Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 16
PHÁP HỘI
TỊNH CƯ THIÊN TỬ
THỨ TƯ
Nghe tiếng nhẫn kinh, đây là tướng tam địa.
Nghe tiếng kinh tinh tiến, đây là tướng tứ địa.
Nghe tiếng kinh thiền kinh, đây là tướng ngũ địa.
Nghe tiếng kinh Bát Nhã Ba la mật, đây là tướng lục địa.
Trừ người chẳng siêng tu tập và người được Phật hộ trì thiện tâm thành tựu.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu chiêm bao nghe tiếng nói tên Tỳ Kheo thuyết pháp, đây là thấy tướng sơ địa đến tứ địa. Bồ Tát nầy nhiều gian nan, nhiều nghi hối, ít trí huệ. Người nầy phải y chỉ thiện tri thức, phải tu tâm vô ngại, phải phương tiện khuyên tất cả chúng sanh tu tâm không
nghi hối. Như vậy thì được thanh tịnh.
Nếu chiêm bao thấy mình nghe tên Pháp Sư trước đã được nghe, đây là tướng sơ địa.
Nghe tên Pháp Sư chưa được thấy, đây là tướng nhị địa.
Nghe tên Pháp Sư ở thế giới khác, đây là tướng tam địa.
Nghe tên của Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ, hoặc nghe tên của bực ưa thích bực địa trên, đây là tướng tứ địa.
Lại này Kim Cương Tồi! Nếu chiêm bao thấy mình được biện tài, đây là tướng sơ địa đến tam địa. Bồ Tát nầy là căn khi biện tài. Nếu xa lìa ba pháp sau đây thì mau được trí huệ sáng suốt. Một là thấy người được lợi mà ganh ghét, hai là vì lợi dưỡng mà gian trá, ba là vì lợi dưỡng mà gần gũi. Phải xa lìa ba pháp ấy mới được lợi ích trí huệ biện tài:
Chiêm bao thấy mình nói ít kệ tụng, đây là tướng sơ địa.
Thấy hay nói các thứ kệ tụng, đây là tướng nhị địa.
Thấy nói kệ nghĩa thậm thâm, đây là tướng tam địa, hay nói nhiều kệ về bực địa trên.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy mình được biện tài thuyết kinh, đây là tướng sơ địa đến bát địa. Người thấy tướng nầy là có nhiều công đức nhơn duyên, phải siêng tu giới đức, phải tu cúng dường thù thắng, cúng dường người giữ hạnh thanh tịnh, chẳng nên khinh mạn. Như vậy thì trong chiêm bao sẽ chịu nghiệp chướng, ít bị khổ báo. Người nầy phát sanh tứ biện tài của bực sơ địa.
Chiêm bao thấy nói kinh Phuong Đẳng, đây là tướng nhị địa.
Thấy nói các thứ kinh, đây là tướng tam địa.
Thấy nói nhơn duyên trước, đây là tướng tứ địa.
Thấy nói ba đời, đây là tướng ngũ địa.
Thấy nói Ba la mật, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy nói kinh thậm thâm, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy noi tất ca quyết định, đây là thấy tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu trong chiêm bao nghe tiếng đà la ni, đây là thấy tướng từ sơ địa đến thất địa. Người nầy ít nghiệp chướng, bị các phiền não, phải hỏi bực trí giả pháp tu tịnh mặc được giải thoát:
Chiêm bao thấy ở trong thôn xóm nghe tiếng đà la ni, đây là tướng sơ địa.
Thấy ở trong phòng nghe tiếng đà la ni, đây là tướng nhị địa.
Thấy ở trong Tăng phòng nghe tiếng đà la ni, đây là tướng tam địa.
Thấy ngồi ở a lan nhã nghe tiếng đà la ni, đây là tướng tứ địa.
Thấy ngồi nghe tiếng đà la ni, đây là tướng ngũ địa.
Thấy ở trong vườn nhà nghe tiếng đà la ni, đây là tướng lục địa.
Thấy ở đỉnh núi nghe tiếng đà la ni, đây là tướng thất địa.
Lại này Kim Cương Tồi! Nếu trong chiêm bao nghe danh
hiệu của Như Lai ở thế giới phương khác từ nào chưa từng được nghe. Người nầy thấy tướng thọ ký của sơ địa đến bát địa. Vì kiêu mạn tự tại nên chẳng xu hướng đạo vô thượng, nhiều ma nghiệp, vì lợi dưỡng mà tu oai nghi bất tịnh, sau đó mới xu hướng đạo:
Chiêm bao thấy được nghe danh Phật phương khác, thấy tu rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy trì giới rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy nghe học rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy được phương tiện rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy nghi rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy được trí rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy thuyết pháp rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy thọ trì rồi kiêu mạn, đây là thấy tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu trong chiêm bao được nghe tiếng của Bồ Tát nào đó ở thế giới nào đó, đây là thấy tướng sơ địa đến ngũ địa. Người nầy được Bồ Tát ức niệm, ít phiền não, phải rời lìa kiêu mạn và khuyên nhiều người tu trí, như vậy thì được tương ưng.
Chiêm bao thấy được nghe tiếng Bồ Tát nào đó ở thế giới nào đó, được đà la ni, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy xuất gia, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy khổ hạnh, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy đạo tràng hàng ma, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy đại giác ngộ, đây là thấy tướng ngũ địa.
Nếu chiêm bao thấy được nghe tiếng Bồ Tát nào đó ở thế giới nào đó, nghe nhiều, nghe thấy bất định, thiện tâm yếu kém, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy trụ tại tâm nghi, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy thối tâm phóng dật, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy tăng thượng phóng dật, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy nhiều định, đây là thấy tướng ngũ địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy ở trong biển, Bồ Tát nầy tinh tiến. Đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy phải tu đa văn tinh tiến huệ giải.
Chiêm bao thấy ở trong biển không chỗ y chỉ, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy ở bờ biển, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy ngồi thuyền, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy đi qua, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy lên thuyền, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy ngồi trong nước, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy ngồi trong giữa thuyền, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy trong thuyền đầy châu báu mình ngồi trên đó muốn ra khỏi biển, đây là thấy tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy chứa nhóm châu báu, đây là thấy tướng sơ địa đến tam địa. Người nầy gặp nhiều khổ não. Phải thích tu tịnh nghiệp, chẳng tìm chỗ dở của người, biết ơn người thuyết pháp. Phải xu hướng như vậy.
Chiêm bao thấy đào đất được châu báu, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy được châu báu lộn trong đất, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy được châu báu lộn trong cỏ, đây là thấy tướng tam địa.
Đây là tướng ma nghiệp chẳng siêng tinh tiến, hoặc là tướng ma nghiệp chướng chẳng siêng tu phương tiện của tứ địa đến lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy có đảnh núi Tu Di, người nầy bất thối chuyển. Đây là thấy tuớng sơ địa đến ngũ địa. Người ấy có chút công đức, vì gần ác hữu gian tra ùkhông có tín
tâm. Phải gần thiện tri thức tu chẳng gian trá, tu nhiiềàu về tín giải. Phải xu hướng như vậy:
Chiêm bao thấy ở tại núi Tu Di, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa.
Thấy ở tại đảnh núi Tu Di, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy mình trông ra bốn phía, đây là thấy tướng bát địa.
Thấy mình ngồi trên đảnh Tu Di, đây là thấy tướng cửu địa.
Thấy núi Tu Di lay động, đây là thấy tướng thập địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng sơ địa đến ngũ địa, trừ hại tất cả phiền não nghiệp chướng, với người thuyết pháp chẳng có tâm cung kính. Người nầy phải tu chẳng siểm khúc để trừ nghiệp chướng. Như vậy thì xu hướng Bồ đề, thấy tướng sơ địa thì ngày ba thời siêng tu tinh tiến. Thấy tướng nhị địa thì siêng tu niệm Phật. Thấy tướng tam địa thì tu không tam muội. Thấy tướng tứ địa thì tu đại bi. Thấy tướng ngũ địa thì tu huệ.
Chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy ở giữa núi, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy ở trên núi, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy đứng trên núi nhìn xem, đây
là thấy tướng tứ địa.
Thấy ngồi trên núi, đây là thấy tướng ngũ địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu chiêm bao thấy đi lên núi, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa. Bồ Tát nầy ít nghiệp chướng, mà ma nghiệp tăng thạnh. Bồ Tát nầy phải xả bỏ tất cả vật sở ái, cúng dường người có trí huệ. Ở bên người trí huệ phải đè dẹp kiêu mạn.
Chiêm bao thấy đi lên bảy núi lớn nhẫn đến đi lên núi Tu Di, đây là
thấy tướng thất địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy trèo lên cây, đây là thấy tướng sơ địa đến tứ địa, phải hiểu biết nghiệp chướng và ma nghiệp. Người nầy phải gần gũi y chỉ thiện tri thức, được trí huệ sáng suốt, luôn luôn phải quyết rõ pháp nghĩa. Như vậy thì xu hướng Vô thượng Bồ đề.
Chiêm bao thấy mình trèo lên cây đầy đủ nhành lá râm mát, đây là
thấy tướng sơ địa.
Thấy leo lên cây hương thọ, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy leo lên cây hoa thọ, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy leo lên cây quả thọ, đây là thấy tướng tứ địa.
Đây là thấy tướng siêng tinh tiến. Nếu chẳng siêng tinh tiến thì là ma nghiệp.
Nếu thấy cây trên chỗ cao đầy đủ nhánh lá bông trái thì trừ được nghiệp chướng.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy long tượng, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy thật hành bố thí mà chẳng thật hành huệ, thiếu kém thiện căn, cần phải tu tín căn, phải tu thiện niệm. Như vậy thì tương ưng với sơ địa kia.
Chiêm bao thấy long tượng chẳng được sạch sẽ, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy bạch long tượng, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy bạch long tượng sáu ngà, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy trang nghiêm long tượng, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy long tượng cầm phan lọng, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy long tượng vui giỡn múa, đây là thấy tướng thất địa.
Chiêm bao thấy mình trèo lên lưng long tượng, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa, một đời sẽ được bực Như Lai Ứng Cúng, nhiều hy vọng được nhập pháp trí. Bồ Tát nầy phải siêng tu tinh tiến, khuyên người xa rời lừa dối gian trá, phải luôn tri túc và thích bố thí. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy trèo lên lưng voi, đây là tướng sơ địa.
Thấy mặc y trắng leo lên lưng voi, đây là tướng nhị địa.
Thấy mặc y nhuộm leo lên lưng voi, đây là tướng tam địa.
Thấy mặc y các thứ màu lên lưng voi, đây là tướng tứ địa.
Thấy mặc y nhuộm trang nghiêm đầy đủ lên lưng voi, đây là tướng ngũ địa.
Thấy đội mão lên lưng voi, đây là tướng lục địa.
Thấy cầm lọng trang nghiêm lên lưng voi, đây là tướng thất địa. Trừ được ma nghiệp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy leo lên lưng ngựa, đây là thấy tướng sơ địa đến tứ địa. Bồ Tát nầy phải y chỉ và tu Giới Ba la mật. Người nầy ít nghiệp chướng mà nhiều ma nghiệp, phải siêng tu không huệ, tu tín căn thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mình leo lên lưng ngựa đứng, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy lên lưng ngựa đi, đây là tướng nhị địa.
Thấy lên lưng ngựa chạy, đây là tướng tam địa.
Thấy lên lưng ngựa trang nghiêm, đây là tướng tứ địa.
Trừ được tăng thượng mạn ma nghiệp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy mình phát thệ nguyện thành thiệt, đây là tướng của tất cả địa, sơ địa đến thập địa. Người nầy nhiều nghiệp chướng, nhiều ma nghiệp. Bồ Tát nầy phải làm việc thiện, tu tập xuất sanh tam muội, phải chánh tu oai nghi, chẳng chứa nhóm nhiều thì trừ được nghiệp chướng.
Chiêm bao thấy mình phát thệ bố thí thành thiệt, đây là tướng sơ địa.
Thấy phát thệ vì giải trừ hệ phược, đây là tướng nhị địa.
Thấy phát thệ vì giải trừ bịnh, đây là tướng tam địa.
Thấy phát thệ vì bố thí, giải trừ hệ phược và giải trừ bịnh cho người trong thành trì, đây là tướng tứ địa.
Thấy phát thệ vì quốc vương, đây là tướng ngũ địa.
Thấy phát thệ vì Diêm Phù Đề, đây là tướng lục địa.
Thấy phát thệ vì bốn châu thiên hạ, đây là tướng thất địa.
Thấy phát thệ vì Tiểu Thiên thế giới, đây là tướng bát địa.
Thấy phát thệ vì Đại Thiên thế giới, đây là tướng cửu địa.
Chiêm bao thấy phát thệ, lúc mặt nhụt mọc, đi dưới đất trời mưa thiên hoa, đây là thấy tướng thập địa. Trừ được ma nghiệp từ sơ địa đến lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy cây có trái, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa, thành tựu đầy đủ pháp thọ ký. Bồ Tát nầy phải tu hạnh bố thí chẳng cầu báo, chánh trực chẳng tìm lỗi người khác. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy cây có ít quả, đây là tướng sơ địa.
Thấy cây có nhiều trái, đây là tướng nhị địa.
Thấy cây có trái đắng, đây là thấy tướng tam địa, tứ địa.
Thấy dược thọ, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy thiên thọ, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy cây có trái ngọt, đây là thấy tướng thất địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy cây có hoa, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa. Bồ Tát nầy nên tu tập các thiện căn, chẳng gẫn gũi tứ chúng. Như vậy thì được xu hướng đạo vô thượng.
Chiêm bao thấy cây nhiều hoa không hương thơm, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy cây có hoa thơm, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy cây có nhiều hoa thơm, đây là tướng tam địa.
Thấy cây có hoa có trái xen tạp, đây là tướng tứ địa.
Thấy cây có hoa không có lá,
đây là tướng ngũ địa.
Thấy thiên hoa thọ, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy Bồ đề thọ, đây la thấy tướng thất địa.
Ngoại trừ người ở tại tay ác tri thức, giải đãi chẳng tinh tiến, có ma nghiệp của địa trên, đầy đủ tất cả kiến chấp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy tòa thành chưa từng thấy, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy có nghiệp chướng vô sanh pháp nhẫn, phải trước tu tập kiên cố tam muội, không tam muội, vô ngại tâm, tu khổ hạnh. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy thành trì mới xây cất, đây là tướng sơ địa.
Thấy tòa thành xây cất xong, đây là tướng nhị địa.
Thấy trong thành đường sá chợ búa đã hoàn thành, đây là
tướng tam địa.
Thấy chỗ du hí đã hoàn thành, đây
là tướng tứ địa.
Thấy ao nước đã hoàn thành, đây là tướng ngũ địa và lục địa.
Ngoại trừ người ở tại tay của ác tri thức, giải đãi chẳng tinh tiến, có ma nghiệp địa trên và đầy đủ kiến chấp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy ao A Nậu Đạt, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy ít phiền não, mau xuất sanh huệ sáng. Nếu không gian trá, siêng tu
tinh tiến chẳng đoái thân mạng, đem tất cả đồ cần dùng làm vừa ý người khác. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy bờ ao A Nậu Đạt, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy trong ao, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy ao toàn diện, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy tay mình chạm mặt nước, đây là tướng tứ địa.
Thấy rửa tay, đây là tướng ngũ địa.
Thấy ngồi bên bờ ao, đây là tướng lục địa.
Thấy A Nậu Long Vương, đây là tướng thất địa.
Thấy vào Long cung cho thêm
khí lực, đây là tướng bát địa. Trừ được ma nghiệp cửa địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy Thiên Tử, đây là thấy tướng các địa trên ngũ địa. Bồ Tát nầy ít nghiệp chướng, ít ma nghiệp như giọt nước rất nhỏ. Phải trong thời gian ba tháng siêng tu tịch tịnh trừ nghiệp chướng được sáng sạch. Như vậy, Bồ Tát nầy phải niệm Phật mười phương, phải tu chẳng sầu não.
Chiêm bao thấy Tứ Đại Thiên Vương, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy Đao Lợi Thiên Tử, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy Đâu Suất Thiên Tử, đây là thấy tướng bát địa.
Thấy Phạm Thiên Thiên Tử, đây là thấy tướng cửu địa.
Thấy Tịnh Cư Thiên Tử, đây là thấy tướng thập địa.
Sơ địa thì tương ưng tất cả, thấy ma nghiệp, thành tựu thiện tâm thấy tất cả thập địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy rồng, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa, sẽ thành tựu, thuận nhẫn. Bồ Tát nầy dầu siêng tu tinh tiến, nhưng luôn luôn ngừng nghỉ, dầu siêng tu phương tiện nhưng lại hay buông bỏ. Bồ Tát nầy có nhiều của cải phải đem cung cấp cho Pháp Sư, nhẫn đến vật sở ái cũng đem cho, sau đó mới xu hướng được đạo vô thượng.
Chiêm bao thấy ở trên núi thấy rồng, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy ở đồng trống thấy rồng, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy ở trên bờ ao thấy rồng, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy ở trong rừng thấy rồng, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy ở trong chỗ đông người thấy rồng, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy ở trong thành vua thấy rồng, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy có đông người vây quanh mà thấy rồng, đây là tướng thất địa.
Thấy ở trong hư không thấy rồng, đây là thấy tướng bát địa. Trừ ma nghiệp, nghiệp chướng sơ địa đến lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy đi đến Diêm Phù Đề phương khác, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy nếu được pháp nhẫn thì ít có chướng, nếu chẳng siêng tu thì chẳng được nhẫn. Nếu giải đãi gian trá, nếu sanh tín căn thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mình đến Diêm Phù Đề phương khác, nếu chẳng thích thấy Diêm Phù Đề, đây là tướng sơ địa.
Nếu thích thấy, đây là tướng nhị địa.
Nếu thấy làng chợ thành ấp, đây là tướng tam địa.
Nếu thấy vườn nhà nhiều hoa, đây là tướng tứ địa.
Nếu thấy đại chúng vui mừng, đây là tướng ngũ địa.
Nếu thấy cùng nhau vui chơi, đây là tướng lục địa. Trừ được ma nghiệp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy mặc bạch y, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy nghiệp chướng thanh tịnh, ma nghiệp tăng thạnh. Bồ Tát nầy sanh tâm mến ưa chánh pháp, lại hay thối giảm công đức, nhiều những gian nan. Bồ Tát nầy chẳng nên lẫn tiếc tất cả vật, như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mặc y cũ tốt, đây là tướng sơ địa.
Thấy mặc y mới vạt dài, đây là tướng nhị địa.
Thấy y dài, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy y đã đập nện, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy y đã đập nện ủi, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy y đã được nhuộm, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy y màu voi trắng, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy thiện y, đây là thấy tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy được vòng chuỗi báu choàng đầu, đây là thấy tướng sơ địa đến cửu địa. Bồ Tát nầy không nghiệp chướng, không ma nghiệp, phải tự trách lỗi mình chẳng trách người, cầu pháp tu văn huệ, chẳng gây đấu tụng. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy được vòng chuỗi choàng đầu bằng một thứ báu, đây là tướng sơ địa. Hai thứ báu đến bảy thứ báu, là tướng nhị địa đến thất địa.
Thấy được vòng chuỗi báu ngọc Ma Ni choàng đầu của Chuyển Luân Thánh Vương, đây là bát địa.
Thấy được vòng chuỗi choàng đầu cõi trời, đây là tướng cửu địa. Trừ được ma nghiệp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy đầu mình đội vòng hoa, đây là tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy thiệt có nghiệp chướng. Nếu sơ trung hậu sanh tâm định thiện, xả thí tất cả vật chẳng sầu não thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy được vòng hoa một màu, là tướng sơ địa.
Thấy được vòng hoa màu xấu là tướng nhị địa.
Thấy được vòng hoa nhiều màu, là tướng tam địa.
Thấy được vòng hoa tất cả thứ hoa, đây là tướng tứ địa.
Thấy được vòng hoa long hoa, đây là
tướng ngũ địa.
Thấy được vòng hoa thiên hoa, đây
là tướng lục địa.
Thấy được vòng hoa các thứ thiên hoa, đây là tướng thất địa.
Thấy được vòng hoa đủ các thứ thiên hoa đẹp, đây là tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy lượm được các thứ hoa, đây là tướng sơ địa đến lục địa. Bôà Tát nầy phải khuyến hóa người tu tinh tiến. Nếu có thế lực chẳng nên lấn hiếp người khác.
Chiêm bao thấy lượm được hoa có sắc không hương, đây là tướng sơ địa.
Thấy được hoa có sắc hương, đây là tướng nhị địa.
Thấy được hoa màu hoàng kim, đây là
tướng tam địa.
Thấy được hoa nhiều loại màu, đây là tướng tứ địa.
Thấy được hoa thủy lục, đây là tướng ngũ địa.
Thấy được các loại hoa thủy lục, đây là tướng lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy đánh trống là tướng sơ địa đến cửu địa. Bồ Tát nầy nghiệp chướng ma chướng tăng thạnh, phải siêng tu đa văn tinh tiến, với tất cả chúng sanh có tâm bình đẳng. Như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy ở hư không đánh trống, là tướng sơ địa.
Thấy ở đất bằng đánh trống, là tướng nhị địa.
Thấy ở trong thôn xóm đánh trống, là tướng tam địa.
Thấy ở trong thành lớn đánh trống, là tướng tứ địa.
Thấy ở trong đại chúng đánh trống, là tướng ngũ địa.
Thấy ở trên nhà đánh trống, là tướng lục địa.
Thấy ở trong núi đánh trống, là tướng thất địa.
Thấy ở đỉnh núi Tu Di đánh trống, là tướng bát địa.
Thấy trong không gian phía
trên núi Tu Di đánh trống, là tướng cửu địa. Trừ được ma nghiệp siêng tu trí huệ.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy nhựt thực nguyệt thực, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy trước kia hủy diệt thiện pháp, nhiều phiền não gây ác nghiệp. Phải đem tất cả vật sở hữu bố thí chẳng mong báo đền thì sẽ được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mặt nhựt mặt nguyệt mới mọc, đây là thấy tướng sơ địa và nhị địa.
Thấy mây, là tướng tam địa.
Thấy mây nhóm lại, đây là tướng tứ địa.
Thấy mây tan, là tướng ngũ địa.
Thấy không có bụi mù, đây là tướng lục địa.
Thấy giờ mặt nhựt mặt nguyệt đứng ngay giữa trời, thì trừ được ma nghiệp nghiệp chướng.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy lấy vật dơ bẩn thoa trên mình, đây là thấy tướng sơ địa đến tam địa. Bồ Tát nầy đời trước mắng nhiếc Hiền Thánh, tập hạnh ác. Bồ Tát nầy phải ở trong khoảng thời gian ba năm, ngày đêm sáu thời siêng tu tập sám hối, tự hậu chẳng có lòng khinh mạn người khác, phải tu tín giải nhiều, như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy lấy bùn xanh tự thoa vào thân, đây là thấy tuớng sơ địa.
Thấy thoa nửa thân mình, là tướng nhị địa.
Thấy thoa khắp cả thân mình, là tướng tam địa.
Nhẫn đến lục địa phải xét biết ma nghiệp.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy mình làm vua, đây là tướng sơ địa đến thập địa. Bồ Tát nầy có thiện căn dầy mà cũng nhiều gian nan, chẳng nên trông người khác cúng dường, chẳng sanh lòng gian trá đối với người, tu tập hạnh chất trực bố thí, mình có trì giới thì cùng người chung, chẳng tự khen, chẳng chê người, như vậy để xu hướng đạo Bồ đề.
Chiêm bao thấy mình làm vua, nếu thấy ở trong thôn xóm chỗ khủng bố, là người sơ địa.
Thấy ở trong tăng phòng, là tướng nhị địa.
Thấy ở trong vườn nhà, là tướng tam địa.
Thấy ở trong miếu thờ trời, là tướng tứ địa.
Thấy ở trong đại thành, là tướng ngũ địa.
Thấy ở trong núi, là tướng lục địa.
Thấy làm vua Diêm Phù Đề, là tướng thất địa
Thấy làm chuyển luân vương la tướng bát địa.
Thấy ở trong biển, là tướng cửu địa.
Thấy ở tại đỉnh núi Tu Di, là tướng thập địa.
Trừ được ma nghiệp chẳng siêng tinh tiến. Phải thường niệm Phật và Bồ Tát.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy ở trước vua, hoặc ở trước quan Phụ Tướng, hoặc ở trong đại chúng, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa, những thứ phiền não. Bồ Tát nầy phải giáo hóa chúng sanh, phải làm việc cúng dường, siêng tu tập thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy ở trước vua, hoặc quan, hoặc ở giữa đại chúng bố thí, là tướng sơ địa.
Thấy trì giới, là tướng nhị địa
Thấy nghe pháp, là tướng tam địa
Thấy thiền định, là tướng tứ địa.
Thấy thọ trì, là tướng ngũ địa.
Thấy thần thông, là tướng lục địa.
Thấy thuyết pháp, là tướng thất địa.
Thấy quyến thuộc thành tựu, là tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy ngồi xe tại vườn tại rừng, đây là thấy tướng sơ địa đến cửu địa. Bồ Tát nầy chẳng biết là thế gian lợi dưỡng uống, ăn, bị ma kéo trói, ít nghiệp chướng. Phải cung cấp đồ cần dùng cho Pháp Sư. Phải tu tập tịch mặc. Như vậy mà xu hướng đạo Bồ đề.
Bồ Tát nầy thấy tướng sơ địa thì không trí, thấy tướng nhị địa thì không huệ, thấy tướng tam địa thì không trí quyết định, thấy tướng tứ địa thì không trí thiền, thấy tuớng ngũ địa thì không trí vô ngại, thấy tướng lục địa thì không trí xuất sanh, thấy tướng bát địa thì không trí trang nghiêm, thấy tướng cửu địa thì không nguyện trí.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy thôn xóm Tăng phòng nhơn chúng chưa từng thấy, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy nhiều gian nan, phải thường niệm Phật thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy thôn xóm Tăng phòng nhơn chúng, thấy mình ở trong đó tu tín tâm bố thí, tu tất cả tín giải, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy có việc làm, là tướng nhị địa.
Thấy trang nghiêm, là tướng tam địa.
Thấy trang nghiêm xong, là tướng tứ địa.
Thấy tứ chúng tụ hội, là tướng ngũ địa.
Thấy thiên chúng, là tướng lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy được lọng là thấy tướng sơ địa đến thất địa, được Phật hộ trì. Bồ Tát nầy nhiều gian nan, chẳng bị khuất phục, chẳng nên có ác ý với người thuyết pháp thì được thanh tịnh.
Thấy được lọng bông đẹp, là tướng sơ địa.
Thấy được lọng lưu ly, là tướng nhị địa.
Thấy được lọng và được hoa, là tướng tam địa.
Thấy được lọng cứng chắc, là tướng tứ địa.
Thấy được lọng cán có vẽ vời, là tướng ngũ địa.
Thấy được lọng có lưới linh, là tướng lục địa.
Thấy được lọng có lưới báu trùm rũ, là tướng thất địa.
Trừ được ma nghiệp chẳng siêng tinh tiến.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy thuyết pháp cho nghiều người, đây là thấy tướng sơ địa đến thập địa. Bồ Tát nầy phải biết ma nghiệp nghiệp chướng. Muốn được biện tài quyết định, phải đi ra tìm cầu, với tất cả đồ vật chẳng nên mến luyến, với người cầu pháp thì sanh lòng tin
thanh tịnh, tu giới lục hòa kính, như vậy thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy thuyết pháp về vấn đề thế nào tu hành bố thí, đây là thấy tướng sơ địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào là mười pháp lành, đây là thấy tướng nhị địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào là nghe học, đây là thấy tướng tam địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào là hạnh đầu đà, đây là thấy tướng tứ địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về pháp không, đây là thấy tướng ngũ địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về quở trách tập quán, đây là thấy tướng lục địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về không nhiễm trước, đây là thấy tướng thất địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về trang nghiêm định, đây là thấy tướng bát địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về trang nghiêm Phật, đây là thấy tướng cửu địa.
Thấy nói về vấn đề thế nào nói về thời gian vi diệu, đây là thấy tướng thập địa.
Thấy tướng sơ địa thì được thí tài, thấy tướng nhị địa thì được giới tài, thấy tướng tam địa thì được phương tiện tài, thấy tướng tứ địa thì được đủ thất thánh tài, thấy tướng ngũ địa thì được phụng cấp tài, thấy tướng lục địa thì được quyết đoán tài, thấy tướng thất địa thì được quyết định tài, thấy tướng bát địa thì được thông vô ngại tài, thấy tướng cửu địa thì được hành tài, thấy tuớng thập địa thì được đắc tài.
Sơ địa thì thiện căn tăng thượng, nhị địa thì giới tăng thượng, tam địa thì phương tiện tăng thượng, tứ địa thì sở tác tăng thượng, ngũ địa thì thập nhị nhơn duyên tăng thượng, lục địa thì thậm thâm nhẫn tăng thượng, thất địa thì hoại tướng trí tăng thượng, bát địa thì hoại tướng giáo hóa chúng sanh tăng thượng, cửu địa thì điều phục tăng thượng, thập địa thì hoại tướng tịnh Phật quốc độ tăng thượng.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy thành quách mới lập, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa, thọ ký bất thối chuyển. Bồ Tát nầày phải gần gũi cúng dường người thậm thâm tín giải nhiều quyết định. Bồ Tát nầy nghi hối chướng pháp, phải cúng dường Pháp Sư để trừ nghi hối thì được thanh tịnh.
Trụ trong đó là tướng sơ địa.
Nghi đạo là được thành Phật hay chẳng được thành Phật, là tướng nhị địa.
Nghi trí giáo hóa chúng
sanh, là tướng tam địa.
Nghi xuất sanh định, là tướng tứ địa.
Nghi trí ưng tác, là tướng ngũ địa.
Nghi đạo quả, là tướng lục địa.
Nghi xuất sanh, là tướng thất địa.
Nghi du hí, là tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy cột bè để qua dòng nước đục, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa. Bồ Tát nầy nghiệp chướng và ma nghiệp tăng thạnh. Phải phát khởi tâm nguyện tăng thượng kiên cố chẳng hư hoại, hòa hiệp tương ưng vô sanh sáng sạch.
Nếu trí phương tiện gian nan, là tướng sơ địa.
Nếu muốn tu chánh cần mà thân giải đãi, là tướng nhị địa.
Nếu tâm phi thời, là tướng tam địa.
Hoặc trí phải thời, là tướng tứ địa.
Hoặc ít vô úy, là tướng ngũ địa.
Nếu giáo hóa gian nan, là tướng lục địa.
Nếu Phật pháp gian nan, là tướng thất địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy ngồi thiền, đây là thấy tướng sơ địa đến lục địa. Bồ Tát nầy nếu bình đẳng hành sáu Ba la mật có gian nan, thì nên hành
sáu Ba la mật vô y chỉ thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy làm thuyền chưa xong, là tướng sơ địa.
Thấy làm thuyền xong, là tướng nhị địa.
Thấy hai thuyền chung chỗ, là tướng tam địa.
Thấy cột hai thuyền lại, là tướng tứ địa.
Thấy đại chúng ngồi thuyền, là tướng ngũ địa.
Thấy vào trong thuyền rồi đi, là tướng lục địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy mây sấm phóng chớp sáng, đây là tướng sơ địa đến ngũ địa. Bồ Tát nầy ít nghiệp chướng mà ma nghiệp tăng thạnh. Phải tu niệm lành, tu đà la ni, xả bỏ vật sở ái thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mây mưa sấm chớp mà kính sợ, là tướng sơ địa.
Nếu chẳng kinh sợ, là tướng nhị địa.
Nếu ghi nhớ pháp, là tướng tam địa.
Nếu trụ đỉnh núi ghi nhớ là tướng tứ địa.
Nếu ở hư không ghi nhớ, là tướng ngũ địa. Trừ được ma nghiệp. Nếu là các địa trên thì thấy rồng đến tụ hội phụng sự việc làm mà chẳng kinh sợ.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy được đạo trang nghiêm, đây là thấy tướng sơ địa đến tam địa. Bồ Tát nầy nghiệp chướng và ma nghiệp tăng thạnh. Phải gần gũi Nhẫn Ba la mật, Tinh tiến Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật thì được thanh tịnh.
Chiêm bao được dao dơ bẩn, là tướng sơ địa.
Được dao không dơ bẩn, là tướng nhị địa.
Được dao bén, là tướng tam địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy được khí vật, đây là thấy tướng sơ địa đến thất địa. Bồ Tát nầy chẳng nhứt định có ma nghiệp và nghiệp chướng, phải siêng thật hành tứ nhiếp pháp thì được thanh tịnh. Phải trừ sự thối thất của lục địa để được tăng lên thất địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy chỉ đường sá cho chúng sanh, đây là tướng của cả thập địa. Tướng ấy hiện ra phải biết rõ nghiệp chướng và phiền não chướng. Phải gần gũi cúng dường Pháp Sư, xả bỏ tất cả vật, siêng tu tinh tiến xu hướng đạo vô thượng.
Chiêm bao thấy ngồi xe chuyển động trên đường, là tướng sơ địa.
Chỉ cho chúng sanh con đường đến vườn nhà, là tướng nhị địa.
Chỉ đường đến thành, là tướng tam địa.
Chỉ đường đến a lan nhã, là tướng tứ địa.
Chỉ đường vào núi, là tướng ngũ địa.
Chỉ đường đến biển, là tướng lục địa.
Chỉ đường lên trời, là tướng thất địa.
Chỉ đường Thanh Văn, là tướng bát địa.
Chỉ đường Bồ Tát, là tướng cửu địa.
Chỉ đường Phật, là tướng thập địa.
Rõ biết ma nghiệp, rõ biết phiền não nghiệp đây thì sáu địa trước không có lỗi vậy.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy vào trong vườn vào trong rừng, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy trong chiêm bao bị ma nghiệp về phiền não nghiệp, trong chiêm bao thì kinh
sợ, thức dậy thì sầu khổ. Phải tu pháp, nghe pháp thậm thâm, phải nín lặng rồi lìa ngủ nghỉ. Phải gần gũi người quyết định nói đạo pháp thì được thanh tịnh.
Chiêm bao thấy mình thối thất ngôi vua mà sanh kinh sợ, đây là tướng sơ địa.
Thấy phá giới nên kinh sợ, là tướng nhị địa.
Thấy chánh pháp mất hết nên kinh sợ, là tướng tam địa.
Thấy Pháp Sư chết nên kinh sợ, là tướng tứ địa.
Thấy bị lửa đốt cháy nên kinh sợ, là tướng ngũ địa.
Thấy bị kinh sợ, là tướng lục địa.
Thấy té núi kinh sợ, là tướng thất địa.
Thấy đức Phật nhập Niết bàn nên kinh sợ, là tướng bát địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy đống ngũ cốc, đây là thấy tướng thất địa trở lên. Bồ Tát nầy đời trước từng cúng dường chư Phật, nhiều gian nan, chẳng theo tất cả thế gian, chẳng nhìn chẳng bỏ, giữ gìn ba nghiệp.
Chiêm bao thấy mình gom lúa, là tướng thất địa.
Thấy mình gom lúa khắp Đại Thiên, đây là tướng bát địa.
Thấy đống ngũ cốc chín, là tướng cửu địa.
Thấy cắt lúa, là tướng thập địa.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao thấy trị bịnh chúng sanh, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy ít nghiệp chướng, ma nghiệp tăng thạnh, phải tu đại bi, siêng khuyến hóa, chẳng sanh nghi hối thì được tương ưng.
Chiêm bao thấy trị bịnh trẻ con, là tướng sơ địa.
Thấy trị bịnh phụ nữ, là tướng nhị địa.
Thấy trị bịnh người lớn, là tướng tam địa.
Thấy trị bịnh nhiệt, là tướng tứ địa.
Thấy trị bịnh bạch lại, là tướng ngũ địa.
Thấy trị bịnh tàn phế, là tướng lục địa.
Thấy trị bịnh càn tiêu, là tướng thất địa.
Thấy trị bịnh quỷ, là tướng bát địa. Trừ được ma nghiệp. Phải tu tập hạnh nhẫn nhục, thành tựu tâm đại bi của Bồ Tát.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Chiêm bao nghe mình được thọ ký Bồ đề, đây là tướng của cả thập địa, phải biết rõ ma nghiệp và nghiệp chướng.
Chiêm bao tự nghi được thọ ký đạo, là tướng sơ địa.
Thọ ký Bồ Tát hạnh, là tướng nhị địa.
Thọ ký nhẫn, là tướng tam địa.
Thọ ký nguyện, là tướng tứ địa.
Thọ ký tam muội, là tướng ngũ địa.
Thọ ký huệ, là tướng lục địa.
Thọ ký phương tiện, là tướng thất địa.
Thọ ký nhứt thiết trí vượt hơn bực Thanh Văn, bực Bích Chi Phật, là tướng bát địa.
Thọ ký nhứt sanh bổ xứ, là tướng cửu địa.
Chiêm bao tự nghe được thọ ký Phật quán đảnh, là tướng thập địa.
Bồ Tát nầy phải tu đại bi, Bát Nhã Ba la mật và thiện quyền phương tiện. Như vậy thì xu hướng đạo.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu chiêm bao thấy giác ngộ đạo Bồ đề, đây là thấy tướng sơ địa đến bát địa. Bồ Tát nầy phải cảnh giác đại bi, phải siêng tu tinh tiến tín tâm thiện tâm.
Thấy chấn động Đại Thiên thế giới, là tướng cửu địa.
Thấy phóng quang, chư Thiên to tiếng ca ngợi, vui cười, là tướng thập địa.
Tướng ma nghiệp chẳng siêng tu tinh tiến từ sơ địa đến thập địa như vậy.
Lại nầy Kim Cương Tồi! Nếu chiêm bao thấy được bình đầy, đây là thấy tướng tất cả thập địa, phải biết như thế nầy:
Nếu thấy ở trong xóm mà được, là tướng sơ địa.
Nếu thấy ở trong cửa mà được, là tướng nhị địa.
Nếu thấy ở trong đường mà được, là tướng tam địa.
Nếu thấy ở dưới cây mà được, là tướng tứ địa.
Nếu thấy đứng mà được, là tướng ngũ địa.
Nếu thấy ngồi mà được, là tướng lục địa.
Nếu thấy ở đầu đỉnh núi mà được, là tướng thất địa.
Nếu thấy ở hư không mà được, là tướng bát địa.
Nếu thấy lúc ăn mà được, là tướng cửu địa.
Nếu thấy trang nghiêm xe cộ, hoặc trong vườn nhà mà được, là tướng thập địa.
Đây là tướng ma nghiệp nghiệp chướng của các địa, phải cảnh giác biết, rõ như vậy thì thanh tịnh xu hướng đạo Vô thượng Bồ đề”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Thấy được tướng như vậy
Quyết định không có nghi
Đại Sĩ phải như vầy
Chớ thấy lỗi của người
Đức của người khó lường
Biển lớn đốt cháy được.
Trong lửa sanh nước được
Có được những tướng ấy
Nếu thối thất Bồ đề
Không hề có việc ấy.
Nếu dùng cả hai vai
Vác gánh núi Tu Di
Đi đến khắp mười phương
Hằng hà sa thế giới
Những công việc như vậy
Còn có thể làm được
Tâm Bồ đề như đây
Không bao giờ thối chuyển
Đại địa lật úp được
Không bao giờ có sự
Thối chuyển tâm Bồ đề
Chút công đức trong ấy
Nếu người có tâm lành
Xu hướng đạo vô thượng
Có bốn pháp vô lượng
Thế gian không biết được
Hư không giới khó biết
Chúng sanh giới cũng vậy
Phật biết tâm Bồ đề
Ai gặp phải nên biết
Việc làm của Bồ Tát
Chẳng nên khinh hủy báng
Lấy một cọng cỏ nhỏ
Lường được nước biển lớn
Việc làm của chúng sanh
Chẳng thể nghĩ bàn được
Giả sử nước biển lớn
Nấu sôi như đồng sôi
Vì thân mạng của mình
Còn có thể uống hết
Với công hạnh Bồ Tát
Trọn chẳng nên khinh hủy
Sự khổ uống đồng sôi
Khổ ấy chẳng tính được.
Hoặc có nghiệp chướng ngại
Hoặc bị ma làm loạn
Chỗ người ấy thọ sanh
Trọn không có ưu hối
Nếu người vì vui say
Nơi vật chất ngu si
Phá giới đáng chán ghét
Chẳng đáng được cung kính
Với những kẻ như vậy
Chẳng nên khinh mạn họ
Việc làm của chúng sanh
Rất khó biết rõ được
Như ông Xá lợi Phất
Yên lặng nhập thiền định
Ở nơi trong nhứt tâm
Chỉ biết năm mươi tâm
Cũng như các Thế Tôn
Một niệm biết vô lượng
Chẳng nên với chư Phật
Mà sanh lòng nghi ngờ
Cũng như A La Hán
Chẳng biết cảnh giới mình
Huống là có thể biết
Cảnh giới của chúng sanh
Vì thế nên mọi người
Chẳng nên nói như vầy
Tôi có thể biết được
Tâm niệm của chúng sanh
Ta thấy người nhuộm áo
Chốc lát mặc áo trắng
Khoảng niệm niệm cũng vậy
Niệm niệm có đổi khác
Huống ai lại biết được
Kẻ chơn thiệt ngu khổ
Như vua A Xà Thế
Giết hại cha ruột mình
Lại đối với Như Lai
Vua sanh lòng ác nghịch
Rồi ở trong một niệm
Rất ăn năn tội lỗi
Liền trừ được tội báo
Thoát khỏi khổ ác đạo
Huống là người sanh được
Tâm lành thanh tịnh tốt
Tâm ấy có lúc buộc
Tâm ấy có lúc mở
Thân nầy là vô ký
Cũng không có sở tri
Làm sao khiến thân nầy
Mà có những lỗi ác
Thân nầy cũng chẳng nên
Gần gũi với thân sắc
Và lại cũng chẳng nên
Giết hại thân người khác
Ví như khối vàng ròng
Rớt vào trong phẩn nhơ
Chất vàng luôn sạch sẽ
Phẩn nhơ chẳng nhơ được
Người ấy dầu tham vui
Say mê pháp thế gian
Công đức thiệt của họ
Tâm lành không tổn giảm
Vương tử, Trưởng giả tử
Cười đùa trong đại chúng
Tất cả các Đại Vương
Nhìn thấy đều vui mừng
Trong hàng chúng sanh đây
Hoặc trong người trên trời
Hoặc ăn độc chẳng chết
Hoặc vào lửa chẳng cháy
Huống là bực Trí Giác
Mà có sự tổn giảm
Người ngu si thế gian
Cúng Duyên Giác, Thanh Văn
Chẳng bằng cúng Bồ Tát
Phước điền tâm thanh tịnh
Bình đẳng dường như Phật
Bồ Tát đồng như Phật
Thấy tâm lành rất sâu
Chẳng thể suy lường được
Như bố thí bảy báu
Đầy hằng sa thế giới
Nếu biên chép kinh nầy
Cùng công đức thọ trì
Đem sánh phước bố thí
Hơn gấp bội khó sánh
Khéo được lợi ích lớn
Tâm Bồ đề chẳng mất
Nếu người vì của cải
Mà vào trong biển lớn
Tất sẽ được châu báu
Của cải giàu có lớn
Nếu thọ trì tất cả kinh
Có thể dạy nhiều người
Mà chẳng nghe kinh nầy
Chẳng biết hạnh chúng sanh
Do nhơn duyên như vậy
Phải biết chơn như thẳng
Chẳng tự khen đức mình
Chẳng hủy báng người khác
Tâm lành hành tịnh hạnh
Tinh tiến chẳng thối chuyển
Nếu muốn mau giác ngộ
Đạo Bồ đề đệ nhứt
Thích ở a lan nhã
Luôn gìn giữ sáu căn
Xa lìa các xóm làng
Tu đức từ đệ nhất
Như vậy sẽ mau chóng
Chứng được đạo Bồ đề”.
Lúc đức Thế Tôn nói kinh nầy, sáu vạn thiên nhơn được bất chuyển Vô thượng Bồ đề. Mười tám na do tha thiên nhơn khác, những thiên nhơn chưa phát tâm, nay phát tâm Bồ đề, vì được nghe kinh nầy nên được trừ diệt tội sanh tử trong tám mươi kiếp.
Đức Phật phán tiếp: “Vì những sự lợi ích lớn như vậy, nếu ai muốn chẳng mất Bồ đề, phải thọ trì đọc tụng thông thuộc khéo nhớ suy kinh điển nầy, siêng tu phương tiện, nhẫn thọ hoan hỉ phụng hành”.
Lúc ấy trong chúng có mười ngàn Bồ Tát sanh lòng nghi hối muốn thối thất tâm Bồ đề muốn trở về nhà, chẳng biết lỗi nghiệp chướng và ma nghiệp, nay nhờ nghe kinh nầy, tội lỗi tiêu trừ, ở trước đức Thế Tôn sanh chút lòng tin, trừ sạch hai mươi kiếp ma nghiệp, chẳng rời khỏi chỗ ngồi được đến bực nhứt sanh bổ xứ, sẽ sanh về thế giới phương khác. Lúc Di Lặc Bồ Tát thành Phật ở thế giới nầy, mười ngàn Bồ Tát ấy sẽ thành Phật đồng thời với Di Lặc Bồ Tát, vì chư Bồ Tát ấy nhờ nghe kinh nầy mà trừ sạch được ma nghiệp và phiền não trong hai mươi kiếp.
Đức Phật phán tiếp: “Bồ Tát chỉ nghe kinh nầy còn được nhiều lợi ích, huống là thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh nầy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, chư Thiên, Nhơn, A Tu La cùng toàn thể chúng hội hoan hỉ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment