc ta sơ sanh đại địa chấn động sáu cách, ngươi lại tuôn mưa đá khối , lúc ta uống sữa ngươi đem thuốc độc để vào sữa, lúc ta cỡi hương tượng ngươi ngươi làm đất rúng động muốn cho ta té, lúc ta ở trong rừng tu thiền định thế gian, ngươi dắt thể nữ đến toan làm loạn tâm ta, lúc ta khất thực ngươi mangđậu thúi bố thí ta, ta dầu thọ mà trọn không ăn đó. Lúc ta xuất thành ngươi tự biến thân làm rắn độc và ác tặc vây bốn phía thành. Ta đi
trên hư không, ngươi lại phóng gío mưa. Lúc ta xuống ngựa ngươi tuôn lửa mạnh lớn. Lúc ta đi ngươi làm âm thanh ác dữ, cố ý lm cho năm người đi theo ta kinh sợ mà bỏ ta. Thân ta gầy ốm ngươi làm gío lạnh. Lúc ta tắm gội ngươi tuôn luồng nước chảy mạnh. Lúc ta ra khỏi sông rồi, ngươi muon hại ta nên hóa làm vô lượng sư tử ác thú. Lúc ta thọ cháo sữa của mục nữ dâng ngươi lại bỏ thuốc độc vào cháo rồi đi. Lúc ta đi đến cây Bồ đề, ở giữa đường ngươi làm mưa kim cương. Lúc ta ngồi toà kim cương gốc cây Bồ đề, ngươi sai bốn thể nữ đến muốn làm loạn rối ta.
Ba tuần ! Dầu ngươi muốn làm hại ta như vậy, mà với ngươi ta không hề có lòng sân hận. Các sự việc của ngươi làm như vậy mà trọn chẳng loạn động được tâm ta. Ngươi lại xuất lãnh vô lượng trăm ngàn muôn bốn binh chủng hiện ra vô lượng ác sư muốn ta chẳng được Bồ đề. Lúc ta thành Vô
thượng Bồ đề rồi, ngươi lại đến thỉnh ta xả thọ mạng. Cũng do nơi ngươi làm cho ta ở Sa Lúc ấy đại thông kia khất thực chẳng được. Lại cũng do ngươi mà vua A Xà Thế phóng voi say muốn hại ta. Cũng do ngươi mà Đề Bà Đạt Đa xô khối đá lớn lăn xuống muốn hại ta. Cũng do ngươi mà ta thọ Bà La Môn kia thỉnh ba tháng an cư ăn toàn lúa nuôi
ngựa. Cũng do ngươi mà ta bị nàng Tôn Đà Lợi kia vu báng. Cũng
do ngươi mà Thi Lợi Cúc Đa dùng hầm lửa thuốc độc phỉnh ta.
Ngày trước ngươi làm vô lượng ác sự như vậy chẳng hại được ta. Nay ngươi lại tụ họp chúng ma như vậy muốn đến hại ta, nhưng với ngươi ta không có tâm
sân hận. Nay ta sẽ độ vô lượng ức ma, ta vì chúng
sanh nên siêng tu tập từ bi hỉ xả.
Nếu ngươi chẳng tin lời ta, mười phương chư Phật chư đại Bồ Tát có thể chứng minh. Chỉ vì người mà ta ở trong ác thế nầy làm Phật sự. Dầu với ta ngươi làm vô lượng ác sự, mà ta vẫn cố theo dõi ngươi. Nay ta thiệt không có sân hận tật đố kiêu mạn, nơi ngươi ta tu tập từ tâm mà ngươi ở nơi ta sanh đại ác tâm.
Lành thay, nầy Ba tuần ! Ngươi nên lìa ác tâm thưa thỉnh Phật nói pháp vô thượng. Ta muốn thọ ký Bồ đề cho ngươi. Đã thọ ký rồi, ta sẽ vì ngươi nói rộng pháp yếu. Ngươi được nghe pháp rồi sẽ được xa lìa tất cả ác nghiệp. Ta thường nghĩ nhớ các thứ phương tiện khiến ngươi giải thoát mà ngươi nơi ta thường sanh ác tâm. Ta thường ở nơi ngươi sanh lòng từ mẫn. Nay ngươi nên bỏ ác kiến ác ý, ta sẽ thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ngươi”.
Ba tuần nghe lời ấy sanh lòng sân ác muốn về nhà lại liền thấy thân mình bị ngũ hệ phược, muốn phát tiếng lớn cũng chẳng phát được liền phun hơi độc muốn hại Phật.
Đức Phật biến hơi độc ấy thành hoa tu mạn, do thần lực Phật làm cho hoa ấy khắp đến mười phương chỗ hàng hà sa chư Phật để cúng dường, trên mỗi đức Phật hóa làm lọng hoa tu mạn.
Vô lượng Bồ Tát ở các thế giới ấy tự hỏi thần lực của ai biến hóa lọng ấy.
Vô lượng chư Phật bảo chúng Bồ Tát mình rằng : “Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai muốn vì ngũ trược chúng sanh mà diễn nói pháp yếu, nơi các pháp ấn cú môn nhập đà la ni hay phá
tất cả ma cảnh giới lực, khai hiển tất cả Phật công đức lực, dụng tràng đại pháp chẳng dứt giống Phật, hay khiến tất cả thiện pháp tăng trưởng, hay hoại tất cả tà kiến chúng sanh, hay
phá tất cả ác mộng bất tường, hay dứt tật bịnh binh đao cơ cẩn đấu tụng các sự bạo ác, lại hai điều phục tất cả Thiên Long Bát Bộ, hay thắp đuốc huệ chỉ dẫu tất cả đường sá bằng phẳng, hay khiến tất cả viễn ly ác kiến, hay dứt tất cả các ác chủng tánh, hay khiến tất cả đồng nhứt tánh, hay thủ hộ tất cả thành ấp tụ lạc Sa Môn Bà La Môn,
hay biết tất cả tinh tú vận độ, hay học tất cả thế giới các sự, hay khiến tất cả xa lìa ác khẩu được vô ngại biên, quán tất cả pháp thông đạt pháp tánh như pháp mà trụ, hay nói pháp Đại thừa an ui Bồ Tát làm cho đều được tâm bất thối, hay ban bố pháp vị cam lộ vô thượng, hay làm cho chứng được vô sanh pháp nhẫn chuyển chánh pháp luân lợi ích điều phục vô lượng chúng trụ sáu pháp Ba la mật, hay khiến chúng sanh thấy đạo vô thượng, hay giáng pháp
vũ hiển thị Phật sự quá tứ ma giới nhập đại Niết bàn kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Sắp muốn diễn nói các pháp như vậy. Như quá khứ chư Phật và vị lai chư Phật diên nói pháp, hiện tại thập phương chư Phật Thế Tôn trụ thế thuyết pháp giáo hóa chúng sanh đều là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni vậy. Quá khứ vị lai chư Phật Thế Tôn đều cũng như vậy”.
Các phương vô lượng Bồ Tát đều riêng bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi từ trước chưa từng nghe kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Thế nào gọi là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni ? Mong đức Thế Tôn phân biệt giải nói, nhẫn đến khiến nhập đại Niết bàn, lợi ích vô lượng nhôn thiên tạp loại”.
Các phương chư Phật Thế Tôn đều riêng nói với chúng Bồ Tát rằng : “Nầy các thiện nam tử ! Ta cũng muốn thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nghe thọ pháp ấy, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, vì phá hoại tất cả chúng sanh ác nghiệp, cho đến vì muốn nhập vào đại Niết bàn.
Nầy các thiện nam tử ! nếu muốn cúng dường vô lượng chư Phật nơi một Phật thế giới, nếu muốn nghe học chánh pháp vô thượng pháp chưa từng nghe, nếu muốn thấy pháp hội Đại Tập, thì nên đến Ta Bà thế giới trụ sứ của Phật Thích Ca Mâu Ni”.
Vô lượng chúng Bồ Tát nhận lãnh giáo sắc nơi Phật, đều nói rằng : “Chúng tôi muốn ở nơi mt Phật thế giới mà được kính lễ cúng dường vô lượng chư Phật. Chúng tôi cũng
muốn ở chỗ vô lượng chư Phật nghe học vô lượng pháp nghĩa, cũng
muốn được nhìn thấy vô lượng thần thông và các sự bất tư nghị. Chẳng rõ cõi Ta Bà ấy có đảu chỗ ngồi chăng ? Nếu có đủ chỗ ngồi thì được cúng dường lễ lạy và nghe học vô lượng chánh pháp”.
Các phương chư Phật đều bảo chúng Bồ Tát rằng : “nầy các thiện nam tử ! Các ông chớ nên đối với Phật Như Lai sanh lòng nghi
lự. Tại sao, vì cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, trí huệ phương tiện của Phật bất kh tư nghị, vì muốn điều phục tất cả chúng sanh.
Nầy các thiện nam tử ! Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai trí huệ phương tiện chẳng hạn lượng được.
Giả sử tất cả thân ngũ ấm của tất cả chúng sanh đều cao lớn bằng núi Tu Di, nếu muốn Phật Thích Ca Mâu Ni có thể cho họ đều đủ chỗ ngồi trong một hột đình lịch, tất cả chúng sanh ấy thấy hột đình lịch chẳng rộng thêm mà chỗ ngồi của họ cũng chẳng hẹp, bổn chất của hột ấy nhu cũ chẳng tăng chẳng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm, đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Tất cả nước sông biển của tất cả thế giới mười phương cho vào một hột bụi nhỏ, mà hột bụi ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Bao nhiêu gió còn tất cả thế giới mười phương có thể cho vào trong một lỗ chưn lông, mà lổ lông ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Bao nhiêu lửa của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào cả trong một lỗ chưn lông, mà lỗ lông ấy không có tăng
giãm cũng không tổn hại. Đây gọi là Như Lai trí huệ Phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử ! Bao nhiêu chúng sanh của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào một vi trần, mà vi trần ấy vẫn như cũ không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Lại nầy các thiện nam tử ! Tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới mười phương, tam thế có bao nhiêu nghiệp thân khẩu ý, tam thế thọ bao nhiêu khổ lạc không khổ không lạc, tam thế thọ quả báo, tam thế có bao nhiêu địa thủy hỏa phong cho đến tất cả pháp giới, Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong một niệm tỏ rõ thông đạt chẳng cần suy nghĩ, cũng chẳng xưng rằng ta biết ta rõ.
Nầy các thiện nam tử ! Phật Thích Ca Mâu Ni có đủ trí huệ phương tiện như vậy trụ nơi Ta Bà thế giới”.
Lúc nghe pháp ấy, trong mười phương vô lượng Phật độ, vô lượng Bồ Tát được nghe vô lượng công đức của Phật, mỗi mỗi Bồ Tát liền được vô lượng thần thông
Bấy giờ phương Đông Diệu Lạc thế giới Phật A Súc Bệ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát, từ thế giới ấy trong một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi Phật A Súc Bệ ngồi trên hoá liên hoa,
vô lượng Bồ Tát cũng đều ngồi trên hóa liên
hoa.
Đông phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên
hoa.
Như phương Đông, phương Nam, phương Bắc cũng như vậy.
Bấy giờ Tây phương An Lạc thế giới Phật Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát từ thế giới An Lạc trong khoảng một niệm đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên hoa.
Tây phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi Phật và Bồ Tát trên hóa liên
hoa.
Như Tây Phương, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương cũng như vậy. Vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát trong khoảng một niệm đều đến Thích Ca Mâu Ni Phật Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi đều ngồi trên hóa liên hoa.
Vô lượng thần thông Bồ Tát từ mười phương đến đều dùng phước lực thần thông của mình làm ra phẩm vật cúng dường. Hoặc kim sa hòa hương thơm rải lên trên đức Phật. Hoặc các thứ hương hoa đẹp rải lên trên đức Phật. Hoặc đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng. Hoặc quỳ dài nói ệ tán thán. Hoặc nhiếp tâm chánh niệm tư duy. Hoặc mua kim hoa nhẫn đến mưa Ưu bát la hoa. Hoặc dùng diệu nhãn ngắm nhìn thân Phật.
Bấy giờ có đồng tử tên là Tu Bồ đề dùng thần lực của mình và thần lực Phật phát âm thanh lớn nói kệ rằng :
Chư Phật vô lượng đại bửu tràng
Hay phá tất cả tâm nghi hoặc
Từ trước chưa từng được thấy nghe
Đại hội vô lượng chúng như vậy
Đầy thế giới nầy vô lượng Phật
Chư Bồ Tát đầy đủ phước đức
Chỗ này tức là đại bửu tháp
Đều được cúng dường mười phương Phật
Vô lượng chư Phật nhơn duyên gì
Đều đến họp thế giới ác này
Nay quốc độ nầy ác chúng sanh
Cũng còn chẳng tin được Phật sự
Vì phá tất cả đại ma nghiệp
Vì muốn đầy đủ đại công đức
Vì muốn thị hiện đại thần thông
Vì vậy chư Phật họp tại đây
Hội nầy nếu có các chúng sanh
Chí tâm sanh lòng tin vui mừng
Nếu đem tâm tin nghe học pháp
Người nầy thì hay phá ma
nghiệp
Nếu muốn thông đạt vô thượng thừa
Và muốn tu hành bát chánh đạo
Nếu muốn dứt hẳn các phiền não
Phải nên chí tâm nghe chánh pháp
Thỉnh mười phương Phật và Bồ Tát
Đều đến Đại Tập ngồi liên hoa
Thích ca Như Lai muốn nói pháp
Vì hộ chánh pháp trụ vô lượng
Âm thanh như vậy đầy khắp đại hội, có vô lượng Bồ Tát được vô lượng nhẫn, khác miệng đồng lời nói rằng : “Chúng tôi đã ngồi xong rồi, ngưỡng mong tuyên nói
chánh pháp nhiếp tất cả pháp vô úy vi diệu hay phá ma nghiệp qua khỏi ma đạo, xô ngã ma tràng kiến lập thắng tràng, phá các phiền não điều phục oán địch, xé các lưới nghi nhập vào môn Nhứt thiết chủng trí, qua khỏi các bố úy thủ hộ Bồ Tát, cũng làm cho
chư Bồ Tát tất cả đều thọ lạc, được môn huệ phương tiện Bồ Tát, để tất cả chúng được an lạc được tất cả tam muội nhẫn nhục quang minh, được môn huệ phương tiện, được ba mươi bảy phẩm trợc đạo tâm đà la ni.
Ngưỡng mong Như Lai rộng phân biệt diễn nói chúng sanh được an lạc được thượng sắc, thượng lục, thượng xúc, thượng biện, thượng niệm, thượng ý, để khi nghe pháp rồi chẳng quên mất, để trừ điểm xấu ác trong quốc độ, để thọ trì cấm giới tu tập chánh đạo chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề vậy.
Ngưỡng mong Như Lai vì các sự việc như vậy mà ban tuyên rộng nói đà la ni ấy, vì để hộ pháp để chẳng dứt giống Tam bửu, để chỉ dường Bồ đề cho tất cả, để chẳng phân biệt hư không với pháp tánh, cì tướng không rỗng bình đẳng vậy, hiển thị các tướng sáng tối có không kia đây
đều bình đẳng, để chẳng phân biệt tất cả các pháp chúng sanh thọ mạng sĩ phu, bất sanh bất diệt dứt tất cả tướng tất cả biến dịch, không có vật như hư không là thiệt tánh.
Ngưỡng mong Thích Ca
Mâu Ni Như Lai và chư Phật rộng tuyên phân biệt đà la ni lớn, để cho vô lượng vô biên chúng
sanh chơn thiệt thấy Tam bửu, để cho vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Tất cả vô lượng chư Phật yên lặng hứa khả.
Hứa khả rồi, chư Phật liền nhập tam muội chẳng phải thượng diệu cảnh giới thệ nguyện công đức.
Trong Ta Bà thế giới nầy có bao nhiêu địa ngục, ngạ qủi, súc sanh cá sự khổ liền dứt được thấy chư Phật. Có những chúng sanh nghi hoặc không tin thì được tịnh tín. Tất cả chúng sanh thảy đều không có những bịnh tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, nghi ngờ, ác kiến, cuồng lọan, thâm tâm tịch tĩnh, mỗi mỗi đều tự nghĩ rằng : Riêng ta một mình ngồi trước đức Phật nghe học chánh pháp. Dức Như Lai Thế Tôn chỉ vì ta mà thuyết pháp, riêng điều phục ta dứt các phiền não, như chỗ ta thỉnh mà thuyết pháp cho ta.
Tất cả chúng sanh trong thế giới khác miệng đồng lời nói rằng: “Nguyện đức Phật Như Lai thuyết pháp, tôi sẽ đảnh đới thọ trì”.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên tất cả chúng sanh thế giới nầy cúng dường chư Phật.
Chúng sanh ở thế giới nầy nghe lời khuyên bảo của Phật rồi liền cúng dường tất cả chư Phật những là hương hoa phan lọng kỹ nhạc tán thán.
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn liền nói rằng : “Thập phương chư Phật ! Lắng nghe lắng nghe, ta vì bổn nguyện lực thuở trước nên ở tại Ta Bà thế giới trong hàng chúng
sanh có đủ ngũ trược ác mà thành Vô thượng Bồ đề. Các chúng sanh nầy mê chánh đẹo, bị vô minh che đậy nên mất chánh niệm tăng trưởng phiền não, an ở ba ác đạo thích làm mười nghiệp ác, xa lìa thiện căn bỏ nghiệp công đức, ưa tạo ngũ nghịch ham mê phi pháp,
phỉ báng chánh điển, chê bai Thánh nơn, sân hận quá nặng chẳng thích tu tâm từ, vật của Phật của Tăng tùy ý lấy dùng, nơi nghiệp nhơn quả báo không có thân
tín, chẳng thích cúng dường Sư trưởng Hoà thượng những bực có đức. Vì những kẻ tệ ác như vậy mà ta tu tâm đại từ bi. Do nhơn duyên ấy mà ta thành Phật đạo tại Ta Bà thế giới nầy. Đã thành đạo rồi ta thường thích tu tập pháp cần tinh tiến, nhẫn chịu các sự khổ đói khát lạnh nóng đi khắp nước thành ấp tụ lạc vì các chúng sanh mà diễn nói chánh pháp.
Hoặc có chúng sanh nghèo cùng bịnh khổ thân thể xấu hèn, vì thương xót họ mà ta thọ nhận họ cùng thí vật thực thúi dơ, vì muốn cho thí chủ tăng trưởng phước đức nên ta đều ăn đó. Ta cũng nhận những y phục to rít hôi do rách rưới của họ dâng cúng. Những chỗ ở trong núi bên khe
sông trong đồng hoang vắng trong rừng rậm mà họ dâng cúng ta đều nhận. Hoặc là cỏ, là lá, là đá, là gạch, vì thương chúng sanh nên họ thí cho món gì ta
đều nhận lấy để ngồi nằm. Ta do cần tinh tiến mà tu thiện xảo phương tiện. Vì hàng Sát Đế Lợi nói việc nhà vua. Vì hàng
Bà La Môn nói bốn phệ đà tinh tú tế tự. Ví các đại thần nói những sự trị hóa. Vì các y sư nói những bịnh do tứ đại tăng giảm. Vì các nông dân
thương nghiệp mà nói về sự thủ hộ ngũ cốc tài sản. Vì hàng nữ nhơn mà nói thủ hộ anh lạc siêng làm điều lành được chồng bất cộng. Vì hàng xuất gia má nói nhẫn nhục. Ta vì điều phục họ mà nói những pháp như vậy. Người chưa được lợi ích lành tốt thì khuyên họ khiến họ được. Người chưa được chứng thì khuyên họ cho họ được chứng. Người chưa giải thoát thì khuyên họ cho họ được giải thoát. Vì điều phục chúng sanh mà ta
chịu khổ não. Ta vì chúng sanh mà tu tập đại từ bi nhưng các chúng sanh
còn có kẻ sanh lòng ác độc ối với ta : hoặc đánh hoặc mắng hoặc ganh tỵ. Có kẻ nói Sa Môn Cù Đàm là nhà ảo thuật dâu nói trì giới mà ổng chứa vợ con, dầu tán thán từ tâm mà ổng hại chúng sanh, dầu tán thán việc bỏ giàu sang mà ổng ở cung vua. Sa Môn Cù Đàm giỏi biết phương thuật nên dầu gần vợ mà chẳng sanh con cái. Sa
Môn Cù Đàm hay khéo trị nữ thân nên khiến bà Mạt Lợi sanh lòng mến trọng ông Tu Đạt sanh ý tưởng tông kính. Sa
Môn Cù Đàm giỏi biết được pháp nên khiến thân mình thường có quang minh. Ta bị vô lượng tiếng xấu như vậy.
Hoặc có kẻ lấy đá đất gỗ đao độc dược đánh ném muốn giết hại ta. Vì muốn giết ta nên có kẻ thả ác sư tử ác tượng độc xà. Nơi ta ở họ phóng lửa đốt ném phẩn dơ bất tịnh. Họ làm các thứ ác phương tiện để phá hoại pháp ta, để diệt pháp ta, để xô tràng pháp, để phá thuyền pháp, để dứt dứt pháp tánh, để phá pháp tạng.
Duy nguyện thập phương chư Phật quan sát quá khứ chư Phật, có đức Phật nào thành đạo trong thế giới ngũ trược mà chẳng nói Đại Tập kim cương phát tâm nhơn duyên tu tại đà la ni như vậy, để phá hoại tất cả các ma lực, để giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt để các chúng sanh
tăng trưởng thiện pháp, để phá hoại tất cả oán địch của Phật pháp, để khiến chúng sanh xa lìa
khổ, để diệt ác nghiệp nơi thân khẩu ý, để khiến nhơn thiên tâm tánh điều nhu, để các quốc độ thọ hưởng an lạc, để phá thế gian các ác tướng, để khiến chúng sanh đều được lục Ba la mật, vì khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì dạy thiện xảo phương tiện cho chư Bồ Tát, vì làm cho chư Bồ Tát thứ đệ an trụ vậy.
Do những nhơn duyên như vậy nên quá khứ chẳng phải vì các ngũ trược ác thế chúng sanh diễn nói Đại Tập kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni nầy.
Nay tại Ta Bà thế giới nầy thập phương chư Phật đều đến tập họp, duy nguyện chẳng phải đều riêng nói chú đà la ni ấy, vì thương xót chúng sanh vậy, vì sẽ lưu bố kinh Đại Tập vậy. Vì cho chánh pháp được còn lâu nơi thế giới nầy vậy, vì khiến các ác ma chẳng được tiện lợi vậy”.
Lúc ấy chư Phật liền đồng thanh nói đà la
ni cú :
“An gìa lã, an gìa lã, bán gìa lã, bà bà gìa lã, bà lã bà gìa
lã, bà xà tỉ ha, mạn ra bà tỳ, a rí, a khê bà lãnh, đề mế, độ mộ vẫn, kiều bà tri, kiều do ly, ma bà a
ni, tam ma đa bà đề lãnh, a di a di, đà ma kiều xà, di ra nâu phá lê, phá la ba dẫn, gìa ninh, gìa
gia bà lã dẫn, hi lợi, hi đề, hi la, kiêu hi la, chiêm bà đề, bà ca tu, tra ca dẫn, tra ca bà la dản, gìa na ba ha dẫn, hi lợi dẫn, thi lợi dẫn, tần địa lợi bà dẫn, cụ bà hi, thù lãnh, di ra thù lãnh, thù tỉ, a kỳ ly, a bà di,
bà lợi dã, đa đá tha, phú lưu, hi lợi, chiến địa ly, ma đà di, đà
di cứu chân lưu, mâu châu lưu, a gía tra, chí lợi. Chí di lợi, giá bà ha, châu
bà, châu lũ, mê ra bà ha, cứu lũ, bà la cứu động, cứu động, ma ha bà lã sa, đoạn động, đoạn động, ma ha tát ra hi lực đà xà, phú bãi, tu phú bãi, độ ma ba lợi ha lợi, a bà di, lưu chi ninh, ca lã
xoa, a đà ma đâu, tỉ bà ha, đề đề lợi, ma ma lợi, ba xá khê, hoặc hoặc lã, lộ ca tỉ na xà ca, bà thì lợi, bà thì la đà ngâm, bà thì ly đà đề, chước ca la bà thì ly, gia cư ly, giá ca la bà đề, đà ngâm, đà ngâm,
bà lãnh, mâu ly tra ngâm, hưu hưu ngâm, đa gìa tần bà ngâm, xá lợi xa, lưu lưu châu, chí lợi châu lợi, mâu ngâm mộ đà ngâm, mộ đồ ninh, mộ đồ ninh, già già la ni, mâu đồ ninh, tán bà lã mâu đồ ninh, đề đề la xà ni, ma hê thủ la lã xà ni, luật sư bà ni, đà lã bà
chí, chiến đồ lã tố mế, tát bà tát tả a đề sất đa, xa đà đâu bà a na, ma di ni, bà lã lã đề, ô xà kỳ ly, tỉ tỉ na, bà na ha lã,
phục Phật ngâm, cừu lưu, mâu lưu, mâu lưu, hi hi, hi hi, a
lã, a lã, ca ca đồ bà ha, hi hi đa, a do na, kiền đồ chiêm bà tư, kiệt đà ni, a ba a ha
ninh, mạt lực gìa tỉ lưu, phá la tát đá, a
lộ sa bà đề, hi lợi hi lợi, dạ đá bà xà xà, tá kỳ la, dạ đá ba lan gía, hi lực đà bà ha, tát đa ba lợi bà bà, mạt lực gìa tỳ lô ha ni, a gía lã Phật đề, đà xà ba la lã giá ba gía xà, tân đồ hi lục đà xà, chiến đà lã bà lã ninh,
a gía ngâm thâu đà ninh, bà lã ký lã ma lực gìa, y lã, ba lã ký lã ma lực gìa, y lã, y lợi ngâm, ba cát tì, bà la bà lã dẫn, tát bà lã đa đá, tát đa nâu kiệt tì, a na bà lã na phục luật dẫn, a la đồ, an gìa ngâm, xá di ni, tỉ bà la bà du hi, a hi đa, a bà hi, ni lã bà xà bà, a chi la mạt lực gìa, lã bà na, la
cừu bà ngâm, lê lặc na bằng xá, đà ma gìa xà, xà la chiến đà , mâu đà la bà đề, ma ha phục đa tì tỉ bà tam mâu đà, đà la ni mâu đà ly na, ma khê mâu đà lã, sa lã
bà đề, tư tỉ đà mâu đà, a bà đa
ni, bà bà đa ni, mộ ca lã, tỉ đậu đa lã tư na, xí đề mâu địa ly đô tư, di ca chi, tỉ lợi si tỉ ca xà, bà ha bà ha ký đồ, ca bà tra, ni la ba la đề đa hi lực đà đà xà, mâu đà đa đà la ni, đà la, đà la, đà la, đàn đề la, đàn đề la hưu ni la tát bà hi lực đà xà vật là ly đô tư xà tra, xà bà tra, xà khê bà tra, tu ma đề, ma đề, ma ha phục đa vật đà la đa, dị kiều chi tán ca la, bà
đồ xà đa na ni, thủ lực đa phục đa, y di ni di ni, bà gía ni, thâu sa tát gía ni, mâu địa ly đa gía lợi dã hà đề mế na, bà tỉ đá, a na nhã đá,
ma ha phú nhã tam mâu gía xà đa la ma ha già lưu ni ca mâu địa ly đa, tát bà tam
miệu ba la đề ban, chí lã xà la đâu, tát bà ni lê, tát bà mâu ni bà la sa sa
ma ha ca lưu na tam ma đề nhã na nhã nabà ly
nan, ma ra đa kiệt tỳ, tỉ lợi dã tỉ lợi dã, bà lê na đề sất đa, tát bà phục đô ba xà, sa ha”.
Lúc ấy Ta Bà thế giới chúng sanh nghe đà la ni chú ấy rồi, đều xưng rằng : “Nam mô Nhứt thiết thập phương chư Phật. Lần thứ hai lần thứ ba cũng xưng như vậy. Thậm kỳ thậm đặc chư Phật đại hội bất khả tư nghị, sư việc của chư Phật Bồ Tát cũng bất khả tư nghị. Từ xưa chúng tôi chưa từng được nghe tên đà la ni
như vậy mà nay được nghe, có thể phá hoại tất cả ma cảnh giới, nối thạnh tánh Tam bửu, dứt lưới nghi ma, được các pháp lành đầy đủ Phật sự, vì các sự như vậy mà nói đại tổng trì ấy, vì các chúng
sanh thủ trước nơi tâm mà làm ấn niêm, niêm phong pháp ấm nhập giới của các chúng sanh nhẫn đến chúng được Đại bát Niết bàn”.
Trong đại hội có một đồng tử Bồ Tát tên là Nguyệt Quang, từ liên hoa dậy nhứt tâm hiệp chưởng quán sát mười phương, do Phật thần lực phát âm thanh lớn nghe khắp Ta Bà thế giới mà nói kệ rằng :
Hội Đại Tập nầy rất khó được
Đầy đủ trí huệ cũng lại khó
Khó được gần kề thiện trí thức
Pháp ấn như vậy khó được nghe
Như Lai thương xót các chúng sanh
Vì chúng sanh nên hộ chánh pháp
Nói đà la ni vô thượng ấy
Để phá hoại hết các ma lực
Mười phương chư Phật nói chú ấy
Để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu
Hay trừ tất cả sự giận tranh
Cũng hay tăng trưởng vô thượng nhẫn
Tăng ích chúng sanh các thiện căn
Tiêu diệt quốc độ các ác tướng
Hay phá chúng sanh ba nghiệp ác
Cũng khiến xa lìa các ác kiến
Phật nói tổng trì vô thượng ấy
Vì muốn biển thị đao vô thượng
Cũng để đủ sáu Ba la mật
Chơn thiệt tu tập đạo Bồ đề
Chú ấy tức là thiện phương tiện
Cũng hay tăng trưởng vô ngại trí
Nhiếp lấy tất cả các thiện pháp
Thế nên gọi là chú vô thượng
Tu đủ ba mươi bảy đạo phẩm
Gọi là vô cấu Bồ đề đạo
Hay dứt tất cả tâm nghi hoặc
Và dứt chúng sanh các phiền não
Chú nầy tức là chơn thiệt ngữ
Tỏ rõ nhìn thấy đạo Bồ đề
Nay tôi muốn nói đà la ni
Đây thì gọi là vô thượng thắng
Vì muốn ủng hộ các Pháp sư
Và hộ người nghe học chú nầy
Ai muốn nghe muốn học chú nầy
Tôi nay nói chú chớ sanh nghi
Vô thượng vô thắng đà la ni
Tức là trí huệ tối vô thượng.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment