Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 56
PHÁP HỘI VĂN THÙ SƯ LỢI THỌ KÝ
THỨ MƯỜI LĂM
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu một pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát phải thích học theo đức Bất Động Như Lai lúc làm Bồ Tát tu hành lập thệ nguyện rộng lớn rằng : Tôi sanh vào xứ nào, lúc sơ sanh nếu chẳng xuất gia thì là khi dối chư Phật mười phương. Chư Bồ Tát phải học theo như vậy. Hoặc có Phật xuất thế hay không có Phật xuất thế, tất cả đời sanh vào xứ nào đều quyết định xuất gia. Tại sao ? Vì chỗ tối thắng của Bồ Tát là xuất gia vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Người thích xuất gia hay nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười ?
Một là chẳng nhiễm lấy các dục lạc.
Hai là ưa thích nơi a lan nhã.
Ba là thật hành chỗ sở hành của Phật.
Bốn là rời lìa việc làm của phàm phu
Năm là chẳng nhiễm lấy vợ con và tài sản
Sáu là rời lìa nhơn nghiệp ác đạo.
Bảy là tu tập các pháp thiện đạo
Tám là căn lành đời trước đều chẳng tổn giảm.
Chín là luôn được chư Thiên khen tặng.
Mười là tất cả quỉ thần đều cung kính thủ hộ.
Nếu Bồ Tát thường thích xuất gia thì được mười thứ công đức như vậy. Vì thế nên Bồ Tát có trí cầu Bồ đề muốn độ chúng sanh thường phải xuất gia. Đây gọi là Bồ Tát thành tựu một pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu hai pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát chẳng thích Thanh Văn địa chẳng cầu Thanh Văn thừa, chẳng ưa thích nói pháp Thanh Văn
thừa, chẳng gần gũi người Thanh Văn thừa, chẳng học giới Thanh Văn, chẳng thích nói pháp cùng tương ưng với Thanh Văn thừa, cũng chẳng khuyên người hành Thanh Văn thừa. Với Duyên Giác thừa, Bồ Tát chẳng ưa thích cũng như vậy. Bồ Tát chỉ vì Phật pháp khuyến phát chúng sanh thành tựu tối thượng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là hai pháp vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có ai khuyên người xu nhập Phật thừa, Bồ Tát nầy có thể nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười ?
Một là được quốc độ thanh tịnh không có Thanh Văn và
Bích Chi Phật.
Hai là được thuần một chúng Bồ Tát thanh tịnh.
Ba là được chư Phật Thế Tôn hộ niệm.
Bốn là thường được chư Phật xướng danh khen ngợi và thuyết pháp cho.
Năm là chỗ phát tâm đều rộng lớn.
Sáu là nếu sanh cõi trời thường làm Đế Thích hoặc Phạm Thiên Vương.
Bảy là nếu sanh nhơn gian thì làm Chuyển luân Vương.
Tám là thường thấy chư Phật.
Chín là được chư thiên và người mến nhớ.
Mười là nhiếp lấy vô lượng vô biên a tăng kỳ công đức. Tại sao ? Nếu có người hay khiến bao nhiêu chúng sanh toàn
cõi Đại Thiên
Tất cả đều được quả A La Hán, hoặc quả Duyên Giác. Nếu lại có người hay đặt một chúng sanh nơi Phật Bồ đề, thì công đức nầy nhiều hơn công đức kia. Tại sao ? Vì chẳng phải do Thanh Văn Duyên Giác
xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt. Thế gian nếu không Phật thì không có Thanh Văn Duyên Giác. Do Phật xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt và xuất sanh Thanh Văn Duyên
Giác. Vì thế nên Bồ Tát làm cho người an trụ trong Phật thừa thì được mười thứ công đức như vậy và được quốc độ thanh tịnh.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu ba pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nhiếp thọ Phật độ công đức trang nghiêm. Những gì là ba ?
Một là tôn trọng ưa thích an trụ a lan nhã.
Hai là không chỗ nhiễm trước mà làm pháp thí.
Ba là bền vững an trụ luật nghi thanh tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát an trụ giới luật thì được mười thứ vô úy. Những gì là mười ?
Một là vào tụ lạc vô úy.
Hai là ở trong chúng thuyết pháp vô úy.
Ba là ẩm thực vô úy.
Bốn là ra khỏi tụ lạc vô úy.
Năm là vào chùa vô úy.
Sáu là ở trong chúng ăn uống vô úy.
Bảy là giáo thọ vô úy.
Tám là thân cận Hòa thượng a xà lê vô úy.
Chín là đối với quyến thuộc của mình, từ tâm dạy bảo vô úy.
Mười là thọ dụng bốn sự y phục, uống ăn, mền mùng, thuốc men vô úy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Người an trụ giới luật, có lời nói ra mọi người đều tin nhận. Đây là mười thứ vô úy của Bồ Tát.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thuyết pháp tâm không có chỗ nhiễm trước thì hay nhiếp thọ mười thứ công đức. Những gì là mười ?
Một là chẳng sanh ác dục.
Hai là chẳng cầu người khác biết mình.
Ba là chẳng phát khởi tâm cầu danh.
Bốn là đối với nhà đàn việt tâm chẳng nhớ luyến.
Năm là chẳng trông nom giữ gìn nhà đàn việt.
Sáu là với tứ sự cúng dường rất hạ liệt cũng lấy làm vui đủ.
Bảy là thuyết pháp khiến người tin nhận.
Tám là được thiện thần ủng hộ.
Chín là chẳng sanh tà giác.
Mười là phát khởi tâm niệm Phật.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát tôn kính thích ở a lan nhã thì thành tựu mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười ?
Một là xa rời ngôn luận thế tục.
Hai là chuyên quên nhàn
tĩnh.
Ba là tâm duyên định cảnh.
Bốn là bỏ rơi những danh vụ.
Năm là mến ưa chư Phật.
Sáu là hằng thọ thiền định hỉ lạc.
Bảy là lúc tu phạm hạnh không có chướng ngại.
Tám là dùng ít công lực mà được tam muội.
Chín là giáo pháp được thọ chưa hề quên mất.
Mười là pháp nghĩa được nghe thảy đều biết rõ.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bốn ?
Một là như lời nói hay làm được, như việc làm hay nói được.
Hai là thường tự khiêm hạ.
Ba là xa rời bỏn xẻn và ghen ghét.
Bốn là thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát ấy như việc làm hay nói được có bốn điều lợi ích. Những gì là bốn ?
Một là trong miệng thường phát ra mùi thơm hoa sen xanh.
Hai là ngữ nghiệp thanh tịnh, lời nói không sai lầm.
Ba là tất cả thế gian đồng tin nhận.
Bốn là nhiếp thọ âm thanh viên mãn của Phật.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát khiêm hạ có bốn điều lợi ích :
Một là xa rời những thân súc sanh ác thú.
Hai là thọ khoái lạc vi diệu.
Ba là mưu ngầm giặc giữ đều chẳng hại được.
Bốn là kham thọ trời và người cung kính lễ bái.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát rời bỏn xẻn ganh ghét có bốn điều lợi ích :
Một là chẳng quên mất lòng bố thí.
Hai là lúc đói khát thì làm
nhà đại thí chủ.
Ba là thấy người trì giới đến thì tiếp rước dẫn vào.
Bốn là hoặc thọ người thí hay thí cho người không có ai ganh ghét.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ có bốn điều lợi ích :
Một là thường sanh tâm nầy : Tôi nhiếp chúng sanh phải cho họ lợi lạc, nay họ tự được lợi lạc nên tôi sanh lòng vui mừng.
Hai là chỗ có tài vật, vua quan nước lửa cướp giặc oán thân đều chẳng xâm đoạt được.
Ba là tùy sanh xứ nào của báu và các con thảy đều đầy đủ, vua chẳng còn đố kỵ huống là người khác.
Bốn là của cải chứa dùng đều vô tận.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu năm pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là năm ?
Một là Bồ Tát đến chỗ pháp sư thăm hỏi tu những công hạnh gì có thể được Phật độ thanh tịnh trang nghiêm ? Nếu được nghe, như lời tu hành.
Hai là do Bồ Tát trì giới thanh tịnh và nguyện lực nên sanh trong Phật quốc. Được sanh Phật quốc rồi quan sát nước ấy nhiều thứ trang nghiêm các thứ đồ dùng báu đẹp, chúng Thanh Văn và Bồ Tát thân tướng vi diệu. Đối với Phật cung kính tôn trọng bạch hỏi Bồ Tát tu những công hạnh gì được Phật độ rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm ? Được Phật dạy cho rồi như pháp tu hành.
Ba là Bồ Tát có trí hành, phải tịnh trí ấy, phải tấn hành ấy. Thế nào là tịnh trí ? Đó là ở nơi pháp năng duyên và pháp sở duyên xa rời trí Thanh Văn và Duyên Giác. Thế nào là tấn hành ? Đó là như chỗ được nghe quyết định tu hành, rời lìa chẳng tu hành.
Bốn là Bồ Tát khéo biết nhơn sanh tử và biết xuất ly. Nhơn sanh tử là chẳng chánh tư duy, đây là chỗ y chỉ của bốn điên đảo làm nhơn sanh tử. Xuất ly là chánh tu hành, với tất cả pháp chẳng sanh phân biệt đó là xuất ly vậy.
Năm là chỗ Bồ Tát biết rõ thể tánh chư Phật và tánh quốc độ đều chỉ có giả danh, giả danh cũng tịch diệt. Biết rõ như vậy nên chẳng sanh khởi tri tưởng.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu sáu pháp khiến mau được vô thượng Bồ đề, cũng hay nhiếp lấy Phật độ tối thượng :
Một là Bồ Tát làm đại thí chủ, bao nhiêu vật sở hữu trân ngoạn khả ái đều hoan hỉ bố thí chẳng tiếc, lại nghĩ rằng tôi làm bố thí lớn để viên mãn Đại thừa. Nghĩa là lúc cầu vô thượng Bồ đề, tất cả đều xả thí, lòng không luyến tiếc, đầy đủ thành tựu tư lương Bồ đề, bỏ thân mạng nầy còn chẳng hối tiếc, huống là tư sản vợ con. Nầy Xá Lợi Phất ! Cớ chi Như Lai được gọi là đấng Nhứt thiết trí ? đó là lúc tu Bồ Tát hạnh, nơi sở hữu của mình đều xả bỏ tất cả, do đó được Bồ đề rồi gọi là Nhứt thiết trí.
Hai là Bồ Tát tại gia hay xuất gia, thà bỏ thân mạng chớ trọn chẳng phá giới. Đem sự trì giới ấy cùng chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Trì giới như vậy tự cảm thấy vui mừng thích tu phạm hạnh, ngày đêm an vui càng siêng cầu pháp an trụ chánh tu hành, chán sợ tam giới mong cầu thoát ly. Dầu thấy sức yếu mà nhớ đến chúng sanh, họ cũng khổ như tôi, tôi sẽ gánh lấy gánh nặng ấy nhiếp lấy chúng sanh đặt tại Niết bàn an lạc. Trì giới như vậy lúc tự giác hỉ liền được tâm đại bi, nhẫn đến khi chưa được Nhứt thiết chủng trí chẳng bỏ tinh tấn xem như tự cứu lửa cháy đầu.
Ba là Bồ Tát mặc giáp nhẫn nhục rời cao mạn được sức đại nhẫn, nếu bị mắng hay đánh, tâm nhẫn thành tựu chẳng sanh sân hận. Giả sử có gậy lớn như núi Tu Di, có người cầm đánh mắng suốt cả ức kiếp cũng chẳng sanh lòng oán giận. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy chẳng theo Phật học, mà tôi thì đương theo Phật học, được họ đánh mắng bao nhiêu thêm lớn đại bi bấy nhiêu. Tôi phải mặc giáp hoằng thệ nhiếp thủ chúng sanh làm cho họ được giải thoát nhập Niết bàn, vì thế nên tôi chẳng nên sân hận. Bồ Tát lúc đương an trụ nhẫn lực như vậy thì thành tựu mười điều đầy đủ : một là chủng tánh, hai là tài sản, ba là quyến thuộc, bốn là sắc tướng, năm là thiện xả, sáu là thiện hữu, bảy là được nghe chánh pháp, tám là
như lời nói tu hành, chín là lúc
mạng chung được thấy chư Phật, mười là được thấy Phật rồi sanh lòng tin thanh tịnh.
Bốn là Bồ Tát vì muốn thành tựu thiện pháp nên kiên cố tự định thời khóa phát khởi tinh tấn, lại vì mỗi mỗi chúng sanh mà tận thuở vị lai ở trong sanh tử thứ đệ tu hành các hạnh tinh tấn chẳng mỏi mệt. Đem công nghiệp tự định khóa và đại bi ấy vì tất cả chúng sanh trong tất cả thời gian lúc còn lưu chuyển sanh tử chẳng bỏ chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Bồ Tát đem thất bửu đầy hằng sa thế giới mười phương, trong mỗi niệm, dâng lên đức Như Lai, cúng dường nối tiếp như vậy mãi đến tận vị lai tế.
Nếu có Bồ Tát phát tâm đại bi mặc giáp tinh tấn, công đức nầy nhiều hơn công đức kia.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát có đủ tinh tấn nầy thì được mười thứ pháp chi nguyện thù thắng. Những gì là mười ?
Một là rời lìa hạnh phàm ngu. Hai là nhiếp thọ hạnh Phật. Ba là thấy lỗi sanh tử. Bốn là an trụ tâm đại bi. Năm là chẳng thối thất tâm bổn nguyện. Sáu là ít bịnh tật. Bảy là thuận chư Phật giáo. Tám là mỏng nhẹ dâm nộ si. Chín là theo văn rõ nghĩa. Mười là tu hành thành tựu.
Năm là Bồ Tát nghĩ rằng chư Phật Như Lai tâm thường ở tại chánh định chưa hề thất niệm, tôi phải theo chỗ làm của Phật. Nếu tâm tán loạn thì trọn chẳng chứng được chỗ làm của Phật. Vì thế nên phải rời bỏ tất cả tâm chấp lấy, cũng bỏ tất cả lợi dưỡng cung kính tụ lạc thành ấp uống ăn đồ cần dùng và các thân hữu. Vì muốn lợi ích các chúng sanh nên chẳng bỏ chúng sanh. Thường ưa ở a lan nhã chỗ tịch tĩnh, độc hành không bạn như con tê giác một sừng. Ở chỗ tịch tĩnh rồi khởi tâm đại từ ban đầu khắp một phương rồi lần lần đến khắp mười phương đến khắp chúng sanh. Tâm từ khắp cả rồi được nhập thiền định.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có Bồ Tát tại gia đem tất cả đồ dùng đáng ưa thích cúng dường tất cả hằng sa chư Phật và Tỳ Kheo Tăng trong hằng sa kiếp. Nếu có Bồ Tát xuất gia đi bảy bước hướng đến chỗ a lan nhã tịch tĩnh, phước đức nầy hơn phước đức kia nhiều. Vì có thể mau được đại Bồ đề vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát ưa ở tịch tĩnh nhập thiền định thì được mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười ? Một là được niệm, hai là được huệ, ba là tu hành, bốn là biện luận mau, năm là được Đà la ni, sáu là khéo biết pháp sanh, bảy là khéo biết pháp diệt, tám là giới tụ chẳng phạm, chín là chư Thiên cúng dường, mười là chẳng tham sự tốt của người.
Sáu là Bồ Tát khéo biết trí huệ chẳng lưu, đó là trí huệ lấy giới làm đầu, pháp lành tăng trưởng lấy huệ làm đầu. Vì thế nên Bồ Tát phải học trí huệ. Thế gian có bao nhiêu tất cả công xảo khó làm khó thành, tất cả y dược đều học hết mà sự thông hiểu nầy chẳng chứng nhập được ly dục tịch diệt, cũng chẳng thể xu hướng Bồ đề, chẳng phải hướng Sa Môn, Bà La Môn, chẳng phải xu hướng Niết bàn. Vì thế nên nay tôi phải lại khắp cầu công xảo pháp dược, do trí nầy khiến tôi được cứu cánh tịch diệt. Bồ Tát cầu pháp bổn : chẳnh thấy chút pháp hay khởi được pháp. Do chẳng thấy nên an trụ nơi tịch diệt. Do an trụ tịch diệt thì không nhiệt não. Do không nhiệt não nên biết rõ sanh tử, vì chúng sanh mà thọ sanh để làm cho chúng sanh trừ diệt khổ sanh tử vậy. Đây là sáu pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu bảy pháp khiến sở hữu chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bảy ?
Một là tự bỏ tất cả, mà thí bất khả đắc vậy.
Hai là chẳng khuyết phạm, mà chẳng dính mắc nơi giới vậy.
Ba là nhẫn nhục nhu hòa, mà chúng sanh bất khả đắc vậy.
Bốn là phát khởi tinh tấn, mà thân tâm bất khả đắc vậy.
Năm là thành tựu thiền định, mà chẳng trụ nơi thiền vậy.
Sáu là trí huệ viên mãn, mà vô phân biệt vậy.
Bảy là tùy niệm chư Phật, mà xa rời tướng vậy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu tám pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là tám ?
Một là chẳng thích Niết bàn, hai là bố thí đồ trang nghiêm, ba là tâm quảng đại, bốn là tôn kính Pháp Sư, năm là chẳng làm tà mạng, sáu là bình đẳng ban cho, bảy là chẳng tự căng cao, tám là chẳng khinh miệt người.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu chín pháp khiến nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là chín ?
Một là đủ thân luật nghi, hai là đủ ngữ luật nghi, ba là đủ ý luật nghi, bốn là diệt các tham dục, năm là diệt các sân hận, sáu là diệt các ngu si, bảy là chẳng làm điều khi dối, tám là làm bạn kiên cố, chín là chẳng khinh mạn thiện tri thức.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu mười pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là mười ?
Một là nghe địa ngục khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Hai là nghe súc sanh khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Ba là nghe ngạ quỉ khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Bốn là nghe chư Thiên suy não chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Năm là nghe nhơn gian đói khát giặc cướp oán địch giết hại chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ.
Sáu là Bồ Tát tự nghĩ : Giờ đây tôi phải phát khởi tinh tấn, nhẫn đến chưa được Phật độ thanh tịnh trọn chẳng lười trễ.
Bảy là khiến trong nước tôi đồ uống ăn y phục theo ý niệm liền được.
Tám là các chúng sanh trong
nước tôi thọ mạng vô lượng.
Chín là các chúng sanh
trong nước tôi không tâm bỉ ngã.
Mười là bao nhiêu chúng sanh
trong nước tôi quyết định xu hướng Vô thượng Bồ đề.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Nếu Bồ Tát cầm hoa đẹp đến chỗ Như Lai, hoặc chỗ tháp Phật mà cúng dường thì nguyện rằng : Nguyện hoa đẹp nầy sắc hương thù thắng, người thấy hoa đều vui đẹp. Lúc tôi thành Phật, khiến trong nước tôi khắp nơi đầy những hoa đẹp như vậy, và những cây báu trang nghiêm mọi chỗ. Nhẫn đến hương bột hương thoa y phục uống ăn lọng báu tràng phan vàng bạc lưu ly chơn châu các thứ báu lúc dùng cúng dường cũng phải như hoa, hồi hướng công đức trang nghiêm Phật độ. Do vì Bồ Tát an trụ nơi giới luật nên tùy tâm sở nguyện đều được thành tựu.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát phải thường nhiếp lấy mười nghiệp đạo thiện đều hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên lúc Bồ tát thành phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh lúc
sơ sanh đều có đủ mười nghiệp đạo thiện và trí xuất ly.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát đến đâu cũng khuyên các chúng
sanh đều xu hướng Vô thượng Bồ đề. Chỉ ca ngợi Phật thừa mà chẳng nói đến nhị thừa và công pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các chúng sanh quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề, xa rời Thanh Văn và Bích Chi Phật. Có vô lượng Bồ Tát đầy trong nước ấy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát đối với lợi dưỡng của người chẳng hề ngăn dứt, thấy người được lợi thì vui mừng. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh có
những đồ vật cần dùng không hề đoạn dứt, đầy đủ được đại pháp quang minh.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni có ai
phạm tội thì trọn chẳng đem rao nói, chỉ tự mình an trụ trong chánh pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả không có danh từ tội lỗi. Tại sao ? Vì đại chúng trong nước ấy đều được thanh tịnh không có pháp tội lỗi.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thích pháp cầu pháp chẳng sanh nhiệt não, như pháp đã được nghe an trụ đúng mà tu hành. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả chúng sanh đều thích pháp cầu pháp không có nhiệt não, tu hành đúng pháp.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát đem các thứ âm nhạc cúng dường Phật pháp hồi hướng thiện căn về công đức trang nghiêm Phật độ. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy có trăm ngàn âm nhạc tự nhiên hòa tấu.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát nếu thấy chúng sanh thất niệm thì làm cho họ được chánh niệm. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các hàng đệ tử được thiền duyệt thực.
Nầy Xá Lợi Phất ! Phật độ công đức như vậy, đầy đủ biện tài Như Lai, hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp nói kể chẳng hết được.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nhưng nay Phật tùy theo chỗ thích muốn của chư Bồ Tát mà lược nói như vậy. Người có chí nguyện thù thắng nghe rồi xu hướng sẽ được viên mãn công đức Phật độ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát thành tựu ba pháp mau được Vô thượng Bồ đề cầu Phật độ đều được thành. Những gì là ba ? Một là đại nguyện thù thắng, hai là an trụ chẳng phóng dật, ba là như pháp được nghe phát khởi chánh tu hành".
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai hi hữu khéo nói pháp ấy. Vì đức Thế Tôn an trụ bất phóng dật nên được pháp Bồ đề phần. Vì an trụ chánh tu hành nên được đại Bồ đề. Vì an trụ thắng nguyện nên được Phật độ công đức trang nghiêm".
Đức Phật nói ; "Đúng vậy, đúng như lời ông nói. Như thuở trước, Phật dùng đại nguyện lực thành tựu Phật độ, vì chẳng phóng dật nên được đại Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chỉ có ngôn thuyết an trụ phóng dật mà chẳng chánh tu hành, người ấy còn chẳng đến được bực Thanh Văn huống là có thể được Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên Bồ Tát nếu muốn tự biết mình là chơn Bồ Tát thì như sở học của Bồ Tát phải học như vậy".
Bây giờ trong hội có bốn vạn Bồ Tát đứng dậy chắp tay hướng Phật mà đồng thanh bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã thọ ký chỗ học của Bồ Tát, chúng tôi sẽ học theo an trụ chẳng phóng dật tu hành thành tựu đầy đủ đại nguyện nghiêm tịnh Phật độ".
Đức Phật vui vẻ mỉm cười.
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật có duyên cớ gì mà hiện mỉm cười ?
Đức Phật hỏi : "Ông có thấy chư thiện nam tử sư tử hống ấy chăng ?".
Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật : "Vâng, đã thấy".
Đức Phật nói : "Nầy Xá Lợi Phất ! Các thiện nam tử ấy, quá trăm ngàn kiếp, đều riêng ở cõi khác được Vô thượng Chánh giác đồng hiệu Nguyện Trang Nghiêm Như Lai đủ mười đức hiệu cũng như đương lai Sư Tử Phật v.v... Cõi ấy thanh tịnh như nước của Vô Lượng Thọ Phật chỉ trừ thọ lượng đều thọ mười kiếp".
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát liền từ tòa đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi đồnh chơn Bồ Tát đây được chư Phật Thế Tôn thường khen tặng, bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề ? Phật độ sẽ được như thế nào".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Ông nên hỏi Văn Thù Sư Lợi".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng : "Chừng nào Ngài sẽ được Vô thượng bồ đề ?".
Văn Thù Sư lợi nói : "Sao Ngài chẳng hỏi tôi có xu hướng Bồ đề chăng mà lại hỏi tôi thành Bồ đề. Tại sao ? Vì ở nơi Bồ đề, tôi còn chẳng xu hướng huống là sẽ được".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi : "Ngài há chẳng vì lợi ích chúng sanh mà đến Bồ đề ư ?".
Văn Thù Sư Lợi nói : "Không. Tại sao ? Vì chúng sanh bất khả đắc vậy. Nếu chúng sanh là có thì có thể vì làm lới ích mà hướng đến Bồ đề. Nhưng chúng sanh thọ mạng va nhơn đều vô sở hữu, nên nay tôi chẳng đến Bồ đề cũng chẳng thối chuyển".
Sư Tử Dũng Mãnh nói :"Ngài có xu hướng chư Phật pháp chăng ?"
Văn Thù Sư Lợi nói : "Không. Thưa Ngài, tất cả các pháp đều xu hướng Phật pháp. Tại sao ? Các pháp vô lậu vô hệ vô hình vô tướng là xu hướng Phật. Như xu hướng Phật các pháp cũng vậy. Thưa Ngài ! Như lời Ngài hỏi xu hướng Phật pháp, nay tôi hỏi Ngài tùy ý Ngài đáp. Là sắc cầu Bồ đề ư ? Là sắc bổn tánh cầu, là sắc như cầu, là sắc tự thể cầu, là sắc không cầu, là sắc ly cầu, là sắc pháp tánh cầu Bồ đề ư ? Thưa Ngài ! Là sắc được Bồ đề ư ? Nhẫn đến là sắc pháp tánh được Bồ đề ư ?".
Sư Tử Dũng Mãnh đáp : "Không, thưa Ngài Văn
Thù Sư Lợi. Sắc chẳng cầu Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Sắc chẳng được Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng được Bồ đề".
Văn Thù Sư Lợi hỏi : "Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Thọ tưởng hành thức cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh cầu Bồ đề ư ? Thức được bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh được Bồ đề ư ?.
Sư Tử Dũng Mãnh đáp : "Không. Thưa Ngài Văn
Thù Sư Lợi ! Thọ tưởng hành thức chẳng cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Thức chẳng được Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng được Bồ đề".
Văn Thù Sư Lợi hỏi : "Rời lìa ngũ uẩn có ngã, ngã sở chăng ?".
- Không. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Đúng vậy. Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Lại còn lấy pháp gì để cầu Bồ đề và được Bồ đề !
- Thưa Ngài Văn Thù Sư lợi ! Lời Ngài nói đại chúng đều kính tin. Nay Ngài nói chẳng cầu Bồ đề chẳng được Bồ đề, hàng tân phát ý Bồ Tát nghe lời nầy sẽ sanh kinh sợ.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Tất cả pháp không có kinh sợ. Trong thiệt tế cũng không kinh sợ. Đức Như Lai vì người không kinh sợ mà thuyết pháp. Nếu người kinh sợ thì họ sanh nhàm. Nếu sanh chán nhàm thì họ ly dục. Nếu ly dục thì họ giải thoát. Nếu giải thoát thì không Bồ đề. Nếu không Bồ đề thì là vô trụ. Nếu họ vô trụ thì là vô khứ. Nếu vô khứ thì là vô lai thì là vô nguyện cầu. Nếu không nguyện cầu thì chẳng thối chuyển. Nếu chẳng thối chuyển thì là thối chuyển. Thối chuyển những pháp gì? Đó là chấp ngã chúng sanh thọ mạng và nhơn, hoặc đoạn hoặc thường thủ tướng phân biệt thảy đều thối chuyển cả. Nếu kia thối chuyển thì là chẳng thối chuyển. Chẳng thối chuyển những pháp gì ? Đó là không vô
tướng vô nguyện thiệt tế và các Phật pháp đều chẳng thối chuyển. Sao gọi là Phật pháp ? Nghĩa là chẳng rời chẳng dính và không sở duyên, không nhập không xuất không có sở hành cũng không biểu thị, chỉ có giả danh, không, vô sanh, vô khứ vô lai, vô nhiễm vô tịnh, không trần, lìa trần, không ngã, không phân biệt, không hòa hiệp, không chấp thủ, bình đẳng không trái, đây là Phật pháp.
Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Các Phật pháp ấy chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Tại sao ? Vì các Phật pháp không chỗ sanh vậy. Hàng tân phát ý Bồ Tát kia nghe lời nầy nếu sanh kinh sợ thì mau được Bồ đề. Nếu khởi tâm phân biệt mà nghĩ rằng nay chúng tôi được thành Bồ đề, tùy có phát tâm an trụ nơi hiện chứng mới được Bồ đề. Nếu chẳng phát tâm thì trọn chẳng được. Vì các phân biệt nầy đều chẳng sanh nên Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc thì vô phân biệt. Nếu vô phân biệt thì không hiện chứng. Tại sao ? Vì sở nhơn hiện chứng bất khả đắc vậy.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Hư không có thể được Bồ đề chăng ?
- Không, thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Đức Như Lai há chẳng nói tất cả pháp đồng hư không ư ?
- Đúng vậy. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Như hư không Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề hư không cũng vậy. Hư không với Bồ đề không hai không khác. Nếu Bồ Tát biết nghĩa bình đẳng nầy thì không có tri cũng không bất tri cũng không bất kiến".
Lúc nói pháp ấy, có một vạn bốn ngàn Tỳ Kheo tận các lậu tâm được giải thoát, mười hai na do tha Tỳ Kheo xa
trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, chín vạn sáu ngàn chúng sanh phát tâm Bồ đề, năm vạn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn.
Sư Tử Đũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: "Từ khi Ngài phát tâm Bồ Tát đến nay được bao nhiêu thời gian?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : "Thôi đi, Ngài chớ sanh vọng niệm. Nếu có ai ở trong pháp vô sanh mà nói rằng tôi phát tâm Bồ đề, tôi làm hạnh Bồ đề là đại tà kiến.
Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Tôi trọn chẳng thấy có tâm phát hướng Bồ đề. Do chẳng thấy tâm và Bồ đề nên không có phát".
Sư Tử Dũng Mãnh hỏi : "Ngài Văn Thù Sư Lợi trọn chẳng thấy tâm, đó là cú nghĩa gì
?".
Văn Thù Sư Lợi nói : "Thưa Ngài ! Là trọn chẳng thấy gọi là bình đẳng.
- Thế nào nói là bình đẳng ? Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi.
- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Bình đẳng như vậy bởi các thứ tánh đều vô sở hữu. Các pháp ấy vì là một vị nên nói. Một vị nói ấy, đó là rời lìa vậy, không nhiễm không tịnh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng sanh chẳng diệt, không ngã không thọ, chẳng thủ chẳng xả. Thuyết pháp như vậy, chẳng quan niệm tôi nói cũng không phân
biệt. Ở trong pháp bình đẳng ấy mà biết rõ tu hành thì gọi là bình đẳng.
Lại nữa, thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh ! Nếu Bồ Tát nhập vào bình đẳng ấy thì trọn chẳng thấy có các thứ giới hoặc ít hoặc nhiều. Ở trong bình đẳng chẳng thấy bình đẳng, ở trong tương vi chẳng thấy tương vi. Tại sao ? Ví nó bổn lai tánh thanh tịnh vậy".
Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chẳng chịu nói mình phát tâm bao lâu
mà đại chúng đều muốn nghe".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam tử ! Văn Thù Sư Lợi là bực trí nhẫn thậm thâm. Ở trong trí nhẫn thậm thâm ấy, Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên chẳng nói. Nhưng nầy thiện nam tử ! Nay Phật sẽ nói Văn Thù Sư Lợi phát tâm lâu mau. Nầy thiện nam tử ! Thuở quá khứ lâu xa quá bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng sa kiếp, có Phật hiệu Lôi Âm Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất thế tại phương Đông cách đây bảy mươi hai na do tha Phật độ, thế giới ấy tên Vô Sanh, Lôi Âm Như Lai thuyết pháp tại đó. Chúng Thanh Văn có tám
mươi ức na do tha. Chúng Bồ Tát nhiều gấp bội.
Bấy giờ có vua tên Phổ Phúc đủ bảy báu trị bốn thiên hạ với chánh pháp lý làm Chuyển Luân Vương. Trong thời gian tám vạn bốn ngàn năm, vua Phổ Phúc thường cung kính cúng dường Phật Lôi Âm với những y phục uống ăn cung điện đền đài đẹp tốt, cũng thường cung kính cúng dường chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn.
Thân tộc của vua, nội cung thể nữ vương tử đại thần chỉ chuyên lo cúng dường mà không làm gì khác. Dầu thời gian nhiều năm mà không ai mỏi nhọc.
Sau thời gian ấy, nhà vua ở vắng một mình suy nghĩ : nay tôi
đã nhóm họp căn lành quang đại mà còn chưa định chỗ hồi hướng, vì cầu Đế Thích, Phạm Vương, Chuyển Luân Vương chăng ? Vì cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật chăng ?
Lúc vua nghĩ như vậy rồi, trên không có chư Thiên bảo rằng : Đại Vương chớ phát khởi tâm kém hẹp ấy. Tại sao ? Vì phước đức của vua đã họp được rất nhiều, vua nên phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nghe lời khuyến cáo ấy, vua Phổ Phúc vui mừng nghĩ rằng nay tôi ở nơi đây quyết định chẳng lui, vì chư Thiên biết lòng tôi nên đến khuyến cáo. Nhà vua đem tám mươi ức na do tha trăm ngàn người đến chỗ Phật Lôi Âm, đảnh lễ chưn Phật, hữu nhiễu bảy vòng, cúi mình cung kính
chắp tay nói kệ bạch Phật :
"Nay tôi lễ Thế Tôn
Mong vì tôi chỉ dạy
Làm sao được thành tựu
Đấng Thế Tôn tối thượng
Chỗ nương nhờ cho đời
Tôi đã rộng cúng dường
Bởi tâm chẳng quyết định
Chưa biết chỗ hồi hướng
Tôi đã tu phước lớn
Nên hồi hướng chỗ nào
Là cầu ngôi Chuyển Luân
Đế Thích hay Phạm Vương
Là cầu quả Thanh Văn
Hay cầu Bích Chi Phật
Lúc tôi nghĩ như vậy
Trên không chư Thiên bảo
Đại Vương chớ nên phát
Tâm hồi hướng kém hẹp
Nên vì các chúng sanh
Mà phát nguyện rộng lớn
Vì lợi ích thế gian
Nên phát tâm Bồ đề
Nay tôi thỉnh Thế Tôn
Đấng Pháp Vương tự tại
Mong nói các phương tiện
Phát khởi tâm Bồ đề
Phát tâm Bồ đề rồi
Sẽ được như Thế Tôn
Duy nguyện đức Thế Tôn
Vì tôi tuyên nói đủ".
Bấy giờ đức Lôi Âm Như Lai vì vua Phổ Phúc mà nói kệ rằng :
"Đại Vương nên lắng nghe
Phật sẽ thứ đệ nói
Tất cả pháp nhơn duyên
Tùy căn dục thật hành
Như sở nguyện đã có
Được quả báo như vậy
Phật ở thuở quá khứ
Cũng phát tâm Bồ đề
Vì tất cả chúng sanh
Nguyện làm lợi ích họ
Như chỗ Phật phát nguyện
Như xưa đã phát tâm
Được bất thối Bồ đề
Ý nguyện mau viên mãn
Đại Vương phải kiên cố
Tu tập các công hạnh
Vua sẽ được vô thượng
Phật Bồ đề quảng đại".
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment