Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 25
PHÁP HỘI
MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM
THỨ BẢY
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Tất cả chư Bồ Tát
Chẳng trụ ở các pháp
Ở nơi trong Phật Pháp
Không có chỗ an lập
Tất cả chư Bồ Tát
vì không chỗ an lập
Nên ở trong phật pháp
Vô úy mà hướng đến
Tất cả chư Bồ tát
Thấy tất cả Phật Pháp
không có trụ không xứ
Là diệu thiện an lập
tất cả chư bồ tát
chẳng an trụ ở xứ
có thể thấy các pháp
không an trụ không thối
tất cả chư bồ tát
thấy pháp không an trụ
nơi phật pháp chẳng động
nơi phật pháp chẳng cầu
tất cả chư bồ tát
thấy pháp không biến dị
nơi phật pháp chẳng động
cũng chẳng có suy tầm
Tất cả chư Bồ Tát
thấy các pháp như vậy
Ở nơi pháp thiện xảo
Phương tiện mà an trụ
Tất cả chư Bồ Tát
thấy pháp thường bình đẳng
Nơi phật pháp chẳng trụ
cũng chẳng phải chẳng trụ
Thường không có trụ xứ
cũng chẳng phải không xứ
thường chẳng có phân biệt
chẳng phải chẳng phân biệt
Tất cả những phân biệt
Thường là vô sở hữu
Tất cả chư Bồ Tát
tương ưng với vô trụ
nơi những thời những xứ
Mà khôngcó sở động
tất cả chư Bồ Tát
ở trong pháp lý thú
lúc an trụ bình đẳng
thì gọi là thiện trụ
tất cả chư Bồ Tát
ở trong pháp lý thú
chẳng thấy có chút pháp
có thể bình đẳng trụ
tất cả chư bồ tát
có thể thấy các pháp
đều không có xứ sở
cũng chẳng rời xứ
được không có sở động
cũng chẳng có thân cận
tất cả chư bồ tát
ở trong tất cả pháp
lý thú được thiện xảo
phương tiện mà an trụ
thì gọi là bồ tát
tất cả chư bồ tat
chẳng ở nơi chút pháp
hoặc khứ hoặc là lai
phân biệt mà an trụ
bấy giờ mới an trụ
tất cả pháp lý thú
tất cả chư bồ tát
nơi các pháp lý thú
Tất cả thứ an trụ
Có thể khởi vô biên
Những ánhsáng đại pháp
Do ánh sáng đại pháp
An trụ bình đẳng kiến
Thấy tất cả các pháp
và các pháp lý thú
như hư không trong sạch
như bóng cũng như tượng
Bình đẳng không cấu nhiễm
Tất cả chư bồ tát
Ở nơi thấy biết rõ
Cũng không có biết rõ
Xa rời nơi tự tánh
Tất cả chư Bồ Tát
Hay quán sát như vậy
Ở trong tất cả pháp
Lý thú mà an trụ
Có thể ở pháp giới
kiên cố siêng tu tập
Thì gọi là pháp giới
Lý thú thiện phương tiện
Tấ cả chư Bồ Tát
Chẳng an trụ pháp giới
Quan sát các pháp giới
Rốt ráo chẳng phải có
Tất cả chư Bồ Tát
Quyết liễu nơi các pháp
Thấy tất cả các pháp
Như hư không như phong
Dầu không có an lập
Mà khắp tất cả chỗ
Pháp giới cũng như vậy
Khắp ở tất cả chỗ
Pháp giới khó nghĩ bàn
không thể hiện bày được
Ở nơi các người trí
Chẳng có làm thân cận
Giới không có thị hiện
Mới gọi là pháp giới
Không có chỗ trụ xứ
Mới gọi là an trụ
Pháp giới không có sanh
Không mạng không lão
không tử không thăng trầm
Cũng không có xuất ly
Pháp giới chẳng nghĩ bàn
không lai không có khứ
pháp giới chẳng phải uẩn
Chẳng phải giới và xứ
Cũng chẳng rờu giới xứ
Mà không có sở động
Pháp giới thường như như
Tự tánh chẳng phải có
Tất cả chư Bồ Tát
Hay biết rõ như vậy
pháp giới khó nghĩ bàn
Được ánh sánh đại pháp
Do đây mà hướng đến
Qua đến tại đạo tràng
Mà ở nơi các pháp
Không còn có nghi hoặc
Chẳng có bị sở động
Dùng ánh sáng đại pháp
Làm cho các chúng sanh
Đều được đại an lạc”.
Đức Thế Tôn phán tiếp: “Này Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát có thể ở nơi pháp thậm thâm như vậy mà siêng tu tập, thì được ánh sáng đại pháp như vậy. Dùng trí huệ ấy hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Lại này Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá hai a tăng kỳ kiếp, lúc ấy có đức Phật xuất thế hiệu là Nguyệt đăng vương như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp ấy tên Cam Lộ, Quốc Độ tên Thanh Tịnh.
Cõi nước ấy bằng pha lê thường có ánh sáng chiếu khắp nơi. Nếu có chúng sanh nào gặp ánh sáng ấy thì được sạch sẽ đẹp đẽ đoan nghiêm, vì thế nên cõi nước ấy có tên là Thanh Tịnh, Không có tên thành ấp tụ lạc riêng. Trong nước ấy đường sá rất đẹp, dây vàng ngăn lối. Khoảng cách giữa các con đường tất cả đều đồng nửa câu lô xá. Trụ báu sáng chói, cây đa la đẹp đều số tám mươi bốn bày hàng trong mỗi khoảng cách ấy. Trong đó lại có bốn ao nước, quanh ao có lâu đài bảy báu là chỗ ở của nhơn dân. Che trên thì có linh võng, treo rũ thì xó dải lụa. đồ trân ngoạn đẹp lạ như Thiên cung.
Chúng sanh ở nước ấy tịch tịnh an lạc, đều đã thành tựu mười nghiệp đạo lành, dung mạo đoan nghiêm, thọ mạng dài lâu, tham sân si mỏng dễ khai ngộ, dùng chút ít phương tiện đã biết rộng các pháp.
Đức Phật Nguyệt Đăng Vương trụ thế mười câu chi tuổi. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế một câu chi năm.
Có mười hội thuyết pháp. Mỗi pháp hội đếu có hai mươi câu chi na do tha chúng Thanh Văn ở bực học địa, các chúng Bồ Tát hướng đến Nhứt thừa số đến vô lượng.
Này Vô Biên Huệ! Cây Bồ đề báu của đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai cao một trăm do tuần, chu vi năm mươi do tuần, góc bằng ngọc san hô, thân bằng ngọc lưu ly, nhánh bằng hoàng kim, lá bằng ngọc mã não. Đạo tràng dọc ngang đều một trăm do tuần, khắp vòng có bệ nền, bao quanh có lan can.
Cây đa la đẹp bày ngay thẳng, linh vàng lưới báu giăng che trang nghiêm.
Tòa đại Bồ Đề cao ba do tuần trải nệm êm nhuyễn, trăm ngàn diệu y xen rũ, hai mươi tràng phan dựng bày một bên.
Đức Phật Nguyệt Đăng Vương ngồi trên tòa đại bồ đề ấy mà chứng Vô Thượng Bồ Đề.
Thuở ấy nước Thanh Tịnh không có ba ác đạo và tên ác đạo, cũng không có các nạn và tên các nạn.
Đức Phật Nguyệt Đăng Vương thường ở trong tất cả các thế giói hóa hiện thân Phật chuyển chánh pháp luân.
Này Vô Biên Huệ! Đức Phật Nguyệt Đăng Vương có hai vị Bồ Tát: Một tên là Vân Âm, một tên là Vô biên Âm.
Hai vị Bồ TÁt ấy bạch đức Phật Nguyệt ĐăngVương rằng :
Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào chư đại Bồ Tat ở trong các tất cảpháp lý thú mà được thiện xảo phương tiện an lập ?
Vì muốn chư đại Bồ Tát ở trong tất cả pháp lý thú mà được thiện xảo phương tiện an lập nên đức Phật Nguyệt Đăng Vương vì hai vị Bồ Tát mà nói rộng pháp ấy.
Chư đại Bồ Tát nghe pháp ấy xong, ở trong tất cả pháp lý thú được thiện xảo phương tiện an lập.
Hai vị Bồ Tát Vân Âm và Vô Biên Âm
sau đó hai muôn năm không ngủ nghỉ, không tham dục, không sân não, chẳng tưởng đến ăn đến nằm, cũng không tưởng đến bịnh hoạn thuốc thang, chẳng thích vui chơi du ngoạn trong thế gian.
Lúc đức Phật Nguyệt Đăng Vương thuyết pháp, liền trên pháp tòa, hai vị Bồ Tát ấy được Vô sanh nhẫn.
Đức Như lai ấy hỏi hai vị Bồ Tát rằng: “ Này thiện nam tử! Ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập như vậy, các ông có cầu chăng?
Hai vị Bồ Tát ấy bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Con còn chẳng thấy có danh từ tất cả pháp lý thú thiện xảo an lập, huống là tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập.
Bạch đức Thế Tôn! Con cũng chẳng được tất cả pháp, con cũng chẳng được tất cả pháp an lập. Nơi tất cả pháp không có trụ không có chẳng trụ.
Bạch đức Thế Tôn! Con thấy như vậy đâu còn nên hỏi rằng: Ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập nhu vây, ông có cầu chăng ? Hay là chẳng cầu chăng ?
Bạch đức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập như vậy mà làm người cầu. Con cũng chẳng thấy có hoặc trong hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thú thiện xảo phương tiện mà an lập, con cũng chẳng thấy có pháp hoặc trong hoặc ngoài, hoặc trung gian, hoặc tất cả pháp, hoặc pháp lý thú thiện xảo phương tiện mà có thể an lập được.
Bạch đức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy nhẫn đến có chút pháp trong ngoài
trung gian lý thú thiện xảo phương tiện an lập mà có thể thân cận được.
Bạch đức Thế Tôn! Đã không có chút pháp
hướng đến được thân cận ở trong ấy con sẽ an lập cái gì?
Bạch đức Thế Tôn! Vì không có an lập nên chẳng phải tương ưng với an trụ hay chẳng an trụ, chẳng phải tương ưng với vô tận, vô sanh.
Bạch đức Thế Tôn! Con cũng chẳng thấy từ ai do ai chỗ nào lúc nào tâp ý thức của con hoặc sanh hoặc diệt. Sao lại còn nói rằng dùng tâm ý thức ở nơi tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập?
Này Vô Biên Huệ! Lúc hai vị Bồ Tát Vân Âm và Vô Biên Âm ở trước đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai bạch như vậy, có một ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, một ngàn câu chi Bồ Tat phát tâm Bô Đề.
Lúc ấy đức Phật Nguyệt Đang Vương lại bảo hai vị Bồ Tát rằng: “ Này thiện nam tử! Ông dùng vô trụ mà trụ, vô xứ mà trụ, ở nơi tất cả pháp lý thú, thiện xảo phương tiện an lập.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp cũng lại như vậy. Vì tùy thuận thế tục đạo mà đức Như Lai hiện chứng Vô thượng Bồ Đề. Nếu là ở nơi đức Như Lai thì chẳng theo thế tục đế cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử! Các pháp không có xứ cũng chẳng phải không có xứ. Nếu là xứ và không có xứ đều là theo thế tục. Nếu theo thế tục thì ở trong ấy không có chút pháp để có thể sanh, để có thể thấy được.
Này thiện nam tử! Vì thế nên phải siêng năng tu tập ở nơi các pháp được chứng giải thoát.
Hai vị Bồ tát ấy ở trước đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai nghe pháp ấy rồi, hai Ngài bay lên hư không nói kệ khen ngợi đức Phật:
Pháp vương bất tư nghì
Đượcpháp vị tằng hữu
Đấng Biến Tri Lưỡng Túc
Phật pháp không quá trên
Do vì pháp vô thượng
Như lai đời không bằng
Tất cả pháp vô sanh
Nay con được nhẫn ấy
Con thường chẳng phân biệt
Hoặc sanh hoặc vô sanh
Cũng chẳng niệm như vậy
Tất cả vô phân biệt
Pháp Vương Đại Mâu Ni
Công đức rời ngôn niệm
Xin nói pháp thanh tịnh
Khiến chúng đều hoan hỉ
Nơi thắng đức của Phật
Muốn biết vi tế ấy
Dầu trải vô lượng kiếp
Cũng chẳng thể biết được
Vì công đức vô biên
Tối thắng không quá trên
Tất cả pháp vô sanh
Con cũng chẳng phân biệt
Con ở trong Phật pháp
chưa từng có hủy hoại
chẳng nói các thiện căn
Thế nào có thể được
Các pháp không thị hiện
Không sanh cũng không tướng
Vô tướng nhẫn như vậy
Ở đây cũng đều chứng
Nay nhẫn của con được
rốt ráo không thối chuyển
Nên ở nhứt thiết trí
Do đây sanhhoan hỷ
Nơi pháp của Như Lai
con quyết định không nghi
Cũng nơi tất cả pháp
Rời xa những nghi hoặc
Trong Phật Pháp Vô Thượng
Nay con được nhẫn ấy
Con cũng chẳng phân biệt
Cũng không chẳng phân biệt”.
Hai vị Bồ Tát ấy nói kệ xong, đi nhiễu bên hữu đức Nguyệt Đăng Vương ba vòng, đem hoa trời hương trời rải trên đức Phật.
Đức Nguyệt Đăng Vương Như Lai liền thọ ký rằng: Các ông Vân Âm và Vô
Biên Âm quá hai muôn kiếp sẽ chứng Vô Thượng Bồ Đề.
Hai vị Bồ Tát ấy nghe đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở qua sát kỹ đức Phật rồi nhập các thiền định du hí thần thông ẩn hiện tự tại khói lửa phát sáng. Hai Ngài lại vì chúng sanh thuyết pháp khai thị khiến hai muơi bốn câu chi Nhơn Thiên hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Hai vị Bồ Tát ấy trọn đời siêng tu phạm hạnh, ở nơi trung thời và hậu thời chánh pháp của đức Nguyệt đăng Vương đều có thể hộ trì. Trong thời kỳ ấy lại giáo hóa thành thục bốn câu chi chúng sanh hướng đên Vô thượng Bồ đề.
Quốc độ của Bửu Tràng Như Lai thanh tịnh, không có hàng Thanh Văn chỉ có những bực nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
Lúc Bửu Tràng Như Lai sắp nhập diệt mới thọ ký cho Vân Âm Bồ Tát kế sẽ thành Phật hiệu là Nhựt Đăng Vương Như Lai, cõi nước thành tựu trang nghiêm chứa nhóm vô lượng vô biên công đức, Bồ Tát Thanh Văn đại chúng viên mãn. Sau khi đức Nhựt Đăng Vương Như Lai diệt độ, Vô Biên Âm Bồ Tát kế sẽ thành Phật”.
Đức Phật phán tiếp: “Nầy Vô Biên Huệ Do vì pháp môn nầy vô sở đắc, vô ngôn thuyết nên chẳng thể hiển bày được, không sanh không diệt. Chư đại Bồ Tát phải đúng như lý chuyên cần tu tập.
Nếu có Bồ Tát an trụ nơi tất cả pháp lý thú thiện xảo phương tiện an lập, dùng vô sở đắc được vô sanh nhẫn viên mãn Phật pháp. Dùng vô lượng công đức để làm trang nghiêm mà hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Nầy Vô Biên Huệ! Ta chẳng bao giờ nói chư đại Bô Tát rời ngoài pháp ấy mà có riêng chút pháp nào có thể mau thành tựu nhứt thiết chủng trí.
Nếu có ai ở nơi pháp không thậm thâm vô sanh vô diệt ây mà siêng tu tập thì chóng được Bồ Tát pháp giới lý thú thiện xảo phương tiện và đà la ni, đầy đủ vô ngại biện tài vô thượng nhiếp hóa, được chư phật Thế Tôn đều khen ngợi, dùng pháp nghiêm cụ để trang nghiêm, có thể viên mãn bố thí, an trụ thanh tịnh trì giới, được thanh tịnh nhẫn, vô thượng tinh tiến, vô duyên thiền định, dùng đại trí huệ hướng đến Vô thượng Bồ đề, ở trong những thắng pháp là tối thù thắng, chóng được gọi là bực nhứt thiết trí, ngồi nơi đạo tràng, bốn Đại Thiên Vương mang lọng báu đến thỉnh chuyễn pháp luân, làm ánh sáng lớn cho hàng Nhơn Thiên, đều làm cho họ hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư đại Bồ Tát có thể ở nơi nhứt thiết pháp hải ấn tam muội mà siêng tu tập, thấy tất cả pháp đồng với pháp giới. Lúc thấy như vậy, chẳng ở nơi pháp giới thấy tất cả pháp, chẳng ở nơi tất cả pháp thấy pháp giới mà tinh tiến tu tập. Do tất cả pháp các giới hòa hiệp, thiện xảo phương tiện ở nơi tất cả pháp các giới hòa hiệp mà không chấp trước, cũng không sở động nơi tất cả pháp các giới hòa hiệp, thiện xảo phương tiện cũng không chấp trước cũng không phân biệt. Có thể ở trong tất cả pháp hòa hiệp mà thấy một pháp hòa hiệp. Chẳng ở trong một pháp hòa hiệp mà thân cận tất cả pháp hòa hiệp. Vì có thể biết rõ một pháp ấy nên cũng có thể biết rõ tất cả các pháp. Vì có thể biết tất cả pháp nên ở nơi một pháp ấy chỗ đáng được biết rõ cũng có thể biết rõ. Chẳng đem các pháp thân cận một pháp. Ở nơi trong các thủ uẩn hòa hiệp đều có thể biết rõ. Chẳng ở nơi các thứ tánh tướng của các thủ uẩn, hoặc có hòa hiệp hoặc không hòa hiệp mà sanh chấp trước.
Lúc thật hành như vậy, nếu có các pháp do các nhơn duyên hòa
hiệp mà sanh, nếu có các pháp do các nhơn duyên hòa
hiệp mà thành, nơi các pháp ấy đều có thể biết rõ. Nếu có các pháp nhơn duyên hòa hiệp do nhiều thứ tánh tương ưng nhau mà khởi, nơi các pháp ấy cũng có thể biết rõ, cũng không chấp trước mà tùy thuận biêt rõ. Tướng thi thiết của tất cả pháp cũng có thế biết rõ, hoặc là tướng hoặc là vô tướng cũng biết rõ
Các giới sai biệt, các giới nhiều thứ tánh tướng sai biệt cũng có thể biết rõ lấy gì làm nhơn.
Chẳng dùng phiền não để thân cận hướng đến các pháp duyên khởi.
Ở nơi pháp thế gian, pháp xuất thế gian, chẳng có chống trái mà tùy thuận biết rõ.
Tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian, tướng ấn thế gian, đều khắp biết rõ.
Dùng một pháp môn mà có thể biết rõ tất cả pháp môn. Dùng tất cả pháp môn lại có thể biết rõ một pháp môn.
Chẳng dùng các pháp môn để thân cận một pháp môn, cũng chẳng dùng một pháp môn để thân cận các pháp môn. Pháp môn như vậy đều có thể tịnh trị cả.
Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong các phap ấy, chư đại Bồ Tát siêng tu tập, dùng một môn lý thú ngôn giáo mà có thể biết rõ tất cả các pháp tánh đồng một vị, ở nơi các pháp được thắng vô tránh như lý tịch tịnh, chẳng còn chống trái, có thể ở giữa đại hội khen nói pháp ấy, siêng năng tu tập được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội. Tu tập như vậy, hoặc có tránh luận hoặc không tránh luận đều làm cho tịch tịnh, như lý mà an trụ, tùy thuận dứt trừ kiêu mạn và phóng dật, ở nơi giáo thuyết quyết định có thể khéo thọ trì, những danh ngôn sai biệt cũng có thể biết rõ, với pháp giới lý thú thì phương tiện siêng tu, nơi các pháp môn khéo yên lặng gẫm nhớ sẽ dùng pháp gì tương ưng với pháp gì hoặc là chẳng tương ưng, có thể dùng phương tiện nơi nghĩa quyết định an trụ thanh tịnh niệm.
Nầy Vô Biên Huệ! Ở nơi pháp môn ấy, chư đại Bồ Tắt an trụ như vậy, dùng chút ít gia hạnh được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội. Dùng vô lượng pháp hải ấn tam muội ấy để hướg đến Vô thượng Bồ để “.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Ông xem tất cả pháp
Chảy vào trong pháp giới
Các pháp đồng pháp giới
Lý thú đều bình đẳng
Lại xem nơi pháp giới
Chảy vào trong pháp giới
Pháp giới đồng các pháp
Lý thú cũng bình đẳng
Chẳng ở trong pháp giới
Quan sát tất cả pháp
Cũng chẳng rời pháp giới
Mà thấy tất cả pháp
Chằng ở trong các pháp
Quan sát nơi pháp giới
Cũng chẳng rời các pháp
Mà thấy nơi pháp giới
Biết rõ các thứ giới
Pháp giới các thứ tánh
Tất cả pháp hòa hiệp
Thiện xảo không chổ trụ
Tất cả thời và xứ
Các thứ tánh hòa hiệp
Không trụ không sở y
Cũng không có sở thủ
Hòa hiệp tánh sai biệt
Phân biệt chẳng phân biệt
Nơi hai ấy đều không
Người trí thấy bình đẳng
Vì biết một hòa hiệp
Nên biết các hòa hiệp
Vì biết các hòa hiệp
Nên biết một hòa hiệp
Hòa hiệp chẳng hòa hiệp
Một tánh sai biệt tánh
Chẳng thân cận phân biệt
Cũng không chấp không trước
Biết rõ tất cả pháp
Pháp ấy không hòa hiệp
Cũng chẳng niệm hòa hiệp
Không chấp không sở trước
Biết rõ tất cả chủng
Tướng thi thiết của nó
Cũng chẳng niệm thân cận
Không chấp không sở trước
Nghiệp và nghiệp quả báo
Tất cả đều biết được
Nơi ấy chẳng chống trái
Đây là người tinh tiến
Nghiệp và kẻ tác nghiệp
Tướng hòa hiệp của hai
Biết tướng vô tướng ấy
Đây là người tinh tiến
Nơi các giới hòa hiệp
Các giới tánh sai biệt
Biết nó thường bình đẳng
Đây là người tinh tiến
Tướng nhơn quả hệ thuộc
Tất cả đều biết được
Nơi các duyên pháp ấy
Mặc giáp như lý trụ
Biết được pháp xuất thế
Nơi các pháp thế gian
Không có chút trái nhau
Trụ bình đẳng như vậy
Cũng biết pháp thế gian
Nơi các pháp xuất thế
Cũng không chút trái nhau
Trụ bình đẳng như vậy
Thế gian chỗ nên làm
Tất cả các tướng ấn
Tùy thuận hay quan sát
Trụ bình đẳng biết khắp
Hay dùng một pháp môn
Biết rõ các pháp môn
Cũng dùng các pháp môn
Biết rõ một pháp môn
Chẳng dùng một pháp môn
Thân cận các pháp môn
Chẳng dùng các pháp môn
Thân cận một pháp môn
Trong tất cả pháp môn
Bình đẳng khắp thanh tịnh
Nơi pháp không dị tướng
Đây là người quan sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Mà hay bình đẳng nói
Thường trụ tánh bình đẳng
Đây là người quan sát
Nơi các pháp ngôn giáo
Như lý hay thấy biết
Bèn được khéo tương ưng
Đây là người phương tiện
Chẳng phát khởi tránh luận
Chẳng làm duyên tránh luận
Tất cả chẳng trái nhau
Đây là người tương ưng
Thường phát khởi vô tránh
Vô tránh được tương ưng
Bình đẳng chẳng trái nhau
Đây là người trí huệ
Ở trong pháp lý thú
Dứt hẳn các tránh luận
Mặc giáp như lý tu
Đây là người dũng mãnh
Khắp quan sát như vậy
Thuần một không trái cãi
Được ở trong pháp hội
Khen nói pháp vô thượng
Chư Bồ Tát nhu vậy
Thành tựu tất cả pháp
Đại hải ấn tam muội
Đây là người chánh niệm
Siêng tu tập như vậy
Thuần một không trái cãi
Dứt tránh luận tương ưng
Thành tựu tam muội ấy
Như lý mà an trụ
Hăy biết thuyết bí mật
Biết ngã và ngã mạn
Dứt mạn tuyệt căn cao
Trong ngôn giáo quyết định
Thành tựu thiện phương tiện
Cũng biết danh sai biệt
Đây là người có trí
trong các pháp lý thú
Như lý siêng tu tập
Hay thấy các pháp môn
Đây là người thấy pháp
Siêng tu tập như vậy
Hay biết tất cả pháp
Pháp gì cùng tương ưng
Pháp gì chẳng tương ung
Trong tất cả các pháp
Người niệm nghiệp thanh tịnh
Được ở nghĩa quyết đinh
Mà được thiện phương tiện
trong tất cả các pháp
Người tinh tiến tư duy
Biết rõ tất cả pháp
Mới được tam muội ấy ”.
Đức Phật phán tiếp: “Lại nầy Vô Biên Huệ Ở trong pháp ấy, chư đại Bồ Tát siêng tu tập lại có pháp năng nhiếp tam muội.
Lắng nghe lắng nghe! Ông phải khéo suy nghĩ. Ta sẽ giải thuyết cho ».
Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát bạch : « Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Con xin muôn được nghe.
Đức Phật phán : « Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát có môn pháp quang minh có thể xuất sanh chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện, cũng hay xuất sanh tất cả pháp ấn, hay nhập môn tất cả pháp ấn. Nơi tất cả pháp chỗ đáng được làm thì có thể biết có thể vào. Nơi pháp quang minh có thể được có thể nói. Dùng pháp quang minh tùy thuận thẳng vào môn chư pháp cú.
Gì gọi là môn pháp quang minh mà
có thể xuất sanh thiện xảo quang minh?
Đó là hay biết rõ giáo môn dị danh, giáo môn bí mật, sự môn dị danh, sự môn nhiếp thủ, các môn sai biệt.
Thế nào ở nơi đó mà được biết rõ thì có thể xuất sanh môn tam muội, môn tất cả pháp giới lý thú, nhập vào nơi một nghĩa có thể tùy theo biết rõ các pháp quang minh.
Này Vô Biên Huệ! Nơi các pháp lý thú thiện xảo phương tiện thâm thâm ấy, chư đại Bò Tát hoặc hiện nay tu hành, hoặc sẽ tu hành, hoặc hiện nay cầu, hoặc sẽ cầu, nghe pháp môn ấy dùng chút ít gia hạnh được đại quang minh nhập vào các pháp môn. Từ pháp môn ấy lại phát khởi quang minh. Dùng quang minh ấy tùy theo pháp môn nào, tùy theo sở hành nào đáng vào đáng
làm. Như pháp môn ấy, dùng sức tam muôị quan sát các pháp môn, nơi môn tam muội xuất sanh trí huệ mà có thể biết rõ lý thú như thiệt. Vì sức tam muội, vì quan sát pháp môn, vì
sanh trí huệ, dùng môn tam muội biết rõ pháp giới an trrụ thiện phương tiện hay phát khởi quang minh tất cả pháp môn, được tất cả pháp hải ấn tam muội.
Nầy Vô Biên Huệ! Thế nào là pháp môn ?
Đó là ấn chữ A, ấn tất cả pháp vô minh làm ra. Công
hạnh được viên mãn, chữ A làm đầu.
Vì ngăn dứt vô minh không có sở tác, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô tướng.
Dùng ấn chữ Ả, ấn tất cả pháp nghiệp dị thục quả, nghiệp chỗ làm ra nghiệp quả hòa hiệp, vì biết rõ nghiệp quả hòa hiệp duyên, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô duyên không nghiệp không quả không hòa hiệp.
Dùng ấn các hành ấn tất cả pháp, vì phát khởi tất cả pháp trí quang minh nơi các thứ nghiệp, nghiệp chỗ làm ra, nên chư đại Bố Tát phải nhập vào ấn môn tất cả các hành thiện xảo, dùng ấn chữ NẢ ấn tất cả pháp.
Dùng chữ MẠ trợ giúp thi thiết danh môn, dùng các thứ pháp mà làm tương ưng, vì biết rõ NẢ và MẠ trợ giúp lẫn nhau nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô hiệp vô trợ vô danh.
Dùng ấn vô biên ấn tất cả pháp, tất cả phân biệt là bất khả đắc, vì rời phân biệt, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô phân biệt.
Dùng ấn vô tế ấn tất cả pháp tế chẳng hòa hiệp, vì tận nơi tế, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô tầm vô từ vô ngôn thuyết.
Dùng ấn không các thứ tự tánh ấn tất cả pháp, vì dùng tướng khởi tác của một tự tánh dứt trừ các thứ tự tánh tưởng, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn chủng chủng tự tánh.
Dùng ấn muốn tương ưng hòa hiệp ấn tất cả pháp, vì hiện khởi hữu vi các công hạnh viên mãn ly dục tịch tịnh không hòa hiệp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn trí tận tham dục thấy không hòa hiệp.
Nầy Vô Biên Huệ! Đó là ấn môn đại Bô Tát ấn tất cả pháp. Do ấn môn nầy mà phải nhập vào trong tất cả pháp.
Nầy Vô Biên Huệ! Lại còn có môn vô chướng ngại, môn vô hòa hiệp, mà chư đại Bồ Tát phải tùy theo ngộ nhập.
Thế nào là môn vô chướng ngại, môn vô hòa hiệp? Dùng hư không ấn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô trước.
Dùng ấn không nhàn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô nhị.
Dùng ấn tịch tịnh ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn chỉ tức.
Dùng ấn vô môn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn bất động.
Dùng ấn vô xứ ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô nhiễm.
Dùng ấn tánh không ấn tất cả pháp nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn vô đắc.
Dùng ấn vô tướng ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tátphải nhập vào ấn môn thiện xảo tu tập phương tiện.
Dùng ấn vô nguyện ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn thiện tịch tịnh nguyện quang minh.
Dùng ấn vô tham ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn khắp biết phân biệt như thiệt.
Dùng ấn vô sanh ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn sanh chánh trí thấy vô sanh.
Dùng ấn tịch diệt ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn ly uẩn.
Dùng ấn tận tướng ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn sanh tận.
Dùng ấn pháp giới ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn hiển hiện pháp giới thiện xảo.
Dùng ấn vô niệm ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn thiệt vô phân biệt bình đẳng.
Dùng ấn ly tánh ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn biết khắp tất cả tự tánh.
Dùng ấn Niết Bàn ấn tất cả pháp, nên chư đại Bồ Tát phải nhập vào ấn môn như thiệt tịch tịnh thuận diệt.
Nầy Vô Biên Huệ! Đó là chư đại Bồ Tát ở nơi môn tất cả pháp vô chướng ngại, môn chẳng hòa hiệp, môn vượt quá tất cả đọan kiến thường kiến, môn vô biên tế, môn tiền hậu tế, vì yểm ly vậy, vì tịch diệt vậy, vì chỉ tức vậy, vì thanh lương vậy.
Chư đại Bồ Tát ở nơi ấn môn tất cả pháp ấy tùy học tùy nhập. Vì khéo tu hành các pháp
môn ấy mà được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội.
Tam muội ấy tương ưng với ly như thiệt có thể nhiếp trí chư pháp thiện phương tiện.
Vì thế nên với ấn môn ấy, chư đại Bồ Tát phải khéo tu hành, an trụ nơi nhứt thiét pháp hải ấn tam muội quan sát tất cả pháp mà có thể xuất sanh vô lượng vô biên ánh sáng đại pháp.
Nầy Vô Biên Huệ! Ví như biển lớn, nước nhiều vô lượng, không ai có thể lường được dung lượng ấy.
Tất cả pháp cũng như vậy, trọn không có ai đo lường được.
Lại như biển lớn, tất cả các dòng nước đều chảy vào trong ấy.
Tất cả các pháp vào trong pháp ấn cũng như vậy. Thế nên gọi là hải ấn, ấn tất cả pháp đều vào trong tất cả pháp hải ấn, ở trong ấn ấy thấy tất cả pháp đồng pháp ấn.
Lại như đặi long và các chúng rồng, các chúng thân to lớn có được biển lớn vào được biển lớn, nơi biển lớn ấy dùng làm chỗ ở.
Cũng vậy, chư đại Bồ Tát ở nơi vô lượng trăm ngàn kiếp khéo tu các công hạnh mới nhập được ấn môn tam muội ấy, dùng ấn môn ấy làm trụ xứ, vì muốn chứng được các Phật pháp, vì khéo viên mãn Nhứt thiết trí nên thành tựu các pháp ấn môn như vậy.
Lúc chuyên cần tu học pháp môn ấy, chư đại Bồ Tát có thể tu học tất cả pháp môn và thấy tất cả pháp môn.
Vì ở tại pháp môn ấy nên có thể phát khởi ánh sáng các pháp, vào
trong biển tất cả pháp.
Vì thế nên pháp ấy gọi là nhứt thiết pháp hải ấn tam muội.
Lại như biển lớn là chỗ chứa họp những trân bửu lớn.
Cũng vậy, tam muội ấy là chỗ chứa họp tất cả pháp và pháp thiện xảo.
Nầy Vô Biên Huệ! Nếu có chúng sanh nào vì được tri kiến vô thượng của Phật, với tam muội ấy, hoặc đã cầu, hoặc sẽ cầu, hoặc hiện nay cầu, thì người ấy có thể cầu trí huệ nhứt thiết pháp hải viên mãn.
Do nghĩa ấy nên ta đem pháp ấn ấy phó chúc nơi ông.
Đời mạt thế năm trăm năm sau, lúc
chánh pháp diệt, ông dùng pháp ấn ấy để ấn các chúng sanh.
Vì chúng sănh nào được pháp ấn ấy ấn cho thì đều được chẳng thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề, thành tựu Phật pháp chóng ngồi đạo tràng chuyễn pháp luân vô thượng nối thạch giống Phật, tùy thuận an trụ nơi bực nhứt thiết trí, có thể ở nơi Đại bát Niết Bàn vô thượng mà bát Niết Bàn, khiến hàng Trời, Người thọ trì chánh pháp.
Nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư đại Bồ Tát muốn nhiếp lấy vô lượng công đức thù thắng như vậy, thì ở nơi pháp thậm thâm ấy phải chuyên cần ưa thích và không phóng dật.
Lại nầy Vô Biên Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá vô lượng a tăng kỳ kiếp, lại quá bội số ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Kiếp ấy tên là Thiện Trụ. Quốc độ tên là Duyệt Ý.
Trong kiếp ấy, chúng sanh thọ mạng chẳng hạn lượng được, an ổn giàu đủ, đều an trụ nơi thiện pháp. Vì thế mà kiếp ấy có tên là Thiện Trụ.
Cõi nước ấy rộng rãi nghiêm sức nhiều thứ đẹp lạ, người thấy đều vui hòa đẹp dạ, hương thơm lan khắp mọi nơi. Vì thế nên quốc độ ấy có tên là Duyệt Ý.
Trong bốn châu thiên hạ, ba châu đồng rộng tám muôn do tuần, trong mỗi châu có hai vạn thành. Mỗi thành rộng mười do tuần.
Chỉ có châu Diêm Phù Đề rộng một câu chỉ do tuần, có tám vạn thành, mỗi thành rộng hai mươi do tuần, những lâu đài tường rào khắp nơi, các thứ y thọ, vị thọ, hoa thọ, quả thọ, bửu đa la thọ trang nghhiêm thành ấp.
Trong nước ấy lại có tòa đô thành rộng rộng trăm do tuàn, hai muôn
khu vườn bao bọc quanh thành. Trong các khu vườn có những đầm ao đầy nước trong mát, hoa đẹp trái ngọt sum suê, hương thơm la µn khắp làm đẹp ý mọi người, chim muông hót kêu hòa nhã.
Thuỡ ấy đức Phật Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai ngụ trong một khu vườn thuyết pháp cho đại chúng.
Này Vô Biên Huệ,! Đức Siêu Quá Tu Di Quang Vươong Như Lai thọ mười tiểu kiếp. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, chánh Pháp trụ thế mãn một tiễu kiếp.
Thuở ấy, đức Phật Siêu Quá Tu Di Quang Vương thuyết pháp bốn hội. Mỗi pháp hội các chúng Thanh Văn trụ bực hữu học đều cớ năm trăm câu chi na do tha. Chư a la hán
và chư Bồ Tát đều có năm mươi câu chi na do tha.
Đức Như Lai ấy có hai vị Bồ Tát tên Dũng Mãnh Quân và Dũng Mãnh Lực.
Hai vị Bồ Tát ấy đầy đủ thần thông, được vô sanh nhẫn. Hai vị tiến lên bạch đức Phật ấy rằng:
Bạch đức Thế Tôn! Dùng những pháp gì để thành tựu nhứt thiết pháp hải ấn tam muội của đại Bồ Tát?
Đức Phật ấy đem cú môn này mà rộng tuyên thuyết. Lúc nói pháp ấy, có mưòi ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn. Hai vị Bồ Tát Dũng Mãnh Quân và Dũng Lực chứng nhất thiết pháp hải ấn tam muội và chứng nhứt tam muội và chứng tất cả tam muội của Bồ Tát. Do chứng như vậy, hai vị Bồ tát ấycó thể ở trong tất cả Phật độ hiển hiện thần thông biến hóa, phóng ánh sáng lớn, phát diệu âm thanh tịnh thuyết pháp cho chúng sanh và
thành thục được tám câu chi người hứơng đến Vô thượng Bồ đề.
Đức Siêu Quá Tu Di Quang Vương Như Lai thọ ký cho hai vị Bồ Tát ấy quá một trăm kiếp ấy, mỗi mỗi kiếp đều cúng dường phụng thờ năm trăm Như Lai. Nơi chánh pháp của chư Như Lai ấy, sơ thời, trung thời và hậu thời đều có thể thọ trì làm lợi ích lớn cho chúng sanh. Trong thời gian ấy thường nhứt tâm bất loạn, mỗi đời đều thọ hóa sanh, chẳng thối thất tam muội thần biến thuyết pháp độ các chúng sanh.
Quá trăm kiếp, hai vị Bồ Tát ấy lại gặp đức Vô Biên Công đức Như Lai, cúng dường thân cận, khéo hay du hí vô lượng tam muội thần biến giải thóat. Ở chỗ đức Vô Biên Như Lai, hai vị Bồ Tát ấy có tên là Ly Ưu và Thiện Trụ, theo đức Như Lai chuyển chánh pháp luân, giáo hóa
vô lượng vô số chúng sanh cho an trụ bực tam thừa. Đức Như Lai ấy lại thọ ký rằng:
Sau khi ta diệt độ, Ly Ưu sẽ chứng Vô thượng Bồ Đề hiệu là Tối Thắng Quang Minh Như Lai. Hai đức Như Lai ấy đồng thọ một kiếp. Quốc độ chứa họp vô lượng công đức.
Này Vô Biên Huệ! Nếu chư đại Bồ Tát nhứt thiết pháp hải ấn tam muội thì phải phát tâm lòng ưa thích, khởi đại tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, dùng chẳng pháong dật để tu hành”.
Lúc đó trong đại chúng lại có đại Bồ Tát tên là Huệ Nghĩa rờichỗ ngồi tiến lên bạch rằng:”Bạch đức Thế Tôn! Rất hi hữu, đức Thế Tôn vì muốn chư đại Bồ Tát được nhứt thiết pháp trí thiện xảo và được Như Lai Nhứt thiết trí, mà nói nhứt thiết pháp tam muội.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát được nhứt thiết pháp hải ấn tam muội thì quyết định sẽ được chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện, mau đến đạo tràng dùng biển lớn vô biên công đức ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề, cùng tăng đồng hàng. Có thể tiêu được sự cúng dường Như Lai tối thượng, vượt quá bực Thanh Văn, Bích chi Phật.
Đức Thế Tôn phán bảo Huệ Nghĩa đại Bồ Tát : « đúng như lời ông nói. Nầy Huệ Nghĩa! Chư đại Bồ Tát được nhứt thiết hải ấn tam muội thì được vô lượng công đức thù thắng. Nếu an trụ ở nhứt thiết pháp hải ấn tam muội, thì có thể dùng chư pháp lý thú thiện xảo phương tiện quyết định hướng đến Vô thượng Bồ đề.
Nầy Huệ Nghĩa! Ví như núi Tu Di Vương do các chất báu hiệp thành, mọc lên từ đại hải, cao tám muôn bốn ngàn do tuần đứng sừng sững chói sáng.
Cũng vậy, chư đại Bồ Tát do tam muội ấy khéo hướng đến phát xuất từ biển lớn tạng nhứt thiết pháp chói che tất cả, an trụ vô thượng, trong Trời Người thế gian rất tột sáng chói.
Lại như mặt trăng tròn sáng, tinh tú bao quanh.
Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có thể ở trong tất cả đại chúng Trời Người thế gian làm ánh sáng lớn.
Nầy Huệ Nghĩa! Ông xem pháp ấy có ai là chẳng ưa thích, chẳng phát khởi tinh tiến mà lại phóng dật! Chỉ trừ những chúng sanh hạ liệt phước bạc. Nếu các chúng sanh có đại trí huệ thì có thể thành tựu pháp rộng lớn ấy. Pháp rộng lớn ấy đầy đủ công đức được chư đại Bồ Tát nhiếp thủ như ta đã nói. Nếu có thể nhiếp được pháp tài rộng lớn ấy thì được sự thị vệ của hàng Trời và Người, và sự hộ niệm của mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát ».
Đức Thế Tôn bảo ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát : « Nầy Vô Biên Huệ! Nếu siêng tu học pháp ấy, chư đại Bồ Tát có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, trừ hết tất cả sự nghi hoặc, giải tất cả kiết sử, dứt bỏ các tập khí, đọan trừ các phiền não, vượt những tham ái, qua khỏi biển sanh tử, diệt hẳn tối tăm, rời hẳn kinh sợ, mau dùng thiện xảo biết được tâm của tất cả chúng sanh ».
Nói lời ấy xong, đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô số thế giới, sáng hơn cả ánh sáng của tất cả mặt trời mặt trăng.
Phóng ánh sáng ấy rồi, đức Phật lại phán : « Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát nếu có thể siêng tu hải ấn tam muội, cũng hiện đại thần biến, phóng đại quang minh, làm đại su tử hống diễn thuyết pháp ấy, vượt quá tam giới làm đại chiếu minh như ta ngày nay không khác ».
Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong đức Như Lai gia trì pháp ấy. Đời mạt thế, nếu có chúng sanh nào nghe tên pháp ấy sẽ được vô lượng vô biên công đức. »
Bấy giờ vì muốn gia trì pháp môn ấy, đức Thế Tôn lại phóng quang minh, lấy một ngón tay làm chấn động khắp cõi Đại Thiên khiến các chúng sanh được an lạc. Liền dó trong pháp hội, hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La,
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già rãi hoa trời, y trời. Các kỹ nhạc trời đồng thời hòa tấu. Vô lượng chư Thiên tay cầm y trời phất phới đầy trong hư không đồng thanh xướng rằng : Lạ thay, lạ thay! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có ai thọ trì pháp ấy thì kham thọ sự cung kính lễ lạy của tất cả chúng sanh.
Bấy giờ đức Thế Tôn lại phán rằng : « Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ mạt pháp, chúng sanh bạc phước chẳng được nghe giáp trụ trang nghiêm và tam muội trang nghiêm ấy. Nếu có chúng sanh nào có thiện phương tiện nhiếp đại tư lương mới được nghe.
Nếu ở nơi pháp ấy, ai siêng tu hành thì được tam thế chư Phật Thế Tôn nhiếp thọ.
Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ đại bố úy thuở mạt thế, pháp môn nầy ta phó chúc các ông. Ta ở trong vô số câu chi na do tha kiếp chứa họp các tạng pháp bảo vô thượng đầy đủ công đức vô biên an lạc, hiện nay các ông đều đã được, tất cả khổ uẩn các ông đều đã xả bỏ. Các ông dùng biển lớn vô biên công đức để chóng đến Vô thượng Bồ đề. »
Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát cùng năm trăm đại Bồ Tát và các cư sĩ Hiền Hộ thương chủ làm thượng thủ đồng đảnh lễ chưn đức Phật, bạch rằng : « bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi tùy theo năng lực mà thọ trì pháp đại Bồ đề của đức Như Lai để làm lợi ích lớn cho các chúng sanh đời mạt thế . »
Chư đại Bồ Tát đều rời chỗ ngồi đem những hoa đẹp rãi trên đức Phật, cởi diệu y trên thân dâng lên cúng dường mà bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đem thiện căn nầy hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được viên mãn pháp Bồ đề phần thành tựu nhứt thiết chủng trí của Như Lai. Nguyện cho chúng sanh đời mạt thế đều thành tựu tât cả thiện căn ».
Vì muốn tất cả đại Bồ Tát hoan hỷ, đức Thế tôn nói kệ rằng :
« Vì tất cả chúng sanh
Phát khởi lợi ích lớn
Trì Phật Bồ đề pháp
Pháp Vương sư tử hống
Trong đời mạt thế sau
Nếu những người cầu pháp
Nghe pháp rộng lớn ấy
Tất cả được an lạc
Như ta đã từng nói
Nếu người thấy pháp ấy
Nghe được khế kinh ấy
Thì được tùy ý thích
Nếu có người trí huệ
Tu tập thiện phương tiện
Nghe pháp tối thượng ấy
Thân tâm rất vui mừng
Nếu ở pháp hội nầy
Hiện tiền thấy ta nói
Được nghe pháp ấy rồi.
Khéo có thể ưa thích
Trong đời mạt thế sau
Sanh phước lớn cho ông
Vô số vô biên lượng
Rộng lớn không ngằn mé
Trong đời mạt thế sau
Nếu ai thọ trì được
Pháp của Pháp Vương nói
Được đức Phật nhiếp thọ
Trong đời mạt thế sau
Trì pháp Phật Bồ đề
Chính là người tối hậu
Trì pháp vô lượng Phật”.
Lúc đức Thê Tôn nói pháp ấy rồi, có vô lượng Bồ Tát được vô sanh nhẫn, vô lượng chúng sanh thành thục thiện căn.
Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát và chư đại Bồ Tát, tất cả thế gian, Trời, Người, A Tu La v. v…nghe lời dạy của đức Phật đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment