Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 102
PHÁP HỘI HIỀN HỘ TRƯỞNG GIẢ
THỨ BA MƯƠI CHÍN
- Nầy Đại Dược ! Như nước chảy trong núi rồi xoi núi mà thoát
ra, dầu nước mềm núi cứng. Cũng vậy, thức nầy bổn thể mềm mà có thể phá thân lớn cứng để được đi ra.
- Bạch đức Thế Tôn ! Có chúng sanh từ chúng sanh giới xả thân sau khi chết thế nào thọ thân trời , thế nào lại thọ thân các loài khác ?
- Nầy Đại Dược ! Có chúng sanh xả thân chúng sanh,
sau khi chết do làm sự phước nghiệp mà thọ thân, thức của họ xả nhơn thân kiến được thiên thân kiến, nó được thiên nhãn rồi liền thấy chư Thiên sáu cõi trời Dục giới, nó lại thấy cung trời , đồng thời thấy thân người lúc hoại hư , nó lại thấy vườn rừng trên trời, như hoan hỉ lâm, hoại loạn lâm v.v… nơi ấy có tòa ngồi cao trùm thiên y, nơi nơi có điện đài vi diệu, có đoàn thiên nữ đoan chánh, thấy các thứ hoa trời trang nghiêm sanh lòng hoan hỉ, trên tòa nó thấy thiên đồng tử, thiên tử và ngọc nữ ấy cùng ngó nhau vui vẻ, thiên đồng tử ấy sanh rồi lại thấy thiên đồng nữ sanh, thiên đồng tử thấy thiên đồng nữ liền sanh lòng dục, sanh lòng dục rồi liền được hoan hỉ, được hoan hỉ rồi liền được khắp thân tâm ý hoan hỉ, tâm ý hoan hỉ rồi liền biến sắc thân, sắc ấy như hoa sen.
-
Lúc người ấy mạng chung được sự thấy không điên đảo, mũi không nghẹt, miệng không hôi, tai mắt như hoa sen xanh, thân
phần lóng đốt lại chẳng rời rã chẳng lưu huyết, thân chẳng hôi thúi, lông
tóc chẳng rụng rớt, móng chẳng xanh, tay không vàng, tay chưn bất động cũng không co duỗi mà mạng chung.
Nầy Đại Dược ! Lúc người ấy mạng chung dự có tướng trời, đó là hiện tiền thấy kiệu xe, xe nầy có ngàn trụ trang nghiêm treo
linh giăng lưới vàng âm thanh vi
diệu, trên rải đầy những hương hoa vi diệu ngào ngạt thơm tho, còn có các thứ anh lạc trang sức trên xe, còn có
vô lượng thiên đồng tử. Thấy rồi người ấy sanh lòng rất vui mừng. Rất vui mừng rồi sanh hai tướng : răng trắng sạch hiện lên như hoa quân đà, hai mắt chẳng quá mở quá nhắm, tiếng nói êm ái, dưới hai chưn màu hoa sen,. Tử thi ấy nơi tim chẳng lạnh chẳng nóng, quyến thuộc chẳng quá bi luyến. Người ấy muốn y pháp lấy giờ chết lúc mặt nhựt mọc không có
tối tăm thấy rõ hình sắc các phương. Lại có hơi thơm vi diệu khắp nơi đến. Lúc sắp chết hai mắt người ấy chẳng nhắm thấy rõ chẳng mê lầm, hoặc thấy tượng Như Lai liền được tín tâm phát ý thanh tịnh, lại thấy quyến thuộc mà lòng thường vui thương rồi dùng tâm hoan hỉ ôm thân họ, như người chết rồi sống lại, như người đi xa trở về an ủi quyến thuộc rằng : các người chớ ưu chớ sầu, tất cả pháp có sanh đều có biệt ly như vầy.
Nầy Đại Dược ! Người ấy nếu phước nghiệp mạnh hoặc phát tâm bố thí luôn miệng ca ngâm tán thán
công đức bố thí hay nhơn duyên các thứ công đức, thốt lời như vậy rồi ngủ nghỉ thân tâm đều an vui hoàn toàn yên ổn xả thân mạng. Lúc xả thân mạng, người ấy thấy phương trên chư Thiên cùng ngồi đồng một giường, thấy thiên nữ hai tay nắm đầy hoa thơm thưa với thiên tử kia rằng : rất lành rất tốt nguyện có sự cát lợi, thời kỳ sanh thiên đồng đã đến. Nói xong thiên nữ ấy lựa hoa, lựa rồi lựa lại. Lúc thiên nữ lựa hoa là lúc người ấy mạng chung xả cộng thức xả các căn xả các đại. Lúc xả các đại bốn ấm không định thể không sắc như người muốn cỡi ngựa, hoặc như mặt trời, hoặc như minh châu, hoặc như ngọn lửa, hoặc như thủy nguyệt, hoặc như thân ảo hóa, phan duyên thiện nghiệp mau lẹ, như hơi trong ống thoát ra dời đi, thần thức ấy muốn sanh Thiên cung kia nhơn nơi hoa ấy mà thấy thiên phụ thiên mẫu ở trên giường hòa hiệp, từ trong hoa ấy thần thức có hình sắc xuất hiện, liền có gió vi diệu hòa hiệp với cam lộ vị thổi đến, gió ấy nổi lên rồi, trong bảy ngày thần thức ấy đầu đội mũ trời thành thiên đồng.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức ấy không có sắc, thế nào làm nhơn duyên mà thành tựu sắc, thế nào làm nhơn duyên mà hiển hiện ?
- Nầy Đại Dược ! Ví như hai khúc gỗ cọ xát nhau sanh ra lửa. Mà lửa nầy chẳng thể thấy ở trong gỗ, nó cũng chẳng thể rời gỗ mà có, cũng chẳng phải một nhơn mà có thể sanh lửa, cũng chẳng phải không có nhơn mà lửa ấy xuất hiện. Chẳng phải trên gỗ liền được thấy sắc mà do nhơn nên phát ra, phát ra mới thấy sắc, cũng chẳng phải rời lìa gỗ mà riêng có được sắc.
Cũng vậy, thức ấy do cha mẹ hòa hiệp nên thành tựu thọ thân. Thức ấy chẳng ở trong thân thấy được nó, cũng chẳng rời lìa thân mà có thức ấy.
Ví như lửa phát xuất rồi mới thấy sắc, cũng chẳng phải vì nóng mà thấy sắc, cũng chẳng phải vì đỏ mà nói là có sắc. Cũng vậy, thần thức ấy do thành tựu thân rồi mới nói có thức, cũng chẳng phải do vì thọ mà thấy được, cũng chẳng do các hành mà thấy được.
Nầy Đại Dược ! Ví như mặt nhựt viên mãn chói sáng có oai quang lớn được thấy, mà các phàm phu chẳng thấy chánh sắc mặt nhựt hoặc nói là sắc đen, hoặc nói là sắc trắng, hoặc nói là sắc vàng trắng, hoặc nói là sắc xanh lục.
Cũng vậy, chẳng thấy thần thức chẳng nên do thân mà nói là đen là trắng v.v…
Chẳng có thể do nơi hơi thở mà thấy mặt nhựt, nó có thể được thấy chỉ có lúc nó mọc lặn. Nên quan sát thần thức cũng như vậy.
Nầy Đại Dược ! Lúc muốn quan sát thần thức nầy chỉ lấy các tánh của nó.
Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy có các tánh gì ?
Nầy Đại dược ! Những tánh thọ, tánh thủ, tánh các hành,
tánh ưu sầu, tánh tư duy, tánh não, tánh hỉ, tánh bất hỉ v.v… là các tánh của thức vậy.
Lại nữa, thần thức có bổn tánh có thể quan sát được. Đó là thiện tâm bất thiện tâm v.v…làm bổn tánh của nó.
Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức ấy từ thân nầy thoát ra, thế nào nó mau lẹ mà thọ sanh nơi kia, lúc chưa đến thân kia thọ sanh nó ở chỗ nào, thần thức ấy nên quan sát nó thế nào ?
Nầy Đại dược ! Ví như có người cánh tay thon
dài, tay chưn trên dưới tất cả ngay thẳng vững chắc cỡi tuấn mã vi diệu, nhanh lẹ chạy vào trận, vào trận rồi bị thương té xuống ngựa, nhưng người ấy rất giỏi chiến trận nên lẹ làng nhảy lên lưng ngựa. Như lúc người ấy té ngựa mau lẹ nhảy lên lưng ngựa, cũng vậy, thần thức ấy nên quan sát như vậy.
Như người ấy bị giặc đuổi lòng kinh sợ giục tuấn mã chạy nhanh. Thần thức ấy ban đầu xả thân muốn đến chỗ kia cũng vậy.
Muốn sanh cõi trời thì móng niệm duyên cõi trời thấy thiên phụ thiên mẫu ở trên một giường, thấy rồi phan duyên mau lẹ liền được thọ sanh.
Nầy Đại Dược ! Ông hỏi người phàm lúc thần thức mới dời đi mà chưa đến kia thì nó ở chỗ nào và tánh của nó quan sát thế nào.
Nầy Đại Dược ! Ví như bóng người trong nước dầu có sắc hiện ra mà chẳng phải hình sắc chánh của người. Lúc bóng ấy thành tựu trong nước nó chẳng nghĩ rằng : tôi có nhiệt não tôi có lạnh rét thân tôi mỏi mệt, nó cũng chẳng nghĩ rằng : tôi là thân thiệt như khối thịt ở tại thai trước kia. Bóng ấy cũng không chỗ nhiễu loạn, lúc nó ở trong nước cũng không có tiếng phát ra.
Nầy Đại Dược ! Thần thức ấy lúc xả thân mà chưa đến kia thì nó có hình như vầy có tánh như vầy :
Phàm thần thức có phước lúc ban sơ muốn lấy thân trời thì cảm thọ như trên đã nói.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu thần thức ấy muốn lấy thân địa ngục thì sanh cảm thọ thế nào ?
Nầy Đại Dược ! Như thần thức vô phước muốn lấy thân địa ngục, ông nên lắng nghe ta sẽ nói cho.
Nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện do ác nghiệp ấy phan duyên nhiếp lấy mà chúng sanh ấy ở nơi đây muốn xả thân. Lúc xả thân nó nghĩ rằng : tôi là người ấy xả thân đến địa ngục nầy, đây là phụ mẫu tôi. Người nầy lúc xả thân thành tựu sắc thân như nghiệp đã có mà thành tựu không khác, liền thấy thân phần như thân thể trước. Lúc ban sơ xả thân, người ấy bị ưu sầu bức khổ liền thấy các thứ địa ngục. Ban sơ xả thân rồi, thần thức ấy tại địa ngục kia liền thành tựu hữu nghiệp liền thấy địa ngục kia : hoặc thấy như tưới máu, lòng họ sanh tướng nhiễm trước. Sanh tướng nhiễm trước rồi liền thành thân địa ngục. Ví như đất thấp ẩm ướt nên sanh trùng, như chỗ khuất hôi thúi rã bấy nên sanh trùng,
như trong chất lạc hư thúi có các thứ trùng dòi sanh, chúng sanh muốn sanh địa ngục cũng vậy”.
Bấy giờ trưởng giả Hiền Hộ chắp tay bạch Phật rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Ở tại địa ngục, thân chúng sanh ấy có hình sắc gì ? Thọ thân thể thế nào ?”
Đức Phật dạy : “ Nầy Hiền Hộ ! Nếu chúng sanh nhiễm trước chỗ máu thì thân họ có màu máu. Nếu có chúng sanh nhiễm trước sông tì la ni thì thân họ sanh vân sắc đen trắng. Nếu có chúng sanh nhiễm trước sông tro thì thân
họ sanh màu lốm đốm. Nhưng ở nơi ấy thân thể chúng sanh mềm mại như các Vương Tử an vui nuôi nấng thân thể họ.
Nầy Hiền Hộ ! Tại địa ngục ấy, các chúng sanh thọ thân lớn rộng cao tám cánh chỏ rưỡi, râu tóc họ rất dài, bàn chưn họ đáng sợ lật hướng phía sau. Nếu người Diêm Phù Đề đến đó thấy người địa ngục ắt kinh sợ mà chết.
Nầy Hiền Hộ ! Dầu có được ăn uống nhưng người địa ngục không được tạm thời vui”.
Đại Dược Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Lúc ăn, người địa ngục có thức ăn gì ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Đại Dược ! Chúng sanh địa ngục lúc du lịch xa thấy màu đỏ, đó là đồng hay thau nóng chảy thành nước, họ thất rồi kêu hô nhau cùng tụ lại chỗ ấy, vì cầu ăn nên hả miệng muốn ăn. Nước đồng nước thau sôi ấy phát ra tiếng ùng ục vào miệng họ đốt cháy toàn thân họ. Vì ăn mà các chúng sanh địa ngục thọ sự đau khổ như vậy.
Nầy Đại Dược ! Lúc ấy, thần thức họ chỉ ở tại hài cốt, vì thần thức chẳng rời lìa hài cốt nên thân thể cháy rã mà họ chẳng chết. Dầu vậy mà chúng sanh ấy vẫn còn đói khổ, nơi địa ngục cũng không có sự ăn.
Ở địa ngục ấy có vi diệu vườn rừng, các người địa ngục mắt thấy các thứ hoa quả cây cối xanh um, cũng thấy địa phương rộng lớn xinh đẹp có cỏ xanh mềm mại mọc đầy. Họ thấy vườn rừng địa phương xinh đẹp như vậy, họ đều vui mừng mỉm cười, đều khởi niệm đến đó, đều kêu gọi nhau cùng đến thọ khoái lạc, lại có gió nhẹ mát lạnh. Nghe và thấy như vậy rồi họ tụ họp lại cùng nhau vào trong rừng ấy. Vào rồi được vui chốc lát, nhưng tất cả cây cối nhánh lá bông trái đều biến thành sắt nhọn đâm cắt nát rã thân thể họ. Các chúng sanh địa ngục ấy vừa kêu la, vừa kiếm chỗ chạy. Phía sau họ có các quỉ tốt tay cầm chĩa nhọn, hoặc cầm gậy sắt đuổi theo. Các quỉ tốt ấy trợn mắt đáng sợ, răng nanh nhọn bén, đầu tóc phát lửa ngọn cao, toàn thân tuôn lửa gọi to rằng : chúng bây đứng lại chớ chạy. Tự nghiệp của chúng bây tạo ra vườn rừng nầy sao chẳng ở lại thọ nghiệp ấy mà chúng bây lại trốn chạy.
Chúng sanh ở tại địa ngục thọ khổ như vậy.
Lại nầy Đại Dược ! Quá bảy ngày, người địa ngục thọ đủ sự đau khổ, như con ong hút vị hoa làm thành mật. Tại sao ? Vì do các
thứ hữu nhơn nên thành thần thức mới thọ lấy khổ địa ngục. Thần thức ấy lúc ban sơ xả thân nó chẳng tự do mà bị các sự đau khổ bức ngặt chẳng vui thoạt đầu thấy tối đen bèn đến chỗ ấy. Như người bị giặc bức kéo đi không tự chủ được. Trong tâm người ấy nghĩ rằng : Ôi ! Nay tôi có chi bỏ Diêm Phù Đề xa các thân lữ mến yêu mà hướng đến địa ngục để đi. Nay chẳng thấy con đường lên trời. Lúc bấy giờ như con tằm đã bị tơ quấn gấp rút cầu chỗ thọ sanh cho mau lẹ, họ chẳng được tự do mà bị nghiệp lực kéo dắt không thể dừng lại được.
Nầy Đại Dược ! Chúng sanh địa ngục ấy có nghiệp nhơn như vậy và thọ lấy các sự khổ não như vậy”.
Vương Tử Đại Dược và trưởng giả Hiền Hộ nghe nghiệp báo địa ngục cả mình rởn óc chắp tay hướng Phật qui y phát nguyện rằng : “ Nhờ nhơn duyên nghe pháp nầy ở trong sanh tử phiền não lưu chuyển, nguyện chớ sanh ác đạo chớ thọ khổ địa ngục”.
Trưởng giả Hiền Hộ lại bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi còn
muốn hỏi đức Thế Tôn về các điều nghi trước”.
Đức Phật dạy : “Nầy Hiền Hộ ! Nếu có nghi điều chi, ta cho phép ông hỏi.
- Bạch đức Thế Tôn ! Cái gì gọi là tụ ? Cái gi gọi là Tích ? Cái gì gọi là ấm ?Cái gì gọi là Di ?
- Nầy Hiền Hộ ! Phàm có bốn thứ pháp giới thành tựu thân nầy. Những gì là bốn ? Các giới hòa hiệp, trí huệ kiến ý , vô minh các cảnh giới và thức, đây là tổng nghĩa mà ta đã nói.
Nói Tụ là lục giới các pháp nhập cảnh giới. Trong lục giới : cái thô có ba, một là nhập, còn có hai món thủ. Trong ấy có tóc, râu, mép râu càm, lông da, thịt ; mủ máu ; nước mũi, nước miếng, mỡ, năm tạng, tay, chưn, đầu, mặt , thân phần chi tiết hòa hiệp nên gọi là Tụ vậy. Ví như các hột thóc tích tụ, hoặc hột mè đen, hoặc hột bắp, hột đậu, do nó tích tụ lại mà gọi là tích tụ. Cũng vậy, thân nầy có các thân phần chi tiết tụ họp lại nên gọi là tích tụ vậy.
Nói lục giới ấy, gì là sáu ? Đó là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới.
Nói lục nhập ấy, gì là sáu ? Đó là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân và ý.
Nói lục nhập cảnh giới ấy, gì là sáu ? Đó là nói sắc, thanh, hương, vi, xúc và
pháp.
Nói thô pháp giới bốn thể có ba thứ là tham dục, sân khuể và ngu si. Chúng nó phát khởi có ba là phong, đàm vàng đàm trắng và nước mũi nước miếng.
Nói các nhập có hai thứ thủ là trì giới và tín.
Lại còn có sáu thứ là thí, tài, tinh tiến, thiền định, thiện và phi thiện.
Nói ấm là thọ , tưởng các hành và thức. Bốn ấm nầy không có sắc. Nói thọ là thọ dụng. Nói tưởng là biết khổ vui khác . Nói các hành là thấy nghe xúc thọ. Đây là thức thân làm chủ hay được tự tại tất cả, vì tự tại trong các vật vậy.
Nói Di ấy là khéo thành tựu thanh tịnh giới, thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, lúc thọ căn lấy mạng chung, thức ấy xả các ấm chẳng còn thọ hữu sanh, chẳng còn trở lại nên một bề thọ vui, đây gọi là Di. Rời ngoài đây thì chẳng gọi là hữu di, như vậy thứ đệ khác đi thì chẳng gọi là Di ».
Vương Tử Đại Dược và Trưởng giả Hiền Hộ đảnh lễ chưn Phật mà bạch rằng : « Lành thay, đức Thế Tôn ! Hay vì chúng tôi mà nói nghĩa như vậy, chơn thiệt Nhứt thiết trí.
Bạch đức Thế Tôn ! Đời vị lai, pháp môn nầy sẽ làm lợi ích cho các chúng sanh mê hoặc ngu si ».
Đức Phật dạy : « Nầy các thiện nam tử ! Đây là Như Lai trí không có hư vọng, nếu chẳng phải Nhứt thiết trí thì cũng chẳng thể biết chơn thiệt thể nầy. Từ quá khứ, ta tu hành vô lượng khổ hạnh huân tu trí nầy, như chỗ được nói ra ngày nay không khác. Đây là pháp môn trí quang minh lưu bố mọi nơi công đức danh văn hải tạng Nhứt thiết trí, vì giáo hóa
các chúng sanh mà tuyên nói. Chỗ nói kinh nầy và kinh nầy ở chỗ nào thì chỗ ấy được chư quỉ thần chỗ ấy hộ trì, và chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn thát Bà,
A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Nhơn cùng Phi Nhơn đều đến hộ trì nơi ấy, khiến không bị khủng bố, quan quân không
làm tổn, giặc cướp không làm hại ».
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo : « Nầy chư Tỳ Kheo ! Pháp môn
nầy, các ông chớ nói với kẻ không tín tâm, cũng chẳng nên nói với người cầu tìm lỗi lầm của kẻ khác, với hàng ngoại đạo Ni Kiền Tử v.v…cùng hàng Ni
Kiền Đà Thanh Văn cũng chẳng nên nói, với người ở a lan nhã không
nhàn cùng người chẳng chí tâm thỉnh cầu cũng chẳng nên nói. Tại sao ? Vì sợ họ tìm cầu lỗi lầm. Đức Như Lai thiệt không có lỗi lầm.
Nếu có Tỳ Kheo xuất gia hoặc có tục nhơn tại gia tín thọ tùy thuận duyên sự nầy, nên biết các người ấy phát tâm từ bi đồng với đức Như Lai, phải nghĩ rằng các người ấy trì kho tàng của chư Phật vậy”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Vì phát tâm xuất gia
Nên phải hành Phật pháp
Hàng phục chúng quân ma
Như vui phá nhà tre
Nếu hành được pháp nầy
Cẩn thận sự phóng dật
Dứt sanh tử phiền não
Sẽ hết tất cả khổ ».
Đức Phật nói kinh nầy rồi, trưởng giả Hiền Hộ, Đại Dược Vương Tử Bồ Tát, chúng đại Tỳ Kheo và Thiên
Long Bát Bộ, tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI TỊNH TÍN ĐỒNG NỮ
THỨ BỐN MƯƠI
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm
người câu hội.
Đại Bồ Tát tám ngàn người, tất cả đều là tri thức của mọi người.Các Ngài đã được đà la ni vô ngại biện tài, có đủ các nhẫn hàng phục ma oán đến các pháp đã được của Như Lai.
Danh hiệu của các Ngài là : Trì Thế Bồ Tát, Trì Đạo Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Trì Đại Địa Bồ Tát, Lạc Ý Bồ Tát, Linh Tín Lạc Bồ Tát, Diệu Sắc Trang Nghiêm Bồ Tát, Bửu Diệm Bồ Tát, Bửu Tràng bồ Tát, Bửu Tư Bồ Tát, Bửu Xứ Bồ Tát, Bửu Huệ Bồ Tát, Bửu Đức Bồ Tát, Bửu Quang bồ Tát, còn có chư Bồ Tát Hiền Kiếp mà Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ, còn có sáu mươi vô đẳng dụ tâm chư Bồ Tát mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ, còn có mười sáu Đại Sĩ mà Hiền Hộ Bồ Tát làm thượng thủ, còn có hai vạn Thiên Tử Đâu Suất đều ở trong pháp hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn ngồi tòa sư tử Đại Trang Nghiêm Tạng, vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, quang minh chiếu sáng như nhựt nguyệt, oai đức thù thắng như Đế Thích Phạm Vương, cao vọi vượt chúng như núi Tu Di, tia
sáng chói rực như lửa đuốc lớn, nhìn ngó an tường như đại tượng vương, thuyết pháp vô úy như sư tử hống, che trùm đại chúng như La Hầu La Vương, tướng hảo trang nghiêm oai quang xí thạnh, phát xuất phạm âm vang khắp tam thiên Đại Thiên thế giới, vì muốn giác ngộ tất cả chúng sanh khiến đều an trụ thắng nghĩa quyết định nên ở giữa đại chúng rộng tuyên pháp yếu.
Ái nữ của vua Ba Tư Nặc tên Tịnh Tín tuổi còn ấu trĩ, dung mạo đoan nghiêm được mọi người ưa nhìn, đời trước gieo trồng gốc lành tu tập đại thừa, cùng năm trăm đồng nữ sau trước vây quanh tay cầm vòng hoa xuất thành Xá Vệ tiến đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía. Rồi ở trước Phật, nàng nói kệ rằng :
“ Lâu tích phước thiện nghiệp thanh tịnh
Đầy đủ vô biên biển công đức
Khiến chúng tin ưa đều vui mừng
Nên tôi đảnh lễ đấng Mâu Ni
Hiển hiện oai quang tướng kỳ đặc
Khai thị pháp môn tạng trân bửu
Thân quang một tấm thường chiếu sáng
Tôi lễ Đại Huệ ao thanh lương
Cây to công đức phước vô tận
Tối tôn trong người đời khen ngợi
Bổn nguyện giới hạnh đã viên mãn
Nên tôi đảnh lễ đấng Ứng Cúng
An trụ diệu pháp thường yên lặng
Lòng thương chúng sanh như con một
Trí huệ thiện xảo biết các hành
Chỉ đường bình thản như Đạo Sư
Nếu có người kiên cố dũng mãnh
Từ bi lợi ích loài chúng sanh
Bồ Tát như vậy chánh tu hành
Duy nguyện Như Lai tuyên dạy họ
Thế nào sẽ được sức vững chắc
An trụ sanh tử hàng phục ma
Thế nào sẽ được pháp bình đẳng
Thế nào thành thục các chúng sanh
Thế nào như địa như hư không
Như phong như thủy cũng như hỏa
Thế nào tín tâm ở nơi pháp
Như Tu Di Vương Sư Tử Vương
Thế nào xa rời lòng ghét thương
Tâm sạch trách trực không siểm khúc
Thế nào xuất sanh thí giới nhẫn
Tinh tiến thiền định và giải thoát
Trí huệ phá các phiền não tối
Mà thường an lạc đại phương tiện
Tam muội tổng trì vô ngại biện
Trụ tứ vô lượng ngũ thần thông
Thế nào được ở gần chư Phật
Thường thọ hóa sanh hóa túc mạng
Đầu đà vô tránh ở lan nhã
Điều phục tâm mình dứt phiền não
Trì giới tu tập đạo Bồ đề
Chứng đạo cam lồ hàng ma oán
Thí chúng an lạc chuyển pháp luân
Chánh đạo như vậy nguyện tuyên nói”.
Đức Thế Tôn bảo Tịnh Tín đồng nữ rằng : “ Bồ Tát nếu thành tựu được tám sức lực thì ở trong sanh tử kiên cố dũng mãnh không mỏi mệt.
Một là sức chí nguyện vì không dua dối. Hai là sức thắng giải vì lìa các ác. Ba là sức gia hạnh vì thường tu điều lành. Bốn là sức tịnh tín thâm tín
nghiệp báo. Năm là sức Bồ đề tâm vì chẳng cầu Tiểu thừa. Sáu là sức đại từ vì chẳng hại chúng sanh. Bảy là sức đại bi và kham nhẫn các ác. Tám là sức thiện hữu vì luôn luôn cảnh giác. Nầy đồng nữ ! Đây gọi là tám sức lực, nếu Bồ Tát thành tựu sức lực nầy thì kiên cố dũng mãnh ở trong sanh tử không nhiễm trước”.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
“Chí nguyện dũng mãnh
Rời lìa siễm cuống
Thường hành chất trực
Đúng đường Bồ đề
Dùng sức thắng giải
Xa lìa các ác
Thuần tu hạnh lành
An trụ chánh cần
Gia hạnh đầy đủ
Hằng khéo quan sát
Tinh tiến kiên cố
An lạc chúng sanh
Do sức tịnh tín
Biết rõ nghiệp báo
Tin nơi Phật trí
Nhiếp thọ thế gian
Sức tâm Bồ đề
Xa lìa Tiểu thừa
Chẳng dứt Phật chủng
An trụ pháp tánh
Do sức đại từ
Bình đẳng chúng sanh
Không yêu không ghét
Chẳng làm giận hại
Do sức đại bi
Chịu được các ác
chẳng nhiễm sanh tử
Cũng không mỏi mệt
Do sức thiện hữu
Thường cảnh tỉnh nhau
Lòng chẳng thối chuyển
An trụ Bồ đề
Người tinh tiến tu
Được tám sức nầy
Sẽ ngồi đạo tràng
Phá các chúng ma
Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên an trụ nơi bình đẳng :
Một là tất cả chúng sanh bình đẳng vì bổn vô ngã. Hai là tất cả pháp bình đẳng vì các pháp tịch tĩnh. Ba là tất cả thế giới bình đẳng vì đều nhập vào không giới. Bốn là tất cả trí bình đẳng vì bình đẳng thuyết pháp.Năm là tất cả hành bình đẳng vì nhơn duyên vô tánh.
Sáu là tất cả thừa bình đẳng vì đồng vô vi. Bảy là tất cả tâm bình đẳng vì tâm như huyễn. Tám là tất cả ma bình đẳng vì phiền não làm trước bất khả đắc. Đây là tám pháp an trụ bình đẳng ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Chúng sanh bổn vô ngã
Niệm niệm bất khả đắc
Người an trụ bình đẳng
Phải quan sát như vậy
Tất cả pháp bình đẳng
Bổn tánh thường không tịch
Văn tự có phân biệt
Các pháp vốn không khác
Mười phương các quốc độ
Biên tế bất khả đắc
Tánh nó như hư không
Phật quốc thường bình đẳng
Tam thế chư Như Lai
Trụ pháp giới bình đẳng
Vô biên trí giải thoát
Chư Phật đều như vậy
Chúng sanh bổn duyên khởi
Tất cả đều bình đẳng
Khéo biết họ sở hành
Dùng chỗ khai ngộ họ
Chúng sanh bao nhiêu thứ
Biết rõ như huyễn hóa
Trong ngoài vô sở thủ
Tự tánh thường thanh tịnh
Các thừa nói các pháp
Tánh vô vi bình đẳng
Đạo Sư thiện phương tiện
Phân biệt nói ba thừa
Hiện ở phiền não ma
Phiền não vô sở hữu
Thiên ma uẩn tử ma
Cảnh giới nó đều không
Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên rời lìa ghét thương :
Một là từ, hai là bi, ba là thường làm lợi ích, bốn là chẳng nhiễm thế pháp, năm là chẳng luyến thân mình, sáu là
thường tu định tâm, bảy là xả ly thân mạng, tám là quan sát
phiền não. Tu tám pháp nầy thì có thể rời lìa ghét thương vậy ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Mặc vững giáp từ tâm
Thương xót tất cả loài
An trụ tâm bình đẳng
Thì chẳng sanh yêu ghét
Người trí làm lợi ích
Thường ban cho an vui
Được lợi chẳng tự cao
Bị khi chẳng sanh giận
Chẳng bị tám gió động
Thì chẳng sanh yêu ghét
Với mình và với người
Chẳng nghĩ tưởng ghét yêu
Đều bỏ lìa ý tưởng
không luyến trước cảnh giới
Thường tự xem thân mình
Chẳng luyến tiếc thân mạng
Người trí nơi khổ vui
Bất động như hư không
Khéo quan sát phiền não
Lìa cả ngã ngã sở
Gìn lòng hằng như đất
Thì chẳng sanh yêu ghét
Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên ở trong sanh tử không có mỏi mệt :
Một là vì thiện căn quảng đại. Hai là vì quan sát chúng sanh. Ba là vì thường được thấy Phật sắm đồ cúng dường. Bốn là vì được thấy vô lượng Phật độ. Năm là vì thường cầu Phật trí. Sáu là vì biết rõ sanh tử như mộng. Bảy là vì đối với pháp thù thắng không khiếp nhược. Tám là quan sát
tiền tế và hậu tế đồng như thiệt tế ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Nếu những người hành đạo
Tu lành không vết nhơ
Như không nguyệt thanh tịnh
Độ thoát khổ chúng sanh
Vì nhiếp các công đức
Ở sanh tử không mệt
Quan sát tánh chúng sanh
Bền vững tu tinh tiến
Nơi vô lượng Phật độ
Cung kính cúng dường Phật
Thế nên bực thập lực
Ở sanh tử chẳng mỏi
Vô lượng vô biên đời
Thuyết bất tư nghì pháp
Chẳng dứt giống Tam bửu
Sẽ thành giống Pháp Vương
Người kiên trì cấm giới
Ở sanh tử chẳng mệt
Biết rõ tánh sanh tử
Như mộng như mây chớp
Nơi pháp được giải thoát
Ở sanh tử chẳng mỏi
An trụ nơi Bồ đề
Lòng mừng luôn vui vẻ
Đến nơi bờ phương tiện
Ở sanh tử không mệt
Thường tu pháp thù thắng
Như không nguyệt thêm tròn
Ưa thích Phật công đức
Ở sanh tử chẳng mỏi
Sanh tử không biên tế
Thường an trụ thiệt tế
Một niệm huệ tương ưng
Ở sanh tử không mệt
Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên tâm giới bình đẳng :
Một là tâm như địa. Hai là tâm như thủy. Ba là tâm như hỏa. Bốn là tâm như phong. Năm là tâm như hư không. Sáu là tâm
đồng pháp giới. Bảy là tâm đồng giải thoát. Tám là tâm đồng Niết bàn. Đây gọi là tám thứ tâm giới bình đẳng ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Tâm bình đẳng như đất
Gánh chở tất cả loài
Với thiện và với ác
Không có chỗ tăng giảm
Tâm bình đẳng như thủy
Rửa sạch các cấu dơ
Dưỡng dục các thế gian
Trừ khô khát phiền não
Tâm bình đẳng như hỏa
Đốt cháy tiêu phiền não
Ánh sáng như đuốc lớn
Không chỗ nào chẳng sáng
Tâm bình đẳng như phong
Không xứ sở không nương
Thổi bay hương giới văn
Khắp đến khứ lai kim
Tâm bình đẳng hư không
Lìa kiến chấp thanh tịnh
Khắp nhập vào tất cả
Mà chẳng theo chúng ma
Tâm bình đẳng pháp giới
Khéo được thường an trụ
Chẳng tăng cũng chẳng giảm
Thường nhập vào bình đẳng
Thanh Văn và Duyên Giác
Chỗ chứng được giải thoát
Không còn có trói buộc
Cũng không có cởi trói
Sanh tử và Niết bàn
Không lai cũng không khứ
An trụ nơi tịch tĩnh
Đi khắp trong tam thế
Lại nữa, nầy đồng nữ ! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu được thì xuất sanh Bồ đề :
Một là bố thí xuất sanh vì xả sở hữu vậy. Hai là trì giới xuất sanh vì không phạm lỗi vậy. Ba là nhẫn nhục xuất sanh vì không sân khuể vậy. Bốn là tinh tiến xuất sanh vì chẳng giải đãi thối thất vậy. Năm là thiền định xuất sanh vì hành phương tiện vậy. Sáu là huệ xuất sanh vì thọ trì đa văn vậy. Bảy là phạm trụ xuất sanh vì giải thoát tịch tĩnh vậy. Tám là thần thông xuất sanh vì thường tại chánh định vậy”.
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
“Người thường hành bố thí
Rời lìa tham nhiệt não
Chẳng mong cầu quả báo
Hồi hướng Phật bồ đề
Trì giới tu Đại Thừa
Đập đánh không sân hận
Chí cầu đại an lạc
Trừ tập khi chứng diệt
Bồ Tát hành tinh tiến
Nhiều kiếp vì chúng sanh
Chịu khổ ở thế gian
Sức tinh tiến tăng trưởng
Người tu hành thiền định
Rời xa các hí luận
Đến bỉ ngạn thiền định
Mà chẳng theo thiền sanh
Đại huệ không gì bằng
Rời hẳn các chấp kiến
Biết rõ đời không tịch
Si tối dứt không thừa
Tịch tĩnh tu phạm trụ
Trừ sạch các ác đạo
Thường làm Thích Phạm Vương
Siêng tu các nghĩa lợi
Thần thông đạo Phật độ
Hầu Phật nghe Phật dạy
Khéo biết các tánh dục
Thuyết pháp độ chúng sanh
Lại nầy đồng nữ ! Vì thành tựu tám pháp mà Bồ Tát được đà la ni biện tài vô ngại :
Một là tôn trọng Phật pháp. Hai là kính thờ Hòa Thượng và A xà Lê. Ba
là cầu pháp không chán. Bốn như chỗ được nghe mà thuyết pháp. Năm là chẳng bỏn xẻn chánh pháp. Sáu là chẳng rao lỗi người. Bảy là yêu kính pháp
sư như Hòa Thượng. Tám là chẳng thấy lỗi người và khuyên người chừa lỗi ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Chí nguyện thường cầu pháp
Thờ thầy gần thiện hữu
Rời xa ác tri thức
Được vô tận tạng trì
Đa văn không chán đủ
Dũng mãnh siêng cầu pháp
Như nghe mà diễn thuyết
Chẳng mong cầu lợi dưỡng
Được biện tài thanh tịnh
Khiến chúng đều hoan hỉ
Vui thích làm pháp thí
Rời xa bỏn xẻn ganh
Hành pháp vô sở trước
Chứng được đà la ni
Hộ giới tự quán thân
Chẳng tìm tội lỗi người
Từ bi làm y chỉ
Phát ngữ chẳng phi thời
Sẽ được vô ngại biện
Đến bỉ ngạn ngôn thuyết
Với người thuyết pháp giỏi
Yêu kính như thầy mình
ẩn lỗi khuyên rời lỗi
Được biển vô tận trì
Lại nầy đồng nữ ! Vì thành tựu tám pháp Bồ Tát ở trước chư Phật liên hoa hóa sanh :
Một là dầu cho đến mất mạng cũng chẳng nói lỗi người. Hai là khuyến hóa chúng sanh
khiến quy y Tam Bảo. Ba là an trí tất cả nơi tâm Bồ đề. Bốn là phạm hạnh không nhiễm. Năm là tạo lập tượng Phật đặt trên tòa sen. Sáu là chúng sanh ưu não khiến trừ ưu não. Bảy là với kẻ cống cao thường tự khiêm hạ. Tám là chẳng não hại người ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
Dầu bị khổ bức thân
Trọn chẳng nói lỗi người
Thường ca ngợi Tam bảo
Hóa sanh ở trước Phật
Khuyên phát tâm Bồ đề
Khiến cầu Nhứt thiết trí
Thường tu hành phạm hạnh
Hóa sanh ở trước Phật
Vàng ròng trang nghiêm tượng
Đặt trên tòa sen báu
Trừ ưu não chúng sanh
Hóa sanh ở trước Phật
Với kẻ kiêu mạn kia
Khiêm hạ như đệ tử
Chẳng để họ não phiền
Hóa sanh ở trước Phật
Lại nầy Tịnh Tín ! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu công đức đầu đà thì thường thích an trụ nơi a lan nhã :
Một là thiểu dục. Hai là tri túc. Ba là mãn túc sở nguyện. Bốn là dùng thiện tự bồi dưỡng. Năm là thường trì thánh chủng. Sáu là thấy
Khổ sanh tử lòng thường chán lìa. Bảy là hàng quán vô
thường. Tám là tín sâu
vững chắc chẳng theo lời người khác ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Thiểu dục tri túc bất phóng dật
Pháp hỉ các thiện làm tư dưỡng
Ưa thích thường tu nơi thánh chửng
Thấy khổ sanh tử sanh lòng sợ
Do đó thường thích hành đầu đà
Như tê một sừng ở cô độc
Quán pháp hữu vi khổ vô ngã
Huệ tâm thâm tín trụ chánh cần
Tự thấy nơi pháp chẳng theo người
Thường ở không nhàn được Phât khen
Đầu đà viễn ly không não hoạn
Không các tranh luận những tội lỗi
Xa lìa quyến thuộc tuyệt khen tặng
Do đó thích ở a lan nhã
Lại nầy Tịnh Tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hàng phục ma oán :
Một là nhập vào tánh không. Hai là tin vô tưởng. Ba là tin vô
nguyện. Bốn là biết rõ vô tác. Năm là trong không nghi hoặc. Sáu là nhẫn nơi vô sanh. Bảy là quyết liễu vô tánh. Tám là nơi tất cả pháp phương tiện quan sát chẳng hoại như như ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Nơi không vô tướng và vô nguyện
Được ba giải thoát hàng ma oán
Hữu vi vô vi không hai tướng
Chứng nơi vô sanh được giải thoát
Các pháp vô sanh nhẫn như vậy
Người nầy hàng phục các ma oán
Ở trong vô sanh vô diệt nầy
Uẩn giới vô ngã dường như huyễn
Quyết định biết rõ pháp vô tánh
Chẳng hoại nơi như xảo phương tiện
Phân biệt các pháp là nghiệp ma
Xả ly phân biêt thì hàng ma
Trí huệ phương tiện làm cả hai
Hoặc có hoặc không vô sở trụ
Tu tập thắng pháp như vậy thảy
được thiện phương tiện diệu sắc thân.
Lại nầy Tịnh tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chẳng rời lìa Bồ đề :
Một là chánh kiến vì thành thục chúng sanh tà kiến vậy. Hai là chánh niệm vì bi mẫn chúng sanh tà niệm vậy. Ba là chánh ngữ vì thương các chúng sanh
tà ngữ vậy. . Bốn là chánh nghiệp vì nhiếp các chúng sanh tà nghiệp vậy. Năm là chánh tinh tiến vì độ các chúng sanh tà cần vậy. Sáu là chánh mạng vì chẳng bỏ tà mạng chúng sanh vậy. Bảy là chánh tư duy vì khiến chúng sanh lìa tà
tư duy vậy. Tám là chánh định vì phát khởi tăng tiến các chúng sanh tà
định vậy ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Người thành tựu chánh kiến
Giáo hóa kẻ tà kiến
Thường tu hành chánh niệm
Thương xót kẻ tà niệm
Thanh tịnh chánh ngôn thuyết
Thương các kẻ tà ngữ
An trụ nơi chánh nghiệp
Nhiếp những kẻ tà nghiệp
Thường tu hạnh chánh cần
Chẳng bỏ kẻ tà cần
Tương ưng chánh tịnh mạng
Nhiếp các kẻ tà mạn
Trí giả chánh tư duy
Thương xót kẻ tà tư
Thường an trụ chánh định
Nhiếp những kẻ tà định
Vô thượng bát chánh đạo
An ổn qua dòng dữ
Lại độ kẻ phiêu lưu
Là đạo đại Bồ đề
Thanh Văn và Duyên giác
Bè cỏ chỉ tự độ
Bồ Tát rộng cứu độ
Như tối đại thuyền trưởng
Lại nầy Tịnh Tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chứng đạo cam lộ
Một là an trụ pháp vô tránh. Hai là khéo giữ tâm vô chướng ngại. Ba là thường quán nghĩa như thiệt. Bốn là an trụ tâm Bồ đề tu sáu niệm. Năm là tinh tấn tu tập các Ba la mật. Sáu là chứa họp thiện căn thành thục chúng sanh. Bảy là an trụ đại bi nhiếp thọ chánh pháp. Tám là
được vô sanh nhẫn an trụ bất thối chuyển »
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Thường tu hạnh vô tránh
Trụ pháp đại Sa Môn
Xa rời lỗi sân khuể
Chứa họp các thiện căn
Khéo quán nghĩa chơn thiệt
Được những vô tận hiện
An trụ tâm Bồ đề
Thường niệm nơi vô niệm
Tất cả Ba la mật
Siêng tu không thối chuyển
Được các phương tiện lực
Do đây độ chúng sanh
Hay đem của Pháp Vương
Từ bi ban tất cả
Mau chứng vô sanh nhẫn
Bất thối chuyển Bồ đề
Nếu tu hành được vậy
Phật pháp chẳng khó được
Chẳng lâu hàng chúng ma
Chứng tối thượng Bồ đề ».
Nghe pháp xong, Tịnh tín đồng nữ vui mừng hớn hở bạch đức Phật rằng : « Bạch đức
Thế Tôn ! Thành tựu mấy pháp có thể chuyển được nữ thân ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Tịnh Tín ! Thành tựu tám pháp thì có thể chuyển nữ nhân :
Một là chẳng ganh ghét. Hai là chẳng bỏn xẻn. Ba là chẳng dua nịnh. Bốn là chẳng sân. Năm là thiệt ngữ. Sáu là chẳng ác khẩu. Bảy là xả ly tham dục. Tám là rời các tà kiến. ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
Chẳng tật đố người khác
Lìa bỏn xẻn ưa pháp
Chẳng có lòng siểm cuống
Chán ghét thân nữ nhơn
Tâm từ bỏ rời sân
Thường tu nói lời thiệt
Trừ tham lìa ác khẩu
An trụ trong chánh kiến
Nếu chán thân nữ nhơn
Nên tu pháp như vậy
Thì sẽ mau được chuyển
Thọ thân thiện trượng phu.
Lại nầy Tịnh Tín ! Nếu thành tựu tám pháp thì chuyển được nữ thân :
Một là tôn trọng chư Phật rất thích chánh pháp.
Hai là cung kính cúng dường các Sa Môn Bà La
Môn trì giới nhẫn nhục đa văn. Ba là đối với chồng con và cư gia chẳng sanh lòng luyến ái. Bốn là thọ trì cấm giới không khuyết phạm. Năm và với các người chẳng sanh tà niệm. Sáu là có ý nguyện tăng thượng chán lìa nữ thân. Bảy là an tru tâm Bồ đề pháp đại trượng phu. Tám là xem gia nghiệp thế gian như ảo như mộng ».
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :
« Kính Phật rất ưa pháp
Tôn trọng giới văn Tăng
Chẳng sanh lòng tham ái
Thân nữ sẽ chuyển mau
Trì giới đủ tàm quý
Chẳng vọng niệm người khác
An trụ tâm Bồ đề
Chẳng ưa pháp nhị thừa
Do đây mau chuyển được
Thân người nữ bất tịnh
Thắng chí tâm chán lìa
Tất cả đều như huyễn
Các pháp bổn bất động
Nhơn duyên tánh không
tịch
Siêng tu pháp như thiệt
Chóng được thân trượng phu.
Bấy giờ Tịnh Tín đồng nữ đem tràng hoa vàng mà cô đang cầm tán lên trên đức Phật, hoa ở trên hư không biến thành cung điện lâu các chơn kim, trong cung điện ấy có đức Hóa Phật ngồi tòa vàng. Năm
trăm đồng nữ cũng cời đồ trang sức tán lên trên đức Phật biến thành lâu các chơn kim ở trên hư không có trướng báu lọng báu các thứ trang nghiêm. Thấy đại thần biến ấy, năm trăm đồng nữ khác miệng đồng lời nói kệ rằng :
“Thế Tôn thù thắng nhứt loài người
Thương xót lợi ích các chúng
sanh
Nay tôi đã phát tâm Bồ đề
Chí nguyện tương ưng trụ điều phục
Làm thầy thế gian ban an lạc
Tôi phải cúng dường Nhơn Trung Tôn
Nghe pháp đã lìa các trần cấu
Chúng tôi chẳng còn những nghi lầm
Mới lìa thân nữ nhiều nhiểm ô
Phá hẳn phiền não hàng ma oán
Mười phương vô lượng câu chi Phật
Tôi sẽ hoan hỉ thường cúng dường
An trụ thí giới siêng tinh tấn
Nhẫn nhục thiền định khéo điều tâm
Trí huệ phương tiện nhiếp chúng sanh
Sẽ chứng tối thượng đạo Bồ đề
Lợi ích vô lượng chúng Trời Người
đều khiến phát khởi tâm Đại thừa
Chúng tôi sẽ hay sư tử hống
Chúng tôi sẽ làm Thiên Nhơn Sư”.
Đức Thế Tôn hiện mỉm cười. Theo lệ thường của chư Phật, lúc đức Phật mỉm cười thì từ miệng đức Phật có những tia sáng nhiều màu xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê phóng ra chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới cao đến trời Phạm Thế rồi trở về nhiễu đức Phật ba vòng lại nhập vào đảnh của Phật.
Trưởng lão A Nan làm lễ bạch rằng :” Bạch đức Thế Tôn ! Do nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Ông có thấy Tịnh Tín đồng nữ chăng ?
- Vâng, bạch Thế Tôn ! Tôi đã thấy.
- Nầy A Nan ! Tịnh Tín và năm trăm đồng nữ thọ trong loài người sẽ bỏ thân
nữ sanh Trời Đâu Suất thừa sự cúng dường Di Lặc Thế Tôn và chư Như Lai trong Hiền kiếp. Quá tám vạn bốn ngàn câu chi na
do tha kiếp. Tịnh Tín sẽ được làm Phật tại ĐiệnQuang thế giới hiệu Quang Minh Trang
Nghiêm Vương Như Lai, kiếp tên Thường Quang, Phật ấy thọ như Trời Đâu Suất mười hai ngàn tuổi, có vô lượng vô biên chúng đại Bồ Tát làm quyến thuộc, mà năm trăm đồng nữ nầy sẽ là thượng thủ nhứt trong đại chúng ấy, cũng như hiện nay Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ trong sáu mươi Bồ Tát vậy. ?
Nầy A Nan ! Nếu có nữ nhơn được nghe kinh nầy rồi họ trì đọc tụng, khi hết thân nữ nầy chẳng còn thọ thân nữ nữa và mau chứng được Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tịnh Tín với năm trăm đồng nữ và tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment