Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 140
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Các chúng sanh trong vô lượng thế giới nghe tiếng nói kệ ấy đều cúng dường Phật Thế Tôn ở cõi mình. Cúng dường rồi thừa thần lực Phật đều đến tập hội tại Ta Bà thế giới, đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi một phía. Bấy giờ trong Đại Bửu Phường Đình khắp đầy vô lượng chúng sanh.
Các chúng sanh ấy đều riêng tự nghĩ rằng: riêng mình ta đến đây cúng dường Như Lai, riêng mình ta ở trước Phật thưa hỏi chánh pháp, đức Như Lai chỉ riêng mình ta mà thuyết pháp.
Bấy giờ Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy thiện nam tử! Từ có ba thứ. Đó là chúng sanh duyên từ, pháp duyên từ và vô duyên từ.
Chúng sanh duyên là duyên nơi ngũ hữu.
Nếu pháp hành Bồ Tát muốn được đầy đủ sáu Ba la mật, đại từ đại bi, Bồ Tát thập địa mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề chuyển chánh pháp luân,
điều phục vô lượng vô biên chúng
sanh qua khỏi sông lớn sanh tử không bờ, muốn phá ác ma bạn đảng, nhập đại Niết bàn, thì nên tu tập Tứ vô lượng tâm.
Phải tu tập thế nào?
Nếu đại Bồ Tát vì hạ phương chúng sanh đến thượng phương chúng sanh mà tu
tập tâm từ nầy, xem chúng sanh như cha, như mẹ, như Sư trưởng, như Hoà thượng, như Phật Thế Tôn, như Thanh Văn Duyên
Giác.
Lúc tu như vậy nên tư duy như vầy: Nếu có chúng sanh vô
cớ với tôi mà khởi sự ác hại, nếu tôi có lòng giận hờn chúng sanh ấy thì sẽ bị thập phương chư Phật thấy biết sẽ bị quở trách rất đáng hổ thẹn. Chư Phật sẽ quở tôi rằng: Sao người ấy vì Vô thượng Bồ đề mà chẳng tự điều phục được tâm mình. Người ấy khác gì người không có chưn cẳng mà muốn đến Bắc Uất Đơn Việt, như người mù muốn đọc sách, như người không có tay mà muốn cầm nắm, xa lìa từ tâm mà muốn được Vô thượng Bồ đề cũng như vậy. Nếu chẳng dứt được lòng sân hận còn chẳng thể được Thanh Văn Bồ đề, huống là Vô thượng Bồ đề. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ bị chư Phật, chư Thanh Văn, Duyên
Giác, Thiên Long, Bát Bộ quở trách. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ mắc đại tội thọ khổ địa ngục, chẳng được lợi ích hiện tại và vị lai, vì vậy nên phải tu tập từ tâm.
Pháp hành Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: nếu có ai đối với ta đã làm các sự ác, hoặc đương làm hay muốn làm, hoặc đem sự ác gia nơi người thân của ta, cũng phải tư duy như trước.
Quán như vậy rồi, Bồ Tát trước tiên đối với chúng sanh một phương mà tu từ tâm, lần lần đến cả mười phương.
Đây gọi là Bồ Tát tâm từ duyên nơi chúng sanh.
Trong đại hội có một Thiên tử tên là Minh Tinh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát sơ tu từ tâm. Tâm từ ấy có những quả gì? Hiện tại và vị lai thành tựu bao nhiêu phước đức?
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát tu tập từ tâm như vậy còn phải đoạ ba ác đạo nữa chăng?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Thưở xưa ông đã cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy. Ông đã vun trồng thiện căn kiên cố, trong vô lượng đời tu tập tâm từ, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên
nay ông có thể hỏi Phật như vậy.
Nầy thiện nam tử! Lắng nghe lắng nghe, nay Phật sẽ vì ông phân biệt giải nói.
Nếu có Bồ Tát tu tâm từ như trước đây ta đã nói, người nầy thì được thức ngủ an lành chẳng thấy ác mộng, những vật cần dùng không thiếu, chư Thiên thủ hộ, Nhơn Thiên đều thích thấy. Người nầy chẳng nghe tiếng ác, thân chẳng có ác bịnh, thường thích tịch tĩnh siêng tu tinh tiến, thích học chánh pháp thấy biết vô ngã, thường được Quốc chủ Sa Môn phạm chí nam nữ lớn nhỏ nhẩn đến điểu thú cúng dường. Người nầy thường thân cận bạn lành đó là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Người nầy thích ban cho,
hay độ chúng sanh, những thiện tâm được có không bị tam độc phá hoại. Danh tiếng tốt của người nầy lưu bố bốn phương, hay trị lành ác bịnh của chúng sanh, hay khiến chúng sanh xa lìa các sự khổ, hay giải hệ phược cho chúng sanh,
hay điều phục phiền não cho chúng sanh, hay phá tất cả ác kiến dị kiến, hay ban cho chúng sanh tín tâm niệm tâm, đại trí huệ tâm, trụ vững Đại thừa không gì lay động được, chẳng theo lời người, hay trừ thân khẩu ý ác của chúng sanh, hay dứt chúng sanh ba thứ nghiệp chướng chỉ trừ tội ngũ nghịch, tội phỉ báng chánh pháp Đại thừa, phỉ báng bực Hiền Thánh, tội trộm cướp tài vật tứ phương Tăng.
Nầy thiện nam tử! Bồ Tát nếu có thể tu tâm từ như vậy, lúc lâm chung diện kiến thập phương chư Phật Thế Tôn tay xoa đầu, vì tay Phật chạm nên lòng người nầy vui mừng, vì lòng vui mừng nên được vãng sanh quốc độ của Phật ấy, cũng nghe những lời thiện diệu như vầy: Chớ có sợ chớ có sợ! Ngươi là người thuần thiện tu tâm từ quyết định sanh vào Phật độ thanh tịnh, thấy vô lượng chư Phật Thế Tôn, lìa xa ba ác đạo, cứu cánh nhập Niết bàn. Người nầy cũng nghe lời thiện diệu nói pháp duyên từ và vô duyên từ, cũng được đầy đủ tứ vô lượng tâm đến được Vô thượng Bồ đề”.
Thiên Tử Minh Tinh nghe pháp ấy liền được xuất nhập tự tại các thiền định.
Vô Thắng Ý Bồ Tát hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thiên Tử ấy do sức gì mà ở nơi các thiền định nhập mau xuất mau như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Minh Tinh Thiên Tử đã ở chỗ vô lượng chư Phật Như Lai trồng các căn lành, đã
ở trong vô lượng đời tu từ tâm pháp duyên. Do
bổn nguyện nên sanh cõi Trời Tứ Vương Thiên, cách phía
trước Trời Nhựt Thiên mười ngàn do tuần. Cung điện của trời ấy ngang rộng ba vạn hai ngàn do tuần, lưu ly làm nền, trước sau tả hữu đầy mười do tuần, có chư Thiên nam nữ cùng vây quanh. Minh Tinh Thiên Tử ở trong cung ấy xa cách quyến thuộc ba do tuần, một mình ngồi giường báu xuất nhập thiền định một ngày một đêm.
Tứ thiên hạ đây có tám mươi xứ trời, sáu mười xứ rồng, bốn xứ A Tu La, bốn xứ Ca Lâu La, năm mươi hai xứ Khẩn Na La, bốn mươi sáu xứ Ma Hầu La Già, tám xứ Cưu Bàn Trà, ba mươi xứ Phú Đơn Na, ba mươi xứ Tỳ Xá Xà. Tất cả xứ ấy, Minh Tinh Thiên Tử đều có thể điều phục cả.
Chúng sanh như vậy do bổn nguyện lực từ xưa đã phát thệ, Diêm Phù Đề nầy qua canh năm, còn dư một phần đêm, sẽ ở trước mặt nhựt mười ngàn do tuần, làm tướng sáng phá tối Diêm Phù Đề. Nếu các thiện chúng sanh ở Diêm Phù Đề muốn khỏi sanh tử mà tu thiền định, thì Thiên Tử Minh Tinh sẽ vì người ấy mà trừ bỏ ngủ nghỉ ban cho niệm tâm. Nếu muốn thấy thì Thiên Tử ấy sẽ hiện hình Hoà thượng, Sư trưởng, cha mẹ. Nếu có phàm phu tu tập pháp ngoại tà, Thiên Tử ấy sẽ phá hoại tà tâm mà chỉ dẫn chánh đạo, nếu có chúng sanh ở nơi việc thế gian việc xuất thế gian mà giải đãi, Thiên Tử ấy sẽ cho thấy, thấy rồi từ bỏ giải đãi siêng tu sự nghiệp. Nếu có chúng sanh mê
mất chánh lộ lúc được thấy Thiên Tử ấy thì thấy chánh đạo trở lại. Nếu có chúng sanh
thân mắc bịnh nặng, được thấy Thiên Tử ấy thì bớt hết đau khổ ngủ yên vui vẻ. Nếu có người già nhiều bịnh hay quên mà được thấy Thiên Tử ấy thì lại được niệm tâm. Lúc Thiên Tử ấy xuất hiện có thể làm cho chúng sanh nhiếp tâm niệm pháp lành. Nếu có chúng sanh lúc lâm chung, một niệm sau cùng, Thiên Tử vì người ấy nói kinh Đại thừa, nghe rồi thấy tượng Phật liền được vãng sanh quốc độ thanh tịnh. Nếu có người hoặc cầu Thanh Văn hoặc cầu Duyên Giác, Thiên Tử ấy sẽ vì họ mà nói pháp Thanh Văn hoặc pháp Duyên Giác. Nếu có chúng sanh có ba ác nghiệp nghe Thiên Tử ấy thuyết pháp thì ác nghiệp liền tiêu. Thiên Tử ấy do bổn nguyện lực thường tu hành sáu Ba
la mật đến thành Vô thượng Bồ đề”.
Minh Tinh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà nói đà la ni”.
Liền nói chú rằng:
Lô giá na, lô giá na, lô giá na, ba la xoa rũ, sa la xoa rũ, sa
la xoa sá, a bà ha ha, a bà trì trà, a bà xà bà, a bà xoa na, a xoa xoa xoa
xoa, phú la bà lã, a bà xoa xoa, a bà xà bà, ma ha ca ba, a bà a bà ma ha sa
ma, tần đậu, sa xà yết ba, a hoa, a hoa, ha ha ni ma, mạt lã sa luật xà, ca lưu na xà la, sá ha.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hoặc nam hoặc nữ hoặc lớn hoặc nhỏ, nếu ai chí tâm niệm sự của tôi, người ấy thì được thanh tịnh các nghiệp, thần thông, thí, giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và giải thoát cùng Phật độ tứ vô ngại trí. Những người ấy nếu chẳng thành tựu các sự như vậy, thì là tôi khi dối thập phương chư Phật, đời vị lai cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn dân các Phật thế giới phương khác thường nói rằng Ta Bà thế giới tạp uế bất tịnh. Nhưng nay tôi thường thấy thanh tịnh”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy, đúng như vậy. Nầy thiện nam tử! Đúng như lời ông nói.
Trong thế giới nầy có chư Bồ Tát hoặc làm thân Trời điều phục chúng sanh, hoặc làm thân Rồng, thân Quỉ, hoặc làm thân A Tu La,
thân Ca Lâu La, thân Khẩn Na La, thân Càn Thát Bà, thân Ma Hầu La Già điều phục chúng sanh. Có Bồ Tát làm thân Dạ Xoa, thân Cưu Bàn Trà, thân Tỳ Xá Xà, thân Lệ Tiết Đà, thân thú,
thân chim đi trong Diêm Phù Đề để giáo hoá các chủng loại chúng sanh như vậy.
Nầy Vô Thắng Ý! Nếu làm nhơn thiên điều phục chúng sanh không
lấy gì làm khó. Nếu làm súc sanh để điều phục chúng sanh thì rất khó.
Nầy Vô Thắng Ý! Ngoài Diêm Phù Đề trong biển phía Đông có núi lưu ly tên là Triều Sơn cao hai mươi do tuần đủ các thứ bửu, núi ấy có hang tên là Chủng Chủng Sắc, nơi ấy là chỗ ở xưa của Bồ Tát. Hang ấy rộng một do tuần cao sáu do tuần có một độc xà ở trong ấy tu tâm từ Thanh Văn. Núi ấy còn có một hang tên là Vô Tử cao rộng cũng như hang trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, nơi đây có một con ngựa tu tâm từ Thanh Văn. Còn có
một hang tên là Thiện Trụ Xứ, cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con dê tu tâm từ Thanh Văn.
Thọ thần nữ của núi ấy tên là Vô Thắng, có La Sát nữ tên là Thiện Hành, đều có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn cùng đồng thường cúng dường ba thứ ấy.
Ngoài Diêm Phù Đề phương Nam trong biển có núi pha lê cao
hai mươi do tuần, có hang tên là
Thượng Sắc cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một di hầu tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên Thệ Nguyện cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con gà tu tâm từ Thanh Văn. Còn có
một hang tên là Pháp Sàng cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con chó tu tâm từ Thanh Văn.
Núi ấy có Hoả Thần nữ và La Sát nữ tên là Nhãn Kiến đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường hai thú một chim ấy.
Phương Tây ngoài Diêm
Phù Đề, trong biển có núi bạch ngân tên là Bồ Đề Nguyệt cao hai mươi do tuần. Trong ấy có hang tên là
Kim Cương, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con heo tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hương Công Đức, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một con chuột tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Cao Công Đức, cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con bò tu tâm từ Thanh Văn.
Núi ấy có Phong Thần nữ tên là Động Phong và La Sát nữ tên là Vô Hộ, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường ba thú ấy.
Diêm Phù Đề ngoài biển phương Bắc có núi hoàng kim
tên là Công Đức Tướng cao hai mười do tuần. Trong núi có một hang tên là Minh Tinh, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một sư tử tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Tịnh Đạo ngang rộng cao thấp cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con thỏ tu tâm từ Thanh Văn. Còn có
một hang tên là Hỉ Lạc ngang rộng cao thấp như trước cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang nầy có một rồng tu tâm từ Thanh Văn. Núi
Công Đức Tướng ấy có một Thuỷ Thần nữ tên là Thuỷ Thiên và có La Sát
nữ tên là Tu Tàm Quí, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn ấy thường cùng đồng cúng dường ba thú đó. Mười hai thú và chim như vậy ngày đêm thường đi trong Diêm Phù Đề được nhơn thiên cung kính công đức thành tựu. Các chim thú ấy đã ở chỗ chư Phật phát thâm trọng nguyện: một ngày một đêm thường khiến một thú du hành giáo
hoá, mười một thú còn lại an trụ tu tâm từ, luân lưu nhau chung nhi phục thỉ.
Tháng bảy ngày một, chuột du hành đem pháp Thanh Văn thừa giáo hoá tất cả chúng sanh thân chuột khiến lìa ác nghiệp siêng tu thiện sự. Như vậy đến ngày mười ba đến ngày mười ba thì chuột lại tuần hành: luân lưu đến hết tháng mười hai, đến mười hai năm cũng như vậy thường để điều phục các chúng sanh.
Nầy Vô Thắng Ý! Do cớ ấy nên cõi nầy có nhiều công đức, nhẫn đến các loài thú chim cũng hay diễn nói giáo hoá đạo Vô thượng Bồ đề, nên chư Bồ Tát phương khác đều nên cung kính thế giới nầy”.
Trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Đức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể thấy được mười hai thú ấy chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Tịnh Đức! Nếu có ai trong hàng tứ chúng muốn được thấy mười hai thú ấy, muốn được đại trí đại niệm đại thần thông lực, muốn học tất cả sách vở nói về tứ vô lượng tâm, muốn hành chánh đạo được Xa ma tha, muốn được tịch tĩnh, muốn tăng trưởng pháp lành, người nầy nên lấy đất trắng đắp thành núi ngang rộng bảy xích, cao mười hai xích, dùng
các thứ hương làm bùn trét,
vàng mỏng thếp bốn phía, giáp vòng hai mười xích rải hoa chiêm bặc. Dùng đồ đựng bằng đồng đựng các thứ nước uống phi thời để bốn mặt núi ấy. Người nầy trì giới thanh tịnh, mỗi ngày ba lần tắm gội, kính tin lễ lạy Tam bửu rồi đứng cách núi ấy ba trượng về phía Đông mà tụng chú nầy:
Chiến a la ha, tu lợi xà tỉ ma, kỳ la phiếm, Phật dĩ mâu lã, nhã xà mâu lã, ha ha hi, ba ha ra hi, nhã xà ha hi,
tát bà phục đa ha hi, lê tha bà ha hưu, ma sa xa bà mâu
lê, ca bà phù, lã xa phù, tu lã xà mâu, khê ca na, ma hi xoa bà, ca sa ma ha, a
xoa tỉ bà lã, đa ba tỉ bà, sa trì nhơn trì lợi xà tỳ bà, a xà
mâu thâu bà, bà lô bà xoa, bàn đà đá, giá la xoa bà hi, ha ca tỉ mâu, đá tỉ lặc sưu, tán giá lặc sưu, bà bà phù, bà la
bà xoa sưu, Phật dĩ giá, đá sá lại sa, dà xoa lã sa,
ba lợi ba giá, tu lã tu, sưu bà sa di, hi lã,
bà la mâu sa la sa, mâu sa lã tư, lã bà lã bà, tần bà tư lã sa, bà lã sa, đà ma lô giá na lã sa, phú nan
toả lan ha la bà, thủ đà lô giá na lã sa, bà ma ma lã sa, tỉ ma lô giá na khê
già, tát điên ma lã sa, a lợi na giá na nhục nhục, tỉ ma mâu, bà lã ha man bà ha lã tư miễn miễn, a do tỉ mục hê, mâu ni lã đề trí sa, sá ha.
Đứng ở đó tụng chú mười lăm ngày, thường thấy trên núi có hình tượng mặt nguyệt lưỡi liềm, lúc ấy biết rằng thấy mười hai thú. Thấy rồi sở nguyện tuỳ ý liền được.
Nầy Tịnh Đức! Nếu người có thể khổ hạnh tu hành như vậy thì được mắt thấy mười hai thú ấy”.
Tịnh Đức Ưu Bà Tắc nói với Minh Tinh Thiên Tử rằng: “Thưa Đại Sĩ! Ngài hay giáo hoá điều phục chúng sanh, điều phục thế nào? Là dùng thân hay dùng khẩu dùng ý?”.
Thiên Tử đáp: “Ta không dùng thân khẩu mà chỉ dùng tâm nghiệp”.
Tịnh Đức hỏi: “Nếu Ngài dùng tâm nghiệp, vậy tâm ấy thuộc quá khứ hay vị lai hay hiện tại?”.
Thiên Tử đáp: “Chẳng phải quá khứ vị lai, chỉ là hiện tại. Ta chế phục tâm hiện tại chẳng cho làm ác”.
Tịnh Đức nói: “Ngài còn chẳng khiến được tâm hiện tại được giải thoát thì làm sao điều phục chúng sanh?”.
Minh Tinh Thiên Tử đáp: “Nay ta thọ trì tứ vô ngại trí, do thế lực của Tịnh Mục đà la ni nên có thể điều phục tất cả chúng sanh”.
Tịnh Đức nói: “Tứ vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni ấy cũng còn chẳng thể điều phục chúng sanh được, tại sao, vì không có
giác quán vậy. Sao lại nói có thể điều phục chúng sanh?”.
Thiên Tử nói: “Nay ta hỏi Ngài, tuỳ ý Ngài đáp cho.
Nhiếp nhập hệ phược, giải thoát, thanh tịnh đạo và tịch tĩnh, dầu là bình đẳng mà cũng là bất bình đẳng. Bình đẳng và bất bình đẳng như vậy, do nhơn duyên gì sanh, do
nhơn duyên gì xuất, nhơn duyên gì tăng trưởng. Chẳng biết Ngài có rõ chăng?”.
Tịnh Đức nói: “Các sự như vậy do nơi ngã và ngã sở mà có sanh xuất và có tăng trưởng”.
Thiên Tử hỏi: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên gì sanh?”.
Tịnh Đức nói: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên phong sanh”.
Thiên Tử hỏi: “Phong trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Phong trụ ở hư không”.
Thiên Tử hỏi: “Hư không trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Hư không trụ ở chí xứ”.
Thiên Tử hỏi: “Chí xứ lại trụ ở chỗ nào?”.
Tịnh Đức đáp: “Chí xứ trụ ở chỗ nào không thể tuyên nói được. Tại sao? Vì xa lìa tất cả xứ sở vậy, vì tất cả nơi chỗ chẳng nhiếp thuộc vậy, vì chẳng phải đếm chẳng phải cân chẳng phải lường vậy, vì chẳng phải giác quán chẳng phải hữu vô, chẳng phải hành chẳng phải sanh xuất, chẳng phải diệt, chẳng phải có tăng trưởng, chẳng phải chữ, chẳng phải niệm, chẳng phải tác, chẳng phải thọ, chẳng phải minh ám, chẳng phải tăng giảm, chẳng phải trẻ già, tánh chơn thiệt, là môn tất cả pháp vô quái ngại. Vì vậy nên chí xứ không có chỗ ở”.
Minh Tịnh Thiên Tử nói: “Như vậy tức là vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.
Nếu có Bồ Tát tu tập Tịnh Mục đà la ni ấy thì tất cả phiền não bị hư rã mà nhập vào pháp duyên từ, ở trong tất cả pháp không có lòng
nghi”.
Lúc nói pháp ấy, thập phương thế giới có vô lượng chúng sanh được pháp duyên từ, vô lượng chúng sanh được gần vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.
Đức Thế Tôn khen hai người rằng: “Nầy các thiện nam tử! Các ông có thể như pháp hỏi, có thể như pháp đáp. Do thế lực nhơn duyên Tịnh Mục đà la ni ấy, nên sau khi Phật diệt độ, Tứ Thiên Vương có thể thủ hộ chánh pháp”.
Minh Tịnh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người Thanh Văn hành
pháp Thanh Văn thừa, người Bích Chi Phật hành pháp Bích
Chi Phật thừa, hai hạng người ấy tu tâm bi thế nào, tư duy pháp nào, lìa phiền não nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam hay thiện nữ hành Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa chẳng quán những tướng vui của chúng sanh, chẳng quán các tướng oán thân cha mẹ, thương xót chúng sanh
tu tập tâm bi, nhẫn đến thập phương chúng sanh cũng
như vậy. Họ tư duy thê nầy: Nếu ta chẳng thể ở nơi ác chúng sanh mà
tu tập tâm bi, thì nên quán tám tướng khổ của chúng sanh ấy, đó là sanh khổ, lão khổ, tử khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tẳng hội ngộ khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Tại sao ta ở nơi kẻ khổ não như vậy mà chẳng sanh tâm bi! Họ lại tư duy rằng: chúng sanh ấy còn có ba thứ đại khổ cũng còn chưa được giải thoát khổ ba ác đạo, tại sao ta lại chẳng thương xót!
Thế nào gọi là quán sanh khổ?
Từ nghiệp nhơn duyên cha mẹ hoà hiệp thời kỳ ca la la ban sơ thọ ý thức, thân ấy như hột đình lịch, chưa có hơi thở vào ra, chưa hay biết khổ và vui chẳng khổ chẳng vui, đã lìa sắc tướng trước mà chưa đủ các tướng sắc sau, không có sức lực, không có mong muốn, không có tinh tiến, cũng không có kiêu mạn là thượng sắc thượng tánh thượng tự tại, không có tướng ngũ dục, các căn chẳng đủ, chúng sanh như vậy tại sao ta lại chẳng thương xót! Chúng sanh như vậy, quá khứ ái và thủ gọi là vô minh, quá khứ nghiệp hữu gọi là hành, tâm sơ nhập thai gọi là thức, trong ca la la sắc và bốn ấm ban sơ gọi là danh sắc, lúc nầy chưa đủ mười hai hữu chi, do vì nhơn duyên sanh nên có
thể nói là có mười hai chi nhơn duyên, chúng sanh như vậy có người trí nào mà chẳng xót thương!
Ca la la trụ sáu lần bảy ngày thì chuyển thành án phù đà hình sắc như trái táo nhỏ.
Án phù đà trụ bảy ngày chuyển thành già na hình sắc như hột hồ đào.
Già na trụ bảy ngày chuyển thành bế thi hình sắc như trái tần bà la. Lúc nầy trên thân có năm
u bóng nổi lên, đó là tượng đầu hai tay và hai chưn.
Đến mười ba lần bảy ngày mới có tướng bộ tiêu hoá.
Hai mươi lần bảy ngày thì nam căn
và nữ căn sai biệt.
Từ hai mươi mốt lần bảy ngày mới bắt đầu sanh xương lóng.
Trong ba sáu lần bảy ngày thì thân thể đầy đủ thịt máu lông và các căn.
Ba mươi tám lần bảy ngày thì tất cả chi phần thân thể thành tựu trọn vẹn, bốn ngày bốn đêm ở chỗ hôi dơ trong bụng bà mẹ.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng xót thương!
Bấy giờ hành giả lại tư duy nhớ lại sự thọ sanh của mình ngày trước, rất buồn rầu lo sợ mà tự suy nghĩ rằng ta phải tu pháp lành nguyện sau nầy chớ còn thọ sanh vào chỗ như vậy nữa, ta phải tinh tiến tu tập bất phóng dật xa lìa hẳn thọ sanh.
Kế đến tư duy lúc mới xuất thai cả thân chịu khổ bức bách gió suông và
thân cũng rất khổ vừa rơi xuống đất nước rửa chà lau lại càng khổ hơn, khác gì sự khổ ở địa ngục, lúc nầy lại quên hết sự việc đời trước. Sanh xong lại còn có các sự khổ lớn những là già bịnh chết cứ theo mãi chẳng buông bỏ. Còn có phong bịnh, các bịnh bạch thuỷ hoàng thuỷ hoà hiệp. Tứ đại gây bịnh đều riêng có một trăm lẻ một bịnh cộng thành bốn trăm lẻ bốn bịnh cội gốc biết bao sự đau đớn khổ sở, nên gọi sanh là đại khổ vậy.
Đã chịu sanh khổ rồi, già nua theo dõi tiếp theo làm khổ, những là tóc bạc mặt nhăn, mất trí hổ thẹn, lông tóc thưa thớt, vì các hành đã
lâu cũ nên các căn suy yếu dễ hư dễ hoại rã mục mỏng manh, chỉ còn tham hai vị là mặn và chua. Già nua
hay làm hư thân căn mất sự an vui thêm nhiều khổ não, đây là sông đại khổ, nó hay phá sắc trẻ trung mạnh khoẻ ba đời của chúng sanh, nó
hay quên như trẻ nít, cuồng loạn như bị quỉ nhập. Chúng sanh có đủ sự xấu khổ như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế lại bị tử vong nó xâm bức, mất trí huệ thọ mạng. Những sở hữu phải lìa bỏ, thân hoại mạng hoại, tứ đại lìa tan. Sự tử vong là oán thù của tam thế thọ mạng của chúng sanh, tất cả chúng sanh không ai thoát khỏi. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế tư duy, các chúng
sanh ấy lại còn phải những người những vật không ưa thích cứ đến gần kề, đó là lạnh, nóng, đói, khát, ác nhơn, ác thú v.v…
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Còn có những người và vật yêu thích lại phải xa lìa, đó là trẻ mạnh, của cải, kho tàng, thọ mạng, cha mẹ vợ con thân thích quyến thuộc, sáu trần đẹp vui. Sự biệt ly ấy cũng rất buồn khổ. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Hoặc có chúng sanh trong ba đời cầu sáu trần phẩm thượng mà chẳng được, nên phải chịu các sự khổ não. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng thương xót! Nếu ta lại ở nơi các loại chúng sanh ấy mà chẳng thương thì ta sẽ thế nào được Vô thượng Bồ đề.
Các chúng sanh chịu gánh nặng ngũ ấm, ta cũng vậy, nếu ta không tu tâm đại bi thì làm sao bỏ được gánh nặng ấy. Tất cả Thánh nhơn đa xa lìa được gánh nặng ngũ ấm. Nếu chẳng tu hành ba thứ tịnh giới, chẳng tư duy lành tốt, tâm thường phóng dật chẳng hành chánh đạo chẳng được giải thoát, người như đây phải chịu cả trăm thứ khổ. Chúng sanh đã chịu cả trăm thứ khổ như vậy, tại sao ta không tu
tâm đại bi!
Nầy Thiên Tử! Nếu có chúng sanh trong một ngày đêm có thể quán như vậy, người nầy được tâm dường như hư không. Người nầy ở nơi tất cả chúng sanh có thể tu tập đại bi. Người nầy có thể được thân tâm tịch tĩnh. Người nầy chẳng xa lìa chánh chơn pháp giới và chơn pháp tánh. Tu tập như vậy có thể được chúng sanh duyên
bi của thừa Thanh Văn và Duyên Giác.
Nếu có Bồ Tát lúc ban sơ tu tập đạo phẩm, tư duy như vầy: giả sử khiến ta có hằng hà sa số thân lớn như núi Tu Di, sẽ đem những thân ấy vì một người mà phải chịu khổ nhiều trong vô lượng đời để cho người ấy được an lạc, ta trọn chẳng hối tiếc cũng chẳng thối thất tâm Bồ đề.
Bồ Tát nầy lại tư duy, giả sử tất cả chúng sanh đều cầm chuỳ sắt lớn như núi Tu Di đến đập thân thể ta trong vô lượng năm, ta sẽ nhịn chịu chẳng sanh ác tâm đối với họ dầu chỉ là một niệm.
Bồ Tát nầy lại tư duy, người ấy đã chịu phải trăm thứ khổ não, tất cả chúng sanh cũng phải khổ như vậy mà họ chẳng biết niệm Vô thượng Bồ đề, nay ta học tập Vô thượng Bồ đề sao ta chẳng chịu được những đao kiếm lửa đá làm hại như vậy! Nếu ta ở nơi tất cả chúng sanh mà sanh ác tâm, chắc sẽ bị sự quở trách của chư Phật, chư Hiền Thánh. Các Ngài sẽ quở ta rằng người muốn được Vô thượng Bồ đề sao với những sự như vậy mà chẳng nhẫn nhục.
Đại Bồ Tát tu tịnh ý liền được nhẫn nhục. Nhẫn nhục là anh lạc trang nghiêm, là
tinh tiến đạo tánh, là pháp khí, là của báu. Bồ Tát tu nhẫn như vậy thì có thể thanh tịnh thân tâm, hay tịnh trang nghiêm,
hay kiên cố trang nghiêm, được đại trí huệ chẳng đồng chung với hàng Thanh Văn,
hàng Bích Chi Phật. Là thù thắng nhứt trong tất cả chúng sanh. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, tà ngoại chẳng lay động được, hay phá giảm phiền não, tất cả oán thù chẳng hại được, ngôn từ nói năng chẳng cùng tận, trí rất sâu rất rộng dường như đại hải, tinh tiến bền vững như núi Tu Di, bình đẳng với chúng sanh như nước biển nhứt vị, hay làm lợi ích lớn dường như đại địa, rửa sạch những dơ bẩn dường như nước trong, hay làm
ánh sáng dường như mặt nhựt, ở giữa chúng vô ngại như gió mạnh, thế pháp không ô nhiễm như hoa sen, nhìn xuống chúng sanh như kim sí điểu, chúng sanh thích
thấy như mây ngày mùa hạ, chúng sanh vui nhận như mưa mùa hạ, thấy mừng không mong gì
khác như gặp lương y, phá hết nghèo cùng như châu như ý, ban cho chúng sanh thiền định như Phạm Thiên, sanh tử vô ngại như hư không, hiển thị bình bất bình như đèn sáng, nhơn thiên cung kính như Đế Thích.
Nếu có Bồ Tát khởi lòng sân hận thì tất cả oán tặc đều được tiện lợi, hư mất tất cả thiện căn của báu, tất cả ma chúng nắm được tội lỗi, bị các phiền não ô nhiễm, vào chỗ rất tối tăm, mất tất cả thiện căn, bị tất cả Thánh nhơn quở trách.
Nếu có Bồ Tát khởi tâm sân hận đến chừng một niệm thì là hư mất tất cả pháp lành. Phải tư duy như vầy: giả sử ta đều chịu tất cả vô lượng ức số chúng sanh đánh mắng huỷ nhục ta chẳng nên khởi tâm sân hận dù chỉ một niệm, tại sao, vì các chúng sanh như vậy chẳng học từ bi, nếu không có các
chúng sanh ấy giận đánh thì ta làm sao tu tập tâm từ bi, vì lẽ như vậy nên lúc chúng
sanh giận đánh ta nên vui mừng, tại sao, vì chính đó là nhơn duyên bi của ta vậy.
Nếu có thiện nam thiện nữ có thể quán như vậy liền được chúng sanh duyên bi chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, hàng Duyên Giác, cũng có thể mau được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Thiên Tử! Còn có người quán chúng sanh
ba ác đạo khổ rồi tu tập tâm bi. Còn có người quán sát các
chúng sanh bị khổ trong tam giới mà tu tập tâm bi. Còn có người quán sát ngũ ấm chúng sanh mà tu
tập tâm bi, quán sát các nhập các giới cũng như vậy.
Do các nghĩa ấy nên đại Bồ Tát muốn được Vô thượng Bồ đề phải tu tập từ bi. Tại sao, vì tâm từ bi là chủng tử của tất cả thiện pháp.
Nếu có chúng sanh được thân trời Sắc giới cũng là do nhơn duyên từ bi”.
Lúc nói pháp ấy Minh Tinh ThiênTử được vô sanh nhẫn, nhẫn nầy chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn.
Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh được như pháp nhẫn. Năm vạn năm ngàn na do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Mười vạn tám ngàn chúng
sanh được tâm bất thối. Hai vạn chúng sanh thành
tựu từ bi. Năm ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Năm trăm
Tỳ Kheo Ni được vô lậu. Mười vạn ức chúng sanh phá đại tà kiến được tâm chánh kiến.
Đức Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Thắng Ý! Thưở quá khứ có Phật hiệu Phát Công Đức Ý Như Lai cũng nói đại từ đại bi như vậy”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng như ấy, thế nào gọi là như?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Xa lìa thân tướng gọi đó là như”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng thân ấy, tức là thiệt tánh, tức là tịch tĩnh, tức là pháp giới, tức là vô lậu, tức là vô tận”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Như thân ấy, tức là thân tất cả chúng sanh. Như tức là biên tế của quá khứ của vị lai, tức là tịch tĩnh”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả chư Phật, như tức là thân”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Vô Thắng Ý! Pháp giới như vậy không có tăng giảm, tam thế bình đẳng, chẳng sanh chẳng xuất chẳng diệt dường như hư không. Như thân cũng như vậy”.
Lúc nói pháp ấy, ba vạn chúng sanh được như pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn bảo Minh Tinh Bồ Tát rằng: “Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu tập tâm hỉ như thế nào?
Nầy Minh Tinh! Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ bi chẳng nhớ đến chúng sanh có những tướng vui, nhẫn đến chẳng quán sát tam thú
tam giới có những sự khổ mà cũng quán sát ngũ ấm xuất diệt, quán như vậy rồi sanh tâm hỉ, chỉ thích quán pháp,
quán rồi sanh tâm hỉ. Tâm hỉ như vậy nguyện đến cùng chúng sanh,
đây gọi là hỉ.
Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu xã thế nào?
Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ tâm nhẫn đến hỉ tâm mà tu xả niệm xả cha mẹ nhẫn đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Lúc tu xả ấy xa lìa tất cả tâm ái tâm sân. Người nầy tu tập không vô tướng vô nguyện. Đã tu tập rồi chẳng lâu quyết định sẽ được nhập Niết Bàn.
Nếu người tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, người ấy được thập phương chư Phật Bồ Tát tán thán, tất cả Trời, Rồng, Dạ xoa, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ
Xá, Thủ Đà, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cúng dường.
Quốc độ nào có hàng tứ chúng tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, cõi nước ấy đã được xa lìa tất cả ác tướng suy hoạ. Chúng sanh xứ ấy xa lìa ác pháp
thích tu thiện pháp.
Nầy Minh Tinh! Tứ vô lượng tâm có đủ vô lượng phước đức như vậy”.
Vô Thắng Ý Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hàng tứ chúng Duyên Giác thừa tu tập từ bi hỉ xả như thế nào?”.
Đức Phật nói nầy Vô Thắng Ý! Trong hàng tứ chúng Duyên Giác thừa có người tu tập từ bi hỉ xả. Người nầy quán sát chúng sanh an vui, hiểu chúng sanh an vui mà niệm pháp duyên từ trọn chẳng ức niệm chúng sanh duyên từ. Như trong tâm mình có
sự thích ưa cũng nguyện chúng sanh đồng chung được đó. Người nầy quán pháp bình đẳng, quán tâm bình đẳng, quán như bình đẳng. Quán như vậy rồi, người nầy trọn chẳng sanh tâm ác dầu chỉ nơi một chúng sanh. Giả sử có nhơn duyên sanh tâm ác, thì phải suy nghĩ như vầy: Nay nếu ta nơi kẻ ấy mà sanh ác tâm
thì thế nào sẽ được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát thành tựu vô lượng thuần thiện công đức, nếu ở nơi một người sanh tâm sân ác
còn chẳng được Vô thượng Bồ đề, huống là ta chưa thành các thiện công đức, do cớ ấy nên tu chúng sanh
duyên từ và pháp duyên từ, bi hỉ xả cũng như vậy.
Nầy Vô Thắng Ý! Nếu có người muốn được Duyên Giác thừa phải tu tập từ bi hỉ xả như vậy”.
Lúc nói pháp ấy, trong đại hội có sáu vạn ức chúng sanh trụ bực Sơ địa, hoặc Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa, hoặc có chúng sanh được Vô sanh nhẫn, hoặc có chúng sanh được Bích Chi Phật đạo, được Thanh Văn đạo. Có vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ trong đại chúng có một đồng tử tên là Hư Không Thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo Vô thượng Bồ đề, tu tất cả trí mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả pháp mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả ấm nhập giới phương tiện, giải thoát phương tiện, tam muội phương tiện, đà la ni phương tiện, đắc nhẫn phương tiện, chư địa phương tiện?
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát tu tất cả trí mục môn, đồng hư không huệ qua đến bờ kia, vô duyên phạm hạnh vượt qua bốn dòng dứt bốn ma hệ phược?”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Hư Không Thanh! Nay
ông có thể vào biển tứ vô lượng, muốn độ chúng sanh qua
sông sanh tử, nên ông phát ra lời hỏi như vậy. Ông lại còn muốn chẳng dứt biển Phật đại trí.
Nầy Hư Không Thanh! Thập phương quốc độ nếu có Bồ Tát cùng ông hành tam muội trí huệ, lúc Phật thuyết pháp, các hạng ấy đều làm minh chứng. Nếu không có hạng Bồ Tát như vậy làm minh chứng thì ta chẳng tuyên nói vô
duyên pháp hạnh. Tại sao, vì nếu ta tuyên nói pháp ấy, trong đây có nhiều người sanh lòng nghi. Nếu có người chưa được vô duyên phạm hạnh cũng sanh lòng nghi. Vì lẽ như vậy nên chẳng nên tuyên nói”.
Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Hư không tràng. Nhập rồi diện môn của Phật phóng quang minh
lớn đủ các màu sắc chiếu khắp đến thập phương thế giới chư Phật làm mờ tất cả ánh sáng nhựt nguyệt. Trong quang minh ấy phát ra tiếng nói rằng: Thế giới Ta Bà hiện có Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sanh mà tuyên nói phạm hạnh phá các phiền não, tuyên nói
Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa vô duyên phạm hạnh, có vô lượng chúng sanh vô lượng Bồ Tát thứ đệ ngồi nghe học chánh pháp. Cũng tuyên nói hạnh thanh tịnh Bồ đề. Vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên
làm hội đại tập nói các thứ hạnh. Có vô lượng chúng sanh được Nhứt sanh bổ xứ, hoặc Hậu sanh bổ xứ.
Thập phương chúng sanh nghe
lời nói trong quang minh phát ra như vậy, tất cả đều tập hội Ta Bà thế giới. Hoặc có Bồ Tát hiện thân chơn kim mưa cát chơn kim, hoặc có Bồ Tát hiện thân bạch ngân mưa cát bạch ngân, hoặc có Bồ Tát hiện thân lưu ly mưa cát lưu ly, hoặc có Bồ Tát hiện thân pha lê bửu mưa cát pha lê, hoặc có Bồ Tát hiện thân trầm thuỷ mưa cát trầm thuỷ, hoặc có Bồ Tát hiện thân chiên đàn mưa cát chiên đàn, hoặc có Bồ Tát hiện thân đa ma la bạt mưa cát đa ma la bạt để cúng dường đức Phật. Cúng dường xong đều đầu mặt lễ kính rồi ngồi một phía.
Đức Phật bảo Hư Không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư Không Thanh! Ngày nay mười phương chư đại Bồ Tát, trong ấy hoặc có vị được pháp nhẫn, có vị được vô sanh nhẫn, có vị được nhứt sanh, có vị được hậu sanh đều vì ta mà chứng minh.
Chư Bồ Tát ấy tu tập tâm từ bi hỉ xả tỏ rõ thông đạt tánh các pháp,
cũng hay xa lìa thân tướng nghiệp tướng. Tâm chư Bồ Tát ấy chẳng tham trước hữu vi vô vi, cũng chẳng tham trước nhãn nhĩ đến ý, chẳng tham trước sắc thanh đến pháp. Đều chí tâm tu tập vô duyên phạm hạnh, không có giác quán, chẳng sanh kiêu mạn, không có chỗ tham trước, biết chơn thiệt tánh, quán tất cả pháp đều bình đẳng đó là tam thế, tam giới, tam tịnh giới, cũng được tăng trưởng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả. Tất cả đều xa lìa ấm giới nhập, xa lìa tất cả tự tụ danh tụ cú tụ các pháp hữu vi.
Bồ Tát ấy lúc quán như vậy liền được đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, tu tập đồng hư không tam muội phạm hạnh sáu ba la mật, được chư Phật hộ niệm, có thiện phương tiện trụ đệ tam nhẫn quá đạo Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật, xa lìa tất cả nhãn sắc nhơn duyên, nhĩ thanh
nhơn duyên đến ý pháp nhơn duyên, quán pháp giới như tuỳ thuận chẳng điên đảo, được năng lực đại từ đại bi đại hỉ đại xả, trong tất cả pháp được đại tự tại, mà ở nơi sanh tử chẳng sanh tâm nhàm hối, có đại lực thế điều phục chúng sanh, ở trong tam thừa được trí phương tiện, hay mưa pháp vũ, được vô ngại trí, hiểu biết tất cả ngữ ngôn của các chúng sanh.
Đây gọi là Thánh Mục đà la ni đủ vô ngại trí tu tập phạm hạnh.
Nầy Hư Không Thanh! Nếu có Bồ Tát tu phạm hạnh nầy, thì Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, hay đủ Phật pháp thanh tịnh Phật độ, Bồ Tát tánh tịnh, chúng tịnh, hành tịnh, trí tịnh, ý tịnh, cúng dường cũng thanh tịnh, hay đủ thập địa thứ đệ sẽ ngồi pháp toà Như Lai. Như vậy gọi là thanh tịnh pháp hành, đây gọi là Như Lai, là Thế Tôn, là quá bốn dòng, là Bồ đề đạo. Hay được Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân.
Thế nào gọi là Nhứt thiết trí?
Nếu trí có thể thấy tất cả pháp bình đẳng, chúng sanh bình đẳng, tam thế bình đẳng, chẳng điên đảo bình đẳng. Bình đẳng tất cả pháp như vậy thấy Hư Không mục thấy pháp, Hư Không mục thấy vô hành, Hư Không mục thấy tánh, Hư Không mục thấy như không, Hư Không mục thấy như nội không, Hư Không mục thấy như ngoại không, Hư Không mục thấy như nội ngoại không, Hư Không mục thấy như đại không, Hư Không mục thấy như đệ nhứt nghĩa không, Hư Không mục thấy như hữu vi không, Hư Không mục thấy như vô vi không, Hư Không mục thấy như tất cánh không, Hư Không mục thấy như vô thỉ không, Hư Không mục thấy như tánh không, Hư Không mục thấy như tán không, Hư Không mục thấy như tự tánh không, Hư Không mục thấy như nhứt thiết pháp không, Hư Không mục thấy như vô sở giác không, Hư Không mục thấy như vô pháp không, Hư Không mục thấy như hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô pháp hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô tánh không, Hư Không mục thấy như thiệt tánh không, Hư Không mục thấy như vô tướng vô nguyện, Hư Không mục thấy như Nhứt thiết pháp vô biên vô xứ, Hư Không mục thấy như đại từ đại bi, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí thấy không, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí. Thấy như vậy rồi chuyển chánh pháp luân. Đây gọi là bất cộng chúng sanh pháp giới, đây gọi là Nhứt thiết trí, là Phật cảnh giới”.
Lúc nói vô duyên phạm hạnh ấy, có chín vạn hai ngàn chúng sanh thành tựu pháp ấy. Có hằng hà sa số chúng sanh được như pháp nhẫn, hằng hà sa số chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có một ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Vô lượng Nhơn Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đều dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật. Đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc trược Như Lai ở Diêm Phù Đề chuyển chánh pháp luân,
hôm nay ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy Như Lai lại chuyển đại pháp luân, đó là vì Bồ đề hành vậy.
Tất cả đại chúng lại nói như vầy: “Cảnh giới Như Lai bất khả tư nghị. Tại sao, vì đức Như Lai ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy lúc chuyển pháp luân, trong
vô lượng các thế giới mười phương có bao nhiêu Bô
Tát đều tập hội nơi đây để nghe pháp hành Hư Không mục như vậy”.
Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi đồng tử, Kim Cương đồng tử, Kim Cương Sơn đồng tử, Vô Thắng Tràng đồng tử, Vô Thắng Ý đồng tử, Hư Không Thanh đồng tử, chúng đồng tử như vậy số đến chín vạn hai ngàn ức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì nguyện lực làm cho pháp hành
Hư Không mục ấy được còn lâu ở Ta Bà thế giới nầy và ở mười phương quốc độ không diệt mất. Tại sao, vì trong pháp ấy nói ba phạm hạnh, nếu Bồ Tát tu ba phạm hạnh ấy thì được Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Nầy các thiện nam tử! Nam phương thế giới có Phật hiệu Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Tây phương thế giới có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Bắc phương thế giới có Phật hiệu Phát Quang Công Đức Như Lai, Đông phương thế giới có Phật hiệu Bửu Cái Quang Minh
Công Đức Như Lai, bốn Phật Như Lai ấy trước đã có phát nguyện. Do nguyện lực ấy, kinh nầy về sau sẽ lưu bố mười phương khiến các Bồ Tát đều được tu hành ba phạm hạnh như vậy.
Nay ta đem chánh pháp nầy phó chúc cho Tứ Đại Thiên Vương, Công Đức Thiên Nữ, Tứ Đại Long Vương, Thành Thiệt Ngữ Thiên, Tứ A Tu La Vương, Kiến Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bát Tý
Thiên, Địa Thần Nữ v.v…
Tại sao, hoặc có chúng sanh tánh nó tệ ác có đại thế lực, tạo nhiều nghiệp trọng tội chẳng học kinh nầy, người ấy chết rồi thọ thân đại ác quỷ, thân ác long, các
ác quỷ, ác long ấy muốn phá hoại Phật pháp nên tuôn mưa ác gió ác bụi mù để ở nơi các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp gây bịnh nặng, lấy tay mò bụng lấy tim gan thổi khí độc vào trong món ăn
uống, khiến người ăn vào mắc phải bịnh nặng, thầy thuốc bó tay chẳng trị lành được. Các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp như vậy do đó đều chết cả, đây gọi là pháp diệt. Các ác quỷ ấy còn làm cho hàng
đệ tử Phật những Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, những đại thần trưởng giả đều sanh ác tâm, đã
sanh ác tâm rồi họ tàn hại nhau. Lúc bấy giờ, trong Diêm Phù Đề quốc độ thành thị thôn ấy đều hoang trống không người. Nhơn dân đã không thì còn ai lưu bố kinh điển như vầy. Vì cớ ấy nên nay ta không
đêm kinh nầy phó chúc chư Bồ Tát và hàng tứ chúng, mà đem giao
phó cho các Thiên Vương các Long Thần, Địa Thần. Chư Thiên, chư Thần như vậy chí tâm hộ trì chánh pháp.
Nếu có hàng vua quan tứ tánh tứ chúng thọ trì đọc tụng kinh điển như vậy, chư Thiên, chư Thần ấy sẽ chí tâm thủ hộ, khuyến hóa các đàn việt khiến dâng cúng các món
vật dùng như món uống ăn, y phục, thuốc men, giường nệm, nhà cửa, đèn đuốc. Các đàn việt ấy nếu có ác tướng ác bịnh, do oai lực chư Thiên, chư Thần đều khiến tiêu trừ cả. Vì vậy mà chánh pháp được tăng trưởng không diệt mất”.
Chư Thiên, chư Thần tất cả đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoặc hiện tại nay, hoặc sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cần phải bỏ lìa công việc mình mà thủ hộ chánh pháp Như Lai. Nếu hàng tứ chúng đệ tử Phật có người hay thọ trì những kinh điển như vậy siêng tu tinh tiến, mặc dầu họ còn thọ chứa tám vật bất tịnh, chứa nuôi vợ con vàng bạc ruộng vườn nhà cửa người ở làm công, chúng
tôi vì chánh pháp nên cũng sẽ thủ hộ họ, ngăn các ác quỷ chẳng cho đến gần nhiễu hại. Xứ nào có kinh điển nầy, chúng tôi làm cho đất đai mầu mỡ, nhựt nguyệt tinh tú chẳng trái vượt thường độ, oán thù binh cách đều tiêu phục. Nhơn dân nam nữ lớn nhỏ đều ưa thích thọ trì đọc tụng các kinh điển nầy, họ trì giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến.
Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy nên tất cả chư Thiên thích ở nhơn gian. Người trì kinh ấy chết liền được sanh cõi Trời, làm cho chư Thiên tăng trưởng sắc, lực và thọ mạng, những ác tướng diệt hêt không còn thừa sót. Người không tin tôi có
thể khiến họ tin.
Nếu hàng tứ chúng đệ tử phật, với kinh điển như vậy chẳng thể thọ trì đọc tụng thơ tả, chẳng ưa tịch tĩnh, chẳng thiện tư duy, thích cầu cúng dường, chẳng trì tịnh giới, lười biếng kiêu mạn, tâm không tàm quí gần kề hàng bạch y. Tỳ Kheo như vậy dùng sức lực của cải thế tục huỷ báng đệ tử Phật hoặc đánh hoặc giết, hoặc trói hoặc mắng, đến vua đến quan nói lỗi xấu. Hàng đệ tử phật nghe sự ấy rồi sanh tâm đại ác. Sanh ác tâm rồi, các thiện quỉ thần bỏ xứ ấy qua xứ khác, do đây ác quỷ được tiện lợi. Ác quỷ được tiện lợi rồi, các nước hưng binh đánh lẫn nhau, mưa gió xấu ác làm cho xứ ấy mất mùa nhơn dân đói kém, cướp giết lẫn nhau”.
Bấy giờ chư Bồ Tát thập phương thế giới bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai vì các chúng sanh ở thế giới ngũ trược như vậy mà chế cấm giới. Duy nguyện Như Lai vì chánh pháp còn lâu mà chế cấm giới, đó là thân giới, khẩu giới, ý giới, chẳng được thọ chứa vật bất tịnh, chẳng được ác tâm đâú tranh,
chẳng được gần kề vua quan trưởng giả thọ chứa tất cả vật của người tục, như các Phật độ khác đã chế cấm giới”.
Đức Phật nói: “Thôi thôi, Phật tự biết thời. Nầy các thiện nam tử! Nhơn duyên chưa phát xuất, thì Như Lai chẳng dự chế cấm giới”.
Đức Phật bảo vua Tần Bà Sa La rằng: “Nầy Đại Vương! Quốc pháp của nước vua, thế nào gọi là đại tội, sao gọi là tiểu tội?”.
Vua Tần Bà Sa La nói: “Bạch đức Thế Tôn! Quốc pháp nước tôi có bốn trọng tội:
Một là giết chết người. Hai là trộm đến năm tiền. Ba là dâm phụ nữ khác và bốn là vì năm tiền mà ở bên vua bên đại chúng cố ý nói dối.
Bốn tội như vậy, người phạm bị tử hình”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment