Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 44
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM THI LA BA LA MẬT
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là Thi la thiểu dục , vì đúng pháp thanh tịnh khéo biết lượng.
Hai là Thi la tri túc , vì dứt hẳn tất cả sự tham trước.
Ba là Thi la chánh hạnh, vì hay làm cho thân tâm
đều xa rời .
Bốn là Thi la tịc tĩnh, vì những ồn náo đều bỏ xa.
Năm là Thi la có nhiều công đức trừ bỏ thị cục , vì do thiện căn tự tại mà thành.
Sáu là Thi la thánh chủng tri túc, vì với dung nhan người chẳng đoái chẳng hy vọng.
Bảy là Thi la làm đúng như lời , vì trong tối hay sáng đều phụng nhiếp chẳng khi Trời, Người.
Tám là Thi la tự xét lỗi mình , vì thường dùng gương pháp soi rõ tâm mình.
Chín là Thi la chẳng chê người kém , vì giữ ý cho người.
Mười là Thi la thành thục chúng sanh, vì chẳng bỏ rời các nhiếp pháp.
Lại nầy Xá lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là Thi la lòng tin thanh tịnh đối với Pháp , vì thủ hộ chánh pháp.
Ba là Thi la lòng tin thanh tịnh đối Tăng , vì tôn kính thánh
chúng.
Bốn là Thi la cúi xuống làm việc , vì chẳng rời suy tư Phật Bồ đề.
Năm là Thi la gần thiện hữu , vì khéo chứa nhóm giác phần tư lương.
Sáu là Thi la rời xa ác hữu , vì vứt bỏ tất cả ác pháp.
Bảy là Thi la Đại từ Ba la mật , vì thành thục các chúng sanh.
Tám là Thi la Đại bi Ba la mật , vì làm cho chúng sanh khốn ách được giải thoát.
Chín là Thi la Đại hỉ Ba la mật , vì với chánh pháp sanh lòng hỉ lạc.
Mười là Thi la Đại xả Ba la mật , vì với các tham sân đều xả bỏ cả.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :
Một là Thi la Đàn na Ba la mật , vì khéo thành thục các chúng sanh.
Hai là Thi la Sằn đề Ba la mật , vì khéo hộ trì tâm chúng sanh.
Ba là Thi la Tỳ lê gia Ba la mật , vì với các chúng hạnh chẳng thối chuyển.
Bốn là Thi la Tĩnh lự Ba la mật , vì khéo đầy đủ tịnh lự tư lương.
Năm là Thi la Bát Nhã Ba la mật , vì lắng nghe căn bổn không nhàm không đủ.
Sáu là Thi la vui cầu nghe pháp, vì thường tra thỉnh cầu Bồ Tát tạng.
Tám là Thi la chẳng bảo trọng mạng sống , vì dùng tâm như ảo thường quán sát.
Chín là Thi la các ý nguyện đầy đủ , vì khéo thanh tịnh từ lúc phát tâm.
Mười là Thi la hòa hiệp Phật giới luật , vì hồi hướng tất cả giới của Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , vì đại Bồ Tát đầy đủ giới thanh tịnh như vậy nên chẳng có sự khoái lạc vi diệu nào của Trời của Người mà đại Bồ Tát chẳng hưởng thọ , chẳng có nghề nghiệp khéo giỏi nào của thế gian mà đại Bồ Tát chẳng biết , chẳng có đồ cần dùng náo của chúng sanh thế gian mà đại Bồ Tát chẳng đủ , chẳng có phàm phu nào chẳng gây oán hại mà đại Bồ tát chẳng hề giận họ, chẳng có thế gian nào chẳng hư dối gạt gẫm mà đại Bồ Tát đều chẳng tin nhận , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là cha ruột đối với họ , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là mẹ ruột đối với họ , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng có ý tưởng bảo nhiệm gần gũi họ, không có một pháp hữu vi nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là vô thường sanh diệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Biết rõ các hành vô thưởng rồi đại Bồ Tát chẳng kể thân mạng tu tập giới thanh tịnh thật hành chánh hạnh của chư Bồ Tát làm, đó là ssể thành mãn Thi la Ba la mật vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
“Trụ Thi la thanh tịnh
Bồ Tát có thể dùng
Diệu sắc diệu âm thanh
Tế độ người ưa pháp
Mặt mắt đều viên tịnh
Chẳng đui điếc què gù
Các thân phần đoan chánh
Đều do tịnh giới sanh
Có đủ thế lực lớn
Chói rực oai quang lớn
Lại do tinh tấn huệ
Khiến ác ma kinh sợ
Vua chúa đêéu cúng dường
Trời rồng đều tôn kính
Khéo dứt các lưới nghi
Siêng tu hành đại từ
An trụ tại giới tụ
Pháp hành danh xưng lớn
Khổ bức chẳng e sợ
Trọn chẳng đọa ác thú
Chúng sanh hôn mê ngủ
Bồ Tát đánh thức họ
Thường không có tạm ngủ
Cầu pháp khắp bốn phương
An trụ tại giới tụ
Vì cầu tại giới tụ
Xả thí thượng trân bửu
Vợ con xương thịt mình
Cầu giáo pháp Vô thượng
Phải cung kính cúng dường
Các bực đời dựa nương
Nếu bị người mắng nhiếc
Não hại cùng đánh đập
Thêm thương và khen
họ
Là do được lòng nhẫn
Tu hành đúng như lời
Lời nói thường chẳng dối
An tọa đạo tràng rồi
Đại địa đều chấn động
Với Phật pháp không nghi
Bỏ rời đại chúng tà
Được Nhơn Thiên tôn thờ
Gọi là cúng Thế Tôn
Các chúng sanh thế gian
Dùng dao gậy hại nhau
Hay khiến họ hòa hiệp
Đây là trí Bồ Tát
Chúng sanh bị khổ nặng
Nhiều trăm câu chi kiếp
Dầu họ chẳng đê&n câéu
Bôé Tát chẳng bỏ họ
Bạn lành đàm luận chung
Do đây được nghỉa lợi
Mà chúng sanh chẳng cầu
Trở lại hại lẫn nhau
Bồ Tát đem trân bửu
Đầy khắp cả đại địa
Và quốc độ chư Phật
Dùng để cầu thiện hữu
Giả sử lầy dao bén
Cắt dứt lìa thân ta
Với các chúng sanh ấy
Thường có lòng bình đẳng
Bỏ hành động kẻ ngu
Làm nhơn duyên Phật pháp
Thường giự giới thanh tịnh
An trụ pháp vi diệu
Tu Tập pháp tùy thau65n
Hành diệu hạnh Bồ đề
Tam minh huệ cam lộ
An trụ tại giới tụ
Tu học các Phật pháp
Đây là người trí huệ
Trời người nên cúng dường
Biết rõ tất cả pháp
Khéo thấu các nghề giỏi
Hiểu sâu ý chúng sanh
Hoằng dương pháp vi diệu
Giới tụ đã thanh tịnh
An tọa cội Bồ đề
Hàng phục quân ma dữ
Ngộ Vô thượng Chánh giác
Sáng soi khắp thế giới
Như tia sáng nhựt nguyệt
Bồ Tát bực tôn quí
Hay mở mắt huệ thánh
Trao tay dìu chúng sanh
Hỏi đạo đều khai thị
Thường vui nhận lời người
Chẳng hề có ganh ghét
Bỏ vô lượng thân mình
Bố thí nhiều của báu
Chẳng hề có xa rời
Phật Bồ đề tối thượng
Tín giới đã tròn đủ
Khéo trụ lời chắc thiệt
Chẳng hề có ảo ngụy
An trụ tại giới tụ
Người đến chỗ Bồ Tát
Hợc đặt lời hư vọng
Dầu nghe chẳng phản đối
Mà luôn nương lời thiệt
Nếu ai hứa Bồ Tát
Giả nói cho y thực
Trọn không đem đến cho
Bồ Tát không hề giận.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , vì đầy đủ Thi la thanh tịnh như vậy nên đại Bồ Tát đấi với các hành thường tưởng là chẳng nên ưa thích , với các chúng sanh trưởng là cha mẹ , với các hữu tình tưởng khó bảo tòan , với diệu ngũ dục tưởng chẳng phải diệu , với cảm giác hay biết tưởng chẳng hay biết .Có quan niệm như vậy rồi chẳng sanh khởi tâm bình đẳng chẳng bình đẳng .Tại sao ? Lúc Bồ Tát quan niệm như vậy , nếu sẽ phát khởi tâm bất bình đẳng thì nên khiến nhiễm tâm chuyển đổi bất bình đẳng , suy gẫm rằng nhãn và sắc làm duyên mà sanh nhãn thức , nhiễm tâm sanh diệt đều do chủng tử mà tâm thể ấy phát sanh ,đối cảnh sở duyên vọng tâm cho là tịnh .Nếu suy gẫm biết được nó là phi lý và thể chất bất tịnh thì được giải thoát , nếu giải thoát nó thì là nó hết .Nó hết chỗ nào ? Đó là tham hết , sân hết , si hết .Hết như vậy thì chẳng phải tham hết sân hết si hết .Tại sao ? Nếu sát na tham có tận diệt thì lẽ ra có tham khác hết khác .Như vậy thì lẻ ra tham là thiệt hết là thiệt.Nếu tham là thiệt thì lẽ ra chẳng diệt tận.
Nhưng nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả hữu tình đều do chẳng chánh tư duy chẳng tác ý đúng lý nên sanh tham dục , xét về tham dục do phân biệt mà khởi lên .Nếu không phân biệt thì tình chấp dứt , nếu tình chấp dứt thì không có thiệt , do vì không thiệt nên trong đó không có tham, vì không tham nên tức là chơn thiệt. Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không khổ . Do vì không khổ thì không thiêu não .Vì
không thiêu não nên tức là chơn thiệt .Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không nhiệt .Vì không nhiệt nên tức là thanh lương nên tức là Niết bàn. Ở trong Niết bàn không có tham ái.
Tại sao ? Nầy Xá Lợi Phất ! Xét về Niết bàn không có tư lự .Ta phải trừ diệt tham ái ấy . Vì tham ái hết nên gọi là được Niết bàn. Nếu như vậy thì năng tham khác và sở tham khác , Niết bàn lại khác . Đây nếu khác thì ở kia là kia. Nếu ở kia là kia , người trí phải nên suy tầm chỗ thiệt của kia. Suy tầm rồi chẳng được chỗ chắc thiệt .Nếu không chắc thiệt thì là hư giả .Nếu là hư giả thì là tịch tĩnh.Nếu là tịch tĩnh thì là không .Không có pháp gì ? Không có ngã và ngã sở hoặc thường hoặc hằng hoặc trụ hoặc biến dị thì không có hữu tình không có thọ giả .Do như vậy nên không có khởi tham sân si.
Nầy Xá Lợi Phất ! Do cớ gì có ngã và ngã sở , chấp đây là ngã đây là ngã sở hữu ? Vì điên đảo chấp ngã nên chấp ngã sở hửu .Vì chấp ngã sở hữu nên có sở tác. Ở trong sở tác phát khởi bốn hành động, đó là thân sở tác , ngữ sở tác , ý sở tác , do ý tư duy khởi thô ác ngữ , từ đó bèn phát sanh vận dụng thân để làm hại.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả phàm phu ngu si do vì họ phát khởi ý tưởng mình người dị biệt nên bị ý tưởng nó nắm , bị ý tưởng nó trói.
Đại Bồ Tát do thật hành Thi la Ba la mật nên biết rõ sự ấy là điên đảo rôéi chẳng quen gần các hành.Tại sao ? Vì do quen gần mà sanh sợ sệt . Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta vì cầu không sợ sệt để độ các chúng sanh thì chẳng nên ỡ nơi kia mà sanh sợ sệt, ta phải cùng kia thân ái.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đố với chúng sanh đại Bồ Tát tưởng là cha mẹ ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát nghĩ rằng từ đời lâu xa quá khứ đến nay không có một chúng sanh nào mà chẳng phải là cha là mẹ .Tất cả chúng sanh chắc chắn từng làm cha hoặc mẹ ta , do vì ở nơi họ sanh tâm tham nên bỏ ý tưởng là mẹ , sanh tâm sân nên bỏ ý tưởng là cha , mãi lưu chuyển sanh tử chẳng dứt .Suy nghĩ như vậy rồi ở nơi chúng sanh đại Bồ Tát đều tưởng là quyến thuộc cả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Như thuở quá khứ vô số vô lượng bất tư nghị kiếp, bấy giờ có Phật hiệu Tối Thắng Chúng xuất thế đủ mười hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc , Thiện thệ , Thế Gian Giải , Vô thượng Sĩ , Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư , Phật Thế Tôn .Phật ấy thọ chín câu chi năm cùng chín
câu chi na do tha chúng đại Thanh Văn câu hội. Lúc ấy có Bồ Tát tên Đắc Niệm sanh tại vương cung, thân hình đoan
nghiêm khả ái có đủ sắc tướng tròn sạch đệ nhứt . Lúc Bồ Tát sơ sanh , phụ vương đã ban cho tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ , quyến thuộc lại tặng tám vạn bốn nghìn thể nữ trẻ đẹp , bạn hữu của phụ vương cũng tặng tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ đẹp ,muốn lúc Bồ Tát lớn lên có người theo hầu.
Bấy giờ phụ vương lại vì Bồ Tát mà xây cung điện ba mùa : Điện mùa nóng , điện mùa mưa và điện mùa lạnh , để Bồ Tát theo mùa tùy ý ở .Lại còn ban cho trăm ngàn kỹ nhạc làm vui Bồ Tát.
Lúc nghe nhạc âm nổi lên , Bồ Tát ấy có ý tưởng sanh diệt vô thường .Lúc tiếng nhạc tạm dứt , Bồ Tát ấy suy tìm âm thanh ấy nương gì mà khởi , chỗ nào mà sanh, từ đâu mà dứt , chỗ nào mà mất . Lúc quan sát như vậy , Bồ Tát ấy chẳng còn ý tưởng ngày đêm sai biệt , chỉ luôn tưởng vô thường , tưởng không có gì đáng vui ưa ở thế gian cả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trong bốn vạn năm , Bồ Tát Đắn Niệm chưa hề ham say âm nhạc, lại trong bốn vạn năm nữa , đối với ngũ dục chưa hề tham nhiễm.
Khi ấy Bồ Tát Đắc Niệm ở trong thâm cung nhập tứ tĩnh lự phát ngũ thần thông ,liền dùng sức thần túc bay lên hư không thẳng đến chỗ đức Tối Thắng Chúng Như Lai thưa thỉnh được chút ít chánh pháp rồi trở về bổn cung .
Ngày đức Tối Thắng Chúng Như Lai nhập Niết bàn , Bồ Tát Đắc Niệm lại đến chỗ ở của Phật hỏi chư Tỳ Kheo hiện nay đức Như Lai ở đâu , tôi muốn được hầu cận cúng dường .Chư Tỳ Kheo cho biết là đức Phật Tối Thắng Chúng đã nhập Niết bàn. Bồ Tát ấy được tin đức Phật nhập Niết bàn liền ngã xuống chết ngất , giây lâu tỉnh lại nói kệ rằng :
Đấng huệ nhựt soi đời
Đến bờ kia các pháp
Ta ở chỗ phóng dật
Tại sao tự khi dối
Trăm ngàn câu chi kiếp
Phật xuất thế một lần
Mà ta chẳng phụng thờ
Lấy ai để cứu nương
Như ta tự suy nghĩ
Mẹ ta chẳng biết thương
Sao mẹ chẳng cho hay
Để ta sớm thấy Phật
Cha cũng chẳng biết thương
Vùi ta trong ngũ dục
Bị đó giam cầm rồi
Chẳng gần thờ Như Lai
Chẳng được nghe lời Phật
Sáu mươi âm thanh
diệu
Đời sống mất lợi lành
Vì chẳng phụng thờ Phật
Đấng đại bi cứu đời
Đến bờ kia các pháp
Ta bị kiêu dật nắm
Chẳng gần thờ Thế Tôn
Ngàn ức do tha kiếp
Khó thấy được chư Phật
Ta chẳng lo cúng dường
Nhập diệt rồi mới đến
Nay ta lại suy nghĩ
Cha mẹ đều chẳng tốt
Lúc ta vừa lớn khôn
Sao chẳng nhắc đến Phật
Cho ta được thấy Phật
Thường gần kề Như Lai
Để luôn luôn cúng dường
Và được nghe chánh pháp
Đức Như Lai tuyên dương
Sáu mươi âm thanh diệu
Mà ta chưa được nghe
Nhập diệt rồi mới đến
Nay ta mất lợi lành
Niết bàn rồi mới đến
Không ai nói diệu pháp
Như Phật trước đã nói.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Đắc Niệm đi đến bên giướng đức Tối Thắng Chúng Như Lai nhập Niết bàn khóc than thảm thiết đi nhiễu bên hữu giường Như Lai trăm ngàn vòng rồi đứng qua một phiá mà nói kệ rằng :
Phật là đấng quần sanh tôn quí
Hiển dương pháp nhiệm mầu Vô thượng
Nay ta phát khởi tâm chí thành
Để được Bồ đề tối thắng ấy
Nay ta kính lễ chưn Như Lai
Đấng trí huệ lớn lời chơn thiệt
Nguyện ta sẽ được trí huệ ấy
Đồng như trí huệ Phật đã được
Xưa ta hèn
kém không trí huệ
Đọa trong phẩm loại hàng ma ngoại
Ở nhà ở cung nhiều ép buộc
Chẳng được gần Phật để phụng thờ
Ta đã từng tu phước thắng diệu
Do đó được tạm thấy Như Lai
Nhưng chưa được Phật rộng dạy truyền
Nên nay ta phải khổ sầu lớn
Nay ta đối trước chúng Thiên Long
Phát nguyện chí thành lời chơn thiệt
Nếu ta kỳ vọng mà chơn thiệt
Sẽ đúng như lời đều toại nguyện
Nguyện ta sẽ ở đời vị lai
Chư Phật Như Lai hiện ra đời
Thấy nghĩa thậm thâm dụng rộng lớn
Tuyên nói chơn thiệt pháp Vô thượng
Ta chẳng sanh nhằm các chướng nạn
Đối với ngũ dục chẳng ham gần
Tự tại với sắc chẳng bị chuyển
Xô sập nhà giam của quân ma
Đời đời thường được thấy chư Phật
Hiện tiền được nghe pháp Vô thượng
Thầy Phật sanh lòng tin thanh tịnh
Sanh lòng tin rồi tu các hạnh
Nếu nguyện chí thành của ta phát
Quyết sẽ thiệt được không hư luống
Khiến đức Như Lai lại ngồi dậy
Như đương ngủ say bỗng thức giấc.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Đắc Niệm phát lời chí thành xong , đức Tối Thắng Chúng hiện nằm nhập Niết bàn thoạt ngồi dậy .Bấy giờ trăm ngàn câu chi chư Thiên đem
y thượng diệu rải lên cúng dường .Bồ Tát Đắc Niệm vui mừng bay bọt lên hư không nói kệ rằng :
Đấng đại từ bi soi sáng đời
Đấng đại Đạo Sư đại thần thông
Đấng đại giác ngộ thế gian nương
Đấng tuyên chánh pháp diệu Vô thượng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Đắc Niệm nói kệ ca ngợi đức Phật rồi lại muốn cho đại chúng càng thêm vui mừng nên ở trước đức Phật nói kệ rằng :
Ta ở đời sau sẽ là Phật
Xuất thế độ sanh như Thế Tôn
Đại chúng phải nên bắt chước học
Sắm đủ mọi thứ cúng dường Phật
Đấng đời dựa nương khó nghĩ bàn
Có ai thấy Phật chẳng kính mến
Phật thương chúng ta và chúng sanh
Đã nhập Niết bàn lại ngồi dậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Đắc Niệm ấy ở trong chánh pháp của đức ối Thắng Chúng Như Lai sắp đặt cúng dường to lớn tròng các gốc lành .Do sức thiện căn ấy , sau khi mạng chung sanh lên các cọi trời , trải qua hai mươi câu chi đại kiếp chẳng đọa ác đạo , lại trải qua hai mươi câu chi đại kiếp chẳng thọ dục lạc. Trong thời gian ấy , Bồ Tát Đắc Niệm gần gũi cúng dường bảy ngàn đức Phật. Vì cầu Vô thượng Bồ đề nên thường tu phạm hạnh. Ở kiếp sau cùng trong thời kỳ mạt thế cảm được thân thắng thượng từ sức thiện căn phát khởi thành Đẳng Chánh Giác hiệu là Ta La Vương Như Lai , Ứng Cúng , Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc , Thiện Thệ , Thế Gian Giải , Vô thượng Sĩ , Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư , Phật , Thế Tôn , thọ hai mươi câu chi năm , cùng các đệ tử hai hội thuyết pháp .Hội thứ nhứt có hai mươi câu chi đệ tử đại Thanh Văn .Hội thứ hai có bốn mươi ngàn đệ tử đại Thanh Văn .Tất cả đều là đại A La Hán hết phiền não có thế lực lớn tâm được tự tại đã đến bờ kia. Sau khi đức Phật Ta La Vương nhập Niết bàn , Xá lợi lưu bố xây tháp cúng dường .Chánh pháp ở đời đủ mười ngàn năm ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :
« Xá Lợi Phất nên biết
Bồ Tát Đắc Niệm ấy
Hai mươi câu chi
kiếp
Chẳng sa đọa ác đạo
Lại bằng thời gian ấy
Chẳng gần các tham dục
Trong khoảng thời gian ấy
Gặp bảy ngàn đức Phật
Ưa thích các Phật pháp
Thường tu hạnh thanh tịnh
Sau cùng chứng Bồ đề
Hiệu Ta La Vương Phật
Chứng Vô thượng giác rồi
Lợi ích các chúng sanh
Hai mươi câu chi năm
Tuyên rộng pháp vi diệu
Chúng hai mươi câu chi
Hội thứ hai bốn vạn
Đều là đại La Hán
Thánh đệ tử của Phật
Sau khi Phật nhập diệt
Xá lợi rộng lưu bố
Xây sàu vạn câu chi
Linh tháp để cúng dưởng
Chánh pháp trụ tại thế
Đủ mưởi ngàn năm trọn
Người nghe Phật chánh giáo
Sanh lòng tin thanh tịnh
Đức Phật nói chánh pháp
Người trí chẳng nghi ngờ
Trọn chẳng đọa ác đạo
Mau chứng đại Niết bàn.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát do thật hành Thi la Ba la mật nên giới tụ thanh tịnh , với chúng sanh tưởng là cha mẹ . Đại Bồ Tát nghĩ rằng xưa kia ta vì tâm tham mà bỏ ý tưởng là mẹ, vì tâm sân mà bỏ ý tưởng là cha . Nay ta thật hành Thi la Ba la mật an trụ nơi giới thanh tịnh , nơi ngũ dục kia luôn có ý tưởng nhàm chán xa rời .Do có chánh tư duy như vậy nên đại Bồ Tát có thể biết rõ tướng ngũ dục , lại hay biết rõ ngũ dục đáng chán đáng rời.
Những gì là tướng ngũ dục và nhàm lìa ?
Gọi là dục tức là tham ái.Với nhãn thức tham, những sắc bị biết thì gọi là dục.Với nhĩ thức tham , những âm thanh bị biết thì gọi là dục.Với tỷ thức tham, những hương bị biết thì gọi là dục. Với thiệt thức tham , những vị bị biết thì gọi là dục. Với thân thức tham ,những xúc bị biết thì gọi là dục .Nếu có tham ái thì có chấp trước.Xét về chấp trước thí gọi là kết .Kết gọi là phát khởi .Phát khởi gọi là trói.Lại cũng gọi là hí luận chẳng thiệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả chúng sanh đều bị hí luận chẳng thiệt ấy nó trói ,nó quấn , nó trói khắp , nó tăng thượng trói khắp mà chẳng giải thoát được.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả chúng sanh bị những gì trói cột mà gọi là bị trói ? Đó là bị sắc nó trói , bị thanh hương vị và xúc nó trói nên gọi là bị trói.
Lại những gì là sắc nó trói ? Đó là ở nơi tự thân chỗ có những hình sắc vọng sanh ý tưởng là ngã , là mạng giả, là hữu tình , là thường hằng , là chẳng biến dị , là thiệt , là toàn ,là hiệp nhứt.Những ý tưởng ấy gọi là sắc nó trói.
Nầy Xá Lợi Phất ! Những gì gọi là sắc trói ? Đó là ở nơi tự thể tướng ngã đã được phát khởi ấy rất mến , rất quí trọng sanh ngã ái lớn, với thê thiếp quyến thuộc luyến ái chẳng thôi . Đây gọi là bị sắc trói.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các chúng sanh ấy đã được thọ dụng các dục lạc rồi tạo nên các nghiệp bất thiện , chẳng biết được đúng thiệt lỗi lầm của ngũ dục.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả ngũ dục không thứ nào là chẳng phải tọi lỗi .Thếnên đối với các tội lỗi, người trí chẳng nên tham dục. Nhưng đọa ác đạo là lỗ nặng của tham dục, Phật sẽ khai thị tướng ấy cho ông.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là hay đọa ác đạo là lỗi nặng của ngũ dục ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Người quen gần gũi dục thì chẳng có chút ác nào mà chẳng gây tạo .Lúc nó chín mùi thì chẳng có chút khổ nào mà chẳng gánh chịu .Vì thế nên , nầy Xá Lợi Phất ! Đức Phật xem thấy tất cả chúng sanh trong thế giới , oán hại lớn của họ không gì hơn thê thiếp nữ sắc các tham dục.
Nấy Xá Lợi Phất ! Xét về trí tức là Như Lai .Nói là người vô trí tức là chúng sanh vậy. Nếu là chỗ bị quở trách của người trí thì gọi là chơn thiệt.Nếu là những sự nhiếp thọ của người vô trí thì chẳng chơn thiệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Người vô trí nhận chịu những gì ? Đó là nhiếp thọ những pháp hữu vi , nhiếp thọ thê thiếp con cái .Những người vô trí ấy trở lại bị thê thiếp con cái nhiếp thọ.Cứ mãi xoay vần nhiếp thọ nhau như vậy thí chẳng nhiếp thọ thánh đạo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì bĩ trói buộc nơi thê thiếp vợ con nên người vô trí ấy sanh nhiều chướng ngại nơi pháp lành . Chướng ngại những gì ? Đó là chướng ngại xuất gia, chướng ngại Thi la, chướng ngại tĩnh lự , chướng ngại thiên đạo , chướng ngại Niết bàn , lại hay chướng ngại các pháp diệu thiện.
Nầy Xá Lợi Phất ! Người vô trí ấy nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc con cái như vậy ,nói tóm lược là nhiếp thọ oán thù , là nhiếp thọ địa ngục , bàng sanh , ngạ quỉ các ác đạo , là nhiếp thọ các pháp ác bất thiện, mà chướng ngại tất cả pháp Hiền Thánh .Vả lại nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc như vậy còn chướng ngại cả sự ăn ngon huống là những thắng pháp khác.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tóm lược mà nói về chướng ngại ấy , đó là chướng ngại thấy Phật , chướng ngại nghe Pháp , Chướng ngại phụng Tăng , chướng ngại lòng tin đối với Phật , Pháp và Tăng , chướng ngại được vô hạn , chướng ngại bảy Thánh tài : tín ,giới , văn , xả,huệ, tàm và quý.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu nhiếp thọ những sắc dục thê thiếp nam nữ tức là nhiếp thọ bất tín, ác giới, tà văn, xen lẫn và tà kiến cùng vô tâm vô quý ,lại cũng nhiếp thọ bịnh ung, tên độc, khói lửa, rắn độc.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu thích ở nhà mê say chẳng rời bỏ tức là thích mồ mả. Thế nên Phật nói ở tại gia như gò mả, như ở đồng hoang không chỗ dựa nương liền mất tất cả pháp trắng sạch.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu say đắm nơi sắc dục nam nữ thê thiếp , phải biết đó chíng là say đắm ngòi nổ của trái pháo , là say đắm mũi nhọn của dao bén ,là say đắm hòn sắt nóng đỏ lớn ,là say đắm nằm giường sắt nóng, là say đắm ngồi ghế sắt nóng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu say đắm trang điểm vòng hoa hương xoa, chính là say đắm vòng sắt nóng cứt đái xoa thân.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu nhiếp thọ nhà cửa để ở, đó là nhiếp thọ chum sắt nóng lớn.Nếu nhiếp thọ tôi trai tớ gái công nhơn , đó là nhiếp thọ quỉ tốt ác địa ngục.Nếu nhiếp thọ gia súc, đó là nhiếp thọ chó sắt , ngựa đen ở địa ngục , lại là nhiếp thọ trăm ngàn lính cấm vệ địa ngục.Nếu nhiếp thọ nữ sắc thê thiếp , phải biết đó là nhiếp thọ tất cả khối sầu lo buồn khổ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thà gá nằm trên giường sắt nóng rộng ngàn na do tha , chớ chẳng dùng lòng ái nhiễm xa nhìn các nữ sắc thê thiếp của cha mẹ cung cấp, huống là gần kề ôm ấp.
Nầy Xá Lợi Phất ! Phải biết phụ nhơn là gốc các sự khổ, là gốc chướng ngại , là gốc sát hại, là gốc trói buộc,là gốc ưu sầu , là gốc oán đối ,là gốc sanh manh.
Phải biết phụ nhơn diệt mất thánh huệ nhãn.Phải biết phụ nhơn như hoa sắt nóng đỏ rải trên đất chưn dẫm lên đó.Phải biết phụ nhơn lưu bố tăng trưởng các tánh tà ác.
Nầy Xá Lợi Phất ! Cớ gì gọi là phụ nhơn ?
Chữ phụ ấy có nghĩa là mang gánh nặnh .Tại sao ? Vì hay khiến chúng sanh mang gánh nặng .Vì hay khiến chúng sanh chịu lấy gánh nặng . Vì hay khiến chúng sanh khốn nơi gánh nặng.Vì hay khiến chúng sanh khốn nơi gánh nặng. Vì hay khiến chúng sanh giữ lấy gánh nặng mà đi.Vì hay khiến chúng sanh vác gánh nặng đi khắp nơi.Vì hay khiến chúng sanh lòng khổ nhọc đối gánh nặng ấy.Vì hay khiến chúng sanh bị gánh nặng ấy nung bức .Vì hay khiến chúng sanh bị gánh nặng thương tổn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chữ phụ ấy lại có nghịa là chỗ mà chúng sanh thua thiệt.Chỗ trôi chìm của mọi tham ái .Chỗ nộp thuế của kẻ thuận theo vợ .Chỗ mê hoặc của vợ đẹp .Chỗ quy đầu của vợ hơn. Chỗ roi vọt của kẻ sợ vợ. Chỗ phóng túng của vợ tự do. Chỗ khổ mệt của kẻ làm mọi vợ. Do các cớ ấy nên gọi những chỗ như vậy là phụ.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Chúng sanh trong đời vì cớ vợ chẳng bỏ nên gánh nặng chẳng bỏ . Những gánh nặng gì ? Đó là ngũ uẩn : Sắc uẩn , thọ uẩn , tưởng uẩn , hành uẩn và thức uẩn.
Phụ nhơn trong đời có thể làm cho chúng sanh chẳng bỏ gánh nặng ngũ uẩn như vậy, nên gọi ngũ uẩn là phụ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lại cớ gì người đời gọi vợ là cố đệ nhị ? Vì nữ nhơn ấy là bạn thứ hai phạm Thi la, là bạn thứ hai phạm oai nghi, là bạn thứ hai phạm chánh kiến, là bạn thứ hai khi uống ăn, là bạn thứ hai đi đến địa ngục , bàng sanh , quỉ đạo, là bạn thứ hai làm chướng Thánh huệ , làm ngại vui Niết bàn nhiếp lấy tất cả khổ vậy. Vì thế nên người đời gọi vợ là cố đệ nhị.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lại cớ gì người đời gọi vợ là mẫu chúng ? Vì nữ nhơn sanh nhiều lỗi lầm vô biên sự ào dối, nên gọi là mẫu chúng.Nếu ai đeo theo mẫu chúng tự do thì nên biết là sa vào trong tay quân
ma tự do làm ác.
Phải biết tất cả nữ nhơn trong đời sanh nhiều lỗi lầm vô biên ảo dối , lòng họ nhiều tháo động ,nhiều lưu đảng ngiêng úp chẳng dừng ,lòng họ như khỉ như vượn, họ khéo thuật hiện bày ảo dối ,vì thế nên gọi nữ nhơn là mẫu chúng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nói mẫu chúng tức là thôn mẫu ảo , cũng gọi là thành ảo ,là ấp ảo, là thủ đô của ảovương, là nhà trọ của ảo khách, là quán xá của ảo nhơn ,là ảo quốc , ảo thôn, ảo xứ , ảo phương, là thế gian ảo, thế giới ảo, vô biên ảo , quảng đại ảo, vô lượng ảo , bất tư nghị ảo, quảng đại ảo, vô lượng ảo , bất tư nghị ảo.Do vì là lỗi nặng dục lạc hay đến ác đạo nên hiệu nữ nhơn là thôn mẫu ảo.
Thí như nhà ảo thuật học giỏi ảo thuật ở giữa công chúnh hiện ra nhiều sự ảo dối.
Cũng vậy , mẫu ảo thôn học giỏi thuật ảo dối của nữ nhơn, có thể khiến người chồng hoặc thấy hoặc nghe hoặc rờ hoặc chạm đều bị trói buộc.
Nữ nhơn lại giỏi cách mê hoặc, do đó họ có thế lực nhiều .Phàm họ có động tác như ca vũ cợt cười khóc than, hoặc đi đứng ngồi nằm đều khiến người chồng chẳng tự chủ mà bị trói buộc sai sử.
Thí như trong đời ruộng lúa chín bị mưa đá phá nát ngập lụt.
Cũng vậy, mẫu ảo thôn như mưa đá tuôn vào ruộng người chồng phá nát tất cả pháp lành lúa tốt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Phu nhơn có bao nhiêu là lỗi nặng thẳng đến ác đạo mà phàm phu ngu si bị họ mê hoặc chẳng hay biết là lỗi nặng, trởi lại nhiếp thọ thê thiếp nữ sắc rồi mê say trong ấy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì đại Bồ Tát trí huệ thật hành Thi la B la mật nên ở nơi các dục lạc biết rõ là lỗi bèn y theo chánh pháp
phát khởi hai ý tưởng : đó là với hàng ngu phu có ý tưởng là ác nhơn , với chư Phật và Bồ Tát có ý tưởng là thiện nhơn. Có ý tưởng ấy rồi , đại Bồ Tát ấy nghĩ rằng nay ta phải đến chỗ thiện nhơn mà không nên đến chỗ ác nhơn . Ta không nên đến chỗ địa ngục, bành sanh ngạ quỉ . Ta không nên đến chổ phá Thi la, chỗ phạm luật nghi.Ta phải đến chỗ tối thắng Vô thượng vô chướng ngại rời lìa hẳn các pháp ác trược. Ta phải đến chỗ chư Phật Như Lai đại trí huệ. Ta phải ngược dòng mà đi , không nên
thuận dòng.Ta phải như sư tử rống, chẳng phải như cheo kêu .Ta phải hiển hiện thế lực như kim sí điểu vương , chẳng nên hiển hiện sức mọn của côn trùng nhỏ.Ta phải làm người hiền lương , chẳng nên làm người hiểm ác hư hỏng .Ta phải ăn món ăn hiền lương thắng thượng trong sạch, chẳng nên ăn món vô lương, hạ tiện nhơ bẩn.Ta phải tu hành tĩnh lự vi diệu, tĩnh lự tối thắng ,tĩnh lự thù đặc, tĩnh lự đệ nhứt , chẳng nên tu hành các tĩnh lự hạ liệt không phải các loại tĩnh lự trên.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát nghĩ rằng ta phải du hí trong tĩnh lự chư Phật , chẳng nên di hí trong các tĩnh
lự của Thanh Văn , Độc Giác phàm phu .Ta phải tu hành tĩnh lự không y dựa ,chẳng nên tu hành tĩnh lự y dựa nơi sắc, y dựa nơi thọ tưởng hành thức , chẳng nên tu hành tĩnh lự y dựa nơi địa thủy hỏa phong, cũng chẳng tu hành tĩnh lự y dựa dục giới sắc giới vô sắc giới , cũng chẳng tu hành tĩnh lự y dựa nơi đã thấy đã nghe đã nhớ đã biết đã được đã chạm đã chứng. Ta phải tu hành tĩnh lự không y dựa . Do tu tập như vậy nên chẳng tổn mình cũng chẳng tổn người cũng chẳng cùng tổn.Ta phải cần cầu viên thành Phật trí há lại nên cầu các dục lạc thế gian.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc tu hành Thi la Ba la mật có chánh quán như vậy rồi , đại Bồ Tát lại phải phát khởi bốn thứ chán lìa :
Một là có thể đối với các dục lạc mà sanh chán lìa.
Hai là đối với các cõi có thể sanh chán lìa.
Ba là đối với các chúng sanh chẳng biết ơn hay sanh chán lìa.
Bốn là đối với tất cả chỗ làm những khổ não hay sanh chán lìa.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát quan sát các hữu tình ở nơi ác đạo thấy nữ sắc đẹp sanh lòng tham thì phải phát khởi bốn ý tưởng chán lìa , đó là những ý tưởng thối thất ,té ngã , đi cầu tiêu và mủ chảy cứt thúi dơ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các hữu tình ở ác đạo mà có hiểu biết ,thấy nữ sắc đẹp còn phải có bốn ý tưởng như trên huống là loài người .
Nầy Xá Lợi Phất ! Các thiện nam tử ở Đại thừa, những người chán lìa tất cả pháp hữu vi khi thấy nữ sắc đẹp phát khởi bốn ý tưởng : Thối thất ,té ngã , đi cầu tiêu ,mủ cứt , nếu còn sanh lòng tham thì lại phải phát sanh ba ý tưởng thân thuộc, nếu bằng mẹ thì tưởng là mẹ, bằng chị em thì tưởng là chị em, bằng con cháu thì tưởng là con cháu.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát nghe Phật giảng dạy mà khéo hiểu được thì phải tùy thuận kinh điển Thi la Ba la Mật như vậy .Tại sao ? Vì khó có chúng
sanh nào từ đời lâu xa đến nay mà chẳng phải đã từng làm cha mẹ ta .Nếu gần kề thê thiếp nữ nhơn đó là gần kề người mẹ đời quá khứ vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nghe Phật giảng dạy rồi , đại Bồ Tát vì được thanh tịnh nên phải siêng tu học như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ngu phu trong đời trái nghịch chẳng tin chánh pháp ấy .Bồ Tát thì tùy thuận chánh pháp không trái nghịch.
Nếu ai đã tu hành chánh quán ấy mà tâm tham vẫn còn , thì phải theo đúng lý để quán sát tâm tham ấy thấy gì mà phát sanh.Nếu do nơi nhãn căn mà khởi tâm tham, lại phải theo đúng lý quán sát :
Ta do nhãn căn mà phát khởi ái nhiễm , vậy ai thấy được nhãn căn ? Có phải là nhãn căn thấy nhãn căn chăng , thế thì tự nó thấy nó cjhăng ? Tại sao ? Kia cũng là nhãn căn mà đây cũng là nhãn căn , đều do tứ đại tạo thành, lại do đại chủng sanh ra. Chẳng phải do tự thể kia ở nơi tự thể nầy mà sanh nhiễ ái , lại chẳng phải nơi tự thể ta mà sanh nhiễm ái . Tại sao ? Vì kia tức là đây vậy .Nếu ở nơi kia sanh nhiễm ái thì phải ở nơi đây sanh nhiễm ái .Tại sao ? Vì không sai khác vậy .
Phàm phu trong đời ngu si cùng chung trong
tham ái , ta phải cầu những pháp khác biệt họ. Tại sao ? Vì những cảm giác ái dục đều vô sở đắc vậy”.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằnh :
“Lẫn nhau đồng một thể
Đều không tánh sai khác
Do trái lý tà chấp
Phát khởi tâm tham ái
Sao do tứ đại sanh
Lại nhiễm được đại tạo
Các pháp dường như ảo
Không gì khởi tham ái
Ngu phu nhận biết sai
Vọng sanh lòng tham ái
Kẻ bất hiếu sanh tham
Người hiền thiện không ái
Khắp cả mười phương cõi
Không tìm được tham thiệt
Chỉ do nhận biết sai
Nên sanh lòng tham ấy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát quán sát như vậy rồi mà lòng tham ấy vẫn còn , lại phải tùy thuận kinh điển như vầy : Nhãn căn như khối bọt nước chẳng bốc nắm được .Tại sao ? Vì khối bọt nước chẳng bốc nắm được .Tại sao ? Vì khối bọt nước ất cũng như tất cả pháp đều không có ngã cũng không có tình , không có thọ giả, không tri giả, không kiến giả , không nhơn giả , không ý sanh, không tác giả , không thọ giả . Ở trong tất cả pháp vô tác vô thọ như vậy thì ai nhiễm ái được và nhiễm ái chỗ nào ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Nhãn căn như bóng nước chẳng cứng chắc .Tại sao ? Vì bóng nước cũng như tất cả pháp vốn không có ngã , không có tình, không thọ giả, không tri giả, kiến giả,không có nhơn , không tác giả , không thọ giả. Ở trong những pháp không tác không thọ như vậy ai nhiễm ái được , nhiễm ái chỗ nào ?
Nầy Xá Lợi Phật ! Nhãn căn như dương diệm do khát ái sanh như cây chuối chất chẳng cứng chắc , như cảnh mộng chẳng thiệt , như vang docác duyên , như bóng y nghiệp mà hiện , như áng mây bay tan, như chớp xẹt liền mất , như hu không rời ngã ngã sở , như cỏ cây đất đá vì là vô tri, như máy chuyển động theo gió ,như đống rác mục mau thúi rã , như giếng trên gò luôn gìa khô ,
nhãn căn chẳng còn lâu rồi sẽ chết hư vốn không ngã ,không tình
,không mạng ,không tri giả kiến giả , không nhơn ,không tác giả thọ giả ,ai nhiễm ái và nhiễm ái chỗ nào ?
Như nhãn căn ,
quán sát những căn những trần tất cả các pháp cũng theo đúng lý như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc đại Bồ Tát quán sát đúng lý như vậy mà còn bị các tham ái kéo dắt thì không bao giờ có.
Đại Bồ Tát chánh quán như vậy ,phải biết là rời hẳn tham ái đối với các pháp . Đây gọi là lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát diệt các tham ái trọn vẹn thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thật hành Thi la Ba la mật như vậy , đại Bồ tát chẳng là những nghiệp hại chúng sanh , dầu cho lúc mạng sống của mình bị đe dọa cũng chẳng làm tổn hại tất cả chúng sanh, chẳng làm những nghiệp trộm cướp ,tà hạnh, vọng ngôn , ác khẩu ,ly gián , ỷ ngữ ,chẳng sanh lòng tham,lòng sân
,tà kiến .Dầu cho mạng sống của mình bị đe dọa cũng chẳng phạm các điều ác ấy . Đây gọi là Thi la thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Do thật hành Thi la Ba la mật nên đại Bồ Tát đầy đủ vô lượng vô biên Phật Pháp.
Do thật hành Thi la Ba la mật nên đại Bồ Tát đầy đủ thành tựu Thi la chẳng khuyết ,vì chẳng gần kề kẻ vô trí vậy . Đầy đủ thành tựu Thi la chẳng lủng ,vì hay xa rời pháp bất bình đẳng vậy . Đầy đủ thành tựu Thi la chẳng lem, vì chẳng gần kẻ ác và các phiền não vậy. Đầy đủ thành tựu Thi la chẳng ô nhiễm ,vì chỉ do pháp lành làm tăng trưởng vâ(y. Đầy đủ thành tựu Thi la ứng cúng ,vì làm như sở nguyện vậy. ĐDầy đủ thành tựu Thi la khen ngợi ,vì chẳng bị người trí quở trách vậy. Đầu đủ thành tựu Thi la khéo giữ gìn, vì viên mãn chánh niệm và chánh tri kiến vậy. Đầy đủ thành tựu Thi la chẳng chê ,vì các lỗi lầm chẳng sanh vậy . Đầy đủ thành tựu Thi la khéo hộ trì , vì khéo phòng vệ các ăn vậy . Đầy đủ thành tựu Thi la cao rộng , vì được chư Phật nhớ biết vậy. Đầy đủ thành tựu Thi la thiểu dục ,vì biết lường vậy . Đầy đủ thành tựu Thi la tri túc ,vì dứt vui mừng vậy. Đầy đủ thành tựu Thi la chánh hạnh ,vì thân tâm xa rời vậy. Đầy đủ thành tựu Thi la tịch tĩnh ,vì chán phiền rộn vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thánh chủng thiện hỷ , vì chẳng mong chẳng đoái nhan sắc vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la công đức ít sự việc ,vì tự tại sanh trưởng các thiện căn vậy.Thành tựu đầy đủ Thi la làm đúng như lời , vì chẳng dối trới người thế gian vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la đại từ , vì chẳng hại mạng sống của tất cả vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la đại bi, vì nhịn chịu tất cả sự khổ vậy . Thành tựu đầy đủ Thi la đại hỷ, vì chẳng thối giảm nơi pháp lạc vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la đại xả , vì tất cả tham sân dứt sạch vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thường Xét lỗi mình, vì nội tâm thường khéo có soi xét vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng chê người kém khuyết vì khéo thuận hộ tâm chúng sanh vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la thành thục chúng sanh , vì rốt ráo hay đến thí Ba la mật vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la khéo thủ hộ, vì rốt ráo hay đến Giới Ba la mật vậy.Thành tựu đầy đủ Thi la không lòng ghét hại , vì rốt ráo đến Nhẫn Ba la mật vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la định phần viên mãn , vì rốt ráo đến Tĩnh lự Ba la mật vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chánh văn chẳng nhàm , vì rốt ráo đến Đại huệ Ba la mật vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thân cận thiện hữu, vì khéo tu tập Bồ đề phần tư lương vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la xa rời ác hữu ,vì vứt bỏ đạo bất bình đẳng vậy. Thánh tựu đầy đủ Thi la chẳng đoái luyến thân thể mình , vì hằng quán sát vô thường vậy.Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng đoái luyến mạng sống mình ,vì chẳng thường bảo thủ chỗ sở trọng của mình vậy. Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng sanh lòng ăn năn , vì lòng khéo thanh tịnh vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng dối hiện, vì phương tiện khéo thanh tịnh vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng não nhiệt ,vì ý tăng thượng khéo thanh tịnh vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng bồn chồn , vì rời xa các tham ái vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng cao mạn, vì hòa nhu chất trực vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la chẳng ngang ngược , vì tánh hiền thiện vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la khéo điều phục ,vì không giận hờn vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la tịch tĩnh ,vì tánh an nhiếp vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thiện ngữ , vì đúng như lời đã nói không trái nghịch vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thành thục hữu tình, vì thường chẳng bỏ rời các nhiếp pháp vậy .Thành tựu đầy đủ Thi la thủ hộ chánh pháp ,vì chẳng tự làm hư thánh pháp tài vậy .
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát trí huệ thanh tịnh giới tụ như vậy ,thành tựu đầy đủ Thi la Ba la mật , vì Vô thượng Bồ đề nên có thể khéo tu hành Bồ Tát diệu hạnh . Đây gọi là đại Bồ Tát Thi la Ba la mật.
Nếu chư đại Bồ Tát chuyên cần tu hành Bồ Tát hạnh nầy , thì tất cả chúng ma, ma dân , thiên ma chẳng nhiễu loạn được , lại chẳng bị dị đạo hay tha luận đè bẹp ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment