Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 88
PHÁP HỘI THIỆN TÝ BỒ TÁT
THỨ HAI MƯƠI SÁU
Như vậy tôi
nghe một lúc Đức Phật Trúc
viên Ca Lăng đà, nơi thành
vương xá.
Bấy giờ có đại Bồ Tát tên Thiện Tý đến chỗ Phật đầu mặt lạy chưn Phật rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật bảo Thiện Tý Bồ Tát: “Nầy thiện nam tử! Đây là
sáu Ba la mật mà chư Bồ Tát phải có đủ: Đàn na
Ba la mật, Thi
la ba la mật, Thiền na Ba
la mật, Tì lê
gia Ba la mật.
Thế nào là
Bồ Tát đầy đủ hành
Đàn na Ba la mật?
Nầ Thiện Tý! Nơi các tụ lạc, Bồ Tát chánh mạng cầu tài vật mà chẳng có mạng cầu. Bồ Tát tủy thuận chẳng nghịch chẳng khổn bức chúng
sanh để cầu tài vật mà bố thí. Chẳng vì
cung kính cúng dường danh
xưng
v.v…mà hành bố thí, chẳng phải vì sợ vì thẹn vì quả báo vì
sanh thiên cũng chẳng dua
siểm mà
hành bố thí. Bồ Tát lấy tâm
bình đẳng cúng
dường cung
kính tôn trọng tán
thán tất cả mọi người không
luận người quen kẻ lạ, với người trì giới người hủy giới không
sanh lòng khen chê.
Cũng đối với người trì giới hủy giới người quen
người lạ người thân
người chẳng thân
người oán người chẳng oán,
Bồ Tát
luôn kính trọng yêu
thương tin ưa, tùy
chỗ mình có
mà bố thí
đúng chỗ, có ít
thí ít có nhiều thí
nhiều, có
thô thí thô, có tế thí tế, có diệu thí diệu có chẳng diệu thí chẳng diệu. Hoặc đem đồ ăn đồ dùng
giá trị trăm
ngàn thí cho người, hoặc một phần muời sáu cuả một tiền đem
thí cho người, lòng
Bồ Tát
hoan hỉ đồng đều không
sai khác.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát ấy đối với kẻ khất thực, người cần ăn thì thí cho món ăn vì đầy đủ sức Nhứt thiết trí vậy, người cần uống thì
thí cho món uống vì đầy đủ sức dứt sự khát ái
của chúng
sanh vạy, người cần y phục thí
thí cho y phục vì được y phục tàm
qúi vô thượng vậy, người cần xe cộ thì thí
cho xe cộ vì được Bồ Tát thừa Phật thừa vậy, người cần hương thơm thì
thí cho hương thơm vì được hương trì
giới chánh
giác vậy, người cần hoa đẹp thì
thí cho hoa đẹp vì được hoa thất giác của Phật vậy, người cần hương bột thì
thí cho hương bột vì được hương trừ diệt bất thiện cho tất cả chúng
sanh vậy, người cầu hương xoa
thì thí cho hương xoa
vì được thân
không thiếu giới hương vậy, người cần dù thí
cho dù vì dứt lửa nóng
phiền não
cho chúng sanh vậy, người cần dép
giày thí cho dép giày vì thọ vui trí
huệ vô lượng vậy, người cần giường nằm thì
thí cho giường nằm vì khiến cho
chúng sanh được sức khoái
lạc của giường nằm Đế Thích
Phạm Vương và chư thánh vậy, người cần chỗ ngồi vì ngồi cội Bồ đề mà các
ma kiết sử chẳng phá
hoại được chỗ ngồi ấy vậy, người cần nhà
thí cho nhà vì khiến chúng
sanh được nơi che chở không bị khinh sợ mà được sức vô ngã
vậy, đem vườn tốt thí
cho Phật Tăng
vì được sức thiền định tịch tĩnh
vô thượng vậy, đem đồ cúng vi
diệu các thứ trang
nghiêm thí cho Phật tháp
miếu vì được sức đại trượng phu
có đủ ba mươi hai tướng tám mươi bảo vậy, thắp đèn
sáng trong tháp Phật hoặc nơi đường tối vì được Phật nhãn
soi sáng vô lượng vậy, đem
những kỹ nhạc cúng dường Tam bảo vì được thiên
nhĩ vô lượng vậy, đem y
bát bố thí vì
được trì giới đoan
nghiêm vô thượng vẫy, đem
quạt và chậu rửa tấm thí
cho người vì khiến cho
chúng sanh được mát mẽ sãch sẽ vậy, đem
giấy viết mực và tòa
cao thí cho ví được trí huệ lớn vô thượng vậy đem
thuốc cho người bịnh vì trừ bịnh kiết sử cho
chúng sanh vậy đem ruộng đất thí
cho người khiến chúng
sanh được thế giới cam lộ của tam thừa vậy, xây tạo tháp
và hình tượng vì
khiến chúng
sanh nghe chánh pháp vậy, có
bao nhiêu đồ vật mau
đem thí cho người vì được sức thần thông
mau lẹ vậy, bố thí
thanh tịnh vì ở trong đạo vô thượng không
bị lưu nạn vậy, bố thí
luôn chẳng tuyệt vì được sức hiện tài vô
ngạy chẳng dứt vậy, tùy ý
bố thí vì
khiến chúng
sanh được sức đại bi vậy, chẳng bức người lấy của rồi đem
dùng bố thí vì
khiến các ma
ngoại chẳng hoại loạn được mà tự nhiên được thành
đạo vô thượng vậy.
Muốn bố thí, Bồ Tát phải nên
hành bố thí như đã được nói ở trên. Nếu không
có tài vật Bồ Tát nên
sanh lòng bố thí như đã được nói ở trên. Nếu không
có tài vật Bồ Tát nên
sanh lòng bố thí, muốn được khai
thị vô lượng vô
biên chúng sanh, có sức hay
không có sức, bố thí như trên là
hạnh lành,
là diệu thắng của tôi,
là bảo vật của tôi
hay khiến tất cả chúng
sanh đều được thành
tựu mọi sự khoái lạc thế gian,
đó là được vui
hòa hiệp hay xả thí tất cả không
có hồ nghi,
bao nhiêu nguyện cầu đều được thành
tựu, được hạnh an lạc.
Nếu các chúng sanh thế gian hy
vọng được những vật cần dùng
tôi sẽ cho họ đầy đủ, vàng bạc trân bửu y phục tiền của chất đống như núi,
món uống ăn như biển cả vô lượng vô
biên.
Trong ngày đêm sáu thời, Bồ Tát ấy đem
công đức qủa báo do
mình tài thí pháp thí đã được nguyện cùng
chung với tất cả chúng
sanh, khiến quá khứ vị lai hiện tại tất cả chúng
sanh có hạnh nghiệp đều được sanh
thế giới vi diệu và được vui xuất thế.
Bồ Tát ấy dầu làm bố thí như vậy mà trọng chẳng mong cầu quả báo,
khai thị phương tiện như vậy để giáo
hóa chúng sanh vòa pháp lành.
Lúc bố thí, Bồ Tát ấy nguyện cho
chúng sanh d0ộ được giải thoát
được nhứt thiết trí được tất cả Phật Pháp vậy. Hoặc bố thí rồi cũng
nguyện cho
chúng sanh được độ được giải thoát
được nhứt thiết trí được tất cả Phật pháp vậy.
Bố thí như vậy nếu không đủ sức chẳng thể học chẳng thể xả tài vật, Bồ Tát nầy nên
suy nghĩ như vầy: Nay
tôi phải siêng
tinhtiến thêm lần lần dứt trừ cấu nhơ tham
lam lẫn tiếc, tôi
phải siêng
tinh tiến thêm lần lần học xả thí tài
vật cũng
thường khiến lòng bố thí của tôi
thêm rọng lớn trọn không
giải đãi
lui sụt lòng
hoan hỉ.
Bồ Tát như vậy phát tâm Bồ đề nhớ tâm Bồ đề tu tâm
Bồ đề hy vọng Bồ đề nguyện cầu Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát vô
lượng vô số đại thí đại xả đại xuất ly. Tại sao?Vì
bố thí như vậy, trong
các thứ bố thí là
thù thắng đệ nhất khiến đời vị lai ở trong tất cả chúng
sanh thế gian,
tôi sẽ mưa pháp
vũ, mưa cam lộ vũ, thí
pháp vũ, thí cam lộ vũ, xuất pháp
vũ, xuất cam lộ vũ.
Nầy Thiện Tý! Hành thí như vậy đại Bồ Tát chẳng cho
là khó mà lấy làm
vui mau đầy đủ Đàn na
Ba la mật.
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát chẳng thể tự đem thân thể tay chưn thịt xương thí
cho người xin,hoặc tự cắt hoặc bảo người cắt. Tại sao? Nếu thành
nghiệp ấy thì sẽ khiến người xin
kia mắc vô lượng tội nơi đại địa ngục. Đại bồ Tát chẳng nên tự tiếc thân
thể chi tiết. Tại sao?
Vì muốn khiến người xin xa
rời nghiệp bất thiện rộng lớn vậy.
Nếu có người xin đến Bồ Tát cầu đồ cần dùng, nếu không
có, Bồ Tát chẳng nên
ép bức cha mẹ vợ con quyết thuộc tôi tớ để lấy tài vật khiến họ thêm
nghèo thiếu rồi đem bố thí. Tại sao?
Vì đại Bồ Tát muốn hành
tâm đại từ bi bình
đẳng đối với tất cả chúng
sanh vạy.
Nầy Thiện Tý! Với chúng sanh khác Bồ Tát chẳng nên
có lòng xan lẫn, chẳng ép bức chúng
sanh khác để lấy tài vật bố thí, việc làm nầy chẳng được chư Phật khen
ngợi, huống là tự cắt chi tiết thân
mình để thí cho
người. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ Đán na
Ba la mật.
Nầy Thiện Tý! Thế nào là
đại Bồ Tát đầy đủ Thi la
Ba la mật? Nầy Thiện Tý! Đối với tất cả chúng
sanh, nhẫn đến trọn đời,Bồ Tát tự chẳng sát
sanh dạy người chẳng sát
sanh nguyện chẳng sát
sanh, tự chẳng trộm cướp dạy người chẳng trộm cướp nguyện chẳng trộm cướp, tự chẳng tà
dâm dạy người chẳng tà
dâm nguyện chẳng tà
dâm, tự chẳng vọng ngữ dạy người chẳng vọng ngữ nguyện chẳng vọng ngữ, tự chẳng uống rượu dạy nguèời chẳng uống rượu nguyện chẳng uống rượu. trong
năm giới ấy Bồ Tát
kiên trì chuyên niệm chẳng trể chẳng thiếu siêng
năng tinh tiến. Bồ Tát dứt lià hẳn những sự khủng bố người khác
những sự bắt trói
giam nhốt cầm tù
đánh đập hình lục. cũng
xa rời lưỡng thiệt ác khẩu vọng ngôn ỷ ngữ.
Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Với tất cả chúng
sanh tôi phải yêu nhớ họ như cha mẹ yêu nhớ con một. Nếu cha mẹ tôi
dùng các sự khổ cung
tên dao gậy giết hại tôi,
tôi trọn chẳng thù
chẳng báo.
Tôi đối với tất cả chúng
sanh phải như cha mẹ vợ con ly
biệt đã
lâu, một mai gặp mặt thì
lòng vui mừng hớn hở vô lượng, Bồ Tàt thấy chúng
sanh lòng Bồ Tát
cũng vui mừng như vậy.
Bồ Tát trì giới bất sát vì
muốn khiến chúng
sanh được an trụ giới bất sát bực vô học vậy. Bồ Tát trì
giới bất đạo vì muốn chúng
sanh được an trụ giới bất đạo bực vô học vậy.Bồ Tát trì
giới bất tà dâm
vì muốn chúng
sanh được an trụ giới bất tà dâm
bực vô học vậy. Bồ Tát trì
giới bất vọng ngữ vì muốn chúng
sanh an trụ thiệt ngữ bực vô học vậy. Bồ Tát trì
giới bất ẩm tửu vì muốn chúng
sanh được an trụ giới bất ẩm tửu bật vô học vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng khủng bố vì muốn được thành
kim cương định vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng bắt trói
vì muốn chúng
sanh dứt dây kiết sử vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng nhốt tù vì
muốn chúng
sanh ra khỏi ngũ đạo vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng đánh
đập vì muốn xa rời các ma
kiết sử lưu nạn để được pháp định vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng hình
lục vì khiến thân
khẩu ý được nghiệp chẳng còn
phải gìn giữ vậy Bồ Tát trì
giới
cha93ng lưỡng thiệt vì được chúng
hòa hiệp chẳng hoại vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng ác khẩu vì được năm thứ phạm âm
thanh vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng ỷ ngữ vì muốn được phát
ngôn thuyết pháp
không chướng ngại vậy. Bồ Tát trì
giới tìm cầu úy tử chúng
sanh vì khiến chúng
sanh thoát ly sanh lão bệnh tử ưu sầu bi não
hết khủng bố vậy. Bồ Tát trì
giới tiếc gìn
tài vật người khác
chẳng cho
sót mất vì được bồ đề giác định vậy. Bồ Tát cứu thoát
chúng sanh bị bắt bớ vì được chẳng thiếu pháp định vậy. Bồ Tát
khuyên người buông
thả vì được tâm tự tại vậy. Bồ Tát hoặc tự mình thả.hay
khuyên người thả vì ngồi tòa Bồ đề phá hoại tất cả ma kiết sử vậy.
Thấy chúng
sanh bị tù ngục, Bồ Tát hoặc tự thả hay
khuyên người thả vì được tâm tự tại không
chướng ngại vậy. Thấy chúng
sanh sẽ bị đánh đập, Bồ Tát hoặc tự mình thả hay
khuyên nguèời thả vì được bốn vô sở úy vậy. Thấy chúng
sanh sẽ bị hình lục, Bồ Tát hoặc tự mình thả hay
khuyên người thả vì được bốn thứ pháp
thân vậy. Bồ Tát trì
giới chẳng cuốn ngữ vì ngồi tòa sư tử nơi cội Bồ đề tất cả ma kiết sử chẳng lưu nạn được mà đắc pháp định vậy. Bồ Tát chẳng hòa đấu tranh
chuyên sanh hoang hỉ vì được thánh
chúng chẳng hoại vậy. Bồ Tát trì
giới ái ngữ vì muốn chúng
sanh nghe lời tốt sanh
vui mừng ưa thích
vậy. Bồ Tát thuận theo
ái ngữ để nóivì
muốn lời nói chẳng luống vậy. Bồ Tát trì
giới nói lời ca ngợi chư Phật vì được oai đức thánh
nhơn thành
tựu đại chúng
vậy. bồ Tát thọ trì,
trong ba thời, năm
vóc quy mạng tam
thế vô lượng vô
biên chư Phật Pháp
Tăng và Bồ Tát giới vì được chỗ ngồi sư tử nơi cội Bồ đề chẳng bị phá hoại chuyên
an trụ tín
tinh tấn niệm định huệ được pháp định vậy. Bồ Tát thọ trì,
trong ba thời, quét
dọn nhiễu thápvì
được đầy đủ tất cả Phật pháp vậy. Bồ Tát thọ trì giới tán
thán Phật pháp
vì được chuyển pháp
luân vô thượng vậy. Bồ Tát thọ trì giới tán
thán Phật tăng
vì được đại chúng
vi nhiễu vậy. Bồ Tát thọ trì giới ba thời quy y
tam bảo vì muốn khiến chúng
sanh đượv qui y
vô thượng vậy. Bồ Tát thọ trì giới trong
ba thời nguyện cho tất cả thế gian thường có Phật pháp
và Bồ Tát
Tăng chẳng lúc
nào không vì muốn được vui vô
thượng Bồ đề vậy. Bồ Tát thọ trì giới trong
ba thời khuyên
thỉnh tất cả chư Phật thuyết pháp
vì được ở mười chỗ mưa pháp
vũ vậy. Bồ Tát thọ trì giới trong
ba thời sám hối các tội trừ bỏ các thứ ô uế vì dứt tất cả tạp khí ái
nhiễm vậy. Bồ Tát trì
giới trong
ba thời hòa hiệp tất cả thiện căn vì
khiến tất cả Ba la mật đầy đủ vậy. Bồ Tát thọ trì giới trong
ba thời tưởng nhớ bao
nhiêu điều nguyện lành tốt của chư phật, chư Bồ Tát,
Thanh văn Duyên Giác, dưới đến lục đạo chúng
sanh suốt ba đời khắp tất cả mọi nơi mọi chỗ ở thế gian vì
được diệu dụng Vô thượng Bồ đề vậy. Bồ Tát thọ trì giới trong
ba thời nguyện cầu giới Bồ Tát vì
được chánh
quyết định vô thượng Bồ đề vậy. Bồ Tát thọ trì giới tất cả thiện căn vô
thượng đạo vì được quyết định Phật trí lực vô sở úy vậy. Bồ Tát thọ trì giới cung cấp cha mẹ sư trưởng vì được pháp định vô thắng vậy. Nếu thấy người nghèo
cùng kinh sợ Bồ Tát liền thọ trì giới chẳng khủng bố cung cấp bố thí vì
được phương tiện luận nghị không bị phá hoại trở nạn vậy. Bồ Tát thọ trì giới cứu hộ kẻ bị nạn quan
quyền giặc cướp nước lửa vì được các lực Ba la
mật vậy. Bồ Tát nếu thấy thần túc của Phật Bồ Tát
Thanh văn Duyên Giác liền trì giới tùy hỉ vì được thần lực vô thượng vậy. Bồ Tát thọ trì giới thủ hộ thân khẩu ý ba
nghiệp của mọi người vì được sức trí biết tha
tâm vô lượng của như lai vậy Bồ Tát nếu thấy người phóng
dật thất niệm như là
quyên mất đạo nghĩa
Tam thừa hiện tại vị lai liền nguyện phát khởi ghi nhớ thọ trì chẳng mất, Bồ Tát thọ trì giới nghe
pháp chứa họp pháp
và thuyết pháp
vì được tứ vô ngạy biện tài vậy. Bồ Tát thọ trì tất cả ba nghiệp thân
khẩu ý nhiếp thọ phụng hành
tất cả thiện căn vì
muốn cho tất cả chúng
sanh được độ được giải thoát
vì được nhất thiết trí đầy đủ tất cả Phật pháp vậy. Những thiện căng
như vậy nguyện vì tất cả chúng
sanh mà nhiếp thọ phụng hành,
vì khiến chúng
sanh được giải thoát
được Nhứt thiết trí đầy đủ tất cả Phật pháp vậy.
Bồ Tát trì giới như vậy chẳng thiếu khuyết chẳng hủy phá chẳng hoang
dật. Nếu là người không
lực thế tu học được thì
nên suy nghĩ như vầy: Nay
tôi sẽ siêng
tinh tiến thêm,
hằng ngày
lần lần xa rời các sự bất thiện sát hại. Nay
tôi lại gắng tinh
tiến thêm hằng ngày
lần lẩn học trì giới tốt cho
thêm lớn đầy đủ nhẫn đến trọn đời chẳng hề giải đãi chẳng hề lo sầu.
Nầy Thiện Tý! Đại Bồ Tát phát khởi tâm Bồ đề nhớ tâm Bồ đề tu đạo Bồ đề hy vọng Bồ đề nguyện cầu Bồ đề như vậy thì gọi là thiện căn
trì giới vô lượng vô
biên. Tại sao?
Vì trì giới như vậy là tối thắng đệ nhứt trong
tất cả thiện giới. Bồ Tát thọ trì giới nầy muốn cho tất cả thế gian có
bao nhiêu chúng sanh đều phát
khởi giới vô lậu phát
khởi giới vô học sanh
giới vô lậu sanh
giới vô học.
Nầy thiện Tý! Đại Bồ Tát trì giới như vậy chẳng lấy làm
khó mà làm vui thích mau đầy đủ Thi Ba
la mật.
Thế nào là
đại Bồ Tát đầy đủ Sằn đề Ba la mật?
Nầy Thiện Tý! hoặc tự quyến thuộc hay
chúng sanh khác đến đoạt mạng sống của Bồ Tát,
trong sự ấy Bồ Tát trọn không
có lòng giận thù.
Hoặc có người đến đoạt tài vật của Bồ Tát nhẫn đến đoạt vộ con hay
dùng các sự ác sự khổ hại Bồ Tát như ác khẩu lưỡng thiệt vọng ngữ khủng bố trói cột nhốt tù
đánh đập hình lục, bấy giờ Bồ Tát
cũng sanh lòng thù.
Đối với các sự ác khổ làm khổ mình như vậy Bồ Tát suy
nghĩ rằng: Đây
là nghiệp báo ác
bất thiện của tôi,
tôi tự gây tôi
tự thọ, hoặc đời trước hoặc đời nay đã
làm rồi nên
bây giờ thọ lấy qủa báo, tại sao ở nơi qủa báo của mình
mà tôi lại giận người.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Nếu có kẻ đến đoạt mạng sống của tôi
cho đến đánh đập hình lục tôi, với trong
các sự khổ ác ấy tôi chẳng nên
giận hại người. Tại sao?Vì
đời nay bị chút khổ não còn
chẳng vui vẽ chịu đựng được sao trở lại giận hại người để rồi đời sau sẽ lấy tội báo vô
lượng vô
biên trăm ngàn vạn ức nhiều sự khổ não hơn.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Vì
có mạng sống, nên
đoạn mạng sống, vì
có tài vật nên đoạn tài vật, vì có
vợ con nên
đoạn vợ con, vì
có nhĩ căn nên nghe ác khẩu lưỡng thiệt vọng ngôn ỷ ngữ, vì có
thân thể nên có
khủng bố bắt trói
tué rạt đánh đập hình lục, nay
tôi tự thọ lấy sự khổ của mạng sống của nhĩ
căn và thân thể cuả mình tại sao lại giận hại người.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Thân
thể nầy tất cả sáu căn
nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý
tức là điạ đại thủy đại hỏa đại phong
đại, tức là vật của mình
là pháp giới là tự tánh, tứ là pháp
phá hoại pháp dứt diệt pháp hư mất, là
phàp khổ, pháp
khổ xúc là
pháp thọ khổ, nay ở nơi pháp
hoại pháp
khổ nầy sao
tôi lại sanh
lòng giận thù hại người. Tại sao?
Vì tức là vật của mình
là Pháp giới là tự tánh vậy.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Nội nhãn
nhĩ tỉ thiệt thân ý
chẳng phải ngã,
ngoại nhãn
nhĩ tỉ thiệt thân ý
cũng chẳng phải ngã
ngã sở, người có trí
sáng suốt đâu
nên ở nơi sáu
căn nội ngoại chẳng phải ngã
ngã nầy mà
trang nghiêm ái nhiễm làm hại người.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát lại suy nghiĨ rằng:
Trong loài người khổ ít, ngạ quỉ khổ nhiều, súc
sanh khổ nhiều hơn, địa ngục khổ não vô
lượng vô
biên không thể kể hết. Còn
chẳng muốn thọ khổ ít
trong loài người, huống là thọ khổ vô lượng trong
ba ác đạo, vì thế nên tôi
không nên giận thù hại người. Nầy Thiện Tý! Bồ Tát lại suy
nghĩ rằng: Nay
tôi nếu có thể làm lợi ít cho
mọi người còn chẳng nên
có lòng giận thù hại người, huống là
tôi sẽ đem
pháp nghiã lợi ít cho
tất cả thế gian vô
lượng chúng
sanh mà phát đại trang
nghiêm xong được Phật thọ ký thẳng lên đại thừa được đầy đủ Phập pháp
vô thượng.
Trong Phật pháp ấy chẳng nên
chẳng nhẫn chịu, chẳng nên
giận thù hại người mà nên
thật hành
nhẫn nhục lợi ích
cho người, khéo
hòa giải tranh
chấp chẳng hề ganh
ghét.
Nầy Thiện Tý! Nếu thiện nam thiện nữ dầu bị khổ đau vô
lượng như ở địa ngụcvô
gián, đối với oan
gia còn chẳng nên
giận thù trả oán huống là ở trong
loài người bị khổ chút ít
mà nên sanh lòng giận thù hại người. Đối với kẻ đến gây hại mắng chửi bêu xấu, thiện nam
thiện nữ nầy đều phải nhịn chịu phát
khởi lòng từ bi thuần tịnh không
cấu uế, vì muốn được Phật tâm vậy.
Nếu bị khủng bố bắt đánh giam tù, Bồ Tát đều phải nhận chịu phát
khởi lòng từ bi vì
muốn trong
một niệm phá vỡ vỏ trứng vô
minh tâm tối vậy.
Bồ Tát chịu khổ thật hành tâm nhẫn nhục từ bi vì
muốn tất cả chúng
sanh dứt trừ sân ái
vậy.
Lúc bị cắt tai, Bồ Tát
hành tâm nhẫn nhục từ bi vì
muốn tất cả chúng sanh
nghe chánh pháp sanh lòng tin vậy.
Lúc bị xẻo mũi, Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì thọ giới hương đoan
nghiêm vô thượng vậy.
Lúc bị chặt chân;
Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì được bốn thần túc của như lai vậy.
Lúc bị chặt tay, Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì muốn nhiếp thủ tất cả chúng
sanh được tịch tĩnh
vậy.
Lúc bị xẻ rời thân
thể, Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì muốn đầy đủ sáu Ba
la mật vậy.
Lúc bị móc mắt, Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì muốn được huệ nhãn vậy.
Lúc bị chặt đầu. Bồ Tát
hành tâm nhẫn từ vì muốn được đầu trí huệ của Phật vậy.
Bồ Tát suy nghĩ nhẩn nhục như vậy nguyện cho
chúng sanh được độ được giải thoát,
vì được nhứt thiết trí được tất cả Phật pháp.
Nhẫn nhục như vậy chẳng thiếu khuyết chẳng phá
hoại chẳng hoang
dật.
Nếu không lực thế chẳng thể học tập như vậy: Bồ Tát nầy nên
suy nghĩ rằng: Nay
tôi nên siêng tinh tiến thêm
luôn luôn lần lần xa dứt tâm chẳng nhẫn nhục mà học tập nhẫn nhục lần lần, khiến tâm nhẫn nhục của tôi
thêm rộng lớn đầy đủ, cho đến trọn đời chẳng hề giải đãi ưu sầu.
Đại Bồ Tát như vậy phát tâm Bồ đề nhớ tâm Bồ đề tu tâm
Bồ đề hy vọng Bồ đề nguyện cầu Bồ đề, Bồ Tát nầy phát
khởi chánh
hạnh vô lượng vô
biên a tăng kỳ thiện căn nhẫn nhục như vậy muốn cho tất cả thế gian
chúng sanh phát khởi vô lậu nhẫn nhục phát
khởi vô học nhẫn nhục sanh
vô lậu nhẫn nhục sanh
vô học nhẫn nhục.
Đại Bồ Tát hành nhẫn nhục như vậy chẳng lấy làm
khó mà là vui thích mau đầy đủ Sằn đề Ba la mật.
Thế nào là
đại Bồ Tát đầy đủ Tỳ lê
gia Ba la mật?
Nầy Thiện Tý!Bồ Tát phải suy nghĩ như vầy: Nay mười phương nầy mỗi phương đều có vô
lượng thế giới mỗi thế giới có vô
lượng vô
biên chúng sanh tụ tập, nay
tôi nên phát trang nghiêm khiến chúng
sanh nầy được lợi ích rộng lớn được vui rộng lớn. Lại vì
quan sát biết pháp sở duyên lợi ích
khoái lạc của vô lượng chúng
sanh, vì pháp khởi pháp
thiện căn,
nên tôi trong vô lượng ngày
đêm, hoặc tâm
phóng dật hoặc móng
niệm khác,
hoặc lúc ngủ nghỉ, trong
mỗi niệm thường tăng
trưởng phước đức, trong
mỗi niệm phát
khởi vô lượng vô
biên tư lương thiện căn Bồ Đề. Nay
tôi nên biết vì
trong mỗi niệm phát
khởi thêm lớn vô lượng thiện căn Bồ đề thì
hành vô thượng Bồ đề không
khó. Do duyên cớ nầy mà tôi
thấy Bồ đề rất là dễ được. Vì thế nên người muốn được đạo vô thượng thì
trọn đời chẳng nên
giải đãi.
Nầy Thiện Tý! Đại Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Ở trong
vô lượng vô
biên thế giớI, nếu Bồ Tát có
thể làm cho
chúng sanh trong một thế giới được rời lìa tất cả khổ, tôi
còn ở trong mỗi niệm phát
khởi thêm lớn vô lượng thiện căn,huống là có
thể làm cho
chúng sanh trong vô lượng vô
biên thế giới trừ lìa những khổ ba ác đạo sanh
lão bịnh tử.
Nầy Thiện Tý! Đại Bồ Tát lại suy nghĩ rằng:
trong một niệm nếu Bồ Tát muốn cho
chúng sanh trong vô lượng vô
biên thế giới trừ lìa tất cả khổ, Bồ Tát nầy cũng ở trong một niệm phát
khởi thêm lớn được vô lượng thiện căn,
huống là muốn khiến suốt vị lai tất cả chúng
sanh trong vô lượng vô
biên vô số thế giới trừ lìa khổ ba ác đạo sanh
lão bệnh tử.
Nầy thiện Tý!Bồ Tát lại phải suy nghĩ rằng:Nếu có người muớn được pháp
Thanh Văn Duyên Giác, trong mỗi niệm người nầy còn được phát
khởi thêm lớn vô lượng vô
biên thiện căn huống là người muốn thành
tựu đầy đủ Phật pháp
vô lượng vô
biên oai lực. Người nầy do bốn nhơn bốn duyên
bốn cảnh giới trong
ngày đêm, hoặc tâm
phóng dật hoặc sanh
niệm khác
hoặc lúc ngủ nghỉ, trong
mỗi niệm tu tập tứ vô lượng vô
biên thiện căn
phát khởi thêm lớn tư lương Bồ đề. Nay
tôi nên biết trong
mỗi niệm phát
khởi thêm lớn tứ vô lượng thiện căn
thì thành Vô thượng Bồ đề không
khó. Vì thế nên tôi
thấy Bồ đề rất là dễ được. Vì thế nên người muốn được đạo Bồ đề trọn đời chẳng nên
giải đãi.
Ví như bốn đại hải, hoặc nam bắc trên dưới đều dễ biết được bờ mé, biển lớn tư lương Bồ đề tứ vô lượng thiện căn rất khó biết ngằn mé,
nay tôi cớ chi lại chẳng ở trong mỗi niệm phát
khởi thêm lớn tư lương Bồ đề tứ vô lượng thiện căn,
vì thế nên người muốn thành
đạo vô thượng trọn đời chẳng nên
giải đãi.
Nầy Thiện Tý!!Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Nếu có sư tử chồn sói
kên khách qụa chim
muỗi ruồi rận chét
đã được đạo vô thượng rồI, huống là ta
hiện nay
sanh trong loài người mà lại giải đãi.
Vì thế nên người muốn thành
đạo vô thượng thì
trọn đời chẳng nên
giải đãi.
Nầy Thiện Tý!Bồ Tát lại suy nghĩ rằng: Đã
có trăm người ngàn
người thành
đạo vô thượng rồI, huống nay
riêng mình tôi chẳng được thành.
Mười phương thế giới hiện tại vị lai có
hằng xa chư Phật Thế Tôn hiện thành
sẽ thành,
thế nên nay
tôi trọn đời chẳng nên
giải đãi.
Nầy Thiện Tý!Bồ Tát nầy lại nên suy nghĩ rằng: Nếu có
chánh pháp do Phật nói hoặc
doThanh Văn nói do Bồ Tát nói
nhẫn đến hoặc do kẻ cuồng ngu
vì Phật mà
nói, như là Đàn
na la mật, Thi
la Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tỳ lê
gia Ba la mật, Thiền na Ba
la mật, Bát
Nhã Ba la mật, Bồ Tát nầy vì đầy đủ Phật Pháp
muốn thành
đạo vô thượng muốn được nhứt thiết trí, ở nơi chánh
pháp ấy siêng
tu tinh tiến như cứu cháy đầu học trì tụng thuộc suy gẫm nhận hiểu vì người mà giải nói,
trí huệ tinh tiến nhứt tâm tư duy.
Nếu trong tất cả chung
sanh có chỗ nào
thuyết pháp dầu cho bị nạn dao gậy, Bồ Tát nầy vẫn cố đến chỗ ấy nghe
thuyết pháp.
Hoặc có
chúng sanh tu nghiệp báo
vui, hoặc vui hiện đời hay
vui đời sau, bấy giờ Bồ Tát liền dùng
pháp lành diệu nghĩa
đúng như pháp để tá trợ, với pháp
lành ấy tự mình
cũng lại siêng
tinh tiến hơn.
Bồ Tát nầy lại đem thân thể mình bố thí cho
chúng sanh khiến có được tự tại; ví như tứ đạI, trong
ấy tất cả chúng
sanh được tự tại tùy ý
thọ dụng, Bồ Tát đem
thân thể bố thí cho
người tự tại thọ dụng cũng
như vậy, trí
huệ tinh tiến nhứt tâm tư duy.
Bồ Tát nầy dầu cho có nạn dao gậy thường ở trong
Phật Pháp
Tăng và đối với các sư Trưởng già bịnh khổ nghèo
cùng luôn cung kính cúng dường hầu hạ siêng
năng tinh tiến như cứu cháy đầu.
Tùy tâm chúng sanh, Bồ Tát nầy dùng bố thí ái
ngữ lợi ích và
đồng sự tùy
theo chỗ nên mà
nhiếp thủ họ: người muớn, được Thanh
Văn thừa thì điều phục an trí
họ nơi thừa Thanh
Văn, người muốn được Duyên
Giác thừa thì điều phục an trí
họ nơi thừa Duyên
Giác, người muốn được Bồ Tát thừa thì điều phục an trí
họ nơi thừa Bồ Tát,
trí huệ tinh tiến như cứu cháy đầu.
Vì thiện pháp
vì nhơn duyên
sáu Ba la mật nên Bồ Tát chẳng kể lạnh nóng
đói khát muỗi mồng gió
thổi nắng đốt người hại mắng nhiếc chê
bai mỏi nhọc ngủ nghỉ các sự khổ não,
trong những sự việc ấy nhẫn đến trọn đời Bồ Tát chẳng hề nhớ đến, trí
huệ tinh tiến như cứu cháy đầu, dầu bị nạn dao gậy cũng
chẳng hề giải đãi.
Vì nhơn duyên
đạo vô thượng nên Bồ Tát nầy có thể chịu các sự khổ, như là ác đạo A Tu
La trong nhơn gian,
Bồ Tát chẳng cho
đó là khó, trí huệ tinh tiến như cứu cháy đầu. Bồ Tát nầy bền vững tinh
tiến ý chí
vững chắc muốn ra khỏi thế gian
thành sức tinh
tiến vô thượng của Phật, muốn được Tỳ Lê
gia Ba la mật, xu hướng Tỳ lê
Ba la mật, nguyện cho
chúng sanh đắc độ giải thoát,
vì được nhứt thiết trí đầy đủ tất cả Phật pháp vậy. Bồ Tát tự nghĩ rằng nay
tôi xu hướng Tỳ lê
gia Ba la mật rồi nguyện cho
chúng sanh đắc độ giải thoát
để được nhứt thiết trí đầy đủ tất cả Phật pháp vậy. Tinh
tiến như thế chẳng thiếu khuyết chẳng phá
hoại chẳng hoang
dật.
Nếu là người không đủ sức học tập đầy đủ thì nên
suy nghĩ rằng: Nay
tôi phải siêng
năng tinh tiến mãi
mãi lần lần dứt trừ giải đãi,
khéo học tinh
tiến làm
cho tinh tiến ấy lần lần rộng lớn đầy đủ, trọn đời chẳng giải đãi chẳng lo rầu.
Bồ Tát như vậy phát khởi tâm Bồ đề nhớ tâm Bồ đề tu tâm
Bồ đề hi vọng Bồ đề nguyện cầu Bồ đề. Đây gọi là vô
lượng vô
biên vô số thiện Tinh
tiến Ba la
mật. Tại sao?Vì
tinh tiến như vậy là tối thắng đệ nhứt trong
những thiện pháp
tinh tiến khác,
muốn tất cả chúng
sanh thế gian
phát khởi vô lậu tinh
tiến, phát
khởi vô học tinh
tiến, sanh
vô lậu tinh
tiến, sanh
vô học tinh
tiến vậy.
Nầy Thiện Tý!Bồ Tát như vậy hành tinh tiến chẳng lấy làm
khó mà lấy làm
vui thích mau đầy đủ Tỳ lê
Ba la mật.
Thế nào là
đại Bồ Tát đầy đủ hành
Thiền na Ba
la mật?
Nầy Thiện Tý!Bồ Tát nếu thấy sắc chẳng lấy tướng sắc, hoặc có lúc nhãn căn bị ngoại cảnh kéo dắt thì phải chánh
hành thủ hộ chẳng cho
duyên theo chẳng để tâm mê
si tham trước thế gian, hộ trì giới nầy bấy giờ đầy đủ nhãn
căn giớI. Tai
nghe tiếng, mũi
ngửu hương, lưỡi nếm vị, thân
giác xúc, ý biết pháp
cũng chánh hành thủ hộ như vậy.
Lúc đi đứng nằm ngồi nói
nín, Bồ Tát nầy chẳng xa rời tâm tịch định, khéo
gìn tay chưn không
có tán loạn, thường có
lòng tàm quí khéo gìn khẩu nghiệp, an tường nhìn
thẳng lòng
luôn tịch tĩnh,
chẳng ưa cười đùa,
khéo ngự phục nghiệp thân
khẩu ý khiến thường tịch tĩnh.
Ở chỗ khuất vắng hay nơi hiển lộ đều không
tâm niệm khác.
Với bốn sự cần dùng
lòng thường biết đủ, dễ nuôi dễ đủ dễ sai dễ bão.
Khéo hành tịch tĩnh
xa rời ồn náo. Với những lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc không
tâm niệm sai
khác chẳng cao
chẳng hạ, mạng và
phi mạng cũng
không tâm sai khác, không giận không
thương, bình
đẳng xem
oán thân đồng như xích tử. Nơi nhẫn và chẳng nhẫn lòng
thường bình
đẳng. với tiếng thánh
tiếng phàm
tiếng tịch tiếng loạn cũng
bình đẳng không
tâm niệm sai
khác. Ở trong sắc yêu
ghét, lòng chẳng cao hạ rời lìa cảm ái và
giận ghét vậy. Ở trong
thanh hương vị xúc và
pháp cũng như vậy, tâm
thường bình
đẳng không
sai khác.
Bồ Tát nầy xem sắc dục như bộ xương do ức tưởng tà mà phát khởi tâm sắc dục. Xem sắc dục như khối thịt nhiều oán
ghét, xem sắc dục như lửa đuốc nóng
khổ rời xa an
vui, xem sắc dục như trái
trên cây nhiều khẻ ham ưa, xem dục như mượn nhờ không được tự tại xem dục như mộng giây
phút hoại diệt, xem dục như nhọt độc trong
điên đảo khổ mà tưởng là
vui, xem dục như lưỡi câu
làm ác nghiệp đọa ác đạo, xem dục như sông
tro thêm nhiều dục nhiễm chẳng biết chán đủ. Bồ Tát quan
sát như vậy rồi rời lìa
pháp dục ác bất thiện có
giác có quán ly sanh hỷ lạc thành
hạnh sơ thiền. Lìa
giác quán nội tịnh tâm ở một chỗ, không
giác không quán định sanh
hỉ lạc thành
hạnh nhị thiền. Lìa hỉ, hành xả niệm chánh
trí một, tâm
thân hành lạc năng
hành năng xả như chư thánh
nhơn hành hạnh tam
thiền. Bỏ ý khổ lạc trước dứt ưu hỉ hành xả niệm tịch thành
hạnh tứ thiền. Với tất cả chúng
sanh suy tưởng được vui
thành vô lượng vô
biên từ tâm. Với tất cả chúng
sanh suy tưởng khỏi khổ thành
vô lượng vô
biên bi tâm. Với tất cả chúng
sanh suy tưởng mừng tuỳ hỉ thành
vô lượng vô
biên hỉ tâm. Với tất cả chúng
sanh suy tưởng xả bỏ khổ lạc thành
vô lượng vô
biên xả tâm.
Bồ Tát nầy chẳng suy nghĩ tướng sắc, thành
tựu hạnh không
xứ tịch tĩnh.
Chẳng tư duy tướng
không, thành tựu hạnh thức xứ tịch tĩnh.
Chẳng tư duy tướng thức, thành
tựu hạnh vô sở hữu xứ tịch tỉnh. Chẵng tư duy tướng vô sở hữu xứ, thành
tựu hạnh phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ tịch tĩnh.
Bồ Tát nầy ở nơi hơi thở ra vào; hoặc tuỳ
theo hoặc an trụ, lúc
dài biết dài
lúc ngắn biết ngắn, thành
tưụ hạnh xuất tức, nhập tức tịch tĩnh.
Bồ Tát nầy tư duy quán tướng thân
bất tịnh,
thành tựu hạnh bất tịnh tịch tĩnh.
Tư duy tướng vô lượng lỗi sanh
lão bịnh tữ, thành
tựu hạnh tướng vô thường tịch tĩnh.
Tư duy trong
món ăn khởi phát tướng vô lượng lỗi họa, thành
tựu hạnh tướng món
ăn bất định. Tư duy rõ
ràng trong các thế giới thành ấp tụ lạc các thứ trang sức là tướng quyết chắc sẽ hư hoạI, thành
tựu hạnh thế gian chẳng đáng
vui tịch tĩnh.
Bồ Tát nầy bên trong có tướng sắc bên
ngoài quán sắc ít hoặc đẹp hoặc xấu nắm lấy tướng mạo ấy thành
tựu hạnh sơ thắng xứ. Bên
trong có tướng sắc bên
ngoài quán sắc nhiều hoặc đẹp hoặc xấu nắm lấy tướng mạo ấy, thành
tựu hạnh đệ nhị thắng xứ.
Bồ Tát nầy tư duy thân thể mình hoặc chết hoặc thiêu
thành tro thành đất bị nước cuốn trôi
hoặc nát mất mòn mất hoặc dứt ba
cõi, đây gọi là bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc ít hoặc đẹp hoặc xấu nắm lấy tướng mạo ấy, thành
tựu hạnh đệ tam thắng xứ. Bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc nhiều hoặc đẹp hoặc xấu nắm lấy tướng mạo ấy thành
tựu hạnh đệ tứ thắng xứ. Bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc xanh
vô lượng vô
biên ưa thích
nắm lấy tướng ấy, thành
tựu hạnh đệ ngũ thắng xứ. Bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc đỏ vô lượng vô
biên ưa thích
nắm lấy tướng ấy, thành
tựu hạnh đệ lục thắng xứ. Bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc vàng
vô lượng vô
biên ưa thích
nắm lấy tướng ấy, thành
tựu hạnh đệ thất thắng xứ. Bên
trong không tướng sắc bên
ngoài quán sắc trắng vô lượng vô
biên ưa thích
nắm lấy tướng ấy, thành
tựu hạnh đệ bát thắng xứ.
Bố Tát nầy nhập vào nhứt thiết xứ vô lượng vô
biên địa thủy hỏa phong
thanh hoàng xích bạch hư không
và thức chẳng nghĩ
nhớ tướng khác,
thành tựu hạnh nhập thập nhứt thiết xứ.
Lúc nhập vào
pháp khổ, Bồ Tát nầy tâm
duyên tất cả thiện căn,
những là đại từ đại bi,
nhiếp trì
chánh pháp chẳng dứt tam bảo trang
nghiêm thân Phật thanh
tịnh phạm âm, sưa đã thệ nguyện giáo
hóa chúng sanh tịnh Phật thế giớI, ngồi tọa Bồ đề chuyển diệu pháp
luân, dứt trừ tất cả kiết sử của chúng
sanh. Trong tâm Bồ Tát
duyên lấy cảnh giới như vậy.
Lúc Bồ Tát nầy nhập thiền định, rời lìa chỗ an trụ của bốn thức, chẳng y tựa nơi địa đại thủy đại hỏa đại phong
đại không
đại thức đại, cũng
chẳng y tựa đời nay đời sau,
lúc nhập định đều không
chỗ y tựa như vậy.
Bồ Tát nầy lúc nhập thiền trong
lòng ưa thích,
vì muốn nhập vào định giải thoát
vô thượng vậy.
Bồ Tát nầy tu hành thiện định vì
nguyện cho tất cả chúng
sanh đắc độ giải thoát
vậy, vì muốn được Nhứt thiết trí đủ tất cả Phật pháp vậy.
Hoặc tư duy hoặc lúc tư duy rồI, vì
nguyện cho tất cả chúng
sanh đắc độ giải thoát
vậy, vì được Nhứt thiết trí đủ tất cả Phật pháp vậy.
Nơi thiền định nầy nếu là người không đủ sức học tập, thì
phải suy
nghĩ rằng tôi
nên mãi mãi lần lần siêng
tinh tiến thêm để xa rời tâm loạn động, mãi
mãi lần lần tinh
tiến thêm
chuyên học nhứt tâm,
khiến nhứt tâm ấy thêm lớn rộng đầy đủ trọn đời không
giải đãi
không lo rầu.
Bồ Tát nầy phát khởi tâm Bồ đề nhớ tâm Bồ đề tu tâm
Bồ đề hi vọng Bồ đề nguyện cầu Bồ đề. Đây gọi là đại Bồ Tát vô
lượng vô
biên thiện căng
thiền định, muốn khiến tất cả chúng
sanh thế gian
phát khởi vô lậu thiền định phát
khởi vô học thiền định sanh
vô lậu thiền định sanh
vô học thiền định.
Đại Bồ Tát hành thiền định nầy chẳng lấy làm
khó mà lấy làm
vui thích mau đầy đủ Thiền Ba la
mật.
Nầy thiện Tý! Thế nào là
đại Bồ Tát đầy đủ Bát nhã
Ba la mật?
Nếu là người thông minh trí huệ học rồi hay thọ trì
nghe rồi hay
tung tập, giỏi học tướng nghĩa
thậm thâm của các
pháp và cũng hay phân biệt, đúng
như pháp được nghe,
nghe rồi hay
suy ngẫm ý
nghĩa.
Có những người được như trên
đây, thì Bồ Tát phải thân cận cung
kính cúng dường tôn
trọng tán
thán dầu đến bị dao gậy cũng
chẳng xa rời. Bồ Tát nầy vì học vấn vì liễu nghĩa
vì tư duy
nghĩa vì cúng dường cung
kính Sư Trưởng Hòa
Thượng nên dầu đến gần chết cũng
trọn chẳng sợ tránh
các sự khổ não khổn nạn, như là đói
khát rét nóng muỗi mòng
trùng độc gió thổi nắng phơi đánh đập mắng nhiết chê
bai.
Bồ Tát nầy đối với chánh pháp tưởng là khối châu
báu, với người thuyết pháp tưởng là
kho châu báu, với người nghe
pháp tưởng là
khó gặp, với người gạn hỏi tưởng là huệ mạng, với người học nhiều tưởng là trừ vô minh
sanh trí huệ, với người phân
biệt các
pháp tưởng là
trăm ngàn đời sanh
huệ nhãn.
Bố Tát nầy nghe các pháp ấy xong
thọ trì tu
học rộng phân
biệt rồi biết ngũ ấm thập nhị nhập thập bát giới tứ đế thập nhị nhơn duyên
tam thế Tam thừa. Bồ Tát nầy biết hai giới: Hữu vi giới và vô
vi giới. Nếu là
pháp sanh trụ diệt là hữu vi giới. Nếu pháp
không sanh trụ diệt là vô
vi giới. Bồ Tát nầy lại biết ba giới: Thiện giới bất thiện giới và vô
ký giới. Nếu chẳng tham
với chẳng tham
chẳng sân với chẳng sân
chẳng si với chẳng si
thì gọi là thiện giới. Nếu tham với tham
sân với sân si
với si thì
gọi là bất thiện giới. Trừ thiện và bất thiện các
pháp khát gọi là vô
ký giới. Lại biết ba giới: Dục giới, sác
giới và Vô
sắc giới. Dục giới là địa ngục, súc
sanh ngạ quỉ, A Tu
La, nhơn loại, Tứ Thiên Vương
Thiên, Tam Thập Tam
Thiên, Dạ Ma
Thiên, Đâu Suất Đà
Thiên, Hóa Lạc Thiên,
Tha Hóa Tự Tại Thiên,
ở trong
đây nếu dục nhiễm tham
trước sân
khuể ngu si
hy vọng muốn được tâm
gây tạo ngiệp thì gọi là Dụ giới. Sắc giới là phạm Chúng
Thiên, Phạm Phụ Thiên,
Phạm Vương
Thiên, Thiểu Quang
Thiên, Vô Lượng Quang
Thiên, Quang Âm Thiên, Thiểu Tịnh
Thiên, Vô Lượng Tịnh
Thiên, Biến Tịnh
Thiên, Thiểu Quả Thiên,
Quảng Quả Thiên,
Vô Lượng Quả Thiên,
Vô Nhiệt Thiên,
Vô Não Thiên, Thiện Kiến Thiên
Diệu kiến thiên,
A Ca Nhị Tra
Thiên, nếu ở trong
đây sắc nhiễm ngu si
hi vọng muốn được tâm
gây tạo nghiệp thì gọi là sắc giới. Vô sắc giới là
Không Xứ Thiên,
Thức Xứ Thiên,
Vô Sở Hữu Xứ Thiên,
Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng Xứ Thiên,
nếu ở trong
đây vô sắc nhiễm ô ngu
si hi vọng muốn được tâm
gây tạo ngiệp thì gọi là vô
sắc giới. Lại biết bốn giới: Dục giới, Sắc giới Vô Sắc giới và vô
vi giới. Lại biết sáu giới: Dục giới, khuể giới hại giới xuất ly giới bất khuể giới và bất hại giới: Lại biết sáu giới: Địa, Thủy, Hỏa Phong
không và thức. Quan
sát địa giới đến thức giới là tướng vô thường biến hoại không
bền không
chắc,nếu vô thường thì
là khổ, nếu khổ là vô
ngã, đây gọi là biết sáu giới.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết năm ấm: sắc thọ tưởng hành
thức ấm. Sắc như bọt nước, tưởng như dã mã,
hành như cây chuối, thức như huyễn hóa, đều là
sanh diệt chẳng được lâu,
đây gọi là biết ngũ ấm.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết sáu nhập bên
trong: nhãn nhĩ tỷ thiệt thân
và ý nhập. Nhãn
nhập đến ý nhập đều là
pháp khổ già chết không
vô ngã vô ngã sở ba độc hẩy hừng sanh
lão bệnh tử ưu bi khổ não
cũng hay hẩy hừng các
pháp khổ não,
đây gọi là biết sáu nhập bên
trong. lại biết sáu nhập bên
ngoài: sắc được mắt thấy, tiếng được tai
nghe, hương được mũi ngửi, vị được lưỡi nếm, xúc được thân cảm giác
và pháp được y biết. Sắc đến pháp,
tánh chẳng được bền chắc không
nơi y chỉ cũng
không thế lực, tất cả vô thường chẳng phải thiệt, chẳng như thiệt như huyễn như hóa,
đây gọi là biết sáu nhập bên
ngoài.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết bốn thánh
đế. Năm ấm, sáu
giới, sáu
nhập bên
trong và sáu nhập bên
ngoài gọi là khổ đế. Khổ ấy vô thường như oán tặc như nhọt như tên độc như tù trói
nhốt như chén bể hư chẳng tự tại là vô
ngã, hiểu rõ như vậy thì gọi là biết khổ thánh đế. Những gì là
tập thánh
đế? Đó là
tham sân si mạn, ngã mạn, duyên
chấp ngã
quyết định chấp ngã thường trụ chẳng hư hoại, ngã tức là sắc, ngã
khác với sắc, ngã tức là tưởng, ngã
khác với tưởng ngã
là tưởng phi tưởng, ngã
khác tưởng phi tưởng, ngã
là ấm, ngã
khác với ấm, trong
ngã có ấm trong ấm có
ngã, ngã là giới nhập, ngã
khác giới nhập, trong
ngã có giới nhập, trong
giới nhập có
ngã, ngã là thọ ngã
khác với thọ, ngã là
vô thọ ngã
khác vô thọ, ngã là
thức ngã
khác với thức, ngã
là sắc thiểu ngã
khác sắc thiểu, ngã
là sắc đa ngã
khác sắc đa,
ngã là thường, ngã
là vô thường, ngã
là thường vô thường, ngã
là phi thường phi
vô thường, ngã
là hữu biên,
ngã là vô biên, ngã là hữu biên
vô biên, ngã là phi hữu biên
phi vô biên, sau khi chết như đi, sau
khi chết chẳng như đi, sau
khi chết như đi cũng
chẳng như đi, sau
khi chết phi như đi phi
chẳng như đi, mạng tức là
thân thân tức là mạng,
chúng sanh nầy từ nơi nào đến, đi đến nơi nào,
các chúng sanh nầy tức là đoạn diệt chẳng phải có tương tục, tự tác tự thọ tha tác
tha thọ, chấp có ngã
thì có ngã sở, có ngã
sở tức là có
ngã, nhiếp thủ như vậy chấp ngã chấp thân,
hoặc kiết hoặc sử hoặc ngã hoặc ngã sở, ngã thọ gốc tham
sân si, hoặc tổng ba
nghiệp thân
khẩu ý, hoặc tội nghiệp, hoặc phước nghiệp, hoặc nghiệp Dục giới, hoặc nghiệp Sắc giới, Vô Sắc giới, đây gọi là tập thánh
đế.
Thế nào là
diệt thánh
đế? Nếu tham
sân si dứt hết, ngã
và ngã sở dứt hết, thọ lấy ba cõi
dứt hết thì gọi là diệt thánh
đế. Những gì gọi là đạo thánh
đế? Nếu thấy khổ tập diệt tận suy gẫm tất cả lỗi họa hữu vi thấy Niết bàn tịch tịnh chỗ làm đã
xong, lúc an trụ pháp như vậy chánh
kiến, chánh
tư duy,
chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh
mạng,
chánh tinh tiến, chánh
niệm, chánh
định, đây
gọi là đạo thánh
đế.
Biết tứ thánh đế như vậy, lúc Bồ Tát tư duy
phân biệt tứ thánh đế thấy pháp hữu vi là
khổ là vô
thường là
không là vô ngã, thấy pháp
vô vi có thể làm chỗ che chở làm nhà
ở làm chỗ nương, dầu quan
sát như vậy mà chẳng chứng Niết bàn. Bồ Tát biết bốn thánh
đế như vậy.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết mười hai nhơn duyên:
vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh
sắc duyên
lục nhập, lục nhập duyên
xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên
ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên
sanh, sanh duyên lão tử. Nếu chẳng biết chẳng thấy tứ thánh đế và mười hai nhơn duyên
thì gọi là vô
minh. Nếu có ba
nghiệp thân
khẩu ý nghiệp phước nghiệp tội nghiệp dục giới nghiệp Sắc giới, Vô Sắc giới thì gọi là
hành. Nếu có tâm
ý và thức thì gọi là thức. Nếu có thọ tưởng tư xúc tư duy thì
gọi là
danh. Nếu có tứ đại năng tạo có sắc sở tạo từ ca la
lã đến hóa
sanh, hoặc tác sắc chẳng phải tác sắc thì gọi là sắc, vì
danh và sắc hiệp nhau
nên gọi là
danh sắc. Nếu có
nhãn nhĩ tỷ thiệt thân
và ý thì gọi là lục nhập. Nếu nhãn
duyên sắc sanh
ra nhãn thức đến ý
duyên pháp sanh ra ý thức, ba thứ hòa hiệp sanh
ra xúc thì gọi là
xúc. Nếu có khổ thọ lạc thọ và bất khổ bất lạc thọ thì gọi là thọ. Nếu có ái
nhiễm thì gọi là ái.
Nếu có ái
kiến giới thủ thì gọi là thủ. Nếu có sắc thọ tưởng hành
thức thì gọi là hữu. Nếu hữu nầy phát
khởi thì gọi là
sanh. Nếu có suy
biến thì gọi là
lão. Nếu có diệt hoại thì gọi là tử. Bồ Tát phân
biệt tư duy mười hai
nhân duyên như vậy, thấy nghe
hay biết địa thủy hỏa phong
không và thức cả sáu đại giới ấy chẳng phải là ngã
ta chẳng sanh
ái trước, ngã
chẳng phải là sáu
đại giới chẳng sanh
ái trước cũng
chẳng hi vọng. Thấy nghe
hay biết. Niết bàn chẳng phải ngã chẳng sanh
ái trước, ngã
chẳng phải Niết bàn chẳng sanh
ái trước, cũng
chẳng phải hi vọng! Bồ Tát nầy thấy các
pháp từ nhơn duyên
khởi lên liền biết ba giải thoát
môn, rộng tu học thấy không
vô tướng và vô
tác. Bồ Tát nầy thấy các
pháp từ nhơn duyên
khởi lên liền biết tịch diệt lạc. Siêng
năng tu học rộng phân
biệt rồi thì vô
minh dứt, vô
minh dứt thì
hành dứt, đến sanh dứt thì
lão tử dứt. Bồ Tát nầy dầu quán mười hai nhơn duyên
khởi diệt mà chẳng chứng tịch diệt. Bồ Tát biết mười hai nhơn duyên
như vậy.
Bố Tát nầy nghe pháp như vậy rồi nhứt tâm tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết tam thế: quá khứ vị lai và
hiện tại. Nếu pháp
sanh rồi diệt mất thì gọi là đời quá khứ. Nếu pháp
chưa sanh
chưa khởi thì gọi là đời vị lai. Nếu pháp
sanh rồi mà chưa diệt mất thì gọi là đời hiện tại. Bồ Tát nầy nghĩ đến đời quá khứ các bất thiện căn
khinh hủy đáng
ghét trái bỏ rời lìa
nó, đời vị lai các
bất thiện căn sẽ thọ quả báo bất thiện chẳng thích
chẳng ưa chẳng thể vừa ý, đời hiện tại các bất thiện căn sẽ khiến nó chẳng sanh
khởi. Bồ Tát nầy hay
nhiếp hộ ba nghiệp thân
khẩu ý và
sáu tình căn thường phát
khởi thiện nghiệp không
thể gián đoạn các
thiện căn
quá khứ.
Bồ Tát nầy phát tâm Bồ đề chuyên
niệm tâm Bồ đề hy vọng Bồ đề muốn được tâm Bồ đề. Dùng
tâm thâm trọng ưa thích
cầu nguyện cho tất cả chúng
sanh đắc độ được giải thoát,
vì được Nhứt thiết trí đủ tất cả Phật pháp vậy.
Bồ Tát nầy thường chẳng rời lìa tâm ấy trọn chẳng giải đãi thất niệm phóng
dật. Nếu là đời quá khứ ấm giới nhập v. v…tức là diệt tận chẳng thiệt chẳng còn
không ngã không ngã sở, nếu là đời vị lai ấm giới nhập v.v…
là chưa sanh
chưa khởi không
ngã không ngã sở, nếu là đời hiện tại ấm giới nhập v.v…là
niệm niệm chẳng dừng ở. Tại sao?
Vì thế pháp
không có một niệm an trụ vậy. Nếu có một niệm thì
trong một niệm ấy cũng
có sanh trụ và diệt, chính
sanh trụ diệt nầy cũng
chẳng an trụ. Như trong
an trụ diệt có ấm giới nhập bên
trong bên ngoài thì nội ngoại ấm giới nhập nầy cũng
có sanh trụ diệt. Nếu chẳng an trụ như vậy tức là chẳng phải ngã chẳng phải ngã sở. Nếu đời quá khứ diệt mất chẳng thiệt chẳng còn
thì chẳng phải ngã
ngã sở, nếu đời vị lai chưa sanh
chưa khởi thì chẳng phải ngã
ngã sở, nếu đời hiện tại niệm niệm chẳng trụ thì chẳng phải ngã
ngã sở. nếu thấy tam thế chẳng phải ngả chẳng phải ngã sở thì gọi là người trí huệ chơn thiệt. Chẳng thấy ngã
ngã sở là ngã
ngã sở thì ở nơi các
cõi hành không ngã không ngã sở hành tưởng ly dục hành tưởng đoạn dứt hành tưởng diệt. Dầu hành
như vậy mà chẳng chứng Niết bàn.
Đây gọi là Bồ Tát biến tam thế.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết ba thừa: Thiên
thừa, Phạm thừa và
Thánh thừa. Sơ thiền nhị thiền tam
thiền và tứ thiền gọi là
Thiên thừa. Từ bi hỉ và xả gọi là Phạm thừa. Chánh
kiến, chánh
tư duy,
chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh
mạng,
chánh tinh tiến, chánh
niệm và
chánh định gọi là
thánh thừa.
Bồ Tát nầy luôn luôn tu tập ba thừa ấy giáo
hóa chúng sanh khiến họ an trụ ba thừa, mà tự thân Bồ Tát chẳng chứng giải thoát.
Đây gọi là Bồ Tá biết ba thừa.
Bồ Tát nầy lại còn biết ba thừa: Thanh
văn thừa, Duyên
Giác thừa, và Đại thừa.
Thế nào là
Thanh Văn thừa? Người căn bật nhuyến giải thoát,
trong một niệm rời lià
hang ba cõi thích muốn xuất thế muốn được Niết bàn thấy chỗ tịch diệt,
chuyên cần tinh
tiến như cứu cháy đầu, nếu là người chưa hiểu tứ thánh đế muốn dùng
tên trí huệ bắn đức tứ thánh đế muốn chứng muốn hiểu dùng
lòng ưa muốn tinh
tiến, đây gọi là
Thanh Văn thừa.
Thế nào là
Duyên Giác thừa? Người căn bực trung
giải thoát
muốn tịch tĩnh ở riêng một chỗ để tự lợi ích nhập định tịch tĩnh
phương tiện phân
biệt mười hai
nhân duyên muốn được đạo Duyên
Giác muốn chứng Duyên
giác đây gọi là
Duyên giác thừa.
Thế nào là
Đại thừa? người căn bực thượng giải thoát
muốn khiến tất cả chúng
sanh đắc độ được giải thoát
vì được Nhứt thiết trí đủ tất cả Phật pháp
sáu Ba la mật muốn lợi ích tất cả thế giới muốn dứt tất cả chúng
sanh khổ não, ở trong
ngũ dục lạc của tất cả thế giới tâm thường khinh
tiện huống là tại thế gian vô
lượng khổ, muốn cho
chúng sanh trì giới vô thượng, muốn được nghe
thấy kinh đại thừa thọ trì
phân biệt tư duy tu
tập đọc tụng thông
thuộc chuyên
cần tinh
tiến, nếu có Bồ Tát tu
bốn nhiếp pháp
phải đến thân cận, muốn cho
chúng sanh nhiếp lấy chơn trí huệ an trụ trong tứ nhiếp, thường muốn được nghe
các pháp yếu thượng thậm thâm
thọ trì
phân biệt, muốn khiến tất cả chúng
sanh nhập thiền định, tự bỏ sự vui của mình để lợi, ích
chúng sanh, muốn dùng sức của mình
tùy theo sở thích của người mà làm
cho họ an trụ trong
ba thừa, dầu giáo
hóa ba thừa mà tự mình an
trụ trong đạo vô thượng chẳng hư chẳng động như kim cương, thường nguyện được vô thượng Bồ đề, nguyện cầu Bồ đề, đây gọi là Đại thừa. Đây gọi là Bồ Tát biết ba thừa.
Bồ Tát nầy nghe pháp như vậy rồi thọ trì tu
học rộng phân
biệt xong
thì biết phương tiện, nơi phật pháp
và Tăng năm vóc gieo xuống đất dùng
đây là nghiệp hạnh, với chỗ mình
làm thì nguyện cầu đạo vô thượng, quy
y như vậy phát
tâm Bồ đề, lúc đi
đứng ngồi nằm ăn uống tắm rửa đều không
có tâm niệm khác
mà chỉ nguyện cầu vô thượng Bồ đề thường tu học rộng lớn như vậy.Bồ Tát nầy lúc mới nhập định hay
nhập định rồi thường nguyện tất cả chúng
sanh đắc độ được giải thoát,
vì được nhất thiết trí đủ tất cả Phật pháp, ở trong tất cả thế giới chuyên
muốn điều phục tất cả chúng
sanh, muốn trong
tất cả chúng sanh
không ai hơn mình được, muốn đựợc tối thắng, muốn giáo
giới tất cả chúng
sanh, muốn tất cả chúng
sanh được tịch diệt, muốn ở trong tất cả pháp được thành
chánh giác đủ tất cả Phật pháp,
phát tâm Bồ đề thường tu học rộng lớn như vậy. Bồ Tát nầy có làm
bao nhiêu thiện căn đều nguyện cho tất cả chúng
sanh rời lìa bố úy ra
khỏi ba ác
đạo dứt vô lượng khổ đoạn trừ các phiền não để được Niết bàn.
Hiện tại vị lai ai
muốn được Thanh
Văn thừa nguyện cho họ được đầy đủ. Hiện tại vị lai ai
muốn được Duyên
Giác thừa nguyện cho họ được đầy đủ. Hiện tại vị lai ai
muốn được Đại thừa nguyện cho họ được đầy đủ. Nguyện thỉnh cầu hiện tại vị lai tất cả chư Phật Như Lai trụ thế một kiếp thuyết pháp.
Nguyện thánh
chúng theo Phật trụ thế luôn được hòa hiệp. Bồ Tát nầy suy
nghĩ rằng: Mọi nơi tất cả chúng
sanh nếu tu thiện căn,
hoặc muốn sanh
trong Người hay
trên Trời hoặc muốn an trụ trong
ba thừa, tôi đều nguyện cho họ được đầy đủ cả.
Bồ Tát nầy do vì pháp yếu thậm thâm
vô thượng nên
trong ba thời luôn đọc tụng không
thuộc suy
nghĩ pháp ấy. Nay
tôi quy y tất cả chư Phật Tôn
Pháp và Thánh Tăng, đầu mặt lễ kính Chư Phật oai đức không
ai hơn, tướng Phật rất đẹp. Bồ Tát nầy thường nghĩ
rằng nguyện khắp mọi nơi thường có chư Phật không
có chỗ nào trống để tôi
khuyến thỉnh trụ thế một kiếp tuyên
nói Pháp vi diệu. Thường quở trách
các điều ác hoặc đã hay
sẽ làm,
nay tôi đã rời lìa tất cả sự ác dầu là
trong khoảng một niệm. nguyện đem tất cả thiện căn
khiến các
chúng sanh thọ mạng vô lượng an trụ trong tất cả thiện pháp,
mau chuyển pháp
luân như chư Bồ Tát.
Khiến chư thánh
nhơn được giới định huệ giải thoát
và giải thoát
tri kiến. Nguyện cho Phật pháp
thường trụ tại thế gian để được lợi ích
chúng sanh. Kẻ sanh
trong ngũ đạo đều được thiện căn.
Kính lễ chư Phật thường cầu nguyện như vậy. Bồ Tát nầy có bao
nhiêu nguyện lành đều khiến các
chúng sanh cùng mình được oai đức vi diệu oai đức thiện diệu. Tất cả Phật Pháp
Tăng Tam bửu hiện tại và vị lai đều khiến trụ thế một kiếp không
cõ các lưu nạn, chư Bồ Tát bửu mau được đủ sáu Ba
La mật mau thành
vô thượng Bồ đề cũng
không lưu nạn. muốn cho tất cả chúng
sanh dứt trừ bố úy khổ não
hành các hỉ lạc, dứt tất cả bất thiện căn
thành tất cả thiện căn,
theo đúng sở nguyện thành
tựu ba thừa mau đủ sáu Ba
la mật thọ mạng vô lượng được giải thoát
thành đạo vô thượng. Bồ Tát
kính lễ chư Phật thường cầu nguyện như vậy.
Bồ Tát nầy thường cầu nguyện cho tất cả chúng sanh dứt các khổ não. Tất cả chư Phật ở tại tất cả thế gian nhẫn đến pháp
thân, nguyện đem
thân mình phụng thí
chư Phật, muốn cho tất cả chúng sanh
đắc độ thành đạo vô thượng, tại chỗ thọ sanh
tín kính Tam bửu, dùng
hương hoa
cúng dường hằng sa chư Phật Thế Tôn
cũng cúng dường Pháp
và Tăng chư Bồ Tát,
khiến đồ cúng lượng như núi Tu
Di. trong tất cả thế gian tất cả chúng
sanh nếu có cần dùng
những thất bửu phòng
nhà y phục đồ uống ăn
thuốc men giường nệm, đều cung cấp đầy đủ không để thiếu. Nếu có người thích
nhẫn nhục tinh
tiến trì giới, tôi sẽ tùy
theo sở thích của họ mà giải thuyết khiến họ thành tựu thắng pháp
cho tam bửu đầy đủ, tu sáu
Ba la mật mau
thành Phật đạo, rời lìa ác
pháp khéo hành thiệt nghĩa,
thân khẩu ý ba
nghiệp chẳng thối Bồ đề thích nơi Bồ đề mọi nơi mọi chỗ thấy Phật và Bồ Tát thường học thiện căn. Đặt chúng
sanh trong thiện pháp.
Bồ tát nầy tự biết đến những thiện căn của người, xu hướng trí
huệ, tư duy trí
huệ, vì muốn cho tất cả chúng
sanh đắc độ được giải thoát
để được nhất thiết trí đủ tất cả Phật pháp.
Bồ Tát nầy có trí
huệ như vậy.
Nếu là người không đủ sức tu học như vậy thì phải tự tư duy:
Nay tôi nên chuyên tinh tiến thêm mỗi lúc lần lần dứt trừ vô
minh, lần lần học trí huệ ấy, khiến trí huệ ấy thêm rộng lớn đầy đủ, đến trọn đời không
hề giải đãi lo
rầu.
Bồ Tát phát tâm Bồ đề như vậy niệm tâm Bồ đề như vậy, tu
tâm bồ đề như vậy hi vọng tâm Bồ đề như vậy. Bồ Tát nầy có vô
lượng vô
biên thiện trí huệ. Tại sao?
Vì trí huệ nầy là tối thắng đệ nhứt trong
các thiện trí huệ, khiến tất cả thế gian
chúng sanh phát khởi vô lậu trí huệ phát khởi vô học trí huệ, sanh
vô lậu trí huệ sanh vô
học trí huệ.
Nầy Thiện Tý! Bồ Tát nầy hành trí huệ đấy chẳng lấy làm
khó mà lấy làm
vui thích mau đủ Bát Nhã
Ba la mật”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Thiện Tý Bồ Tát vui
mừng tán thán
“Lành hay lành thay, tín thọ phụng hành”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment