Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 138
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Tôi nghe như vầy: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, cùng vô lượng Tỳ Kheo Tăng và
chư Đại Bồ Tát câu hội thuyết pháp.
Lúc bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên v.v… xuất gia chưa bao lâu. Do nhân
duyên các Tôn giả ấy mà đức Phật nói pháp Thanh Văn tạp Tứ chơn đế. Trong đại chúng có các hạng người gốc ngoại đạo căn tánh ám độn tự cho mình có trí huệ nên khởi tâm đại kiêu mạn, thắng mạn, phi pháp mạn, chưa được chứng quả thứ hai thứ ba thứ tư, vì vậy mà đức Thế Tôn nói pháp trung
đạo để lìa các ác phiền não như vậy.
Lúc đức Như Lai Thế Tôn nói nghĩa
trung đạo ấy, các hạng người như vậy đều luận nói đoạn kiến ngã kiến.
Đức Thế Tôn nghĩ rằng: đáng thương thay cho các người ấy vì họ gốc ngoại đạo nên dầu nhập vào Phật pháp mà sanh đại mạn, trong chỗ chưa được mà tưởng mình đã được, trong chỗ chưa biết mà tưởng mình đã biết, trong như pháp mà chẳng tu hành, dầu thuận Tứ đế mà chẳng có thể được Tứ vô ngại trí nhẫn đến chẳng được chứng đệ Tứ quả.
Đức Thế Tôn hai tay đưa lên nắm tràng hoa chiêm
bà phát đại thệ nguyện. Do sức thệ nguyện trong tràng hoa xuất sanh bốn báu: một là Đế Thích bửu, hai là Thiên Quang bửu, ba là Kim Cương Quang bửu và bốn là Thắng Chư Quang bửu. Trong mỗi một báu đều phát ánh sáng lớn chiếu khắp Ta Bà thế giới nầy. Bốn báu phát ánh sáng lớn rồi, đức Thế Tôn ném lên hư không. Trong tràng
hoa ấy liền có tiếng nói kệ rằng:
Dầu cạo râu tóc chẳng bỏ kiết
Dầu mặc nhiễm y chẳng lìa nhiễm
Thờ Phật làm thầy chẳng nghe lời
Người như vậy làm nhơ đại chúng
Như Lai lúc tuyên nói
chánh pháp
Lại chẳng chí tâm lắng tai nghe
Người ấy chẳng được nghĩa chơn thật
Cũng chẳng lìa được các phiền não
Nếu người thấy được thiệt pháp tánh
Người nầy phá hoại vô minh mạn
Nếu được thân cận thiện tri thức
Người nầy mau được vị cam lộ
Nếu hay quở trách lỗi sanh tử
Người nầy mau được đến bờ kia
Người nầy có đủ giới đa văn
Cũng được đủ thiền định trí huệ
Nếu hay phá được ma phiền não
Xa lìa ấm ma và tử ma
Xô dẹp thiên ma và quyến thuộc
Thường nên gần kề Vô Thượng Tôn.
Trong tràng hoa ở hư không phát tiếng nói kệ ấy rồi, những đệ tử Thanh Văn có lòng
kiêu mạn đều tự nghĩ rằng đức Như Lai biết ta có tâm ô nhiễm nên vì ta mà hiện thần lực nói kệ như vậy. Suy nghĩ rồi trong lòng sanh đại tàm quí. Trong tứ thiên hạ các đệ tử Phật cũng sanh lòng đại tàm quí như vậy, tất cả đều đến tập hội bên đức Phật.
Lúc bấy giờ trăm ngàn vạn ức Thanh Văn đại chúng đều đến tụ tập. Đức Phật biết chúng hội đã định liền vì đại chúng mà nói tạp Tứ chơn đế.
Tràng hoa báu ấy đi thẳng qua phương Nam quá chín vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới chư Phật, nơi đó có thế giới tên là Kim Cương Quang Tạng, chúng sanh thế giới ấy có đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn cõi âý hiệu là Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cũng vì tứ chúng đại hội mà tuyên nói tạp Tứ chơn đế pháp. Chư Bồ Tát Thanh Văn tứ chúng trong đại hội ấy thấy tràng hoa báu đại quang minh trụ trên hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu
như vậy từ đâu bay đến và ai sai sử nó?”.
Đức Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Bắc cách đây chín vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà có Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn vì đại hội tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như thế giới ta đây không khác.
Các thiện nam tử! Thế giới Ta Bà ấy, chúng sanh có đủ ngũ trược rất là si ám thô lỗ khinh tháo sanh
lòng đại kiêu mạn gây nhiều nghiệp ác khó điều khó giải, vì vậy nên Thích Ca Như Lai làm đại tập hội ở trong đại chúng Thanh Văn tập hội ấy mà diễn nói chánh pháp để phá hoại những ác sự lớn như vậy. Chúng sanh ở thế giới ấy nơi chưa được cho mình đã được, nơi chưa chứng tưởng mình đã chứng, nơi chưa tu tập tưởng mình đã tu tập. Vì cớ ấy nên Phật Thích Ca Mâu Ni muốn thuyết pháp rộng lớn như pháp tu hành để phá hoại lòng đại kiêu mạn ấy. Vì muốn đại chúng ấy được tận trí và vô sanh trí nên Phật ấy muốn tuyên nói pháp hành Hư Không Mục, để được các quả Thanh Văn, quả Duyên Giác, quả Phật, muốn khai thị Như Lai vô thượng pháp tạng, nên Phật ấy sai tràng hoa báu nầy đến đây xin dục nơi ta, nay ta giữ dục cho đó và ta muốn đem Pháp Mục đà la ni tặng cho kia để làm tin, có thể làm vô lượng vi diệu quang minh, hay làm khô tất cả phiền não, hay thọ trì tất cả pháp được nghe chẳng quên mất, hay làm sạch tất cả cấu nhơ nơi tâm, hay hộ tất cả thiện cấm giới, hay nhập tất cả đại trí huệ, hay hộ tất cả tam muội vô thượng, hay hộ tâm mình sanh lòng vui cho người thọ trì thánh pháp xa
lìa các tật bịnh, cầu thiện pháp gì thì liền được như nguyện, liền được tăng trưởng tất cả đồ cần dùng sanh sống, cũng hay trưởng dưỡng tất cả thiện căn, hay điều phục ác vương và tứ tánh, các ác quỉ thần điểu thú độc trùng, hay hộ trì tất cả cội pháp lành, hay được tất cả pháp Phật nhẫn đến được mười tám pháp bất cộng pháp. Vì vậy nên ta muốn sai Pháp Mục đà la ni như vậy đến thế giới Ta Bà kia tặng Thích Ca Như Lai”.
Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức bảo đồng tử Kim Cương Sơn rằng: “Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên qua thế giới Ta Bà xưng danh tự ta mà thăm hỏi Thích Ca Như Lai mà bạch Phật ấy rằng: Kim Cương Quang Minh Công
Đức Như Lai dâng môn Pháp
Mục đà la ni nầy xa tặng Thế Tôn”.
Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay lành thay, tôi cũng muốn đến kính lễ đức Phật ấy và muốn thưa hỏi pháp chưa từng được nghe là Hư Không Mục pháp môn”.
Còn có sáu vạn ức đại Bồ Tát, tám vạn ức Thanh Văn đồng thanh bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và muốn học hỏi pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe. Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho chúng tôi được qua đến thế giới ấy”.
Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức nói: “Lành thay lành thay! Các thiện nam tử nên biết là phải lúc. Kim Cương Sơn đồng tử có thể điều phục các người, là thiện tri thức của các người”.
Đức Phật bảo Kim Cương Sơn đồng tử : “Nầy Kim Cương Sơn! Lắng nghe lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói môn Pháp Mục đà la ni.
Liền nói chú rằng:
A bà, a bà a bà, nang na xà sa tra, ma ha ma khê, ma ha tha sa
bà sa, thọ dụ đê, a tha, na bà na tha nễ, Phật xà la di, an lũ lại di, xà la ca tha, a na nậu đắc xoa, phạm phục bà, na bà trà bà, lặc xoa lỗ giá na, sa tra khê bà, đà la ni mậu xà, ba la già
trác bà, tỳ na xí, bà na tỳ phu, a na ca tha, chiên trà mế tu, bà la khê đa,
tu lỗ giá na, lỗ giá na bà, lỗ giá xà nang bà bà tư, sá ha.
Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni ấy, đến Ta Bà thế giới thăm hỏi Thích Ca Như Lai, như lời ta mà bạch Phật ấy rằng: Tứ bộ đệ tử có thích thọ pháp chăng? Người tứ tánh có hay cúng dường chăng? Tâm chúng
sanh có trược loạn chăng? Họ có thường hay gần kề Như Lai chăng? Họ có hay tôn trọng tán thán Phật chăng? Chánh pháp
Phật có được thêm rộng lưu bố chăng? Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức Như Lai xa tặng Thế Tôn môn Pháp Mục đà la ni nầy hay làm ánh sáng
lớn khô cháy tất cả ác phiền não nhẫn đến làm cho chúng sanh được Phật thập bát bất cộng pháp”.
Kim Cương Sơn đồng tử tuân Phật dạy thọ trì đọc tụng thơ tả môn Pháp Mục đà la ni rồi bảo các đại chúng rằng: Nếu muốn đến thế giới Ta Bà kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni
và hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe ấy thì phải xa lìa tất cả sắc tướng, cũng chớ nhớ tướng phân biệt, mà phải thường tu tập tướng hư không, xa lìa tất cả tướng thủ xả, buông bỏ tất cả tướng trần lao, mở các kiết phược, chuyên niệm hư không”.
Đại chúng đồng thanh nói: “Lành thay, lành thay, thưa đồng tử!”.
Đại chúng liền đến trước Phật đảnh lễ. Lễ Phật rồi nhiếp niệm quán tướng hư không, trong thời gian một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ Thích Ca Như Lai. Đến rồi kính lễ Phật cúng dường cung kính tôn trọng tán thán hữu nhiễu ba vòng qua một phía chấp tay mà đứng.
Lúc ấy tràng hoa báu lại đi thẳng qua phương Tây quá tám vạn ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Huệ Ám đủ ngũ trược, có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn cũng vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Chư Bồ Tát, Thanh Văn tứ chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh dừng trên không ngay đỉnh đức Phật liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai sử nó?”.
Đức Phật Trí Tràng Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Đông cách đây tám vạn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên Ta Bà đủ ngũ trược. Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni
Như Lai đủ mười hiệu cũng vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như ta đây không khác, cho đến vì muốn khai thị pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa báu nầy đến xin dục nơi ta, ta cho đó và muốn tặng Phật ấy môn Tịnh Mục đà la ni hay làm
ánh sáng lớn khô cháy các ác phiền não nhẫn đến có thể được Phật thập bát bất cộng pháp”.
Đức Trí Tràng Như Lai bảo Thắng Tràng đồng tử rằng: “Ông nên đến Ta Bà thế giới xưng danh tự ta mà thăm hỏi đức Phật ấy và đem môn Tịnh Mục đà la ni xa tặng”.
Lúc ấy có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay,
lành thay, chúng tôi cũng muốn đến thế giới Ta Bà kính lễ Thích Ca Như Lai cùng muốn hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe”.
Nhẫn đến Phật Trí Tràng liền nói thần chú rằng:
Vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, a bà vật lực ha, tát tha vật lực ha, tu bà xa vật lực ha, na bà vật lực ha, tu phả bà, a năng già, đê tỉ xoa, xà xà tư la, na bà áo nam,
khê già bát la, na la na diêm, túc sa, sí xa tư la, a bà la tư la, ma ha bách kỳ xà na, a na siểm đa la, a bà khê
già, na du đa siểm đà la, sa phả la, a nang già già, na la noa, sa giá, thủ lưu đa kiệt bà xí na, sá ha.
Nầy Thắng Tràng! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni ấy. Nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.
Lúc ấy tràng hoa báu đại quang minh đi thẳng qua phương Bắc quá chín vạn chín ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Vi Thường đủ ngũ trược, Phật hiệu là Phát Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu cũng vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội chư Bồ Tát, chư Thanh Văn và tứ chúng thấy tràng hoa báu dừng ở hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch hỏi rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai khiến nó?”.
Đức Phật Phát Quang Minh Công Đức nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Nam cách đây
chín vạn chín ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như nơi đây không khác,
nhẫn đến vì muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng
hoa tứ bửu nầy đến xin dục nơi ta. Nay ta giữ dục cho đó và muốn tặng môn Quang Mục đà la ni có thể làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến hay được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.
Đức Phật bảo Thắng Ý đồng tử rằng: “Nầy Thắng Ý! Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự của ta thăm hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni,
đem môn Quang Mục đà la ni đây xa tặng Như Lai ấy”.
Trong đại chúng còn có vô lượng Bồ Tát, Thanh Văn đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện tai, thiện tai, chúng tôi
cũng muốn đến đó kính lễ Phật Thích Ca và hỏi học pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa từng được nghe, nhẫn đến Phật Phát Quang Minh
Công Đức liền nói chú rằng: “Xà bà ma, xà bà ma, xà bà ma, a câu lô tra, tỉ bà xà bà, ma ha đà
ma khê bà, a ra xà, san bồ đà, nang khê bà, a ra xà bà bà, ra xà bà bà, xà kỳ xoa xà bà
bà, ma hê xà bà ni bạn đà, tỳ mâu giá bà bà, na ra xà noa bà bà, chước thu bà bà, thâu lô đa bà bà, thâu lô đa bà bà, già hận noa bà bà, thị chúc bà bà, ca xà
bà bà, chất đa bà bà, sa mậu đà ra bà bà, cực ra noa bà bà, sất na tu lưu kỳ bà bà, soá
ha”.
Nầy Thắng Ý! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả môn Quang mục đà la ni ấy đến Ta Bà thế giới, nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.
Lúc ấy tràng hoa bốn báu đi thẳng qua phương Đông quá sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Bửu Đảnh đủ ngũ trược, Phật hiệu là Bửu Cái Quang Minh
Công Đức Như Lai đủ mười hiệu đang vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội các Bồ Tát, Thanh Văn tứ chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh trụ ở hư không ngay đỉnh đức Phật liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa tứ bửu ấy từ đâu đến và ai sai khiến nó?”.
Đức Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai nói: “Các thiện nam tử! Phương Tây cách đây sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu
Ni Như Lai đủ mười hiệu đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như tại đây không khác, nhẫn đến vì muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng
hoa tứ bửu ấy đến xin dục nơi ta. Nay ta giữ dục cho đó, và muốn tặng cho đó môn Thánh
mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.
Đức Phật liền bảo Hư không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư không Thanh! Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự ta thăm hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và đem dâng
môn Thánh mục đà la ni xa tặng”.
Nhẫn đến còn có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đại chúng đồng thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay,
lành thay, chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và hỏi học pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa từng được nghe”.
Đức Phật Bửu Cái Quang Minh Công Đức liền nói chú rằng: “A la ma, a la ma, a la ma, xà xà ra xà, tự lê xà ra xà, già
xà phu, bà ra xà la, a na giá, a khê sa ra, khê già sa xà na, na ô ha, na ra xà
na ô ha, ma hê thấp ba la giá ma, a ma ni ha, ha xà bà lợi la, chước thu giá ma, chước thu sa chước thu na, na bà na bà ma xà, a bà khê bà, xa bà na bà, khê già
thiền lũ, sa ra chiên đà ra, ma hê thấp ba la ni la na bà, sa đàn ma xoa xà, sá ha.
Nầy Hư Không Thanh! Ông
nên thọ trì đọc tụng thư tả môn Thánh mục đà la ni ấy qua thế giới Ta Bà, nhẫn đến qua một phía đứng chắp tay”.
Bấy giờ bốn đồng tử Bồ Tát biến thế giới nầy bằng phẳng, đầy đủ những hương hoa phan lọng bảy báu cúng dương đức Phật. Tất cả cung chư Thiên, cung A Tu
La đều bị chấn động sáu cách. Chư Thiên vui mừng đều thọ hỉ lạc đều đem dâng hương hoa phan lọng bảy báu các thứ kỹ nhạc cúng dường Phật.
Bốn đồng tử cúng dường Phật rồi thăng lên hư không cao bảy cây đa la tay cầm tứ bửu nói kệ tán thán:
Phật là vua sáng lớn thanh tịnh
Vì chúng sanh nói pháp cam lộ
Với chúng sanh lòng Phật như đất
Đại bửu thương chủ thương tất cả
Vì chúng sanh nói pháp thanh tịnh
Khiến lìa các khổ và phiền não
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Lời Phật vi diệu biết chơn đạo
Đầy đủ giới cấm và trí huệ
Dứt hẳn phiền não mưa cam lộ
Vì người khát pháp Phật xuất thế
Đuốc huệ sáng lớn phá tối tăm
Dầu kẻ không tu bát thánh đạo
Và người được chứng quả giải thoát
Như Lai bình đẳng thương xót đồng
Ban cho Nhơn Thiên tịnh pháp nhãn
Hay độ chúng sanh khỏi sanh tử
Hay ban vô thượng của bảy báu
Hay khiến chúng sanh nhàm sanh tử
Tu trọn ba mươi bảy đạo phẩm
Pháp đã mất lâu nay Phật dạy
Vì vậy được gọi Vô Thượng Tôn
Chúng sanh bốn phương đã tập hội
Duy nguyện xót thương chuyển pháp luân.
Đại chúng trong pháp hội nầy lòng sanh vui mừng đều nói rằng: “Vô lượng vô biên đại chúng từ đâu đến, tất cả đều oai nghi thanh tịnh đủ vô lượng đức, tàm quí trí huệ đều trọn đủ thành tựu, từ trước chúng ta chưa từng thấy chư Đại Tiên ngũ thông sắc thân vi diệu như vậy”.
Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Bốn phương có vô lượng Bồ Tát đều đến tập hội để được nghe pháp. Nay
nên chí tâm thanh tịnh ý niệm”.
Đức Phật dùng âm thanh vi diệu bảo bốn đồng tử rằng: “Các thiện nam tử! Các ông đến đây rất tốt. Các ông từ phương nào đến và đến để làm gì?”.
Bốn đồng tử kính lễ chân Phật đi nhiễu giáp vòng. Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nam phương cách đây chín vạn hai ngàn hằng hà sa thế giới chư Phật, có thế giới tên là Kim Cương Quang Tạng đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn hiệu là Kim Cương Quang Minh Công
Đức Như Lai đủ mười hiệu đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế.
Đức Kim Cương Quang Minh Công
Đức Như Lai sai tôi đến thế giới Ta Bà nầy thăm hỏi đức Thế Tôn và muốn nghe pháp môn Hư Không Mục.
Bạch đức Thế Tôn! Phật Kim Cương Quang Minh Công
Đức trí kính ân cần thăm hỏi Thế Tôn và sai dâng tặng môn Pháp mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.
Kim Cương Sơn đồng tử liền ở trước Phật nói chú như vậy. Ba đồng tử đồng tử kia cũng bạch thưa và nói chú như vậy.
Bốn đồng tử nói chú rồi, đại địa chấn động sáu cách. Tất cả Long Vương đều nói rằng: “Chúng tôi cũng
sẽ đồng đến chỗ Phật”.
Phương Đông có hai Long
Vương tên là Ngưu Hộ và Bửu Hộ cùng sáu vạn Long Vương.
Phương Nam có hai Long
Vương tên là Vi Nguyệt và Bà Tụ cùng bảy vạn Long Vương.
Phương Tây và phương Bắc mỗi phương cũng có hai Long
Vương cùng mười vạn Long Vương.
Bốn phương chư Long Vương đến chỗ Phật kính lễ chưn Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều có thể thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy. Nếu có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy chúng tôi sẽ thành tâm thủ hộ”.
Nước Quy Tư có một Long Vương tên là Hải Đức em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng chín vạn Long Vương.
Nước Vu Điền có một Long Vương tên là Lạc Tạng Bửu cũng là em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng một vạn tám ngàn Long Vương.
Nước Ba La Việt có một Long Vương tên là Sơn Đức cũng là em trai
Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng hai vạn Long Vương.
Nước Sư Tử có một Long Vương tên là Bửu Tạng cùng bốn vạn tám ngàn Long Vương.
Nước Tỳ Đồ có một Long Vương tên là Trường Phát cùng bốn vạn ba ngàn Long Vương.
Núi Niệm Mật Xa có một Long Vương tên là Bà Tu Cát
cùng tám ngàn Long Vương.
Nước Ô Trành có một Long Vương tên là A Bát La La cùng hai vạn năm ngàn Long Vương.
Nước Càn Đà La có một Long Vương tên là Y La Bát Đa cùng ba vạn Long Vương.
Nước Chơn Đơn có một Long Vương tên là Tam Giác cùng tám ngàn Long Vương.
Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cùng vô lượng Long Vương.
Các Long Vương như vậy đồng đến chỗ Phật kính lễ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi có thể thọ trì đọc tụng thơ tả các môn đà la ni
như vậy chẳng quên chẳng mất một chữ”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Chư Long Vương chơn thiệt hay thủ hộ chánh pháp”.
Đức Phật bảo Thiên Nữ Chánh Ngữ rằng: “Nầy Thiên Nữ! Nhà người có thể thủ hộ chánh pháp Như Lai chăng?”.
Chánh Ngữ Thiên Nữ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Như Lai còn tại thế gian và lúc sau
khi Phật diệt độ, xứ nào có các đà la ni như vậy lưu bố tôi sẽ thủ hộ xứ ấy. Người nào thọ trì, tuỳ chỗ cần dùng tôi đều cung cấp đủ. Nếu ai muốn thấy thân tôi, tôi sẽ vì họ mà hiện thân.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu hàng tứ chúng có ai muốn thấy tôi, người ấy nên sạch thân mình trì giới tinh tiến, trong một ngày tắm gội ba lần, đoạn thực ba ngày ở riêng nơi tịch tĩnh, hoặc bên tượng Phật, hoặc trong tháp, hoặc ở tĩnh thất, dùng các hương hoa các phan lọng cùng các thứ nước thơm ngon cúng dường Phật, day mặt về hướng chánh Đông tụng chu như vầy:
Bà tra trí, bà tra trí, hưu lâu, hưu lâu, đồn đậu lâu, đồn đậu lâu, khê tra, khê tra, tỉ sá ha.
Đã tụng chú như vậy rồi, tôi sẽ đến đó tuỳ chỗ nguyện cầu của tứ chúng tôi sẽ làm cho được thành tựu tất cả. Nếu tôi không đến đó, là khi dối thập phương chư Phật, cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật bảo La Hầu A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, Tỳ Lâu Giá Na A Tu La Vương rằng: “Nay Phật đem các đà la ni như vậy phó chúc chư A Tu La Vương, tại sao, vì các ông
có đại lực thế, có chúng sanh nào chẳng tin thì các ông có thể làm họ tin”.
Chư A Tu La Vương bạch rằng: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi sẽ hộ trì. Lúc Phật tại thế và lúc sau khi Phật diệt độ, nếu có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy, chúng tôi có thể sẽ ban cho họ tám sự: một là mạnh mẽ, hai là thích nghe học chánh pháp, ba là tâm không sợ sệt, bốn là thường sáng không tối, năm là thiện nguyên đầy đủ, sáu là giải thoát, bảy là biện tài và tám là thiện pháp tăng trưởng. Nếu có A Tu La nào làm não người ấy chúng tôi liền trừng trị. Nếu ở nơi thế giới nầy mà chẳng thủ hộ Phật pháp thì là khi dối thập phương chư Phật Thế Tôn vậy”.
Đức Phật quan sát tứ chúng rồi, bảo Kiều Trần Như Tỳ Kheo rằng: “Nầy Kiều Trần Như! Tất cả đại chúng rất thích nghe pháp. Vô lượng chúng sanh trong
vô lượng thế giới đều vì nghe pháp mà đến đây tập hội, đều muốn biết pháp hành phương tiện thành đại trí huệ, xa lìa tham dục và tất cả phiền não, chơn thiệt biết rõ pháp hành phương tiện”.
Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng: “Lành thay đức Thế Tôn, thiệt đúng như lời Phật dạy. Bốn phương thế giới có vô lượng Bồ Tát đều đem lời giữ dục của chư Phật đến đây và muốn hỏi học pháp hành Hư Không Mục. Nay chánh là phải lúc xin Phật thương xót vì chúng
sanh mà tuyên nói đó.
Bạch đức Thế Tôn! Được nói là pháp hành,
pháp hành Tỳ Kheo. Thế nào gọi là pháp hành Tỳ Kheo?”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà giải nói.
Nếu có Tỳ Kheo đọc tụng mười hai bộ kinh Như Lai, đó là Tu đa la nhẫn đến Ưu bà đề xá, đây gọi là thích đọc chớ chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh thích vì đại chúng tuyên dương rộng nói, đây gọi là thích nói chớ chẳng gọi là pháp hành. Còn
có Tỳ Kheo đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh hay rộng giảng nói suy nghĩ ý nghĩa, đây gọi là tư duy mà chẳng gọi là pháp hành. Còn
có Tỳ Kheo thọ trì đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh giải thuyết tư duy quán nghĩa lý,
đây gọi là thích quán mà chẳng gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo hay
quán thân tâm, lòng chẳng tham trước tất cả tướng ngoài khiêm hư hạ ý chẳng kiêu chẳng mạn, chẳng dùng nước ái tưới rưới ruộng nghiệp, cũng chẳng ở trong đó gieo giống thức, dứt diệt giác quán cảnh giới đều dứt, xa lìa phiền não tâm tịch tĩnh. Tỳ Kheo như vậy, Phật gọi là pháp hành. Tỳ
Kheo pháp hành ấy nếu muốn được Thanh Văn Bồ đề hoặc Duyên Giác Bồ đề hoặc Như Lai Bồ đề thì có thể được cả.
Nầy Kiều Trần Như! Như thợ lò gốm nhồi đất sét nhuyễn dẻo rồi để trên vòng quay tuỳ ý thành món dùng. Pháp hành Tỳ Kheo cũng như vậy.
Nếu có Tỳ Kheo tu pháp hành thì nên quán ba sự việc là thân, thọ và tâm. Quán ba sự ấy rồi được hai thứ trí là tận trí và vô sanh trí. Thế nào là tận trí và vô sanh trí?
Nầy Kiều Trần Như! Trí hết phiền não gọi là tận trí, trí hết hữu chi gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí không có hành nhơn gọi là tận trí, trí không có
hành quả gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết các kiết sử gọi là tận trí, trí hết phiền não gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết các hành gọi là tận trí, trí hết tất cả hữu gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, phân biệt hết không có vất gọi là tận trí, biết rõ các hệ phược giải thoát gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, biết hết căn giới gọi là tận trí, biết hết duyên giới gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, chẳng giác quán phiền não, gọi là tận trí, chẳng giác quán quả báo gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, trí hết phiền não đệ tam địa gọi là tận trí, trí hết tất cả phiền não gọi là vô sanh trí.
Còn nữa, sanh của ta đã hết phạm hạnh thanh tịch gọi là tận trí, không còn thừa thân trong ba cõi gọi là vô sanh trí.
Hai trí như vậy gọi là một trí cũng gọi một hạnh biết rõ tam đạo. Nếu có Tỳ Kheo dứt được tam đạo thì gọi là pháp hành.
Có thể quán như vậy là quán tâm và thọ.
Thế nào là Tỳ Kheo hay quán sát thân?
Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở vào ra, đây gọi là quán thân quán
thọ quán tâm.
Thế nào là quán hơi thở vào ra?
Hơi thở vào ra gọi là A na ba na. Thở vào là A na, thở ra là Ba na. Quán
hơi ra vào như cửa như ngõ. Nếu có Tỳ Kheo quán
như vậy đây gọi là pháp hành.
Nếu có Tỳ Kheo có thể học có thể đếm theo hơi thở ra vào lạnh nóng dài vắn. Hoặc khắp đầy thân, hoặc cột tâm nơi đầu mũi, hay thấy mới cũ, phân biệt rõ các tướng, hay quán sanh
diệt cầu xa ma tha khéo vào trong định, cũng hay quán sát hơi thở thô tế, nhẫn đến quán ở nội thân, thân tưởng là thân, đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Lúc tu sổ tức được hai sự đó là lìa ác gíac quán và quán tướng mạo của hởi thở. Lúc tu tập tuỳ tức cũng được hai sự, đó là chuyên niệm niệm tâm và lìa thiện giác quán. Quán hơi lạnh nóng cũng được hai sự, đó là phân biệt ra vào và quán tướng tâm số. Lúc quán thân
cũng được hai sự, đó là thân khinh
và tâm khinh. Chuyển quán sanh diệt cũng được hai sự, đó là biết tất cả pháp là tướng vô thường và biết tất cả pháp là tướng vô lạc.
Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo
niệm xuất nhập tức cột tâm một chỗ, có số giảm và số tăng.
Thế nào là số giảm? Đó là hai đếm là một, ba đếm là hai, nhẫn đến mười đếm là chín.
Thế nào là số tăng? Đó là một đếm là hai, nhẫn đến chín đếm là mười.
Cớ sao lại tu sổ tức, vì phá tất cả giác quán vậy. Lúc được sơ thiền quán xuất nhập tức và quán tâm tướng. Sơ thiền có năm chi là giác, quán, hỉ, lạc và định. Lúc đủ năm chi thì lìa tham sân si.
Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ năm chi thiền thì gọi là pháp hành, xa lìa năm sự, thành tựu năm sự, tu tập phạm hạnh thành đại công đức.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể được Nhị thiền thì gọi là pháp hành. Tỳ Kheo nầy quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa giác và quán được đệ Nhị thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa hỉ được đệ Tam thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa hỉ lạc bất khổ bất lạc được đệ Tứ thiền.
Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất thì quán ngũ ấm, nếu quán ngũ ấm thì gọi là pháp hành.
Nếu Tỳ Kheo thấy tất cả pháp hành sanh diệt nhẫn đến thấy tất cả phiền não sanh diệt, đây gọi là như pháp nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn rỗng không nhẫn đến thấy ý thức rỗng không, đây gọi là không nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn không có tướng nhẫn đến thấy ý thức không có tướng, đây gọi là vô tướng nhẫn.
Nếu Tỳ Kheo chẳng nguyện cầu nơi nhãn nhẫn đến chẳng nguyện cầu nơi ý thức, đây gọi là vô nguyện nhẫn.
Nếu vì chúng sanh mà đi trong sanh tử, đây gọi là tuỳ thượng chơn đế nhẫn.
Thế nào là tuỳ căn, tuỳ lực, tuỳ giác quán, nhẫn đến tuỳ Niết bàn?
Với các pháp nhãn đến ý thức như vậy mà tâm chẳng thủ trước thì gọi là tín nhẫn, đây là tín chẳng gọi là tín căn. Nếu nhiếp thân tâm chẳng cho tạo ác thì gọi là tinh tiến chẳng gọi là tiến căn. Nếu hay chuyên niệm các pháp như vậy thì gọi là niệm chẳng gọi là niệm căn. Tâm và tâm số pháp có thể cột một cảnh duyên thì gọi là định chẳng gọi là định căn. Nếu có thể chẳng thấy các tướng như vậy thì gọi là huệ chẳng gọi là huệ căn. Nếu quán những vô căn như vậy thì gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán đảnh pháp, thế đệ nhứt pháp, quán tam giải thoát: không, vô
tướng và vô nguyện; vô thường, khổ, không, đây gọi là pháp hành, đây gọi là không tam muội. Không tam muội ấy duyên không có thọ mạng, duyên không có tự tại. Vô tướng tam muội duyên tận duyên hoại duyên diệt duyên yểm ly. Vô nguyện tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Có không tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Vô tướng tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo duyên
huệ diệt trang nghiêm nhập vô nguyện tam muội, đây gọi là duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành.
Nếu có Tỳ Kheo duyên huệ diệt mà được giải thoát, đây gọi là cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ.
Như vô nguyện, không và vô tướng cũng vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể quán như vậy, đây gọi là pháp hành.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán
thọ quán tâm, đây gọi là pháp hành. Tại sao, vì có thể phá hoại hai mươi ngã kiến vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến đều riêng có năm thứ.
Sắc đoạn nhẫn đến thức đoạn đây gọi là đoạn kiến.
Sắc ngã nhẫn đến thức ngã đây gọi là năm ngã kiến.
Năm đoạn kiến phân biệt thì có bốn mươi bốn thứ, đó là mười sáu thứ nói tưởng, tám thứ nói vô tưởng, tám thứ nói phi tưởng phi phi tưởng, sáu thứ nói các loại tưởng và sáu thứ nói đoạn.
Năm ngã kiến phân biệt có mười tám thứ, đó là bốn thứ định nói ngã, bốn thứ nói biên, bốn thứ nói dị sự và sáu thứ nói vô cầu tam muội.
Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến phân biệt thành sáu mươi hai kiến.
Hai mươi ngã kiến nhơn duyên có thể sanh bốn trăm lẻ bốn thứ phiền não. Vì rời lìa các phiền não như vậy mà quán thân tâm
đây gọi là pháp hành. Tỳ Kheo có thể quán thân tâm như vậy.
Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là bát nhơn, thế nào là quyết định?
Nầy Kiều Trần Như! Người đoạn kiến nói rằng một niệm dứt. Người thường kiến nói rằng bát nhẫn dứt. Hai hạng người ấy đều được quyết định. Về sau rời lìa phiền não cũng đều không có phòng ngại.
Nầy Kiều Trần Như! Người có thể được bát nhẫn thì gọi là bát nhơn. Người được mười sáu tâm đây gọi là quyết định, đây gọi là như pháp.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành
tựu pháp quán xuất nhập tức thì được bát nhơn cũng gọi là quyết định.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành
tựu sổ tức thì được tín căn nhẫn đến huệ căn. Nếu được ngũ căn thì được thế gian đệ nhứt pháp. Tỳ Kheo như vậy có thể phá tất cả tâm nghi, đây gọi là chơn thiệt tu tập thánh hạnh.
Nếu có Tỳ Kheo thành tựu khổ trí thì dứt mười thứ phiền não, đây gọi là tu tập sơ vô lậu tâm quán. Lúc ấy thứ đệ quán vô nguyện tam muội. Lúc quán vô nguyện tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là vô lậu định trí, được khổ pháp nhẫn khổ pháp trí, tập pháp nhẫn tập pháp trí. Bấy giờ quán Sắc giới ngũ ấm, Vô Sắc giới tứ ấm, như Dục giới khổ, Sắc giới và Vô Sắc giới khổ cũng như vậy. Quán như vậy rồi dứt Sắc và Vô Sắc mười tám thứ phiền não. Mười tám thứ đã dứt rồi tư duy như vầy: các khổ ấy từ nơi nào đến và ai tạo ra nó. Tư duy như vậy biết rõ khổ ấy từ ái nhơn duyên, nếu ta không nhổ rễ ái như vậy thì sẽ sanh khổ, vì vậy mà quán tập, quán tập như vậy rồi dứt bảy phiền não. Quán Dục giới tập rồi, quán Sắc giới, Vô Sắc giới tập cũng như vậy. Quán như vậy rồi được tỉ nhẫn tỉ trí.
Lúc quán như vậy dứt mười ba phiền não.
Nầy Kiều Trần Như! Người đủ bát nhẫn thì gọi là bực bát nhơn pháp.
Dứt tập tam giới rồi lại quán như vầy: do nhơn duyên gì mà dứt khổ và tập? Vì an lạc vậy. Đại an lạc tức là diệt đế.
Bấy giờ sơ quán Dục giới diệt đế được diệt pháp nhẫn dứt bảy phiền não, Sắc và Vô Sắc cũng như vậy, quán như vậy được diệt tỉ nhẫn dứt mười hai phiền não.
Lại quán như vầy: do nhơn duyên gì được bảy nhẫn, biết rằng nhơn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Do sức bát chánh đạo mà biết Dục giới khổ tập và diệt đế, biết Sắc giới và Vô Sắc giới khổ tập diệt đế. Lúc nầy kế sanh đạo pháp nhẫn, được rồi có thể dứt tám thứ phiền não. Lại quán Sắc giới và Vô Sắc giới được đạo tỉ nhẫn dứt mười bốn phiền não.
Do tu tập pháp quán như vậy dứt tám mươi tám thứ phiền não, đây gọi là quyết định. Được quả Tu Đà Hoàn đây gọi là được mười sáu tâm, đây gọi là quyết định được Bồ đề, đây gọi là bảy lần qua lại dứt hết tất cả khổ.
Nầy Kiều Trần Như! Có người từ tín quyết định, có người từ pháp quyết định. Có người một đời được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến được quả A La Hán. Có người nhập tín căn nhẫn đến huệ căn. Có người tu định, có người tu huệ. Có người được Sơ thiền nhẫn đến Tứ thiền được nhập quyết định, quán tất cả hành vô thường, thứ đệ sanh diệt xa lìa tất cả pháp phàm phu. Có người quán tất cả hành vô thường, khổ, không, bất tịnh, chẳng được tự tại, không có tịch tĩnh, theo duyên
mà sanh theo duyên mà diệt, quán như vậy rồi được tịch tĩnh diệt đế, đây gọi là Tỳ Kheo như pháp mà hành.
Nầy Kiều Trần Như! Như Lai biết rõ tất cả chúng sanh các căn lợi độn, cũng biết tất cả chúng sanh tâm tánh tất cả phiền não tánh, vì vậy Như Lai theo chỗ chúng sanh đáng được mà vì họ thuyết pháp, tuỳ các phiền não tuyên nói đối trị, nên Như Lai được gọi là Nhứt thiết chủng trí.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh thơ tả đọc tụng, điên đảo giải nghĩa, điên đảo tuyên nói. Vì điên đảo giải nói nên che ẩn pháp tạng. Vì che pháp nên gọi là Đàm Ma Cúc Đa.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, mà lại còn đọc tụng thơ tả giải nói ngoại điển, thọ trì tam thế và nội ngoại điển phá hoại ngoại đạo, hay giỏi luận nghĩa, nói rằng tất cả tánh đều được thọ giới, phàm chỗ vấn nạn thường hay đối đáp, vì vậy nên gọi là Tát Bà Nhã Đế Bà.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả nói rằng không có ngã và người thọ, chuyển các phiền não dường như tử thi, vì vậy nên gọi là Ca Diếp Tỳ Bộ.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, chẳng trụ các tướng địa thuỷ hoả phong hư không thức, vì vậy nên gọi là Sa Di Tắc Bộ.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, đều nói rằng có ngã, chẳng nói tướng không, dường như tiểu nhi, vì vậy nên gọi là Bà Ta Phú La.
Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, rộng rãi xem khắp kinh thơ năm bộ, vì vậy nên gọi là Ma Ha Tăng Kỳ.
Nầy Kiều Trần Như! Năm bộ như vậy dầu đều dị biệt mà đều chẳng phòng ngại chư Phật pháp giới và đại Niết bàn.
Thế nào gọi là tuỳ tín hành?
Nếu tin Tam bửu có đủ tín căn, từ tín nhơn duyên nhập vào quyết định được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán. Từ tín được giải thoát nên gọi là tín giải thoát, cũng gọi là nhứt phần, cũng gọi là thân chứng, cũng gọi là huệ giải thoát. Đây gọi là tuỳ tín hành.
Thế nào gọi là tuỳ pháp hành?
Nếu có người từ nơi pháp nhập quyết định đầy đủ huệ căn được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán, đây gọi là kiến đáo nhị phần giải thoát, đây gọi là vô học giải thoát, đây gọi là pháp hành, đây
gọi là thành tựu thân thân quán nhẫn đến thành tựu pháp pháp quán, đây gọi là thành tựu Tỳ bà xá na và Xa ma tha.
Thế nào là Xa ma tha?
Xa ma tha gọi là diệt. Có thể diệt tâm tham, tâm sân, tâm tán loạn gọi là Xa ma tha.
Thế nào là tướng Xa ma tha?
Hay diệt tướng tham, tướng sân, tướng si, gọi là tướng Xa ma tha.
Nếu có thể tuỳ tu Xa ma tha hạnh tôn trọng tán thán hướng Xa ma tha phương tiện trang nghiêm, đây gọi là Xa ma tha tướng.
Nếu có Tỳ Kheo thâm tự tư duy rằng tham tâm của ta chỉ quán bất tịnh mới phá hoại được. Sân tâm của ta chỉ quán từ mới phá hoại được. Tâm si của ta chỉ quán thập nhị nhơn duyên mới phá hoại được. Đây gọi là Xa ma tha tướng.
Thế nào gọi là Tỳ bà xá na?
Nếu tu thánh huệ hay quán ngũ ấm thứ đệ sanh diệt, đây gọi là Tỳ bà xá na.
Còn nữa, nếu quán các pháp đều như, pháp tánh, thiệt tánh, thiệt tướng, chơn thiệt biết rõ, đây gọi là Tỳ bà xá na.
Thế nào gọi là tướng Tỳ bà xá na?
Nếu có thể thành tựu đầy đủ niệm tâm quán tất cả hành từ duyên mà sanh từ duyên mà diệt, tất cả hành không tự tại, không tác, không thọ, đây gọi là tướng Tỳ bà xá na.
Thế nào gọi là Tỳ bà xá na nhập quyết định?
Nếu chí tâm Tỳ bà xa na cung kính tôn trọng hướng trang nghiêm đạo, đây gọi là từ nơi Tỳ bà xá na nhập vào quyết định.
Thế nào gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo có thể quán tâm xuất nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành xuất nhơn duyên, đây gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.
Thế nào gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay thâm quán diệt tâm nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành diệt nhơn duyên, đây gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm.
Thế nào gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.
Thế nào là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán xuất tức mà chẳng quán nhập tức, đây gọi là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.
Thế nào là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo hay quán nhập tức chẳng quán xuất tức, đây gọi là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm.
Thế nào gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?
Nếu Tỳ Kheo quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.
Nầy Kiều Trần Như! Nếu Tỳ Kheo hay nhiếp tâm thì được tám mươi môn tam muội và tu ba môn giải thoát.
Nếu Tỳ Kheo quán quá khứ thân và tu trang nghiêm, quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô nguyện giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi chỉ thấy tâm mà chẳng thấy thân và tu trang nghiêm quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô tướng giải thoát môn.
Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi, chẳng thấy tác chẳng thấy tác giả. Tác giả không có thân, thân không có tác giả, tu trang nghiêm đạo quán thân thấy thân, đây gọi là không giải thoát môn.
Quán thọ tâm và pháp cũng như vậy.
Còn nữa, nầy Kiều Trần Như! Ba môn giải thoát tu quán
trang nghiêm, quán tất cả hành bất xuất bất diệt, xuất rồi thì diệt, diệt không có chỗ đến, chẳng đến chẳng đi chẳng tới, đây gọi là trang nghiêm vô nguyện giải thoát môn.
Còn nữa, vị lai thế các hành chưa xuất, nếu hành chưa xuất thì không có diệt, không có xuất không có diệt, đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.
Còn nữa, quán hành tất cánh tận, tất cánh tận thì không có sanh diệt. Nếu không có sanh diệt thì tất cánh tận. Nếu tất cánh tận thì tức là không nhơn duyên. Nếu quán tất cánh tận như vậy, đây gọi là trang nghiêm không giải thoát môn.
Còn nữa, nếu quán hành tất cánh tận thì không có sanh diệt, nếu không có sanh diệt tức là không có rỗng không. Tại sao, vì trước có sau không có gọi là rỗng không. Nếu là bổn không có thì
không có sau không. Nếu không có sau không thì thế nào gọi là rỗng không.
Nếu không có hành tức là vô vi. Tất cánh tận ấy chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Rỗng không chẳng phải hành chẳng phải không có hành. Vì vậy nên tất cánh tận ấy chẳng phải nhiếp thuộc hữu vi chẳng phải nhiếp thuộc vô vi. Đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment