Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 17
PHÁP HỘI
VÔ LƯỢNG THỌ
NHƯ
LAI
THỨ NĂM
Như
vậy, tôi nghe một lúc đức
Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một vạn
hai ngàn người câu hội.
Các Ngài nầy đều là bực
đại Thanh Văn mà mọi người quen biết. Đó là Tôn giả A Nhã Kiều
Trần Như,
Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả
Đại Danh, Tôn giả Hữu
Hiền, Tôn giả Vô Cấu,
Tôn giả Danh Văn, Tôn giả Thiện
Xưng,
Tôn giả Viên Mãn, Tôn giả Kiều
Phạm Ba đề, Tôn giả
Ưu
Lâu Tần Loa Ca Diếp, Tôn giả
Già Da Ca diếp, Tôn giả Na Đề
Ca Diếp, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Tôn giả
Xá lợi Phất, Tôn giả
Đại Mục Kiền
Liên, Tôn giả Ma Ha Ca Chiên Diên, Tôn
giả Ma Ha Kiếp Tân Na, Tôn giả Ma Ha châu Na, Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tôn giả
A Nâu Lâu Đa, Tôn giả Ly Bà Đa, Tôn giả Nan Đà, Tôn giả La Hầu
La, Tôn giả A Nan đà v.v... các Tôn
giả nầy làm Thượng thủ.
Lại có chúng đại Bồ
tát, các Ngài Phổ Hiền Bồ
tát, Vãn Thù sư
Lợi Bồ Tát, Di Lạc
Bồ Tát, và chư
đại Bồ Tát trong kiếp Hiền
sau trước vây quanh.
Lại cùng Hiền
Hộ v.v... mười sáu vị
Chánh Sĩ câu hội. đó là các Ngài Thiện Tri Duy Nghĩa Bồ tát, Huệ
Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ
Tát, Thiện Hoa Thần Thông Bồ
Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ
Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Huệ
Nguyện Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bửu
Tràng Bồ Tát v.v... làm Thượng thủ.
Chư
đại Bồ Tát nầy
đều tuân tu hạnh Phổ
Hiền, đầy đủ
tất cả hạnh
nguyện Bồ Tát, an trụ trong tất
cả công đức, đến
bờ Phật pháp rốt
ráo kia, nguyện ở trong tất
cả thế giới
thành Đẳng Chánh Giác. Lại nguyện
sanh cung trời Đâu suất, ở
đó thọ chung giáng sanh ở hông bên hữu, hiện
đi bảy bước phóng ánh sáng lớn chấn
động khắp thế
giới mà xướng lên rằng:
Nơi
tất cả thế
gian, ta là tôn quý hơn
cả. Đế Thích và Phạm Thiên đều
đến thân cận cúng dường. Lại hiện
học tập lục
nghệ hơn
người, ở
vương
cùng nhàm chán ngũ dục, thấy người già bịnh chết
liền biết đời
là vô thường, rời
bỏ ngôi vua vượt thành học
đạo, cởi lụa
là chuỗi ngọc mặc
y hoại sắc, khổ
hạnh sáu năm. Ở cõi ngũ trược nầy
có thể thị hiện
như
vậy. Vì thuận theo thế
gian, đến tắm tại
sông Ni Liên rồi đi tới đạo
tràng. Long Vương
ca tụng nghinh tiếp. Chư Bồ
tát đi nhiễu bên hữu ngợi
khen. Nhận lấy cỏ
tự tay trải dưới cội cây Bồ
đề rồi ngồi
kiết già. Lại hiện
quân ma bao vây làm hại. Dùng sức định
huệ hàng phục mà oán. Thành bậc vô thượng Chánh giác. Phạm Vương thỉnh
chuyển pháp luân dũng mãnh vô
úy. AÂm thanh của Phật vang rền,
đánh trống pháp, thổi loa pháp, dựng tràng pháp, thắp đuốc
pháp, nhiếp chánh pháp và các thiền định,
mưa
pháp vũ nhuần thấm quần
sanh, chấn sấm pháp khai ngộ tất
cả quốc độ,
quang minh chiếu khăáp thế giới,
mặt đất rúng động,
cung ma sụp đổ, Ma Vương Ba Tuần
kinh sợ, phá giặc phiền
não, xé lưới tà kiến,
xa rời ác pháp, sanh lớn thiện
pháp, với món đồ ăn của
tín thí có thể ăn có thể tiêu, vì điều phục
chúng sanh mà tuyên dương
diệu lý, hoặc hiện
mỉm cười phóng trăm ngàn tia sáng lên bực quán đảnh
thọ ký Bồ đề,
hoặc thành Phật đạo,
hiện nhập Niết
bàn, khiến vô lượng hữu
tình đều được quả
vô lậu, thành thực thiện
căn cho vô biên Bồ Tát. Trong tất cả
cõi Phật đều có thể
thị hiện như vậy.
Ví
như
nhà ảo thuật biết
rõ ảo thuật có thể
hiện ra những tướng nam nữ v.v... ở
trong các tướng ấy
thiệt không có được.
Cũng vậy,
chư
Bồ Tát khéo học vô biên ảo
thuật công đức nên hay thị hiện
biến hóa, hay khéo biết rõ đạo
biến hóa, nên ở các quốc
độ hiện đại
từ bi đều có thể
lợi ích tất cả
quần sanh. Thành tựu vô biên hạnh nguyện
Bồ Tát. Thông đạt bình đẳng
vô lượng nghĩa môn. Tu hành đầy đủ
tất cả pháp lành. Bình đẳng thẳng
vào trong các cõi Phật. Thường được chư
Phật khuyến tấn
và gia hộ oai thần. Được tất cả
Như
Lai rõ biết ấn khả.
Vì giáo hóa chư
Bồ Tát mà làm A Xà Lê. Thường tu tập
thành tựu vô biên công hạnh. Thông đạt tất
cả pháp giới hạnh.
Hay biết rành rẽ hữu
tình và quốc độ. Cũng thường đi đến cúng dường chư
Phật. Hiện các thứ
thân hình như
là ảnh tượng. Khéo học
pháp vô úy, phá lưới ma, trừ
tà kiến, qua khỏi quyến
thuộc hiền não và bạn
ma dân ma. Hơn
hẳn bực Thanh Văn và Bích Chi Phật. Nhập
môn không, vô tướng và vô nguyện, mà hay an trụ phương tiện
thiện xảo. Chẳng
hề thích Niết bàn của
nhị thừa. Được các tam muội vô sanh vô diệt và các môn đà la ni. Các căn quảng đại,
biện tài quyết định,
nơi
tạng pháp Bồ Tát hay biết rõ Phật
hoa tam muội, tùy thời ngộ
nhập. Đủ biết
tất cả các thứ
thậm thâm thiền định.
Tất cả chư Phật
đều hiện ra trước. Trong khoảng một
niệm đi khắp cõi Phật,
quanh vòng qua lại vẫn chẳng
khác thời gian, cứu vớt
nạn khổ. Phân biệt
hiển bày chơn
thiệt bổn tế.
Được Phật
hiện tài, trụ hạnh
Phổ Hiền. Hay phân biệt rõ ngôn ngữ của
chúng sanh. Vượt hơn tất
cả pháp thế gian. Biết
rành tất cả pháp xuất
thế. Nơi
tất cả vạn
vật tùy ý tự tại.
Với tất cả
hữu tình làm bạn chẳng
chờ thỉnh. Có thể
chấp trì pháp tạng của
tất cả Như Lai. An trụ chẳng
dứt chủng tánh tất
cả Phật. Thương mến
hữu tình mở bày pháp nhãn cho họ. Bít cửa
ác đạo, mở cửa
thiện đạo. Với
tất cả hữu
tình xem như
cha mẹ anh em. Lại xem chúng sanh không khác thân mình. Tất cả
pháp lành đều được rốt
ráo. Vô lượng công đức
của chư
Phật đều đã được. Trí huệ thánh minh chẳng thể
nghĩ bàn.
Chúng đại
Bồ Tát vô lượng vô biên như
vậy đồng đến
pháp hội.
Lúc bấy
giờ sắc diện
của đức Thế
Tôn vui vẻ sáng rỡ.
Thừa oai thần
của đức Phật,
Tôn giả A Nan từ chỗ
ngồi đứng dậy
chỉnh lý y phục, trịch
vai hữu, gối hữu
chấm đất chắp
tay hướng lên đức
Phật bạch rằng:
“Bạch đức Thế
Tôn! Hôm nay sắc diện của
đức Thế Tôn vui vẻ
sáng rỡ, trong sạch như gương sáng, từ
nào chưa
từng được thấy.
Bạch đức
Thế Tôn! Tôi tự nghĩ rằng
hôm nay đức Thế Tôn an trụ
chỗ an trụ của
chư
Phật. Hôm nay Đức Thế
Nhãn an trụ nơi
hạnh của bực
đạo sư.
Hôm nay đức Thế Anh an trụ
nơi
đạo tối thắng.
Hôm nay đức Thế Hùng hành công đức của
Như
Lai.
Phải chăng hôm nay đức Thế
Tôn nghĩ nhớ đến chư Phật
quá khứ, vị lai, hiện
tại?”.
Đức Phật
phán dạy: “Nầy A Nan! Sao ông biết được việc ấy,
chư
Thiên bảo ông, hay là ông tự thấy
biết?”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Tôi thấy sắc
diện của đức
Thế Tôn rạng rỡ
ít khi có, nên mới bạch hỏi
như
vậy, chẳng phải
là do chư
Thiên mách bảo”.
Đức Phật
phán dạy: “Lành thay, lành thay!
Nầy A Nan! Ông phát trí huệ biện
tài hỏi được Như Lai việc
ấy. Ông là Đại Sĩ hi hữu
như
hoa Ưu
Đàm xuất hiện thế
gian, có lòng đại bi lợi ích chúng sanh, nên thưa
hỏi việc ấy.
Nầy A Nan! Đức
Như
Lai Chánh đẳng Chánh giác hay khai thị được vô lượng tri kiến.
Tại sao? Vì Như
Lai tri kiến vô chướng vô ngại.
Nầy A Nan! Như
Lai Chánh đẳng Chánh giác, nếu muốn
ở thế gian, có thể ở
đến vô lượng vô số
trăm ngàn ức na do tha kiếp, hoặc
là tăng hơn
số lượng trên, mà thân thể của
Như
Lai và các căn vẫn không tổn giảm.
Tại sao vậy?
Vì
Như
Lai được tam muội
tự tại rốt
ráo. Nơi
tất cả pháp là tự
tại hơn
hết.
Nầy A Nan! Ông phải lắng
nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ vì ông mà phân biệt giải
nói”.
Ngài A Nan thưa: “Vâng! Bạch đức
Thế Tôn! Tôi mong muốn được nghe đức Phật
chỉ dạy”.
Đức Phật
bảo Ngài A Nan: “Thuở xưa quá a tăng kỳ vô số đại
kiếp cô Phật xuất
thế hiệu là Nhiên Đăng Như
Lai giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh.
Sau đó có Quang Viễn Phật,
Nguyệt Quang Phật, Chiên Đàn Hương
Phật, Thiện Sơn Vương Phật,
Tu Di Thiên Quang Phật, Tu Di Đẳng Diệu
Phật, Nguyệt Sắc
Phật, Chánh Niệm Phật,
Ly Cấu Phật, Vô Trước Phật, Long Thiên Phật, Dạ
Quang Phật, An Minh Đảnh Phật,
Bất Động Địa
Phật, Lưu
Ly Diệu Hoa Phật, Lưu Ly Kim Sắc
Phật, Kim Tạng Phật,
Viêm Quang Phật, Viêm Căn Phật, Địa
Chủng Phật, Nguyệt
Tượng Phật,
Nhật AÂm Phật, Giải
Thoát Hoa Phật, Trang Nghiêm Quang
Minh Phật, Hải Giác Thần
Thông Phật, Thủy Quang Phật,
Đại Hương
Phật, Ly Trần Cấu
Phật, Xả Yểm
Ý Phật, Bửu Viêm Phật,
Diệu Đảnh Phật,
Dũng Lập Phật, Công Đức
Trì Huệ Phật, Tỳ Nhựt
Nguyệt Phật, Vô Thượng Lưu
Ly Quang Phật, Tối Thượng Thủ Phật,
Bồ Đề Hoa Phật,
Nguyệt Minh Phật, Nhựt
Quang Phật, Hoa Sắc Hương Phật,
Thủy Nguyệt Quang Phật,
Trừ Si Minh Phật, Độ
Cái Hạnh Phật, Tịnh
tín Phật, Thiện Tú Phật,
Oai Thần Phật, Pháp Huệ
Phật, Loan AÂm Phật, Sư Tử
AÂm Phật, Long AÂm Phật, Xử
Thế Phật, Chư Phật
như
vậy kế tiếp
nhau xuất hiện ra đời.
Kế đó có đức
Phật hiệu là Thế
Tự Tại Vương Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn
Sư,
Phật, Thế Tôn.
Lúc đó có Quốc
Vương
nghe đức Phật thuyết
pháp lòng rất vui đẹp phát tâm Vô thượng Bồ
đề, từ bỏ
ngôi vua xuất gia làm Tỳ Kheo hiệu là Pháp Tạng, đến
chỗ đức Phật
Thế Tự Tại
Vương,
cúi lạy chơn
đức Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, quỳ dài chắp tay nói kệ tụng
khen rằng:
Sắc diện
Phật rực rỡ
Oai Thần
Phật vô cực
Ánh sáng chói như
vậy
Không ai sánh bằng
Phật
Mặt nhựt
và mặt nguyệt
Cùng ma ni bửu
châu
Ánh sáng bị
che lấp
Chẳng khác gì đống mực
Dung nhan của
Như
Lai
Thế gian không ai sánh
Viên âm của
Như
Lai
Vang khắp
đến mười phương
Giới, đa văn, tinh tiến
Tam muội
và trí huệ
Oai đức
không ai sánh
Rất thù thắng
hy hữu
Đế lý sâu, niệm lành
Pháp hải
của chư
Phật
Đã
cùng tận thâm áo
Tột bờ
và suốt đáy
Vô
minh và tham sân
Thế Tôn đã không hẳn
Đấng nhơn hùng sư tử
Thần đức
không thể lường
Công huân Phật
rộng lớn
Trí huệ
sâu vi diệu
Quang minh tướng oai nghi
Chấn động
cõi Đại Thiên
Nguyện
tôi lúc làm Phật
Bằng với
đấng Pháp Vương
Vượt khỏi
dòng sanh tử
Không gì chẳng
giải thoát
Bố thí và trì giới
Nhẫn nhục
và tinh tiến
Thiền
định các tam muội
Trí huệ
là trên hết
Tôi thề
được làm Phật
Làm khắp
hết nguyện nầy
Tất cả
sự khủng bố
Tôi sẽ
làm an ổn
Giả sử
có chư
Phật
Số trăm ngàn muôn ức
Vô
lượng đấng
đại Thánh
Như
số cát sông Hằng
Dầu cúng dường tất cả
Chư
Phật Thế Tôn ấy
Vẫn chẳng
bằng cầu đạo
Tâm vững
chắc chẳng bỏ
Thí như hằng
hà sa
Thế giới
của chư
Phật
Lại có bất
khả kể
Vô
số những quốc
độ
Quang minh đều
chiếu đến
Khấp hết
những cõi ấy
Siêng tinh tấn
như
vậy
Sức oai thần
khó lường
Nếu lúc tôi làm Phật
Cõi nước tôi đệ nhứt
Rất nhiều
thứ kỳ diệu
Đạo tràng rất
siêu tuyệt
Cõi nước như
Niết bàn
Không cõi nào sánh bằng
Tôi sẽ
luôn thương
nhớ
Độ tất
cả chúng sanh
Người mười phương
sanh về
Lòng vui mừng
thanh tịnh
Đã
về đến nước tôi
Đều sung sướng an ổn
Trông mong Phật
chứng minh
Cho tôi được thành tựu
Do
sức muốn tinh tiến
Tôi phát nguyện
như
trên
Mười phương chư Thế
Tôn
Trí huệ
lớn vô ngại
Khiến
cho Thế Tôn nầy
Biết tâm niệm
của tôi
Giả sử
thân tôi ở
Trong những
chốn khốn khổ
Tôi tinh tiến
hành đạo
Chịu đựng
chẳng hối tiếc.
Nầy A Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng nói kệ
tụng xong bạch đức
Phật Thế Tự
Tại Vương
rằng:
Bạch đức
Thế Tôn! Tôi đã phát tâm Vô
thượng Chánh giác, xin đức Thế
Tôn rộng tuyên kinh pháp cho.
Tôi sẽ tu hành nhiếp lấy
Phật quốc thanh tịnh
vô lượng trang nghiêm. Khiến tôi mau thành bực Chánh giác nhổ hết
gốc rễ sanh tử
khổ lụy.
Thế Tự
Tại Vương
Như
Lai nói với Pháp Tạng Tỳ Kheo rằng:
Công hạnh
tu hành trang nghiêm Phật độ, ông tự
biết lấy.
Tỳ
Kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch đức
Thế Tôn! Nghĩa ấy sâu rộng
chẳng phải cảnh
giới của tôi. Ngưỡng mong đức Thế
Tôn chỉ dạy công hạnh
Tịnh độ của
chư
Phật Như
Lai. Tôi được nghe rồi
sẽ y theo tu hành để hoàn thành sở nguyện.
Lúc ấy
đức Phật Thế
Tự Tại Vương biết
Tỳ Kheo Pháp Tạng cao minh chí nguyện sâu rộng
liền giảng dạy
rằng:
Ví
như
biển cả kia, có một
người lấy
đấu múc nước trải
qua kiếp số còn có thể
cạn đến đáy được châu báu vi diệu. Có người chí tâm tinh tiến cầu
đạo chẳng thôi, tất
sẽ kết quả,
có nguyện gì mà chẳng được thành.
Rồi đức
Thế Tự Tại
Vương
Phật nói rộng hai trăm mười ức
quốc độ chư Phật,
những là sự thiện
ác của hàng thiên nhơn,
những sự xấu
tốt của cõi nước, và ứng theo tâm nguyện của
Tỳ Kheo Pháp Tạng mà hiện rõ ra cho thấy cả.
Nghe và thấy
các quốc độ nghiêm tịnh,
Tỳ Kheo Pháp Tạng phát khởi thệ
nguyện thù thắng vô thượng, tâm Ngài tịch tịnh,
trí Ngài rỗng rang, tất cả
thế gian không có ai bằng. Trọn
đủ năm kiếp, Ngài suy xét nhiếp lấy
công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Người cõi Phật xưa ấy
thọ mạng bao lâu?”.
Đức Phật
nói: “Nầy A Nan! Đức Phật
Thế Tự Tại
Vương
thọ mạng bốn
mươi
hai kiếp.
Thuở
ấy, Tỷ Kheo Pháp Tạng nhiếp
lấy công hạnh thanh tịnh
trang nghiêm hai trăm mười ức
nước Phật
và tu tập xong, Ngài đến trước đức Thế
Tự Tại Vương Như Lai cúi lạy
chơn
Phật, đi quanh bên hữu ba vòng chắp tay đứng
lại bạch rằng:
Bạch đức
Thế Tôn! Tôi đã nhiếp lấy
công hạnh trang nghiêm thanh tịnh nước Phật.
Đức Thế
Tự Tại Vương Như Lai nói:
Nay ông nên trình bày, phải biết
là đúng lúc, để phát khởi và làm vui đẹp tất
cả đại chúng. Bồ
Tát tu hành pháp ấy thì sẽ đầy
đủ vô lượng đại
nguyện.
Tỳ
Kheo Pháp Tạng thưa:
Bạch Đức
Thế Tôn! Mong được xét soi, tôi sẽ trình rõ những điều
nguyện mà tôi đã phát.
1.Giả
sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
2.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại
ba ác đạo thì tôi chẳng lấy
ngôi chán giác.
3.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
đều thân màu vàng ròng thì
tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
4.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi sắc
thân chẳng đồng có kẻ
xấu người đẹp
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
5.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
biết túc mạng, tối
thiểu là biết sự
việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
6.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
được thiên nhãn, tối thiểu
là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
7.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
được thiên nhĩ, tối thiểu
là nghe lời thuyết pháp của
trăm ngàn ức na do tha chư
Phật và chẳng thọ
trì hết, thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
8.Giả
sư
khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
được tha tâm trí, tối thiểu
là biết tâm niệm của
chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
9.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
được thần
túc, tối thiểu là khoảng
một niệm qua đến
trăm ngàn ức na do tha nước Phật
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
10.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi nếu
sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
11.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
ở nước tôi, chẳng
an trụ định tụ
quyết đến diệt
độ thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
12.Giả
sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu
chẳng chiếu đến
trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
13.Giả
sử khi tôi thành Phật, thọ
mạng có hạn lượng, tối thiểu
là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
14.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm
được, nhẫn
đến chúng sanh trong cõi Đại Thiên đều
thành bực Duyên Giác cùng nhau
chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết
được số
lượng ấy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
15.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi thọ
mạng không ai hạn lượng được, trừ
họ có bổn nguyện
dài ngắn tự tại.
Nếu chẳng như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
16.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi mà cón nghe danh từ bất
thiện thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
17.Giả
sử khi tôi thành Phật, mười phương
vô lượng chư Phật
chẳng đều ngợi
khen xưng
tụng danh hiệu của
tôi thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
18.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương
chí tâm tin ưa
muốn sanh về nước tôi nhẫn đến
mười niệm,
nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
19.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương
phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn
sanh về nước tôi. Lúc họ mạng
chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
20.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương
nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những
cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về
nước tôi mà chẳng được toại nguyện
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
21.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi chẳng
đều đầy đủ
ba mươi
hai tướng đại
nhơn
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
22.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất
cả đến bực
nhứt sanh bổ xứ.
Trừ người có bổn
nguyện tự tại
hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng
thệ chứa công đức
độ tất cả,
đi qua các nước Phật
tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật
mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ
đứng nơi
đạo chánh chơn
vô thượng, vượt hơn
công hạnh của hạng
tầm thường, hiện
tiền tu công đức Phổ
Hiền. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
23.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi thừa
thần lực Phật
đi cúng dường chư Phật,
khoảng bữa ăn nếu
không đến khắp vô số
vô lượng ức
na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
24.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi ở
trước chư Phật
hiện công đức mình, nếu
những thứ dùng để
cúng dường không có đủ theo ý muốn
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
25.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi chẳng
thể diễn nói nhứt
thiết trí thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
26.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi chẳng
được thân Kim Cương
Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
27.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
và tất cả vạn
vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ
hình sắc đặc biệt
lạ lùng vi tột diệu
không ai lường biết
được, dầu
là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
28.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi, nhẫn
đến người công đức
ít nhứt mà chẳng thấy
biết đạo tràng thọ
màu sáng vô lượng cao bốn
trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
29.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát trong nước tôi nếu
đọc tụng thọ
trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện
tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
30. Giả
sử khi tôi thành Phật, trí huệ
biện tài của Bồ
tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
31.Giả
sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy
tất cả vô lượng vô số bất
khả tư
nghị thế giới
chư
Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt,
nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
32.Giả
sử khi tôi thành Phật, từ
mặt đất lên đến
hư
không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả
vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp
lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ
hơn
hàng thiên nhơn.
Hương
ấy xông khắp vô lượng thế giới
mười phương. Bồ
Tát nghe mùi hương
ấy đều tu hạnh
Phật. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
33.Giả
sử khi tôi thành Phật, những
loài chúng sanh của vô lượng bất
tư
nghị thế giới
mười phương, được quang minh tôi chiếu đến
thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn
hàng thiên nhơn.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
34.Giả
sử khi tôi thành Phật, những
loài chúng sanh của vô lượng bất
tư
nghị thế giới
mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
35.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng nữ
nhơn
của vô lượng bất
tư
nghị thế giới
mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề
nhàm ghét thân người nữ,
nếu sau khi chết mà họ
còn sanh thân người nữ
lại thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
36.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát trong vô lượng bất
tư
nghì thế giới mười phương
thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh
đến thành Phật đạo.
Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
37.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
trong vô lượng bất
tư
nghị thế giới
mười phương nghe danh hiệu tôi rồi
năm vóc gieo xuống đất cúi đầu
vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh
Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời
đều kính trọng. Nếu
không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
38.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi muốn
được y phục
liền tùy nguyện hiện
đến, y phục đẹp
đúng pháp như
Phật khen ngợ tự
nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải
may cắt nhuộm giặt
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
39.Giả
sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn
nước tôi hưởng thọ khoái lạc
chẳng như
bực lậu tận
Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
40.Giả
sử khi tôi thành Phật, Bồ
Tát nước tôi tùy ý muốn thấy
vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương
thì liền được toại
nguyện, đều được soi thấy ở
trong những cây báu, như
thấy mặt mình hiện
rõ trong gương
sáng. Nếu không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
41.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến
lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu
chẳng được đầy
đủ thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
42.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi thảy đều
chứng được thanh tịnh
giải thoát tam muội, khoảng
một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả
tư
nghị chư
Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu
không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
43.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
44.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn
hở tu hạnh Bồ
Tát đầy đủ cội
công đức. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
45.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi thảy đều
chứng được phổ
đẳng tam muội, an trụ
trong tam muội nầy đến
lúc thành Phật thường thấy
vô lượng bất
khả tư
nghị tất cả
chư
Phật. Nếu không như vậy
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
46.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của
mỗi người muốn
được nghe pháp liền tự
nhiên được nghe. Nếu
không như
vậy thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
47.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền
được đến
bực bất thối
chuyển thì tôi chẳng lấy
ngôi chánh giác.
48.Giả
sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ
Tát ở quốc độ
phương
khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền
được đệ
nhứt nhẫn, đệ
nhị nhẫn và đệ
tam pháp nhẫn, nơi
các Phật pháp chẳng liền
được bực
bất thối chuyển
thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
Tuyên bốn
mươi
tám đại nguyện ấy
xong, Tỳ Kheo Pháp Tạng nói kệ tụng
rằng:
Tôi lập
nguyện hơn
đời
Tất đến
đạo vô thượng
Nguyện
nầy chẳng đầy
đủ
Thề chẳng
thành chánh giác
Tôi ở
vô lượng kiếp
Chẳng làm đại
thí chủ
Cứu khắp
kẻ nghèo khổ
Thề chẳng
thành chánh giác
Tôi đến
lúc thành Phật
Danh tiếng
siêu mười phương
Trọn có người chẳng nghe
Thề chẳng
thành chánh giác
Ly
dục, chánh niệm sâu
Tịnh huệ,
tu phạm hạnh
Chí cầu
đạo vô thượng
Làm thầy
hàng trời người
Thần lực
phóng quang minh
Chiếu
khắp vô biên cõi
Tiêu trừ
tối phiền não
Cứu thoát những
ách nạn
Khai mắt
trí huệ kia
Trừ tối
mù lòa nầy
Đóng bít các ác đạo
Thông đạt
cửa thiện đạo
Công đức
thành đầy đủ
Oai sáng chói mười phương
Sáng hơn mặt
nhựt nguyệt
Thiên quang bị
khuất lấp
Vì
chúng khai pháp tạng
Rộng ban báu công đức
Thường ở
trong đại chúng
Thuyết
pháp sư
tử rống
Cúng dường tất cả
Phật
Đầy đủ
những công đức
Nguyện,
huệ đều viên mãn
Được làm bực
Thế Tôn
Như
Phật vô ngại trí
Thông đạt
chiếu tất cả
Nguyện
công đức của tôi
Bằng Tối
Thắng Tôn nầy
Nguyện
đây nếu quả toại
Đại Thiên nên cảm động
Chư
Thiên Thần trên không
Sẽ mua hoa báu đẹp.
Tỳ
Kheo Pháp Tạng nói kệ xong, khắp
mặt đất liền
chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp
rải trên mình Ngài. AÂm nhạc tự
nhiên trên hư
không khen rằng: Quyết định
chắc thành Vô thượng Chánh giác.
Từ đó Tỳ Kheo Pháp Tạng tu tập
đầy đủ những
đại nguyện ấy
chắc thiệt chẳng
luống vượt khỏi
thế gian.
Nầy A Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng ở
chỗ đức Phật
Thế Tự Tại
Vương
và giữa đại chúng, chư
Thiên, Ma, Phạm, Long Thần Bát Bộ
mà phát hoằng thệ ấy.
Sau khi lập thệ rồi,
Ngài chuyên chí trang nghiêm tịnh độ tốt
đẹp rộng lớn
thù thắng hơn
cả, không suy không biến đổi.
Trong thời gian bất khả
tư
nghị triệu tải
kiếp lâu xa, Ngài tích chứa vô lượng đức hạnh
Bồ Tát, chẳng sanh dục
giác, sân giác, hại giác, chẳng khởi
dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, chẳng trước sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp, thành tựu nhẫn
lục chẳng kể
những sự khổ,
thiểu dục tri túc không có tham sân si, chánh định thường vắng lặng,
trí huệ vô ngại, không có tâm hư
ngụy siểm khúc, hòa nhan ái ngữ hỏi
thăm trước, dũng mãnh tinh tiến chí nguyện
không mỏi nhàm chuyên cầu lấy
pháp thanh bạch, đem ân huệ ban cho quần sanh được lợi ích, dùng đại trang nghiêm đầy đủ
những công hạnh, khiến
các chúng sanh thành tựu công đức, an trụ
nơi
pháp không vô tướng vô nguyện
vô tác vô khởi, quán các pháp như
huyễn như
hóa, rời xa lời thô ác hại
mình hại người, mình người đồng hại,
tu tập lời lành lợi
mình lợi người, mình người đồng lợi,
bỏ nước thôi vu dứt bỏ
tài sắc, tự làm sáu môn Ba la mật cũng dạy
người cùng làm, trong vô ương
số kiếp tích công chứa đức,
tùy sanh ở chỗ nào theo ý muốn, có vô lượng kho báu tự nhiên phát hiện, giáo hóa an lập vô số
chúng sanh an trụ nơi
đạo Vô thượng Chánh giác, hoặc làm trưởng giả cư sĩ họ
quý dòng sang, hoặc làm Quốc Vương Chuyển
Luân Thánh Vương,
hoặc làm Thiên Vương
ở sáu cõi trời Dục
giới nhẫn đến
làm Phạm Vương,
thường đem tứ
sự cúng dường cung kính tất cả
chư
Phật, Tỳ Kheo Pháp Tạng có những
công đức như
vậy chẳng thể
kể hết.
Miệng Ngài hơi thơm như hoa sen xanh, lỗ lông trên thân tiết hơi thơm chiên đàn, hơi
thơm
nầy xông khắp vô lượng thế giới.
Dung sắc Ngài đoan chánh đủ những
tướng tốt.
Tay Ngài thường xuất
sanh những châu báu vô tận, những
là y phục, thức ăn uống,
hoa báu đẹp, hương
quý thơm,
bảo cái, tràng phan những đồ
trang nghiêm. Những sự như vậy
hơn
hẳn hàng thiên nhơn,
với tất cả
pháp đều được tự
tại”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ
Tát đã thành Phật và nhập diệt
rồi hay hiện nay vẫn
còn, hay là Ngài chưa
thành Phật?”.
Đức Phật
phán: “Nầy A Nan! Pháp Tạng Bồ
Tát đã thành Phật, nay hiện ở
tại Tây phương
cách đây mười muôn ức
cõi, hiệu là Vô Lượng Thọ.
Thế giới của
Ngài tên là An Lạc”.
Ngài A Nan lại
thưa:
“Bạch đức Thế
Tôn! Đức Phật ấy
thành đạo đến nay đã được bao lâu?”.
Đức Phật
phán: “Nầy A Nan! Ngài thành Phật đến
nay được mười kiếp.
Cõi nước của đức
Phật ấy, tự
nhiên thất bảo: vàng, bạc,
lưu
ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hiệp làm thành đất rộng
lớn vô hạn. Bảy
báu ấy xen lẫn nhau chói sáng đẹp lạ
trang nghiêm thanh tịnh hơn
cả những tinh túy châu bảo của
tất cả thế
giới. Thất bảo
ấy như
thất bảo của
cung trời thứ sáu.
Lại quốc
độ ấy không có núi Tu Di, núi Kim Cương,
núi Thiết Vi, tất cả
các núi, cũng không có biển lớn, biển
nhỏ, sông ngòi hang giếng. Do thần
lực của Phật,
ai muốn thấy thì được thấy, quốc
độ ấy cũng không có địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, không có bốn mùa xuân hạ thu đông. Chẳng lạnh
chẳng nóng, thường ôn hòa điều thích”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Nếu
quốc độ ấy
không có núi Tu Di, thì Trời Tứ Thiên Vương và Trời
Đao Lợi ở nơi đâu?”.
Đức Phật
phán: “Nầy A Nan! Trời Dạ
Ma thứ ba lên đến Trời
Sắc Cứu Cánh đều
nương
ở đâu?”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Hành nghiệp và quả
báo chẳng thể nghĩ bàn”.
Đức Phật
phán: “Nầy A Nan! Hành nghiệp và quả
báo chẳng thể nghĩ bàn, thế giới
của chư
Phật chẳng thể
nghĩ bàn. Sức lành công đức của
chúng sanh ấy ở đất
hành nghiện nên được như vậy”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch
đức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng
nghi pháp ấy, chỉ vì chúng sanh đời sau, muốn
trừ lòng nghi ngờ của
họ nên tôi hỏi đức
Phật về nghĩa ấy”.
Đức Phật
phán: “Nầy A Nan! Đức Phật
Vô Lượng Thọ
oai thần quang minh tối tôn đệ
nhất, quang minh của chư Phật
chẳng bằng. Quang minh của Ngài hoặc
chiếu trăm thế giới,
ngàn thế giới, nhẫn
chiếu đến chiếu
suốt hằng sa thế
giới chư
Phật ở phương Đông, chín phương
kia cũng vậy. Còn chư
Phật khác, hoặc có Phật
quang chiếu bảy thước, hoặc chiếu
một do tuần, hai ba bốn năm do tuần, gấp
bội như
vậy cho đến hoặc
có Phật quang chiếu một
cõi nước Phật.
Vì
thế nên đức Phật
Vô Lượng Thọ
hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại
Quang Phật, Vô Đối Quang Phật,
Viêm Vương
Ngại Quang Phật, Thanh Tịnh
Quang Phật, Hoan Hỉ Quang Phật,
Trí Huệ Quang Phật, Bất
Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật,
Vô Xưng
Quang Phật và Siêu Nhựt Nguyệt
Quang Phật.
Có
chúng sanh nào gặp được quang minh ấy thì tiêu trừ tham sân si, thân ý nhu nhuyến, hớn
hở vui mừng tâm lành phát sanh.
Nếu là kẻ
ở tam đồ chỗ
rất khổ thấy
được quang minh ấy thì khổ
sở thôi dứt không còn, sau khi mạng chung đều
được thoát khỏi.
Quang minh của
đức Phật Vô Lượng Thọ sáng rỡ
chiếu đến quốc
độ của chư Phật
mười phương, không cõi nước nào chẳng
chiếu thấu. Chẳng
riêng gì ta hôm nay khen quang minh của
Ngài, mà tất cả chư Phật,
chúng Bồ Tát, Thanh Văn và Duyên
Giác đều cũng ca ngợi như vậy.
Nếu có chúng sanh nào nghe oai thần công đức
của quang minh Phật Vô Lượng Thọ rồi
ngày đêm khen nói chí tâm chẳng ngớt, thì tùy ý họ muốn
được sanh về
quốc độ của
đức Phật ấy,
được chúng Bồ
Tát, Thanh Văn đồng khen ngợi công đức
của họ, đến
lúc tối hậu, khi họ
thành Phật, Bồ Tát khen quang minh của họ
cũng như
vậy.
Đức Phật
phán tiếp: “Ta nói oai thần quang minh vòi vọi kỳ diệu
của đức Phật
Vô Lượng Thọ
cả ngày đêm suốt một
kiếp cũng chưa
hết được.
Lại nầy
A Nan! Đức Phật Vô Lượng Thọ thọ
mạng dài lâu chẳng nói kể
được. Ông biết
không, giả sử vô lượng chúng sanh ở trong thế
giới mười phương đều
được thân người và đều làm cho thành tựu bực
Thanh Văn, Duyên Giác đồng hội họp
thiền định nhứt
tâm hết sức trí huệ
của họ trải
năm ngàn muôn kiếp cùng suy tính số năm kiếp
thọ mạng dài lâu của đức
Phật ấy cũng chẳng
biết cùng tận được.
Chúng Bồ
Tát, Thanh Văn và hàng thiên nhơn
ở quốc độ
An Lạc ấy thọ
mạng dài lâu cũng như
vậy, chẳng phải
tính đếm hay dùng thí dụ mà biết
được.
Chúng Thanh Văn và Bồ Tát ở
cõi ấy, số đông vô lượng chẳng thể
kể nói được. Chúng Thánh ấy có trí huệ thông đạt
oai lực tự tại,
có thể trong bàn tay cầm lấy
tất cả thế
giới.
Nầy A Nan! Pháp hội ban sơ của
đức Vô Lượng Thọ
Phật, chúng Thanh Văn số đông chẳng
nói kể được, chúng Bồ
Tát cũng vậy.
Như
ông Đại Mục Kiền
Liên, trăm ngàn muôn ức vô lượng vô số
người, trong thời gian vô sô na do tha kiếp mãi đến
diệt độ, cùng nhau đồng tính kể,
vẫn chẳng thể
biết rõ số ấy
nhiều ít.
Ví
như
biển lớn sâu rộng
vô lượng, giả
sử có người chia một
sợi lông ra làm trăm phần, lấy
một phần lông ấy
chấm lấy một
giọt nước.
Nầy A Nan! Ý ông nghĩ sao? Giọt nước được chấm
lấy ấy sánh với
biển lớn kia thì thế nào?”.
-
Bạch đức Thế
Tôn! Giọt nước được chấm lấy
ấy đem sánh nhiều ít với
dung lượng của
biển lớn kia, thì chẳng phải
tính đếm ngôn từ hay thí dụ
mà biết được.
-
Nầy A Nan! Như
số người Đại
Mục Kiền Liên, trong trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp hội
ban sơ
kia, số được biết
như
giọt nước, còn số
chẳng biết như nước biển lớn.
Lại nầy
A Nan! Trong cõi nước An Lạc,
những cây bảy báu đầy
khắp cả nước: những cây vàng, cây bạc, cây lưu ly, cây pha lê, cây san hô, cây mã não,
cây xa cừ. Hoặc có những
cây hai thứ báu, ba thứ báu, nhẫn
đến bảy thứ
báu hiệp chung làm thành.
Hoặc có cây vàng, lá bông và trái bạc. Hoặc
có cây bạc, lá bông và trái vàng.
Hoặc có cây lưu
ly, lá bông và trái pha lê. Hoặc có cây thủy tinh, lá bông và trái lưu
ly. Hoặc có cây san hô, lá bông
và trái mã não. Hoặc có cây mã não, lá bông
và trái lưu
ly. Hoặc có cây xa cừ, lá bông và trái bằng các báu khác. Hoặc có cây báu: gốc tử
kim, thân bạch ngân, nhánh lưu
ly, cành thủy tinh, lá san hô, bông
mã não, trái xa cừ. Hoặc có cây báu: gốc bạch
ngân, thân lưu
ly, nhánh thủy tinh, cành san hô, lá
mã não, bông xa cừ, trái tử kim. Hoặc
có cây báu: gốc lưu
ly, thân thủy tinh, nhánh san hô,
cành mã não, lá xa cừ, bông tử kim, trái bạch ngân. Hoặc có cây báu: gốc thủy
tinh, thân san hô, nhánh mã não, cành xa cừ,
lá tử kim, bông bạch ngân, trái lưu
ly. Hoặc có cây báu: gốc san hô, thân mã não, nhánh xa cừ, cành tử
kim, lá bạch ngân, bông lưu
ly, trái thủy tinh. Hoặc có cây báu: gốc mã não, thân xa cừ, nhánh tử
kim, cành bạch ngân, lá lưu
ly, bông thủy tinh, trái san hô. Hoặc có cây báu: gốc xa cừ,
thân tử kim, nhánh bạch ngân, cành lưu
ly, lá thủy tinh, bông san hô, trái
mã não. Những cây báu ấy, hàng hàng gặp nhau, thân thân trông nhau, nhánh nhánh
chuẩn nhau, lá lá hướng nhau, bông bông thuận nhau, trái trái tương
đương,
màu sắc xinh đẹp chói sáng chẳng thể
nhìn thấy xiết hết
được. Gió mát luôn thổi đến
phát ra năm âm thanh cung thương
vi diệu tự nhiên hòa nhau.
Lại còn cây đạo tràng của
đức Vô Lượng Thọ
Phật cao bốn trăm vạn
dặm. Gốc cây đạo
tràng ấy chu vi năm ngàn do tuần, nhánh lá rợp bốn
phía hai mươi
vạn dặm. Cây ấy
do tất cả những
thứ báu tự nhiên hiệp
thành, trang nghiêm với vua châu báu, nguyệt quang ma ni trì hải luân bảo.
Quanh khắp trong các cành cây,
thòng rũ những chuỗi ngọc
trăm ngàn muôn màu biến dị nhiều
cách, vô lượng quang minh chiếu sáng vô lượng. Lưới báu trân diệu giăng che trên cây. Tất cả
sự trang nghiêm theo đúng
lúc mà hiện. Gió nhẹ hơi động
thổi qua các cây báu diễn xuất
vô lượng âm thanh nói pháp vi diệu, âm thanh ấy vang đến
khắp quốc độ
của chư
Phật. Ai tai nghe âm thanh ấy thì được thâm pháp nhẫn trụ
bực bất thối
chuyển đến thành Phật
đạo, nhĩ căn trong suốt chẳng
bị bệnh khổ.
Ai mắt thấy, mũi biết,
lưỡi hay, thân chạm, tâm rõ âm thanh quang minh ấy thì đều
được thâm pháp nhẫn trụ
bực bất thối
chuyển đến thành Phật
đạo, sáu căn trong suốt không có những bệnh
khổ.
Nầy A Nan! Nếu
hàng thiên nhơn
ở nước An Lạc
thấy cây đạo tràng ấy
thì được ba pháp nhẫn: một
là âm hưởng nhẫn,
hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sanh pháp nhẫn.
Những sự
ấy là đều do sức
oai thần của đức
Vô Lượng Thọ
Phật, cũng là do sức bổn
nguyện, sức nguyện
đầy đủ, sức
nguyện sáng tỏ, sức
nguyện kiên cố rốt
ráo của đức Vô Lượng Thọ Phật
vậy.
Nầy A Nan! Đế
Vương
trong đời có trăm ngàn âm nhạc, từ
Chuyển Luân Thánh Vương
nhẫn đến cõi trời
thứ sáu Đại Tự
Tại Thiên, âm nhạc tuần
tự hơn
nhau ngàn ức muôn lần.
Muôn thứ
âm nhạc trên Trời Đại
Tự Tại chẳng
bằng một thứ
âm thanh nơi
những cây bảy báu ở
nước An Lạc
của đức Vô Lượng Thọ Phật,
âm thanh nầy còn hơn
ngàn ức lần.
Cõi nước An Lạc cũng có muôn thứ tự
nhiên âm nhạc. Tiếng nhạc
ấy không tiếng nào chẳng
phải là tiếng pháp trong trẻo rõ ràng vi diệu hòa nhã, là đệ nhứt
trong những âm thanh ở các thế
giới mười phương.
Ở nước An Lạc, những
giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu đài đều toàn bảy
báu trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Lại còn có chơn
châu, minh nguyệt châu, châu ma ni, và
các châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên nhà.
Bốn phía nhà có những ao tắm
bằng bảy báu hoặc
rộng mười do tuần
hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn
đến hoặc rộng
trăm ngàn do tuần, ngang rộng sâu cạn
đều riêng một thứ.
Trong ao, nước bát công đức lặng
đầy trong thơm,
mùi vị như
cam lộ.
Ao
hoàng kim thì đáy trải cát bạch ngân.
Ao
bạch ngân thì đáy trải cát hoàng kim.
Ao
thủy tinh thì đáy trải cát lưu ly.
Ao
lưu
ly thì đáy trải cát thủy tinh.
Ao
san hô thì đáy trải cát hổ phách.
Ao
hổ phách thì đáy trải cát san hô.
Ao
xa cừ thì đáy trải cát mã não.
Ao
mã não thì đáy trải cát xa cừ.
Ao
bạch ngọc thì đáy trải cát tử
kim.
Ao
tử kim thì đáy trải cát bạch
ngọc.
Hoặc có ao hai báu, ba báu, nhẫn đến
hoặc có ao bảy báu chuyển
đổi hiệp thành.
Trên bờ
những ao tắm ấy,
có cây chiên đàn hoa lá rũ rợp mùi thơm
khắp nơi.
Những hoa sen xanh, những hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng cõi trời
màu nào ánh sáng màu ấy đẹp sáng che trên mặt nước.
Chúng Bồ
Tát, Thanh Văn và trời, người nước ấy lúc vào ao báu, nếu ý muốn
nước ngập
bàn chân, thì nước ngập
bàn chân, ý muốn nước ngập
gối thì nước ngập
gối, ý muốn nước đến lưng thì nước đến lưng, ý muốn
nước đến
cổ thì nước đến
cổ, ý muốn nước xối trên thân thì nước liền
tự nhiên xối trên thân, ý muốn nước trở lại
như
cũ thì nước trở
lại như
cũ, điều hòa ấm mát tự
nhiên theo đúng ý muốn của người tắm. Tắm
xong, thân thể thơ
thới, tinh thần cởi
mở, phiền não tiêu trừ trong sạch
sáng suốt nhẹ nhàng như là không có thân.
Các báu ở
đáy ao chói suốt sâu bao nhiêu cũng chiếu thấu
lên trên.
Sóng gợn
lăn tăn an tường lan đi chẫm rãi không mau không chậm, tự
nhiên vang lên vô lượng âm thanh vi diệu, tùy theo người đáng nên nghe thế nào thì đều
được nghe:
Hoặc nghe tiếng
niệm Phật, hoặc
nghe tiếng diệu pháp, hoặc
nghe tiếng ca ngợi Bồ
Tát Tỳ Kheo Tăng, hoặc nghe tiếng tịch
tịnh, hoặc nghe tiếng
không vô ngã, hoặc nghe tiếng đại
từ bi, hoặc nghe tiếng
Ba la mật, tiếng thập
lực, tiếng vô úy, tiếng pháp bất
cộng, tiếng thần
thông, tiếng trí huệ, tiếng
vô sở tác, tiếng bất
sanh bất diệt, tiếng
vô sanh nhẫn, cho đến tiếng
cam lộ quán đảnh, và những
tiếng diệu pháp khác.
Những âm thanh như
vậy đến xứng
theo ý người nghe làm cho vui mừng vô lượng, thuận theo nghĩa ly dục thanh tịnh
chơn
thiệt tịch diệt,
thuận theo Tam bảo, lực,
vô úy, pháp bất cộng, thuận
theo đạo sở hành của
các bực Bồ Tát, Thanh Văn.
Nước An Lạc
ấy không có tên tam đồ khổ
nạn, chỉ có âm thanh vui thích tự nhiên, vì thế nên nước ấy được tên là An Lạc.
Nầy A Nan! Nơi quốc
độ An Lạc của
đức Vô Lượng Thọ
Phật, những người sanh về đó có đủ
sắc thân thanh tịnh, các âm thanh vi diệu, thần
thông công đức như
vậy. Cung điện của
họ ở, những
thứ y phục, uống
ăn, hoa hương
và đồ trang nghiêm đều như là những
vật ở cung Trời
Đại Tự Tại
thứ sáu.
Người nước ấy muốn
ăn, chén bát bảy báu tự nhiên hiện
ra, những là chén bát bằng vàng, bạc,
lưu
ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chơn châu đều
theo đúng ý muốn mà hiện đến,
thức uống ăn trăm vị thơm ngon tự
nhiên đầy trong chén bát ấy.
Dầu cho những
thức uống ăn như vậy
mà không có ai ăn. Chỉ thấy sắc
ngửi mùi ý cho là ăn thì liền tự
nhiên no đủ, thân tâm nhu nhuyến không hề
tham luyến. Xong rồi tất
cả biến mất,
đến giờ lại
hiện ra.
Nầy A Nan! Cõi nước của
đức Phật ấy
thanh tịnh an ổn khoái lạc
vi diệu kế đạo
vô vi Niết bàn.
Trời, người, Thanh Văn và Bồ Tát ở
nước ấy
trí huệ cao minh, thần thông tự
tại, đều đồng
một thân hình như
nhau không có tướng khác lạ,
chỉ vì thuận theo các nước phương khác mà có tên là trời, người.
Dung mạo
của người nước ấy đoan chánh hơn
hẳn thế gian, nhan sắc vi diệu
chẳng phải trời,
chẳng phải người, đều bẩm
thọ thân hình tự nhiên hư vô tột
bực.
Nầy A Nan! Như
ở thế gian nầy,
người ăn mày nghèo cùng tật nguyền
đứng cạnh Đế
Vương,
hình trạng dung mạo của
họ có giống nhau không?
-
Bạch đức Thế
Tôn! Người ăn mày ấy
đứng bên Đế Vương thì xấu
xí trăm ngàn muôn ức lần không gì ví dụ được. Tại sao vậy?
Vì người ăn mày nghèo cùng rất ty tiện,
áo chẳng che được thân, ăn chẳng no được bụng, đói lạnh
khốn khổ mất
cả sanh lý. Đó là do đời trước họ chẳng
trồng cội đức,
giữ của chẳng
bố thí, càng giàu càng bỏn sẻn,
chỉ muốn được không, tham cầu không chán, chẳng tin làm lành, phạm nhiều
sự ác chứa bằng
núi. Sau khi chết, tài sản tiêu tán. Cả đời
khổ thân chứa nhóm rồi
vì của mà rầu lo. Với
mình vô ích, luống làm sở hữu
cho kẻ khác. Không điều lành để
nhờ, không phước đức
đê nương.
Vì thế nên sau khi chết đọa
vào ác đạo mãi mãi chịu khổ.
Hết tội được sanh ra làm người hạ
tiện ngu si xấu xí.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment