Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 96
PHÁP HỘI THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ
THỨ BA MƯƠI SÁU
PHẨM DUYÊN KHỞI
Như vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng Tỳ
Kheo sáu vạn hai ngàn người câu hội đều là bực Đại Đức có đủ thần thông, các bực đại Thanh Văn làm thượng thủ.
Còn có bốn vạn hai ngàn Bồ Tát ma ha tát, tên các Ngài là : Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Sư Tử Tràng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Biện Tụ Vương Bồ Tát ; Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát, Thiện Trượng Phu Bồ Tát, Tu Di Đảnh Bồ Tát, Tu Di Tràng Bồ Tát, Bất Khả Động Bồ Tát, Thiện Tư Nghĩa Bồ Tát, Thiện Tư Nghĩa Ý Bồ Tát, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Tư Tâm Bồ Tát, Dũng Ý Bồ Tát, Thiện Tư Bồ Tát, Bửu kế Bồ Tát, Sơn Tướng kích Vương Bồ Tát, Bửu Thủ Bồ Tát, Bửu Ý Bồ Tát, Bửu Ấn Thủ Bồ Tát, Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Thường Tinh Tiến Bồ Tát, Độ Chúng Sanh Bồ Tát, Thượng Tinh Tiến Bồ Tát, Như Ngôn Hành Bồ Tát, Thượng Nguyện Bồ Tát, Đăng Thủ Bồ Tát, Tâm Bình Đẳng Bồ Tát, Trừ Ác Đạo Bồ Tát, Trừ Chư Ưu Ám Bồ Tát, Bất Xả Trọng Đảm Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Nguyệt tạng Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Vô Biên Bộ Bồ Tát, Vô Lượng Bộ Bồ Tát, Bất Động Hành Bộ Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Thắng Ý Bồ Tát, Ích Ý Bồ Tát, Tăng Thượng Ý Bồ Tát, Thành Hạnh Bô Tát, Trì Địa Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, Nguyệt Tràng Bồ Tát, Quang Đức Bồ Tát, Minh Chiếu Bồ Tát, Dũng Bộ Bồ Tát, Sư Tử Phấn Tấn Hống Âm Bồ Tát, Vô Ngại Biện Bồ Tát, Tương Ưng Biện Bồ Tát, Thiệp Tật Biện Bồ Tát, Tối Thắng Bồ Tát, Ế Nhựt Nguyệt Quang Bồ Tát, Vô Phan Duyên
Bồ Tát, Vô Trước Ý Bồ Tát, Thường Tiếu Bồ Tát, Hỉ Căn Bồ Tát, Trừ Chư Chướng Cái Bồ Tát, Chuyển Nữ Thân Bồ Tát, Ma Ni Châu Bồ Tát, Đăng Minh Bồ Tát, Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát, Hỏa Diệm Bồ Tát, Chứng Thắng Vương Bồ Tát, Thâm Thuyết Giả Bồ Tát, chư đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.
Còn có Tứ Thiên Đại Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Ta Bà Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương cùng sáu vạn chư Thiên câu hội.
Còn có Thiện Trụ Ý Thiên Tử, Thiện Đức Thiên Tử, Đại Tự Tại Thiên Tử cùng ba vạn Thiên Tử câu hội. Chư Thiên Tử nầy đã an trụ lâu nơi Bồ Tát đạo.
Còn có hai vạn A Tu La Vương , La Hầu A Tu La Vương và Tu Di A Tu La Vương làm thượng thủ, cũng đã an trụ lâu trong Bồ Tát đạo.
Còn có sáu vạn đại Long Vương. A Na Bà Đạt Đa Long Vương và Thắng Nguyệt Long Vương làm thượng thủ , cũng đã an trụ Bồ Tát đạo.
Ngoài ra còn vô lượng chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già Ức trăm ngàn chúng,
nhẫn đến tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di vô lượng đại chúng đều đến tập hội.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn do vô lượng trăm ngàn đại chúng như vậy vây quanh lúc đang thuyết pháp, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở nơi thất của Ngài nhập tam muội tên Vô Tránh trừ Tâm yên lặng bất động. Văn Thù Sư Lợi nhứt tâm an tường từ tam muội dậy, liền đó vô lượng vô biên thế giới chấn động sáu cách.
Văn Thù Sư Lợi khởi tam muội rồi suy nghĩ rằng : Trong vô lượng vô biên thế giới ấy mới có một Phật Như Lai xuất thế như hoa ưu đàm ít khi xuất hiện. Chư Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác như vậy rất hi hữu rất khó xuất hiện, pháp được nói ra dứt hết sanh tử tịch diệt Niết bàn chẳng thể nghĩ lường, không có phân biệt rất sâu không thể dụ khó hiểu khó biết. Nhưng vì chư Phật chẳng xuất thế thì chẳng được nghe. Vì chẳng được nghe pháp nên chúng sanh khổ khó cùng tận được.. Nay tôi nên đến chỗ đức Như Lai để hỏi nghĩa ấy. Do hỏi nghĩa ấy mà khiến các chúng sanh thành tựu thiện căn , cũng làm cho tất cả người hành Bồ Tát đạo ở nơi các Phật pháp thậm thâm bất tư nghì nghĩa ấy không còn nghi hoặc và đều thành mãn Phật Bồ đề sự. Nhưng các chúng sanh ở thế giới Ta Bà nầy nhiều tham dục sân khuể ngu si dứt pháp lành ngoan độn dối trá không có tàm
sĩ ngã mạn cống cao xa rời chư Phật trái pháp chống Tăng khiến họ được nghe diệu pháp thậm thâm như vậy để họ được trí nhãn thanh tịnh. Nay tôi còn phải vân tập chúng bồ Tát mười phương để đều được nghe đức Như Lai nói pháp môn vi diệu ấy mà chứng thâm pháp nhẫn.
Suy nghĩ như vậy rồi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền nhập tam muội tên Phổ Quang vô cấu trang nghiêm phóng đại quang minh chiếu Đông phương hằng hà sa Phật độ cũng chiếu cả Nam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hằng hà sa Phật độ, trong ấy bao nhiêu chỗ u ám ẩn khuất gộp núi rừng cây các núi lớn nhỏ như Mục Chơn Lân Đà Sơn, Ma Ha Mục Chơn Lân Đà Sơn, Thiết Vi Sơn, Đại Thiết Vi Sơn và các Hắc Sơn, Tu di Sơn, Đại Tu Di Sơn, quang minh ấy chiếu suốt không chướng ngại.
Nơi hằng hà sa thế giới mười phương ấy, hiện có Phật thuyết pháp, đệ tử thị giả đều bạch hỏi Phật mình về nhơn duyên có đại quang minh như vậy : « Bạch đức Thế Tôn ! Nhơn duyên gì mà có đại thoại quang minh như vậy hiện ra thế gian. Bạch Thế Tôn ! Tôi từ xưa chưa từng nghe thấy quang minh như vậy thanh thịnh vi diệu. Bạch Thế Tôn ! Đó là quang
minh gì mà làm cho chúng tôi rất hoan hỉ tâm được thanh tịnh cũng khiến các chúng sanh
không còn tham sân si các ác phiền não. quang minh nầy ai làm ra ai gia trì nó mà chiếu đến đây ? ”.
Thập phương chư Phật kia im lặng không đáp.
Lúc ấy tất cả âm thanh trong thập phương thế giới, những là thiên âm
thanh, long âm thanh đến bát bộ chúng âm thanh, nhơn phi nhơn âm thanh, tượng mã các loài thú
điểu v.v… đều ngưng bặt. Tất cả âm thanh của gió lửa sóng nước âm nhạc ca vịnh do thần lực của Phật lúc ấy đều ngưng bặt.
Các đệ tử thị giả lại bạch chư Phật mình : “Bạch Thế Tôn ! Ngưỡng mong đại từ vì thương xót tất cả Thiên Nhơn, vì an lạc tất cả Thiên Nhơn, vi lợi ích tất cả Thiên Nhơn mà vì chúng tôi tuyên nói quang minh ấy từ đâu chiếu khắp các Phật độ ”.
Bấy giờ thập phương chư Phật liền dừng tất cả Phật thanh trong hằng hà sa thế giới đều đồng phạm âm như một miệng Như Lai tuyên nói, sự việc được nói cũng không
sai khác đều đồng báo cáo với thị giả của mình . Đương lúc chư Phật phát thanh báo cáo thì tất cả thế giới chấn động sáu cách, trăm ngàn kỹ nhạc đồng thời trổi lên, tất cả âm nhạc của Thiên Long Bát Bộ chẳng đánh mà tự kêu. Trong tất cả tiếng nhạc ấy đều phát ra pháp âm : đó là tiếng vô thường, tiếng khổ, tiếng vô ngã, tiếng không vô tướng vô nguyện, tiếng ly dục, tiếng giải thoát, tiếng pháp giới, tiếng như như, tiếng thiệt tế, tiếng Đàn Ba la mật Thi Ba la mật Nhẫn Ba la mật Tiến Ba la mật Thiền Ba la mật Bát Nhã Ba la mật, tiếng đại từ bi hỉ xả, tiếng hòa hiệp, tiếng lợi ích, tiếng xuất ly, phát ra tiếng trăm ngàn Phật pháp như vậy. Lúc pháp âm phát
xuất như vậy, có vô lượng a tăng kỳ ức na do tha trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Bồ đề và đều an trụ bất thối chuyển, cũng có người thành Bích Chi Phật, thành Thanh Văn,
thành Phạm Vương, Đế Thích, Chuyển Luân Vương.
Thập phương chư Phập đều bảo đệ tử của mình rằng : “Nầy thiện nam tử ! Ông chớ thỉnh hỏi sự ấy. Tại sao ? Vì nhơn duyên quang minh ấy chẳng phải cảnh giới của hàng Thanh Văn
Bích Chi Phật, nếu nay ta nói thì thế gian, Trời Người Bát Bộ sẽ mê muội. Vì vậy mà ông chớ nên thỉnh hỏi sự ấy. Chư Phật Thế Tôn nếu nói nhơn duyên của quang minh ấy thì hay sanh và thành
tựu bất khả tư nghị các thắng thiện căn. Cũng do bất tư nghị các thắng thiện căn mà xuất sanh những hạnh Ba La mật bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn, thiền định trí huệ. Các hạnh như vậy chính là do quang
minh ấy xuất sanh và thành tựu. Chư Phật chúng ta hoặc một kiếp hay giảm một kiếp nói khen công đức quang minh ấy cũng chẳng cùng tận. Lại đem các thiện căn lực từ bi hỉ xả như vậy cùng chung huân tu khiến quang minh ấy hay sanh hoan hỉ ».
Thị giả đệ tử của chư Phật mười phương lại hai ba phen ân cần thưa thỉnh : « Ngưỡng mong đức Thế Tôn vì thương xót hàng Thiên Nhơn, vì an lạc hàng Thiên Nhơn, vì lợi ích hàng Thiên Nhơn, vì thành thục các thiện căn cho chư Bồ Tát mà vì chúng
tôi nói nhơn duyên của quang minh ấy ». Chư Phật thập phương đều bảo chư thị giả : « Thiện nam tử ! Ông nên lắng nghe sẽ vì ông mà nói.
- Vâng bạch đức thế Tôn Nguyện thích muốn nghe.
Chư Phật thập phương đều bảo thị giả mình rằng : « Nầy thiện nam tử ! Có thế giới tên Ta Bà, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện đời ngũ trược. Chúng sanh cõi ây phần đông có tham dục sân khuể ngu si phiền não khổ bách không cung kính chẳng tàm sĩ làm nhiều sự bất thiện. Đức Phật ấy hay ở đời ngũ trược như vậy thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện tại thuyết pháp cho đại chúng tại đó. Phật Thích Ca Mâu Ni
có một đại đệ tử Bồ Tát Ma Ha Tát tên Văn thù Sư Lợi có đại công đức đủ đại trí huệ tinh tiến dũng mãnh có oai
thần lớn, hay khiến chư Bồ Tát hoan hỉ, hay khiến chư Bồ Tát đầy đủ tu hành, hay khiến chư Bồ Tát tăng trưởng oai lực, hay khiến chư Bồ Tát phát cần dũng mãnh, hay
khéo phân biệt tất cả pháp cú, hay đạt vô ngại trí huệ Ba La mật, hay đầy đủ vô ngại biện tài, nơi các đà la ni được tự tại, đã hoàn toàn thành mãn tất cả Bồ Tát công đức bất tư nghị. Nay Bồ Tát ấy sắp muốn thỉnh hỏi Thích Ca Mâu Ni
Như Lai pháp môn thậm thâm để chư Bồ Tát thiện căn thành thục để hành bồ Tát thừa đầy đủ các Phật pháp bất tư nghị ấy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát phóng quang minh nầy là muốn vân tập a tăng kỳ các chúng Bồ Tát ở thập phương thế giới để cho chư Bồ Tát được thắng pháp, do đó mà Bồ Tát ấy phóng đại quang minh chiếu các Phật độ như vậy ».
Chư thị giả lại bạch hỏi Phật mình rằng : « Văn thù Sư Lợi Bồ Tát ấy trụ tam muội nào để phóng đại quang minh nầy ? ».
Chư Phật mười phương đều bảo thị giả mình : « Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ấy nhập tam muội tên Phổ Minh vô cấu trang nghiêm mà phóng quang minh ấy ».
Chư thị giả bạch Phật mình : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi chưa bao giờ được thấy quang minh như vậy, rất thanh tịnh hay khiến thân tâm hoan hỉ ! ».
Chư Phật lại bảo thị giả mình : « Phải chăng chư Bồ Tát ấy muốn dạy chư Bồ Tát khởi tu hành , phải chăng Bồ Tát ấy muốn vân tập chúng Bồ Tát, phải chăng chư Bồ Tát ấy muốn vân tập chúng Bồ Tát để tuyên nói kinh điển vi diệu như thế nầy !’’.
Bấy giờ vô lượng bất tư nghị hằng hà sa thế giới, trong mỗi thế giới có vô lượng a tăng kỳ chúng
Bồ Tát đều đến chỗ Phật mình mà bạch hỏi nhơn duyên quang minh ấy và đều mong muốn đến thế giới Ta Bà để được lễ kính Phật Thích Ca Mâu Ni và nghe Phật thuyết pháp cùng được thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và chúng hội Bồ Tát ! Chư Phật đều bảo chúng Bồ Tát mình : « Chư thiện nam tử ! Muốn đi thì tùy ý, nay đã phải lúc ».
Mười phương vô lượng vô số bất tư nghị bất khả kế bất khả xưng bất khả lượng ức na do tha bá thiên tần bà la chư đại Bồ Tát liền ẩn nơi thế giới mình, rồi như trong thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, hiện ra tại thế giới Ta Bà đến trước Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Trong lúc ấy có vị mưa các thứ hương : hương xua, hương bột, hương kết thành vòng. Có vị mưa các thứ hoa vi diệu : hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lị, hoa chiêm ba ca ,
hoa ba tra lợi, hoa đà lô ca lợi, hoa a tha mục đa ca, hoa tô ma đa, hoa bà lợi sư ca, hoa mạn đà la, hoa ma ha
mạn đà la, hoa ba lô sa, hoa ma ha ba lô sa, hoa chiên đà la, hoa
ma ha chiên đà la, hoa vi diệu chiên đà la, hoa chước ca la, hoa ma ha
chước ca la, hoa tối diệu chước ca la, các thứ vòng hoa. Có vị phát xuất trăm ngàn âm thanh thượng diệu. Có vị dùng một âm thanh vang khắp cõi Đại Thiên ca tụng công đức của Phật. Chư Bồ Tát mười phương dùng nhiều thứ trang nghiêm như vậy mà đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni
Như Lai .
Lúc chư Bồ Tát mười phương vân tập nơi Ta Bà thế giới nầy, các chúng sanh địa ngục súc sanh ngạ quỉ đều yên tĩnh thân tâm
an lạc không có tham dục sân não ngu si, đều sanh lòng từ hoàn toàn hoan hỉ. Tại sao ? Vì do thần lực của chúng Bồ Tát mười phương khiến có sự như vậy.
Chúng Bồ Tát mười phương đến lễ chưn đức Thích Ca Mâu Ni
Như Lai hữu nhiễu ba vòng ở trên hư không nhập tam muội tên là Bồ Tát ẩn thân. Nhập tam muội rồi tùy ý sanh ra vô lượng trăm ngàn các thứ hoa sen lớn màu sắc vi diệu, kiết già ngồi lên trên và đều ẩn thân chẳng còn hiện.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp thấy sự đại thần thông hiện thoại tướng hi hữu thù đặc ấy, lại thấy mưa to hương và hoa, cũng nghe vô lượng âm nhạc, cũng thấy phóng đại quang minh, cũng thấy khắp cõi Đại Thiên đều mưa diệu hoa đầy đến gối, cũng thấy Thiên Long Bát Bộ và chúng Tỳ Kheo Tỳ
kheo Ni Ưu Bà Tắc Ưu Bà Di tất cả đều thành tựu thân tướng kim sắc, liền đứng dậy giữ đúng oai nghi trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính nói
kệ khen Phật rằng :
« Hoan hỉ thương ban tất cả vui
Dung nhan viên mãn vô cấu tịnh
Thập lực hùng mãnh các đại nhơn
Đầy đủ kim cương tướng trăm phước
Đi trong tam giới khắp Nhơn Thiên
Tất cả không ai bằng Phật được
Chẳng thể nghĩ bàn khó đo lường
Ngưỡng mong dứt trừ lòng tôi nghi
Quá na do tha trăm ngàn kiếp
Thường làm Bố thí nhiếp thế gian
Lìa xa chấp trước vô sở y
Trì đủ cấm giới không ai sánh
Nhẫn nhục hoàn tòan siêu thế gian
Trong tất cả lực thập lực nhứt
Công đức đầy đủ không ai hơn
Ngưỡng mong dứt hẳn lòng tôi nghi
Quá trăm ngàn kiếp tu các hạnh
Bởi thấy chúng sanh thọ nhiều khổ
Dũng mãnh tinh tiến trọn không mõi
Thường sanh vô lượng lòng hoan hỉ
Đầu mắt óc tủy đem cho người
Xả bỏ con cái và thê thiếp
Chán lìa quốc thành và tư cụ
Ngưỡng mong cởi mở lưới nghi tôi
Thuở xưa Thế Tôn lúc bố thí
Voi ngựa xe cộ nhiều vô số
Quá na do tha thượng y phục
Với lòng hoan hỉ cho thế gian
Thế Tôn thường dùng lòng thí trước
Ban cho đồ vật và trân bửu
Uống ăn thuốc men và ruộng nhà
Vì thế nên nay tôi thưa hỏi
Xưa Phật cắt thân và mũi tai
Trong lòng tươi vui không chút hận
Có ai hỏi pháp liền tuyên dạy
Còn hay nói khéo sức nhẫn nhục
Do vì thâm đạt pháp không sâu
Tâm ý vi diệu khó cân lường
Người hay ban vui đủ công đức
Vì thế nay tôi hỏi thanh tịnh
Phiền não hết lâu khổ đều trừ
Thấy nhiều chúng sanh chìm biển khổ
Hạng si ngu bị tối tâm che
Sanh lòng phiền não chấp ngã nhơn
Phật thương chúng sanh khởi lòng từ
Quá trăm ngàn kiếp siêng tu hành
Khai phát chánh giác Bồ đề đạo
Ngưỡng mong dứt trừ lòng tôi nghi
Khéo hay xuất nhập môn thần thông
Ẩn hiện tự tại đi đứng khéo
Chứng được vô ngã phá ngã tướng
Hủy hoại các pháp cũng chẳng không
Phật ở trong đời không nhiễm trước
Chơn thiệt chánh hạnh và chánh tư
Vi diệu tịch diệt rời phiền não
Ngưỡng mong vì tôi quyết nghi nầy
Thế Tôn thuở xưa lúc tu hành
Thí giới nhẫn tiến không tạm bỏ
Thiền định trí huệ cũng thường tu
Lợi ích quần sanh không ai sánh
Các công đức tụ khó nghĩ lường
Sâu lớn như biển không cùng tận
Khéo hay qua lại cũng khéo dừng
Ngưỡng mong vì tôi làm
chỗ nương
Thuở xưa đức Phật tu đại từ
Chim câu sợ cầu cứu không bỏ
Lốc thịt đem cân không tiếc thân
Trao cho chim ưng thế chim nhỏ
Toàn thân lên cân mong bằng chim
Mà chim câu kia vẫn nặng hơn
Đấng sáng suốt lớn làm hạnh từ
Ngưỡng mong vì tôi quyết nghi hoặc
Tu Di dao động tinh tú rơi
Cung điện chư Thiên đều sụp hư
Nước bốn biển cả một buổi khô
Cung A Tu La ở trên trời
Giả sử mặt nh ựt rớt xuống đất
Chư Phật Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn
Trăng sáng trên không bỗng tối đen
Tuyên dạy chơn thành không sai
khác ».
Nói kệ khen Phật xong, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lại bạch :
« Bạch đức Thế Tôn ! Tại sao thế gian có quang minh vi diệu nầy lại do cớ gì bỗng hiện nhiều thoại tướng chưa từng có ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Ma ha Ca Diếp ! Nay ông chớ nên gạn hỏi sự ấy. Tại sao ? Vì cảnh giới như vậy chẳng phải hàng Thanh Văn
Duyên Giác biết được. Nếu nay ta vì ông mà
nói nghĩa của quang minh ấy thì tất cả thế gian Trời Người sẽ kinh nghi mê một. Vì vậy mà ông chớ nên hỏi ”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lại bạch thỉnh: Duy nguyện đức Thế Tôn đại từ thương xót hàng Trời Người vì lợi ích cho tất cả, vì an lạc cho tất cả mà nói nhơn duyên thậm thâm của quang minh ấy cho tôi được hiểu”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Ông phải lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà nói ”.
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : “ Lành thay, bạch đức Thế Tôn ! Tôi xin thích muốn được nghe, mong đức Thế Tôn thương xót diễn bày”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Nay Văn Thù Sư Lợi của ta nhập Phổ Minh vô cấu trang nghiêm tam
muội, do sức tam muội ấy phóng quang minh như vậy chiếu khắp mười phương quá hằng sa Phật độ để vân tập vô lượng vô biên bất khả số bất khả lượng vô số chư đại Bồ Tát đến thế giới Ta Bà nầy. Chúng Bồ Tát ấy đã đảnh lễ chưn ta hữu nhiễu ba vòng rồi ở hư không cao một cây đa la và đều ngồi kiết già trên tòa đại liên hoa của họ hiện ra”.
Tôn giả lại bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay có những đại Bồ Tát nào dùng sức công đức oai thần mưa các thứ hương các thứ hoa vi diệu và phát xuất trăm ngàn âm nhạc như vậy ?”.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Đó là sức oai thần của chúng đại Bồ Tát ở mười phương vân tập đến làm mưa vô lượng hoa hương vi diệu và khắp hư không phát xuất trăm ngàn âm nhạc”.
Tôn giả lại bạch rằng :“ Bach đức Thế Tôn ! Nay tôi chẳng thấy một người nào, sao đức Thế Tôn dạy rằng có chúng đại Bồ Tát mười phương vân tập ngồi kiết già trên tòa đại liên hoa ở trên hư không ?
Đức Phật phán dạy : “ Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Tất cả hàng Thanh Văn Bích Chi Phật trọn chẳng thấy được chúng đại Bồ Tát ấy. Tại sao ? Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Vì hàng Thanh
Văn Duyên Giác ở nơi đại từ bi chẳng phải là chỗ an trụ của họ. Nếu có thể an trụ trong đại từ bi thì có thể làm những sự lợi tha, cũng hay làm
bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tiến thiền định tríhuệ các Ba la mật. Nếu người đã thọ chánh vị thì trọn chẳng thể làm được chỗ mà chư đại Bồ Tát làm.
Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Chư đại Bồ Tát nầy đều nhập ẩn thân tam muội nên tất cả Thanh Văn và Bích
Chi Phật chẳng thấy được vậy. Chỉ trừ chư Phật và chư đại Bồ Tát trụ trong địa ấy mới thấy được. Hàng Bồ Tát sơ trụ Đại thừa còn chẳng thấy được huống là Thanh Văn và Duyên Giác mà có thể thấy ».
Tôn giả bạch rằng : « Bạch đức thế Tôn ! Đại Bồ Tát có đủ bao nhiêu pháp, tu thiện căn nào được công đức gì mà nhập được ẩn thân tam muội ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Đại Bồ Tát thành tựu mười pháp thì có thể được ẩn thân tam muội ấy.
Một là chí tánh hòa
nhu thâm trụ chánh tín. Hai là hằng chẳng bỏ rời tất cả chúng sanh. Ba là rốt ráo thành mãn tâm đại từ bi. Bốn là giác liễu tất cả chẳng chấp trước các tướng. Năm là dầu suy nghĩ mong cầu tất cả Phật pháp mà chẳng vọng nắm lấy. Sáu là chẳng tư tưởng đến trí của tất cả Thanh Văn Bích chi Phật. Bảy là tất cả sở hữu thế gianđều có thể xả thí hết, nhẫn đến thân mạng còn không lẫn tiếc huống là các vật khác mà chẳng thí xả. Tám là dầu hành vô lượng sanh tử phiền não mà chẳng nhiễm trước các hạnh hữu vi. Chín là thường tu vô lượng bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tiến thiền định trí huệ mà chẳng phân biệt các Ba la mật. Mười là thường sanh tâm như vầy : Tôi sẽ an lập tất cả chúng sanh nơi Bồ đề rồi tôi mới ngồi dưới cội Bồ đề nhưng chẳng nắm lấy tướng Bồ đề và tướng chúng sanh.
Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Đó là mười pháp mà đại Bồ Tát thành tựu thì hay được ẩn thân tam muội »
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lại bạch rằng : « Hi hữu Thế Tôn tuyên nói sự ấy rất hay. Bạch đức Thế Tôn !
Tất cả Thanh Văn và Bich Chi Phật còn chưa từng phát tâm như vầy một lần : Tôi sẽ an trí chúng sanh nơi A La Hán địa, huống là Phật địa ư !
Đức Phật phán dạy : « Đúng như lời ông nói. Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Vì lẽ ấy nên tất cả Thanh Văn Duyên
Giác đều không nhận được ẩn thân tam muội của Bồ Tát. Với tam muội nầy, họ còn chẳng biết huống là nhập được ».
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay chúng rất mong được thấy chư Đại Bồ Tát ấy. Tại sao ? Vì chư Đại Sĩ ấy rất khó được gặp ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Ma Ha Ca Diếp ! Ông nên ở đó cần phải chờ Văn thù Sư Lợi ta đến đây, chư đại Bồ Tát ấy sẽ xuất định rồi sau các ông mới thấy họ.
Tuy nhiên ông cũng được vô lượng môn tam muội, nay ông nên nhiếp tâm tìm cầu chư đại Bồ Tát ấy ở chỗ nào, trụ oai nghi gì, làm sự nghiệp gì ? ».
Được đức Phật phán dạy, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp thừa oai thần của Phật và sức thần thông của mình nhập hai vạn môn tam muội để xét tìm chư đại Bồ Tát ấy nay ở chỗ nào trụ oai nghi gì có phải đang bước đi chăng, đang đứng chăng, đang nằm dựa chăng, đang ngồi yên chăng ? Cũng
đều chẳng thấy. Nhẫn đến cũng chẳng biết nói gì làm gì từ đâu đến và đi đến đâu. Tôn giả xuất định đến bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Rất lạ rất lạ, tôi đã trải qua hai vạn môn chánh định tìm chư đại Bồ Tát ấy mà trọn chẳng thấy. Bạch đức Thế tôn ! chư đại Bồ Tát ấy còn chưa chứng biết chỗ tát bà nhã mà đã được tam muội vi diệu như vậy, huống là sẽ chứng Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Các thiện nam tử thiện nữ nhơn nào được thấy nghe thần biến nầy mà chẳng mau phát tâm Vô
thượng Bồ đề thì chẳng bao giờ có.
Bạch đức Thế Tôn ! đại Bồ Tát hay được ẩn thân tam muội như vậy vì muốn độ các chúng sanh mà mặc áo giáp tinh tiến, nhưng trọn chẳng được lìa chánh định vi diệu ấy’’.
Đức Phật phán dạy : « Đúng như vậy. Đúng như lời ông nói. Trong đây còn chẳng phải cảnh giới của Thanh Văn, Duyên Giác huống là chúng sanh khác ».
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ rằng : Đức Thế Tôn khen tôi là trí huệ đệ nhứt trong hàng Thanh Văn, nay tôi nên tìm xem chư Bồ Tát ấy ở đâu trụ oai nghi gì và làm gì ? Nếu thấy được há chẳng hay lắm ư !
Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ như vậy rồi thừa oai thần của Phật và sức thần thông của mình liền nhập ba vạn môn tam muội suy tìm khắp nơi mà trọn chẳng thấy.
Bấy giờ Tôn giả Tu Bồ Đề nghĩ rằng : nay tôi cũng tìm xem chư đại Bồ Tát ấy ở đâu và đang làm gì
? Nếu thấy được thì hay lắm. Nghĩ như vậy rồi Tôn giả liền nhập bốn vạn môn tam muội tìm khắp mọi nơi mà trọn chẳng thấy. Tôn giả xuất định đến đảnh lễ bạch đức Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai thọ ký tôi là được vô tránh tam muội đệ nhứt trong hàng Thanh
Văn. Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lúc tôi nhập định ấy, giả sử có đại thần lực hay đem trăm ức tứ thiên hạ hiệp làm một cái trống lớn, lấy tòa núi Tu Di làm một cái dùi lớn rồi sai một người to lớn đứng trước tôi cầm dùi ấy khua đánh trống lớn ấy không tạm dùng đến cả kiếp, tiếng trống như vậy cón chẳng lọt vào tai tôi huống là có thể làm loạn tâm tôi khíến tôi xuất định. Nay tôi được chánh định vô tránh rộng lớn như vậy mà tôi trải qua bốn vạn môn tam muội, tìm cầu cùng khắp mà trọn chẳng thấy chư đại Bồ Tát ấy, nhẫn đến chẳng thấy một người tạm thời vãng lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Chư đại Bồ Tát nguyện cầu trí bất tư nghị như vậy nên vì mỗi mỗi chúng sanh mà các
Ngài sanh trong địa ngục cả hằng hà sa kiếp chịu đủ mọi thống khổ. Vì cầu Bồ Tát đạo nên dầu chịu nhiều thống khổ mà các ngài chẳng bỏ rời trí thậm thâm bất tư nghị ấy
Bạch đức Thế Tôn ! Ngày nay nếu tôi tâm hữu lậu chưa hết chưa được giải thoát, nơi Phật pháp có chỗ chưa biết thì khiến tôi ở đương lai thường tại sanh tử chẳng bỏ rời Đại thừa vi diệu bất tư nghị ấy ».
Đức Phật khen Tôn giả Tu Bồ Đề : « Lành thay, lành thay ! Thiệt như lời ông nói. Ông do nơi tín tâm mà nói như vậy, khiến thân nầy của ông chẳng lấy Niết bàn, do công đức nầy đương lai quá hằng sa kiếp, ông sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương dùng chánh pháp trị đời rồi sau sẽ thành Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề ! Nay trong tam thiên Đại Thiên thế giới nầy các số loại chúng sanh chừng có nhiều chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Rất là nhiều.
- Nầy Tu Bồ Đề ! Giả thử chúng sanh ấy thành tựu trí huệ như Xá Lợi Phất, giải không đệ nhứt như Tu Bồ Đề, khổ hạnh siêu luân như Đại Ca Diếp, tất cả cùng chung tri kiến tìm cầu chư đại Bồ Tát ấy hoặc một kiếp trăm kiếp ngàn kiếp đến vô lượng hằng sa kiếp cũng chẳng thấy được. Tại sao ? Vì chỗ làm của chư đại Bồ Tát ấy chẳng phải cảnh giới sở hành của tất cả Thanh Văn và Bích
Chi Phật, vì thế nên hàng Nhị thừa trọn chẳng thấy được”.
Lúc nói pháp nầy trong hội có tám vạn bốn ngàn Thiên Nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề. Cõi Đại Thiên chấn động sáu cách.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại tư thất nghĩ rằng : Nay mười vạn ức trăm ngàn số chư đại Bồ Tát mười phương đều đã tập hợp, tôi sẽ lại triệu đại chúng chư Thiên đều vân tập.
Nghĩ như vậy xong, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền dùng thần lực như ý hóa làm tám vạn bốn ngàn ức na do tha diệu bửu liên hoa lớn như bánh xe, thuần kim làm cọng, bạch ngân làm cánh hoa, màn lưới bằng thắng tạng tì lưu ly bửu. Trong hoa ấy đều có Hóa Phật và chư Bồ Tát ngồi kiết già trên liên hoa
đài thân màu tử kim đủ ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo, oai đức nguy nguy quang
minh phổ chiếu. Các bửu liên hoa ấy bay lên trời Tứ Vương, trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa và các Phạm Thiên đến trời Hữu Đảnh, khắp Đại Thiên thế giới không chỗ nào không có bửu liên hoa ấy bay đến.
Chư Hóa Phật và chúng Hóa Bồ Tát ấy phát thanh lớn tuyên cáo khắp Đại Thiên thế giới với kệ rằng:
“ Thế Tôn mặt trời huệ
Hi hữu xuất thế gian
Ví hoa ưu đàm kia
khó gặp còn hơn hoa
Thích sư tử nhơn hùng
Nay xuất hiện thế gian
Ban tuyên pháp thâm diệu
Dứt hẳn nguồn thống khổ
Chư Thiên dầu khoái lạc
Ai bảo đảm lâu dài
Theo nghiệp vào tam đồ
Trở lại thọ nhiều khổ
Quen làm các dục lạc
Riêng tăng trưởng tham ái
Tam giới vốn không vui
Mà kẻ ngu tham trước
Đã gặp sự khó gặp
Đó là Phật xuất thế
Người ngu si phóng dật
Dầu biết khổ chẳng dứt
Các người nên mau cầu
Thấy Phật nghe chánh pháp
Nếu Phật Niết bàn rồi
Dầu ăn năn đâu kịp
Lưới ma rất đáng sợ
Các người mãi phóng dật
Đã bị nó phủ trùm
Đâu có kỳ giải thoát
Riêng có cầu Phật pháp
Các người giúp chúng sanh
Các người phải mau cầu
Ba mươi hai diệu tướng
Phật hay cứu thế gian
Chỗ khác không nương được
Thế Hùng rất hi hữu
Đại từ khó nghĩ lường
Vô lượng ức số kiếp
Chỗ làm chẳng lường được
Họp công đức trí huệ
Thành tựu Thích Sư Tử
Xiển dương pháp vi diệu
Thậm thâm khó hiểu biết
Chỗ nào có chúng sanh
Và ngã nhơn thọ mạng
Phá thường kiến như vậy
Dứt hẳn không còn thừa
Phóng xả tất cả tướng
Vì chúng sanh thuyết pháp
Tuyên rõ chơn thiệt tế
Thế gian tuyệt tâm hành
Chỉ không vô tướng kia
Vô nguyện cũng vô tác
Hư Không vốn vô hình
Chẳng khởi cũng chẳng diệt
Vô lai cũng vô khứ
Lời nói của người trí
Vô tận và vô sanh
Bổn tịnh vô sở hữu
Không tướng mạo thấy được
Không tư tưởng nói được
Chúng sanh vốn vô sanh
Sao nói được là chết
Tịch diệt không chúng sanh
Chúng sanh ở chỗ nào
Lời nói để thuyết pháp
Pháp chẳng tại lời nói
Cũng chẳng ở văn tự
Thế Tôn nói như vậy
Các chỗ khắp tìm cầu
Chẳng thấy phong thủy hỏa
Địa cũng vô phân biệt
Huệ nhãn tuyên rõ đó
Sắc thọ và cùng tưởng
Hành thức đồng hư không
Giả nói là ngũ uẩn
Kỳ thiệt không tích tụ
Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân
Tâm ý cả sáu căn
Dầu nói bổn tánh không
Không cũng bất khả đắc
Sắc thanh hương vị xúc
Và cùng các thứ pháp
Đều do phân biệt sanh
Phân biệt thể không tịch
Dục giới và Sắc giới
Cùng trời Vô Sắc kia
Đều nói như huyễn hóa
Hư ngụy chẳng chơn thiệt
Các Thế Tôn như vậy
Vì chúng sanh thuyết pháp
Muốn cầu thoát các khổ
Mau qui Đại Đạo Sư ».
Lúc chư Hóa Phật tuyên cáo như vậy, khắp Đại Thiên thế giới đều được nghe, có chín mươi sáu ức chư Thiên cõi dục xa trần lìa cấu được pháp nhãn thanh tịnh, hai vạn thiên tử chán lìa dục nhiễm, ba vạn hai ngàn thiên tử đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn thiên tử tu Bồ Tát thừa được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ vô lượng vô biên a tăng kỳ
ức na do tha trăm ngàn chư Thiên đại chúng được Hóa Phật tuyên triệu trong giây lát đều vân tập trước đức Thích Ca Mâu Ni
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng rồi lui ở một phía đem các thứ hoa hương cõi trời, những là hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la, hoa ma ha
mạn đà la và các vòng hoa, cùng hương bột hương thoa phụng rải lên đức Thế Tôn và chúng hội để cúng dường. Còn dùng các thứ âm nhạc cõi trời ca vịnh khen ngợi đầy khắp hư không.
Lúc nầy đại chúng vân tập quá đông khó tính kể được đầy chật cả tứ thiên hạ không có một chỗ trống nào bằng đầu gậy. Chư Thiên Nhơn ấy đủ đại oai đức, hoa trời được rải đầy khắp tứ thiên hạ đầy đến gối.
PHẨM KHAI TRIỆT NGHĨA
Trong chúng đại tập bấy giờ có các vị trời thượng thủ đó là Thiện Trụ Ý Thiên Tử, Thiện Tịch Thiên Tử, Tàm Quý Thiên Tử, cùng chín mươi sáu ức chư Thiên Tử như vậy câu hội, tất cả đều hành đạo Bồ Tát, đều cùng đến chỗ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đến ngoài cửa thất bửu nhiễu bảy vòng rồi rải hoa trời mạn đà la che khắp hư không cao mười do tuần thành lưới hoa hình như bửu tháp. Ngài Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát cầm hoa đài nầy cúng dường đức Thế Tôn, cúng dường xong, Ngài dùng
thần lực khiến Đại Thiên thế giới trong tất cả quốc độ hư không lưới hoa giăng khắp, quang minh của hoa ấy chiếu khắp cõi Đại
Thiên đều rất chói sáng lại còn mưa thêm hoa trời mạn đà la.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nhàn nhã an tường ra khỏi tư thất lại dùng thần lực khiến chỗ đất của Ngài ở tự nhiên có tòa thất bửu vi diệu, tòa ấy cao vọi đầy đủ trang nghiêm, Ngài
liễm dung chỉnh y phục lên ngồi trên bửu tòa ấy.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lên ngồi bửu tòa xong liền đến đảnh lễ chưn Bồ Tát rồi lui ở một phía. Tất cả chư Thiên Tử cũng đều đảnh lễ chưn Bồ Tát.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát suy nghĩ rằng : Hôm nay ai là
người có thể ở trước đứcThế Tôn cùng tôi hỏi đáp về pháp thậm thâm, ai là pháp khí có thể nhận câu bất tư nghị ấy, câu rất khó chứng, câu không xứ sở, câu vô sở trước, câu vô hí luận, câu bất khả đắc, câu bất khả thuyết,, câu thậm thâm, câu chơn thiệt, câu vô ngại, câu bất khả hoại, câu không, câu
vô tướng, câu vô nguyện, câu như như, câu thiệt tế, câu pháp giới, câu vô hình mạo, câu bất thủ, câu bất xả, câu Phật, câu Pháp, câu
Tăng, câu trí huệ mãn túc, câu tam giới bình đẳng, câu nhứt thiết pháp vô sở đắc, câu nhứt thiết pháp vô sanh, câu sư tử, câu dũng mãnh,
câu vô cú. Nói những câu như vậy ai có thể nghe ư !
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại nghĩ rằng : Nay chỉ có Thiện Trụ Ý Thiên Tử từ quá khứ đã cúng dường nhiều Phật nhập thâm pháp nhẫn có đủ biện tài sẽ có thể cùng tôi ở trước Phật cùng đàm luận thiệt nghĩa. Suy nghĩ rồi, Ngài bảo Thiện Trụ Ý Thiên Tử : « Nầy Thiên Tử ! Nay ông đã được thâm pháp nhẫn và có đủ vô ngại biện tài, nay sẽ cùng tôi đến chỗ đức Thế Tôn để cùng đối luận nghĩa thâm diệu ấy có được chăng ?.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử đáp rằng : « Bạch Đại Sĩ ! Tôi nói như vầy : Người ấy nếu đối với tôi không có ngữ ngôn không vì diễn thuyết chẳng có hỏi han cũng không trả lời không Phật Pháp Tăng dứt tuyệt tam thừa không sanh tử không Niết bàn không hiệp không tan chẳng khải chẳng phát chẳng xuất thanh âm trừ các văn tự, người nói như vậy thì tôi sẽ cùng đàm luận ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Tôi nói như vầy : Người ấy có thể ở nơi tôi không lắng không nghe không đọc không tụng không thọ không trì chẳng tư chẳng niệm chẳng thủ chẳng xả chẳng giác chẳng tri chẳng nghe tôi nói chẳng vì người mà giảng, tại sao ? Vì chư Phật Bồ đề vốn không văn tự không tâm lìa tâm,
không có giác ngộ dầu giả danh để nói mà danh ấy cũng không ».
Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại nói : « Bạch Đại Sĩ ! Nay nên vì chư Thiên Tử mà nói. Chư Thiên Tử nầy đối với chỗ nói của Đại Sĩ rất thích muốn nghe ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Tôi trọn chẳng vì người thích nghe mà nói cũng chẳng vì người nghe nhận mà nói, Tại sao ? Vì hễ có nghe nhận thì có thủ trước. Thủ trước những gì ? Đó là trước ngã trước nhơn trước chúng sanh trước thọ mạng trước sĩ phu. Vì thủ trước mà có nghe nhận. Nghe nhận như vậy nên biết người ấy an trụ trong ba thứ phược, một là phược kiến ngã, hai là phược kiến chúng sanh và ba
là phược kiến pháp. Nầy Thiên Tử ! Nếu người không có ba thứ phược ấy mà nghe pháp thì
nên biết người ấy an trụ trong ba thứ tịnh : một là chẳng thấy thân mình chẳng phân biệt chẳng tư niệm chẳng chứng biết, hai là chẳng thấy người thuyết pháp chẳng phân biệt chẳng tư niệm chẳng chứng biết, ba là chẳng thấy pháp được nói chẳng phân biệt chẳng tư niệm chẳng chứng biết.
Nầy Thiên Tử ! Nếu ai có thể nghe pháp như vậy đó là bình đẳng nghe vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Lành thay,
lành thay ! Ngài nói lời ấy rất hay. Bạch Đại Sĩ ! Nếu ai có thể nói như vậy thì nên biết là thuyết bất thối chuyển”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Thôi
đi Thiên Tử, nay ông chẳng nên vọng tưởng phân biệt Bồ Tát thối chuyển. Tại sao ? Vì giả sử Bồ Tát mà có thối chuyển thì họ trọn chẳng thành được Vô thượng Chánh Giác. Tại sao ? Vì trong Bồ đề ấy không có pháp thối chuyển vậy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử nói : “Bạch Đại Sĩ ! Nếu như vậy thì sẽ ở đâu có thối chuyển ấy?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Phải biết từ tham dục mà có thối chuyển, từ sân khuể mà có thối chuyển, từ ngu si mà có thối chuyển, từ hữu ái mà có thối chuyển, từ vô minh mà có thối chuyển, nhẫn đến từ mười hai hữu phần sanh tử mà có thối chuyển, từ nhơn duyên mà có thối chuyển, từ kiến chấp mà có thối chuyển, từ danh từ sắc mà có thối chuyển, từ Dục giới từ Sắc giới từ Vô sắc giới mà có thối chuyển, từ Thanh Văn mà có thối chuyển, từ Bích Chi Phật mà có thối chuyển, từ phân biệt mà có thối chuyển, từ chấp trước mà có thối chuyển, từ tướng mà có thối chuyển, từ thủ tướng mà có thối chuyển, từ đoạn kiến mà có thối chuyển, từ thường kiến mà có thối chuyển, từ thủ mà có thối chuyển, từ xả mà có thối chuyển, từ ngã tưởng mà có thối chuyển, từ chúng sanh tưởng mà có thối chuyển, từ thọ mạng tưởng mà có thối chuyển, từ sĩ phu tưởng mà có thối chuyển, từ bổ đặc già la mà có thối chuyển, từ tư tưởng mà có thối chuyển, từ hệ phược mà có thối chuyển, từ điên đảo mà có thối chuyển, từ ngã kiến mà có thối chuyển, từ ngã kiến làm căn bổn cho sáu mươi hai kiến mà có thối chuyển, từ ngũ cái mà có thối chuyển, từ ngũ ấm mà có thối chuyển, từ các nhập mà có thối chuyển, từ các giới mà có thối chuyển, từ Phật tưởng mà có thối chuyển, từ Pháp tưởng mà có thối chuyển, từ Tăng tưởng mà có thối chuyển, nhẫn đến tôi sẽ thành Phật tôi sẽ thuyết pháp tôi độ chúng sanh tôi sẽ phá ma tôi được trí huệ từ các tưởng ấy mà có thối chuyển.
Nầy Thiên Tử ! Nếu có thể chẳng phân biệt Như Lai thập lực, chẳng phân biệt tứ vô sở úy chẳng phân biệt thập bát bất cộng pháp chẳng phân biệt tất cả căn lực giác đạo chẳng phân biệt các tướng hảo chẳng phân biệt trang nghiêm Phật quốc chẳng phân biệt Thanh Văn chẳng phân biệt Bồ Tát nhẫn đến chẳng phân biệt tất cả phân biệt thối chuyển thì gọi là bất thối chuyển ».
ThiệnTrụ Ý Thiên Tử nói : « Bạch Đại Sĩ ! Nếu như vậy thì sẽ ở đâu để được bất thối chuyển ? ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử ! Phải biết từ thông đạt Phật huệ mà được bất thối chuyển, từ không vô tướng vô nguyện mà được bất thối chuyển, từ như như từ pháp tánh từ thiệt tế từ bình đẳng mà được bất thối chuyển ».
Thiện Trụ ý Thiên Tử nói : « Bạch Đại Sĩ ! Nếu nói như vậy thì phân biệt cùng bất phân biệt hai thứ không sai khác. Tại sao ? Vì đều là từ tư duy phân biệt mà sanh vì thế nên được nói là có thối chuyển.
Bạch Đại Sĩ ! Thối chuyển như vậy là có pháp hay
không pháp ?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Chẳng phải có chẳng phải không có thối chuyển ấy”.
Thiện Trụ Ý Thiên Tử nói : “ Bạch Đại Sĩ ! Nếu như vậy thì chỗ nào có thối chuyển?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Nầy Thiên Tử ! Nếu có nếu không là hư vọng lấy, là điên đảo lấy là bất như lấy, kia là chẳng lấy cũng chẳng phải chẳng lấy, do nghĩa ấy mà được nói là thối chuyển. Nhưng pháp thối chuyển ấy chẳng thể nói có chẳng thể nói không. Tại sao ? Vì nếu trong có không mà
có thối chuyển thì có lỗi, tại sao ? Vì nếu có pháp thối chuyển thì đọa thường kiến, nếu không pháp thối chuyển thì đọa đoạn kiến. Nhưng đức Thế Tôn nói chẳng ở trong thường chẳng ở trong đoạn. Chẳng phải đoạn chẳng phải thường là lời nói của Như Lai. Nầy Thiên Tử ! Nếu họ ở nơi các tưởng chẳng chơn thiệt trước ấy mà họ chứng biết thì gọi là chẳng phải đoạn chẳng phải thường. Nầy thiên Tử ! Đây là pháp môn thối chuyển của Bồ Tát vậy”.
Lúc nói pháp nầy có mười ngàn Thiên Tử được vô sanh pháp nhẫn.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment