Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 46
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI
PHẨM TỲ LÊ GIA BA LA MẬT
Bấy giờ các tớ gái muốn xem xét cho rõ nên trở lại chỗ cũ coi trẻ sơ sanh ấy là loài gì ? Là Trời, Là Rồng hay Dạ Xoa ? Là Càn Thát Bà là A Tu La, là Ca Lâu La , là Khẩn Na La, là Ma Hầu La Già, là Cưu Bàn Trà, là Tất Xá Giá, hay là Nhơn Phi Nhơn ?
Thấy các nữ nhơn ây, trẻ sơ sanh lại phát ngôn rằng : Các chị dầu sợ chạy, nhưng tôi rất an vui. Trẻ ấy vì các nữ nhân mà nói kệ rằng :
Các người nên thích nơi nghiã lợi
Với nghiã lợi các người chớ sợ
Nay tôi sẽ cứu độ các người
Cho các người thoát khỏi tà đạo
Các người sẽ an ổn chớ sợ
Mà phải sợ trốn ác hũu trước
Nay tôi sẽ cứu độ các người
Cho các người thoát khỏi tà đạo
Nghe trẻ ấy phát ngôn như vậy, cha mẹ và mọi người đến bên trẻ ấy.
Trẻ ấy liền vì cha mẹ mà nói kệ rằng :
Trong nhà có những thứ
Tiền gạo rất rộng nhiều
Mau mang đến cho tôi
Cúng dường Phật và Tăng
Chư đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng Quán Như Lai
Trong khắp cả ba cõi
Không có ai sánh bằng
Chư đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng Quán Thế Tôn
Rộng tuyên dương diệu pháp
Làm lợi ích chúng sanh
Chư đại Thanh Văn kia
Cùng Thắng Quán Đạo Sư
Thân có đủ Băm hai
Tướng hảo đại trượng phu
Phật và Thanh Văn kia
Dường như hoa ưu đàm
Hơn ức câu chi kiếp
Khó được nghe danh hiệu.
Nghe trẻ ấy nói xong, cha mẹ trẻ ấy liền lấy trong nhà hai mươi câu chi của báu thượng diệu đem đến cho con mà bảo rằng :Của báu này là của cha mẹ cho con, tùy ý con kính
tin nơi đâu thì cúng dường.
Cha mẹ trẻ vì con mà nói kệ rằng :
Các của báu này là
Do cha mẹ làm ra
Tùy ý con kính tin
Mang đi mà cúng thí
Nào vàng nào trân bửu
Nhà ta chứa rất nhiều
Tùy ý con kính tin
Mau mang đi cúng dường
Nào y phục, ghế giường
Những vòng hoa hương thoa
Tùy ý con kính tin
Cứ hoan hỉ thí cúng
Nơi Phật và Pháp, Tăng
Những phước điền Vô thượng
Làm lợi ích quần sanh
Phải nên dưng cúng dường.
Trẻ ấy nghe kệ xong lại vì cha mẹ mà nói kệ rằng :
Nay tôi đến Thắng Quán
Đấng thế gian nương dựa
Sắp đặt cúng đường lớn
Để lợi ích quần sanh
Những ai muốn mong cầu
Phước vui người, trên trrời
Phải cùng tôi đồng đến
Chỗ Thắng Quán Như Lai.
Mọi người nghe trẻ ấy nói những lời trên đều kinh ngạc sao trẻ sơ sanh nầy có thể cùng người đối đáp luận bàn và có thể đi đứng được.
Nghe sự kỳ dị ấy, có tám muôn bốn ngàn người vân tập đến xem trẻ ấy là loài gì ? Là trời hay thần ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Bấy giờ trẻ liền cùng tám muôn bốn ngàn người trước sau vây quanh đồng đi đến chỗ Phật Thắng Quán. Lúc trẻ ấy trên đường đi đến chỗ Phật, do phước đức lực nên có mười ngàn lọng báu tự nhiên hiện ra trên không để che cho khỏi nắng. Khắp con đường ấy, trên không lại giăng màn lưới vàng, mưa hoa đẹp và bột hương mịn hơn cả hương của chư thiên thường dùng để rải, gió mát thổi nhẹ hiệp cùng hương trời rải khắp mọi nơi chẳng dứt. Trên đường chư Thiên đem các thứ nước thơm rưới lên dùng vải lụa báu quí và lưới vàng che trùm. Chư Thiên lại còn mưa hoa trời màu sắc chói sáng khắp đường dầy đến ngang gối. Hai bên đường tự nhiên có vô lượng trăm ngàn ao hồ đầy nước đủ tám đức mát mẻ. Trong các ao hồ mọc nhiều hoa đẹp như sen xanh, sen vàng, sen đỏ, sen trắng. Mặt nước ao hồ có nhiều giống chim lạ đẹp bơi lội, như các chim cưu, nhạn, oang ương. Lề đường có lan can bảy báu và những cây báu hàng liệt trang nghiêm. Giữa đại lộ lại có con đường lót hoa hiện trước mặt trẻ ấy để chờ trẻ ấy đi, vừa để chưn xuống hoa liền vọt lên đỡ chưn vừa cất lên hoa liền ẩn mất. Trẻ ấy đi trên đường hoa giây lát ngó ngoái lại đại chúng và nói kệ rằng :
Các người chớ đi nơi vô lý
Ngoài đường ta đây đều phi lý
Ta thường đi đường chánh lý nầy
Đến chỗ tối thắng hữu lý
Qua hơn vô lượng do tha kiếp
Mới nhờ một phước được thân người
Mới gặp một Phật hiện ra đời
Mới siêng tu được tịnh tín huệ
Trẻ ấy vì đại chúng nói kệ vừa dứt, trên không có tám vạn bốn ngàn đại Thiên Tử đồng thanh khen rằng lành thay lành thay ! Rồi nói kệ khen trẻ ấy :
Lành thay lành thay trí huệ lớn
Lời ngài vừa nói đúng chánh lý
Ngài dùng phía sau là vô lý
Người có chánh lý phải đi trước
Trẻ ấy nói kệ báo chư Thiên :
Chư Thiên các
Ngài vừa mách bảo
Chánh ngôn hữu lý cùng vô lý
Tôi hỏi các Ngài xin giải đáp
Thiệt nghiã của hữu lý vô lý
Chư Thiên nói
kệ báo trẻ ấy :
Nếu thích muốn ở nơi của báu
Chẳng thích ra khỏi chỗ sở hành
Là hạng phàm phu là vô lý
Họ đứng trước đường vào địa ngục
Nếu thích bỏ nhà để xuất gia
Phải bỏ dục lạc bỏ của báu
Người nầy hiện đời có chánh lý
Chẳng lâu mở được cửa giải thoát.
Trẻ ấy lại nói kệ báo chư Thiên :
Các ngài vừa nói lý vô lý
Thấy các Ngài toàn chưa hiểu rõ
Nghiã hữu lý vô lý như vậy
Tôi đã chánh khai ngộ rất sâu.
Nói kệ xong trẻ ấy đi thẳng đến chỗ đại hội của đức Thắng Quán Như Lai Đẳng chánh Giác, đến nơi rồi liền đảnh lễ chưn Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, đứng qua một bên hết lòng kính ngưỡng đức Thắng Quán Như Lai mà nói kệ tán thán :
Thắng Quán Như Lai ban cam lộ
Thường làm lợi ích các thế gian
Như đại long tượng đại sư tử
Do đó nay tôi thường kính lạy
Soi sáng thế gian rất khó gặp
Dường như hoa ưu đàm bát la
Chỗ đời nương cậy làm ánh sáng
Hình sắc vi diệu rất tròn đủ
Thế gian nhiều khổ nó bức ngặt
Chẳng biết rõ được chân thánh đạo
Nhảy bỏ chánh lộ mà trốn chạy
Như người sanh manh ở trong đời
Nguyện tôi đời nầy sẽ thành Phật
Như đấng Thắng Quán Phật Thế Tôn
Sẽ cứu chúng sanh thoát các khổ
Và cứu kẻ bị ba lửa đốt
Có vô biên trăm ngàn người ấy
Đều theo tôi đến trước đức Phật
Cúi xin diễn nói pháp vi diệu
Cho họ an trụ vô thượng giác.
Nói kệ xong, trẻ ấy bạch rằng : Nguyện đời sau tại thế gian nầy, tôi sẽ thành Phật tuyên nói diệu pháp cho các chúng sanh như đức Thắng Quán Như Lai hiện nay vì đại chúng tuyên dương pháp vi diệu.
Bấy giờ trong pháp hội ấy có tám vạn bốn ngàn người bạch đức Phật Thắng Quán rằng chúng tôi cũng nguyện đời sau được thành Phật tuyên nói diệu pháp cho các chúng sanh như đức Thắng Quán Như Lai hiện nay vì đại chúng mà tuyên dương pháp vi
diệu.
Đức Thắng Quán Phật biết rõ ý nguyện tăng thượng của tám vạn bốn ngàn người ấy, đức Phật liền mỉm cười.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư Phật lúc mỉm cười, pháp nhĩ có các thứ tia sáng màu xanh vàng đỏ trắng hồng pha lê tự nhiên từ tai mắt mũi miệng chiếu ra khắp vô lượng vô biên Phật thế giới cao đến trời Phạm Thiên làm luốt ánh sáng của tất cả mặt trời mặt trăng. Làm Phật sự xong, các tia sáng ấy xoay về nhiễu bên hữu đức Thắng Quán Phật trăm ngàn vòng rồi rót vào đỉnh nhục kế của Phật ấy.
Bấy giờ đức Thắng Quán Phật có một thị giả thấy thần biến ấy liền đứng dậy trịch y vai hữu quì gối hữu chấp tay hướng lên đức Phật Thắng Quán khom mình lễ kính rồi ở trước đức Phật nói kệ hỏi rằng :
Nay tôi hỏi đức Thắng Quán Phật
Đoan nghiêm hi hữu khiến người mừng
Duyên cớ gì mà đức Thiện Thệ
Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng
Đấng Lưỡng Túc Tôn hiện mỉm cười
Chẳng phải không duyên hiện tướng ấy
Mong nói căn do hiện mỉm cười
Vì thương xót thế gian xin giải thích
Nay có trăm ngàn câu chi chúng
Hiện đang ở trước đức Thế Tôn
Nhiếp tai chuyên chú thích lắng nghe
Mong Phật xót thương vì chúng nói
Phật là mắt của tất cả chúng
Là nhà là cứu là chỗ về
hay dứt điều nghi của chúng sanh
Đấng thương thế gian làm lợi ích
Đức Phât biết rõ đời quá khứ
Lại cũng biết rõ đời vị lai
Biết rõ hiện tại các Phật độ
Chẳng còn nghi nơi tất cả pháp
Pháp vương biết khắp luận tự tại
Như Lai nhiệm mầu hóa tam thế
Nay tôi kính hỏi đức Thế Tôn
Có nhân duyên gì hiện mỉm cười
Phật hay dứt hẳn lưới nghi người
Tự không còn nghi tất cả pháp
Phạm âm tuyên dương pháp vi diệu
Hay nhổ tên độc cho chúng sanh
Lòng tôi vui sướng khó trình bày
Hai tay chấp lại lòng cung kính
Dám hỏi Pháp Vương Đại Thánh Tôn
Có nhân duyên gì hiện cười mỉm.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Thắng Quán Như Lai bảo thị giả :
Nầy Tỳ kheo ! Ông có thấy trẻ ấy đang ở trước Phật chăng ?
Thị giả thưa :
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã thấy.
Đức Thắng Quán Như Lai phán :
Trẻ ấy thuở quá khứ đã từng ở chỗ sáu mươi bốn câu chi na do tha trăm
ngàn đức Phật mà cúng dường kính lễ tôn trọng tán thán.Cúng dường những y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các vật dụng cho chư Phật ấy xong, vì muốn xu hướng Vô thượng Bồ đề nên trẻ ấy lại ở nơi chỗ mười na do tha chư Phật quá khứ mà tu phạm hạnh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nầy thị giả ! Nay tám muôn bốn ngàn người theo trẻ ấy đến đây đều là cha mẹ của trẻ ấy trong những đời quá khứ. Thuở xa xưa, trẻ ấy từng phát nguyện như vầy : Nguyện tôi đời đời sanh tại xứ nào, bao nhiêu cha mẹ đều khiến an trụ Bồ đề cả. Lại khiến các bà mẹ không còn thọ thân người nữ ở đời thứ hai. Do lời nguyện ấy nên nay đây họ đồng theo trẻ đến chỗ Phật và cùng tu học theo trẻ ấy phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Thắng Quán Như lai vì thị giả mà nói kệ rằng :
Tỳ kheo nên quan sát trẻ ấy
Cùng chúng tùy tùng tám muôn tư
Lần nọ mừng reo phát lời thiệt
Nguyện tôi đời sau như Pháp Vương
Phải biết từng ở đời quá khứ
Nơi chư Phật số lượng kể trên
Cung kính cúng dường đấng đạo sư
Lợi ích trời người cả thế gian
Ở chỗ mười na do tha Phật
Theo Phật xuất gia trì chánh pháp
Thực hành việc làm của Như Lai
Vì cầu Bồ đề Vô thượng vậy
Ông xem tám vạn bốn ngàn người
Hiện nay đều ở trước Như Lai
Đã từng trong những đời quá khứ
Đều là cha me của trẻ ấy
Trẻ ấy thuở xưa từng phát nguyện
Bao nhiêu cha mẹ trong nhiều đời
Đều khiến an trụ Vô Thượng Giác
Chẳng còn lại thọ thân nữ nhân
Họ đều học theo trẻ ấy cả
Ở trước Phật phát Bồ đề nguyện
Nay Phật sẽ đều thọ ký họ
Đời sau họ sẽ đều thành Phật
Do nhân duyên ấy Phật mỉm cười
Thắng hạnh của họ Phật đều biết
Biết cả công hạnh đời vị lai
Họ sẽ chứng nhập Vô Thượng Giác
Chư Thiên Long
thần và nhân chúng
Vô lượng trăm ngàn na do tha
Nghe lời của Phật thọ ký đây
Đều rất mừng kính Thắng Quán Phật
nghe đức Phật Thăng Quán thọ ký xong,
Trẻ ấy vui mừng vô lượng, vội vàng đến chỗ cha mẹ mà nói kệ rằng
Tám vạn tư người ấy
Cha mẹ tôi đời trước
Đều trụ tại Bồ đề
Lòng cha mẹ về đâu
Cha mẹ nói kệ đáp trẻ ấy :
Như chỗ chí con về
Lòng cha mẹ cũng vậy
Sẽ thành nhứt thiết trí
Đây quyết định không nghi
Con đã sanh nhà ta
Sau nầy xin chớ bỏ
Thường phải nhớ đến ta
Khiến mau chứng Bồ đề.
Trẻ ấy lại nói kệ đáp cha mẹ :
Người được tôi hóa đạo
Nguyện họ thành Phật trước
Tối hậu tôi sẽ thành
Chiếu thế Điều Ngự Sư
Nầy Xá Lợi Phất ! Đứa trẻ ở trong pháp hội đức Thắng Quán Như Lai thuở quá khứ ấy chẳng phải ai lạ, chính là Đại Tự Tại Thiên Tử đây vậy. Từ nay về sau lại trải qua câu chi na do tha kiếp chẳng còn thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Quá số kiếp nầy sẽ sanh vào dòng Chuyển Luân Thánh Vương, Vương phụ tên Danh Xưng như Tịnh Phạn Đại Vương cha của ta đây, vương mẫu hiệu Ly Ám như nay mẹ ta Ma Ha Ma Gia Phu Nhân, con trai tên Vô Ưu như La Hầu La con ta đây, sau khi xuất gia ngộ Bồ đề thành Phật hiệu Đại Bi Như Lai đủ mười đức hiệu, thọ vô lượng trăm ngàn câu chi tuổi, ánh sáng thường của Phật Đại Bi chiếu đều khắp mười do tuần, chỗ Phật Đại Bi thuyết pháp đại hội đầy chật một trăm do tuần. Đại Bi Như Lai trụ thế giáo hóa độ hàng Thanh Văn ba hội thuyết pháp. Hội thứ nhứt có trăm câu chi đệ tử Tỳ kheo. Hội thứ hai độ na do tha câu chi Tỳ Kheo
Tăng. Hội thứ ba độ Tỳ Kheo đệ tử đến số trăm ngàn na do tha câu chi. Trong hàng đệ tử ấy có một câu chi đại A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, được tự tại huệ đủ tám giải thoát, thành tựu tam muội và sáu thần thông. Chúng Bồ Tát trong pháp hội của Đại Bi Như Lai cũng đồng số lượng với chúng Thanh Văn đệ tử, đều là cha mẹ quá khứ của đức Phật ấy. Đức Đại Bi Như Lai tuyên nói diệu pháp độ vô số chúng sanh rồi nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế một câu chi năm, Xá lợi lưu bố cúng dường lợi ích chúng sanh như sau khi ta
nhập diệt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát an trụ chánh cần cũng như vậy. Lúc tu hành Tỳ lê gia Ba
la mật, vì cầu Vô thượng Bồ đề nên đại Bồ Tát ấy có thể ở nơi kinh nầy tu hành chánh pháp càng
thêm phấn chấn phát khởi sức đại tinh tấn dũng mãnh độ thoát vô lượng chúng sanh. Phật gọi người ấy là thiện trượng phu tư duy quán sát chẳng mỏi chẳng lui dũng mãnh tinh tấn lòng luôn sáng suốt.
Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lúc vì chúng sanh mà cầu Vô thượng Bồ đề thì chẳng nên hạn cầu có số lượng. Đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng bao nhiêu kiếp tôi lưu chuyển, bao nhiêu kiếp tôi chẳng lưu chuyển, mà đại Bồ Tát luôn mặc giáp bất tư nghị ở tại sanh tử quan niệm rằng giả sử tôi sẽ chịu khổ ở hậu tế nhiều và lâu hơn ở triền tế, nhưng vì cầu Vô thượng Bồ đề nên tôi không hề giải đãi thôi nghĩ ở giữa chừng.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát có đầy đủ hoằng thệ như vậy thì gọi là thành tựu tinh tấn chẳng mỏi.
Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử toàn cõi Tam thiên đại Thiên đầy lửa hừng phát lên, vì muốn đến gặp Phật kia, đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy không hề khiếp sợ. Vì cầu nghe pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng, đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh do sức tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn tuyên nói pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, dù gặp lửa cháy như vậy, đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn sanh khởi nhân duyên căn lành , đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức tinh tấn dõng mãnh vẫn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn lợi ích chúng sanh , vì muốn cho người bát Niết-bàn, đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn do sức tinh tấn dầu phải đi ngang qua giữa vùng lửa ấy vẫn không hề khiếp sợ thối lui.
Đây gọi là tướng dạng tinh tấn dũng mãnh của đại Bồ Tát tu hạnh Tỳ lê gia Ba la mật vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát lúc thật hành Tỳ lê gia Ba la mật phát khởi dũng mãnh tinh tấn chẳng mỏi, do thiện căn kiên cố bất thối dũng mãnh phát khởi và đại bi Vô thượng huân tập nên luôn phát khởi sức dũng mãnh đại tinh tấn, với các chúng sanh thường làm việc giáo hóa khai đạo.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát phát khởi tinh tấn chẳng mỏi ấy, trong tất cả thời gian cất chưn hạ chưn thường chẳng bỏ rời tâm Bồ đề, với Phật, Pháp và Tăng hằng kính trọng nhiếp niệm tại tâm, với tất cả chúng sanh hằng quan sát luôn để làm lợi ích chẳng muốn họ bị thế lực phiền não bức đoạt. Lại đem hết những căn lành vi diệu mà mình đã có đều hồi hướng tất cả về Vô thượng Bồ đề khiến căn lành ấy rốt ráo vô tận. Như đem chút nước đổ vào biển lớn thì không bao giờ mất hết.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi dùng hạnh bình đẳng chứa hợp thiện căn, với chúng sanh phát khởi bình đẳng chứa hợp thiện căn,vì muón dẫn sanh nhứt thiết trí trí nên chứa hợp thiện căn, vì muốn lợi ích các chúng sanh nên chứa hợp thiện căn. Vô lượng các thiện căn lớn ấy đều do đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi chứa hợp phát khởi vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi ấy thường phải tu học pháp như vậy, được khối phước vô lượng vô biên như sau :
Nầy Xá Lợi Phất ! Phật quan sát tất cả chúng sanh có khối phước vô lượng, nhẫn đến tất cả bực hữu học bực vô học, tất cả hàng Độc Giác có khối phước nhiều gấp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Bao nhiêu khối phước trên ấy, giả sử đem nạp vào một lỗ lông của chúng sanh, tất cả lỗ lông trên thân chúng sanh đều nạp khối phước như vậy vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Giả sử tất cả lỗ lông trên tất cả thân của tất cả chúng sanh đều nạp đầy khối phước như trên, đem tất cả khối phước ấy hợp chứa vào trong một ngôi đền thờ pháp lớn không cửa khóa.
Nầy Xá Lợi Phất ! Khối phước chứa trong đền thờ pháp ấy tăng lên trăm lần cảm được một sắc tướng đại trượng phu trên thân Như Lai. Mỗi mỗi tướng đại trượng phu đều do khối phước như vậy cảm thành. Tất cả khối phước cảm thành tất cả tướng đại trượng phu ấy hiệp lại thành một tướng my gian bạch hào. Trăm ngàn khối phước tướng bạch hào hiệp lại cảm thành tướng vô kiến đảnh của Như Lai . Câu chi trăm ngàn khối phước tướng vô kiến đảnh hiệp lại cảm thành tướng đại pháp thương khư loa của Như Lai.
Nầy Xá Lợi Phất ! Do vì tướng đại pháp loa của Như Lai được vô lượng thứ phước đức hợp thành , nên tùy ý muốn đức Như Lai phát âm thanh lớn phổ cáo vô lượng vô biên tất cả thế giới, vì các chúng sanh mà tuyên diệu pháp, đúng như căn tánh của họ, nghe pháp họ liền tin hiểu vui mừng. Đó đều là do sức tinh tấn dũng mãnh tu học không mỏi vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát phải quan niệm rằng : Vô thượng Bồ đề như vậy dầu rất khó được, nhưng tôi chẳng bỏ giáp tinh tấn phát đại dũng mãnh quyết định sẽ mau ngộ Vô thượng Bồ đề, chẳng lấy gì làm khó. Thành Phật rồi tùy ý muốn tôi phát âm thanh lớn từ tướng phát loa phổ cáo vô lượng vô biên tất cả thế giới, vì các chúng sanh tuyên pháp vi diệu, đúng như căn tánh nghe pháp đều tin hiểu vui mừng.
Đây gọi là tướng đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát dũng mãnh không mỏi tu tập Tỳ lê gia Ba la mật phải thường tinh tấn tu tập như vậy. Do tu học nên thành tựu đầy đủ tất cả trí huệ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử bao nhiêu chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí tùy tín hành cả, dùng tất cả trí tùy tín hành ấy đem so sánh với một trí tùy pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm , một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn muôn một phần toán, một phần số, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại thiên thế giới đều thành tựu trí tùy pháp hành muốn đem so sánh với một trí đệ bát nhẫn thì chẳng bằng một phần trăm cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí đệ bát nhẫn muốn đem so sánh với một trí Tu Đà Hoàn quả thì chẳng bằng một phần trăm cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí dự lưu quả muốn đem so sánh với một trí Tư Đà Hàm hướng. Như vậy, tất cả trí nhứt lai hướng muốn đem so sánh với một trí Tư Đà Hàm quả, tất cả trí Tư Dà Hàm quả muốn đem so sánh với một trí A Na Hàm hướng, tất cả trí bất hoàn hướng muốn đem so sánh với một trí A Na Hàm quả, tất cả trí A Na Hàm quả muốn đem so sánh với một trí A La Hán hướng, tất cả trí vô sanh hướng muốn đem so sánh với một trí A La Hán quả, tất cả trí A La Hán quả muốn đem so sánh với một trí Độc Giác, tất cả trí Độc Giác muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát tu quá trăm kiếp, tất cả trí Bồ tát tu quá trăm kiếp muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát bất thối chuyển, tất cả trí Bồ tát bất thối chuyển muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ xứ thì chẳng bằng một phần trăm nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều thành tựu trí Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ muốn đem so sánh với một trí thị xứ phi xứ của Như Lai thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát ấy do thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên lúc nghe trí huệ thậm thâm của Như Lai như vậy lòng không kinh sợ, với trí huệ ấy sanh lòng thích muốn phát khởi chánh cần chẳng thôi bỏ mà quan niệm rằng : Nay tôi tu hành dũng mãnh tinh tấn, giả sử thân của tôi khô cạn cả máu huyết da thịt gân xương tủy não, nếu chưa được trí thị xứ phi xứ ấy, tôi vẫn tinh tấn dũng mãnh kiên cố trọn không thôi bỏ giữa chừng.
Đây gọi là tướng dạng Đại Bồ Tát tinh tấn Ba la mật dũng mãnh kiên cố chẳng mỏi,phải nên học như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật đa nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi, thường phải tu học như vậy. Do tu học nên có thể diệt lửa các phiền não của các chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Giả sử bao nhiêu tâm quá khứ của tất cả chúng sanh đều vào chuyển trong một tâm chúng sanh, như vậy nhẫn đến mỗi mỗi tâm của tất cả chúng sanh đều có đủ số lượng tâm trên phiền tạp khó biết được. Mỗi mỗi tâm sau đây đều có đủ vô lượng tham sâu si phiền não phiền tạp. Đem tất cả phiền não của tất cả chúng sanh đều cho vào chuyển.
Trong một tâm của một chúng sanh . Giả sử tất cả chúng sanh đều có đủ vô lượng phiền não phiền tạp khó biết như vậy. Đại Bồ Tát suy nghĩ rằng tôi phải cố gắng phát khởi tinh tấn dũng mãnh tìm cầu trí huệ tư lương ấy, tùy tôi phát khởi sức chánh cần, với lửa tham sân si và các nhiệt não khác, tôi phải làm cho diệt dứt không sót, đều làm tan nát mất như tro tàn, khiến chúng sanh mau ở trên đường Niết-bàn. Đây gọi là đại Bồ Tát Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh chẳng mỏi, phải nên học như vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát vì tu Tỳ lê gia Ba la mật nên an trụ tinh tấn không mỏi thường phải tinh tấn tu học như vậy. Do tu học nên các thiện nghiệp nơi thân nơi khẩu và nơi ý đều không thôi bỏ. Nhẫn đến tất cả tinh tấn đều là phương tiện sách tấn thân khẩu ý của Bồ Tát.
Nầy Xá Lợi Phất trong đời chỉ nói đến tướng hai nghiệp thân và khẩu của Bồ Tát là tinh tấn đệ nhứt mà chẳng nói đến tướng tâm tinh tấn của Bồ Tát. Tướng tâm tinh tấn của Bồ Tát vô lượng vô biên nay Phật sẽ nói lược.
Tâm Bồ Tát tu hành chánh cần hoặc tấn hoặc chỉ. Thế nào là chánh cần tấn chỉ ?
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát tu hành đại tinh tấn vì Vô thượng Bồ đề mà siêng tu tinh tấn. Nói tấn là đối với chúng sanh thì phát khởi đại bi. Nói chi là vô ngã trí. Nói tấn là nhiếp các chúng sanh. Nói chỉ là chẳng chấp lấy pháp. Nói tấn là ở sanh tử không mỏi. Nói chỉ là chẳng thấy có ba cõi. Nói tấn là xả bỏ tất cả. Nói chỉ là bố thí chẳng chán. Nói tấn là nhiếp lấy tịnh giới. Nói chỉ là chẳng nhàm Thi la. Nói tấn là cam chịu các khổ. Nói chỉ là không lòng hủy hoại. Nói tấn là phát khởi pháp lành. Nói chỉ là tâm thường xa lìa. Nói tấn là nhiếp thọ tịnh lự. Nói chỉ là tâm thường tịch diệt. Nói tấn là nghe pháp chẳng chán. Nói chỉ là khéo giỏi như lý. Nói tấn là nghe nói không nhàm . Nói chỉ là không hí luận pháp. Nói tấn là cầu tư lương trí huệ. Nói chỉ là dứt các hí luận. Nói tấn là tăng trưởng tịnh tín. Nói chỉ là chơn trí hành xả. Nói tấn là đủ năm thần thông. Nói chỉ là khắp biết lậu tận. Nói tấn là tu các niệm xứ. Nói chỉ là niệm vô công dụng.Nói tấn là phương tiện chánh cần. Nói chỉ là thiện ác đều xả bỏ. Nói tấn là dẫn phát thần túc. Nói chỉ là nhiệm vận tác dụng, nói tấn là thiện quyền ngũ căn. Nói chỉ là quán chẳng phải căn tánh. Nói tấn là nhiếp thọ ngũ lực. Nói chỉ là trí không chế phục. Nói tấn là sanh bồ đề phần . Nói chỉ là trí giảng trạch pháp . Nói tấn là cầu tư lương chánh đạo. Nói chỉ là không tánh lai vãng. Nói tấn là cầu xa ma tha.Nói chỉ là tâm an trụ tịch chỉ. Nói tấn là tư trợ thắng quán. Nói chỉ là gẩm xét pháp tánh.Nói tấn là liền theo xét xem các nhân.
Nói chỉ là biết khắp các nhân. Nói tấn là theo người nghe phát âm. Nói chỉ là đúng như pháp tu hành. Nói tấn là thân trang nghiêm. Nói
chỉ là pháp tánh thân. Nói tấn là ngữ trang nghiêm. Nói chỉ là thánh mặc nhiên tánh. Nói tấn là tin môn giải thoát. Nói chỉ là không có phát khởi.Nói tấn là xa rời bốn ma. Nói chỉ là bỏ phiền não tạp khí. Nói tấn là phương tiện thiện xảo. Nói chỉ là quán sát thâm huệ. Nói tấn là quan sát duyên cảnh.Nói chỉ là vô công dụng quán. Nói tánh là quán
sát giả danh. Nói chỉ là tỏ thấu thiệt nghiã
Nầy Xá Lợi Phất ! Bao nhiêu tướng tấn và tướng chỉ ấy gọi là đại Bồ Tát duy tâm tinh tấn.
Nếu như đại Bồ Tát nghe những tướng tâm tinh tấn như vậy phải nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh đầy đủ không mỏi.
Đây gọi là đại Bồ Tát tu tập tinh tấn Ba la mật thành tụ tướng tinh tấn dũng mãnh không chán mỏi.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi ấy thành tựu năm pháp tăng tấn thì có thể mau ngộ vô thượng Bồ đề. Đó là gặp Phật xuất thế, được gần thiện hữu, được toàn đủ không nạn chướng, tất cả pháp lành đã được tu tấn thì vĩnh viễn không hư mất, theo tu học với đại Bồ Tát an trụ luật nghi. Có được năm điều trên là thành tựu năm pháp tăng tấn, do đó mà đại bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi sẽ mau ngộ Vô thượng Bồ đề ».
Bấy giờ trưởng lão Xá Lợi Phất bạch đức Phật : << Bạch đức Thế Tôn ! vả có Bồ Tát nào cũng giảng năm pháp nầy chăng ? >>
Đức Phật phán : << Có. Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu Bồ Tát có năm pháp sau đây thì có thể tổn giảm. Đó là có Phật xuất thế mà chẳng gặp, chẳng muốn gần thiện hữu, chẳng được không nạn chướng, pháp lành tu tập phần nhiều hư mất, không muốn theo học với Bồ Tát an trụ luật nghi. Do có những pháp tổn giảm ấy nên chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát có năm pháp sau đây thì bị tổn giảm :
Quốc vương hay đại thần đem sức oai thế khủng bố chúng sanh, đến đổi ai có sự duyên thì cầu thỉnh oai phước, nếu có ai làm xong việc như vậy sẽ trọng tạ. Hàng Bồ tát tại gia vì thấy có lợi nên lòng chẳng chánh trực bèn lãnh làm, phàm nói năng đều vì lợi cả.
Nầy Xá Lợi Phất ! Bồ Tát tại gia do làm sự việc ấy mà tổn giảm thiện đạo, tổn giảm vô nạn, vì dưỡng thân mà làm ác hạnh nên chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ nhứt vậy. Lại nầy Xá Lợi Phất ! Tại gia Bồ Tát ở nơi thành hư hoại.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu chư Phật xuất thế vì các chúng sanh mà chuyển pháp luân thanh tịnh vi diệu. Bấy giờ sẽ có bốn chúng xuất hiện : Đó là những chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo
ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Lúc ấy chư ni vì bảo hộ giới hạnh mà đến ở trong các thành ấp thôn xóm. Các Bồ Tát tại gia đến chỗ chư ni ở làm nhiễm ô người giữ giới. Do vì hủy giới nên gọi là ở nơi thành hư hoại. Bồ Tát tại gia phạm sự ấy thì chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ hai vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Tại gia Bồ Tát thấy thời kỳ có nhiều người nương theo giới luật diễn nói chánh pháp bèn làm chướng ngại sự nghe pháp tu tập của cha mẹ anh chị em vợ con quyến thuộc và các chúng sanh. Do làm
chướng ngại chánh pháp như vậy nên trong thời gian dài, tại gia Bồ Tát ấy thường bị chướng ngại nơi giới luật chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát tổn giảm thứ ba vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Tại gia Bồ Tát nghe trong kinh đức Phật nói khen pháp thiểu dục tri túc xuất gia yên tĩnh ở núi rừng lìa khổ, bèn không tin trở lại hủy báng và cũng bảo người có kiến chấp như vậy. Vì hủy báng pháp thanh tịnh của Như Lai nên tại gia Bồ Tát bất thiện ấy bị sa chìm trong các loài đáng hủy báng đó là địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, hoặc sanh biên địa và trong nhóm ác kiến. Tại gia Bồ Tát ấy chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng được mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ tư vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! tại gia Bồ Tát nương theo quốc vương hay đại thần hoặc những người giàu sang có thế lực mà làm điều tệ ác, cậy thế lực chê cợt mắng chửi các chúng sanh.Do đó ngữ ác hạnh ấy nên mau chiêu vời các báo ác đạo mà chẳng gặp Phật xuất thế, chẳng gần thiện hữu, chẳng được không nạn, căn lành hư mất, chẳng theo Bồ Tát gìn luật nghi tu học chánh pháp và chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ năm vậy>>.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng :
« Bồ Tát nếu có năm pháp tổn
Do đó trí huệ không tăng trưởng
Đã chẳng gặp được Phật ra đời
Lại chẳng gần gũi bực thiện hữu
Hoặc là vua chúa các đại thần
Khi trá dối gạt các chúng sanh
Vì có những thứ nghiệp chẳng lành
Nên chẳng được gặp đấng cứu thế
Thế lực khủng bố nhiều hữu tình
Bắt nạp hối lộ hoặc tổn hại
Gây tạo ác nghiệp như vậy rồi
Chẳng còn gặp được Phật Thế Tôn
Chư ni ở tu giới thanh tịnh
Làm hư giới hạnh sanh buồn khổ
Sẽ rời vô lượng ức Như Lai
Chẳng được thành tựu những vô nạn
Với cha mẹ vợ con quyến thuộc
Chướng ngăn chẳng cho tu pháp hạnh
Lại ngăn nghe học Phật chánh pháp
Sẽ mau cảm quả ngu si ác
Có người nhàm đời thích xuất gia
Tìm cách bắt bớ ngăn trở họ
Sẽ rời vô lượng đấng Thế Tôn
Chẳng được thành tựu những vô nạn
Có người nghe học pháp xuất ly
Thiểu dục tri túc ở vắng vẻ
Bèn chẳng bằng lòng sanh hờn giận
Hủy báng chánh pháp sanh tà kiến
Hủy báng chánh pháp như vậy rồi
Thường đọa sanh manh báo rất khổ
Trong tất cả tội nghiệp trọng chướng
So đây chẳng bằng phần mười sáu
Sẽ khó gặp được chư Như Lai
Dầu thấy cũng không lòng tin kính
Cảm thấy hoàng hôn nữ sanh manh
Lại đọa lạc đà lừa heo chó
Đối với chư Phật chư Bồ Tát
Sanh lòng ân trọng yêu kính mến
Rời xa tất cả chướng ngại rồi
Nối tiếp tu học đạo hiền thánh
Cha mẹ vợ con cùng quyến thuộc
Thường thích đặt ngồi trong chánh pháp
Có người nhàm đời cầu xuất gia
Khen ngợi giúp đở cho toại chí
Nếu ở trong quyến thuộc chánh pháp
Sẽ mau sanh lên cõi hiền lành
Có ai tán trợ người xuất gia
Sẽ mau tỏ ngộ Vô Thượng Giác.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lại còn có năm pháp, nếu xuất gia Bồ Tát mà có thì chẳng gặp Phật xuất thế, chẳng gần thiện hữu, chẳng được vô nạn, thiện căn hư hỏng, chẳng theo Bồ Tát giữ giới để tu học chánh pháp, do đó chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề.
Đây là năm pháp : Một là hủy phạm Thi la. Hai là chê bai
chánh pháp. Ba là tham trước danh lợi. Bốn là chấp chặt ngã kiến . Năm là ganh ghét người khác.
Nầy Xá Lợi Phất ! Thí như chó đói khổ sở đi dọc theo đường gặp được khúc xương khô màu hơi đỏ, nó cho là hậu vị liền ngoạm đem đến ngã tư chỗ đông người. Vì tham thèm nên nước dãi chảy ra trên xương, nó vọng cho là ngon ngọt, rồi hoặc gặm hoặc liếm hoặc nhai hoặc chép, nó thích thú gặm nhấm mãi chẳng bỏ rời khúc xương ấy. Bấy giờ có hàng Sát Lợi, Bà La Môn và các trưởng giả đều là nhà phú quí đi qua đường ấy. Chó đói thấy họ từ xa đi lại, lòng nó khó chịu cho là các người ấy sẽ cướp món ăn ngon của nó, nên nó giận dữ gào sủa nhe răng lỏ mắt rượt cắn họ.
Nầy Xá Lợi Phất ! Ông nghĩ thế nào ? Những người đi đến ấy là vì việc khác hay là muốn tìm lấy khúc xương khô hơi đỏ đó chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Không phải họ tìm lấy xương khô.
- Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu như vậy thì tại sao chó đói ấy lại giận sủa nhe răng rượt cắn họ ?
Bạch đức Thế Tôn ! Theo ý tôi hiểu thì chó đói ấy sợ những người đi lại tham đồ ăn ngon tất sẽ cướp mất mỹ vị cam lộ của nó, vì thế mà nó nhe răng sủa cắn họ.
- Nầy Xá Lợi Phất ! Đúng như lời ông nói. Đời mạt thế sau nầy có các Tỳ Kheo dầu được không nạn mà đối với các nhà thí chủ, do lòng bỏn sẻn mà ghét ganh tham ăn tham
uống chẳng tu chánh pháp. Phật choTỳ kheo nầy như chó đói kia vậy. Nay Phật xuất thế vì xót thương cứu độ chúng sanh, nên lo việc ấy mà vì các ác Tỳ Kheo đời mạt thế nói ra thí dụ như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chư đại Bồ Tát vì muốn lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh nên cầu Phật trí mà thật hành Tỳ lê gia Ba Na la mật. Thịt nơi thân của mình, các Bồ Tát ấy còn vui vẻ đem cho, huống lại vọng tưởng thịt xấu mà ganh ghét người khác.
Nầy Xá Lợi Phất các ác Tỳ Kheo ganh ghét người khác ấy, Phật gọi họ là si trượng phu, là kẻ tham sống, là nô lệ giữ lúa tiền, là kẻ bị trói trong của cải trân ngoạn, là kẻ chỉ biết trọng áo cơm, là kẻ tham ăn mà ganh ghét.
Này Xá Lợi Phất ! Phật lại nói chánh pháp như vầy : Các Tỳ kheo đến nhà người thí chủ trước, chẳng nên thấy các Tỳ Kheo khác mà sanh lòng ghen ghét. Nếu có Tỳ Kheo trái lời ta dạy, thấy các Tỳ Kheo khác hoặc nói nhà thí chủ nầy là chỗ quen trước của tôi, thầy ở đâu lại tới đây. Với nhà nầy tôi rất thân mật, thầy ở đâu đến muốn xâm đoạt.
Nầy Xá Lợi Phất ! Tại sao các Tỳ Kheo tham lam ấy đối với kẻ đến sau lại sanh lòng ganh ghét?
Nầy Xá Lợi Phất ! Vì nhà thí chủ ấy đã hứa cúng cho họ những y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các vật dụng khác. Họ sợ thí chủ đem đồ hứa cúng nầy mà thí cho các Tỳ kheo
kia vậy. Như thế, đối với nhà thí chủ họ phát khởi ba lỗi nặng : Một là phát khởi lỗi nơi chỗ ở. Họ thấy các Tỳ kheo khác hoặc nói lời hờn rằng nay tôi sẽ rời chỗ nầy. Hai là với nhà quen thân sẽ bảo : chưa biết nên cho hay chẳng nên. Ba là với nhà chẳng nhứt định họ sẽ vọng sanh các lỗi lầm.
Nầy Xá Lợi Phất ! Các Tỳ Kheo tham sẻn ấy đối với người đến sau phát ba ác ngôn : Một là nói nhà thí chủ nhiều việc xấu ác cho các Tỳ Kheo khác bỏ đi. Hai là với cácTỳ
Kheo đến sau có lời thành thật , mà trái lại là nói dối . Ba là trá hiện lành tốt để gần gũi rình tìm chút lỗi nhỏ rồi ra trước chúng cử tội.
Này Xá Lợi Phất các Tỳ kheo ở nhà thí chủ sanh lòng ganh bỏn xẻn thì mau dứt mất tất cả pháp lành đã có.
Này Xá Lợi Phất ! Nếu có Tỳ kheo tham ganh bỏn xẻn, Phật gọi họ là người bất thiện, là vứt bỏ Bồ đề tư lương, lại chẳng thể theo Bồ tát giữ luật nghi để tu chánh pháp.
Này Xá Lợi Phất ! Thuở quá khứ vô lượng vô số bất tư nghì kiếp, có Phật xuất thế hiệu Thắng Hiện Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, thọ chín mươi câu chi na do tha đều là đại A La Hán.
Này Xá Lợi Phất ! Thời kỳ ấy có một Trưởng giả tên Thiện Trạch nhà giàu có lớn. Trưởng giả ấy có hai con trai tên Luật Nghi và Trụ Luật Nghi. Cả hai còn ấu trĩ dung mạo đoan chánh xinh đẹp ai cũng thích nhìn.
Một hôm vào lúc sáng sớm, đức Phật Thắng Hiện Vương đáp y mang bát cùng Tỳ kheo Tăng vì lợi ích chúng sanh mà đi khất thực vào thành của truỡng giả ấy ở. Phật và chúng tăng oai nghi tường tự, các căn vắng lặng, tâm ý điềm bạc, tu nhiếp các căn như đại long tượng, đứng lặng không vẫn đục như nước ao sâu , đức lớn vòi vọi như tòa lầu vàng , thân sắc vững sáng như tòa núi vàng tử kim, lại cũng như biễn cả đầy châu báu, như vua Đế Thích chư Thien vây quanh, như Đại phạm Vương tâm ý tịch tịnh.
Này Xá Lợi Phất ! Hai con trai của Trưởng Giả Thiện Trạch ở trên lầu thấy Phật Thăng Hiện Vương từ xa đi lại phát khởi lời khen lòng vui mừng khen chưa từng có. Trụ Luật Nghi thấy Phật trước vui mừng nói với anh rằng : Từ khi sanh ra đến nay anh có thấy vua chúng sanh đoan nghiêm
thế ấy chăng ? Luật Nghi đáp : Ta từ nào chưa từng thấy vua chúng sanh đoan
nghiêm như vậy. Trụ Luật Nghi nói với anh rằng như chỗ tôi nghĩ thì đời sau tôi quyết định sẽ làm vua chúng sanh như vậy.
Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ với anh rằng :
Như anh Luật Nghi nay đã thấy
Đời sau tôi quyết được như vậy
Chúng đại Tỳ Kheo vây quanh tôi
Sẽ lại gấp bội hơn ngảy nay
Vì cầu nhơn duyên Bồ Đề Đạo
Tôi thề chẳng nuốt những uống ăn
Anh đã thích ở trong lao ngục
Ý tôi quyết định sẽ siêu thắng
Đấng vua tất cả chúng sanh ấy
Đồng như vầng trăng giữa tinh tú
Ai được thấy mà chẳng kính tin
Lại thích ở nhà chẳng xuất ly.
Luật Nghi Đồng tử nói kệ đáp lời em:
Vả thôi em chớ nên lớn tiếng
Chẳng phải nói suông mà thành sự
Ta chẳng cần phát ngôn ngữ đời
Thử xem ai thành chánh giác trước.
Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ thưa anh rằng:
Đạo Bồ Đề Vô thượng như vậy
chẳng phải lòng xấu rít mà được
Tôi phải phát tiếng hiền lành lớn
Quyết định thành Phật trên loài người
Luận người xấu rít như thế này
Của cải chẳng muốn cho người biết
Nay tôi đâu cứ nín lặng
Thân mạng còn bỏ huống của báu
Tôi đem của nhà đều bố thí
Để cầu nhơn duyên Bồ Đề Đạo
Luôn phần gia tài của anh có
Cúng phước điền Phật vì rất kính
Ai thấy Thế Tôn đấng Tối Thắng
Đủ ba mươi hai tướng tốt đẹp
Mà chẳng phát nguyện đến Bồ Đè
Chỉ trừ kẻ kiến chấp hạ liệt
Bao nhiêu nhà cửa và của báu
Cha mẹ với tất cả quyến thuộc
Tôi sẽ đều xã ly tất cả
Mau đến chỗ đức Như Lai Phật
Là mặt nhựt sáng đời cậy nương
Từ Tôn soi đời rất khó gặp
Trăm ngàn câu chi do tha kiếp
Thắng tướng như vậy khó được nghe
Tôi thấy Thế Tôn vào Vương Đô
Chúng Đại Tỳ Kheo vây quanh Phật
Như trăng tròn sáng tại trời trong
Rọi ánh sáng soi khắp mặt đất
Tôi thấy Thế Tôn tới ngã tư
Tướng tốt trang nghiêm tất cả chỗ
Khác nào mặt nhựt tia nắng vàng
Đầy cả hư không thường chiếu khắp
Tôi thấy Thế Tôn đi trước chúng
Trang nghiêm hiển phát Tỳ Kheo Tăng
Dường như núi chúa tu di kia
Chói các núi báu đều nghiêm lệ
Oai quang của Phật tất rực rỡ
Soi hết quần sanh ở cõi này
Lưỡng Túc Tôn có đủ tướng tốt
Ánh sáng làm đẹp hàng đại chúng
Như Lai có sức thần thông lớn
Ngự trị Trời Rồng Nhơn Phi Nhơn
Lại khởi vô lượng thứ biến hiện
Vì chúng sanh mà vào vương đô
Ai thấy Pháp Vương thạnh như đây
Ba mươi hai tướng trang nghiêm lớn
Mà lại mong cầu hạ liệt thừa
Chỉ trừ người thấp hèn ngu tối
Nay tôi mừng thấy đức Thế Tôn
Phát sanh lòng tin rất thanh tịnh
Vì độ chúng sanh tu Bồ Đề
Cần phải mau đến chỗ Như Lai.
Luật Nghi đồng Tử lại nói kệ đáp lời em:
Ta đối đường sá chẳng phải lười
Mà chẳng mau đến chỗ Như Lai
Chờ ta xuống tòa lầu này
Sẽ ra phía ngoài suy gẫm kỹ
Phải nên bỏ rời tưởng chấp ngã
Lại chẳng luyến tiếc thân mạng mình
Và cầu trí huệ Phật tối thượng
Rồi mới đi đến chỗ Như Lai
Cha mẹ cửa nhà và của báu
Thứ ấy làm người luyến ái nặng
Nay ta đồng thời đều vứt bỏ
Rồi mới đi đến chỗ Như Lai
Nếu người nguyện muốn sẽ thành Phật
Lại rất mến thích đức Như Lai
Phải mau rời bỏ khối trân bửu
Xa rời tục gia đến phi gia.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trụ Luật Nghi đồng tử nghe lời anh nói xong liền xuống thang lầu để đến chỗ Thắng Hiện Vương Phật. Luật Nghi đồng tử xuống lầu nhanh chóng chạy đến chỗ Phật kính lễ xong Trụ Luật Nghi mới đến.
Bấy giờ Luật Nghi Đồng Tử đem mười ức y phục báu vô giá dâng lên đức Phật và nói kệ rằng :
Nay tôi chẳng cầu các tướng đẹp
Dâng cúng Như Lai y vô giá
Xin nguyện được báo ở đời sau
Đồng Phật Như Lai đây không khác
Tối thắng trong tất cả hàm linh
Khéo ở trong tất cả diệu pháp
Xin nguyện được báo ở đời sau
Đồng Phật Như Lai đây không khác
Đầy đủ tạng trí huệ vô thượng
Khéo ở chánh cần các oai lực
Ba mươi hai tướng thân có đủ
Nguyện mau được thành Phật Vô thượng
Thành tựu chư Phật mười trí lực
Khéo an trụ bốn vô sở úy
Xin nguyện được báo ở đời sau
Đồng Phật Nhu Lai đây không khác
Như chỗ Phật biết pháp chân tịnh
Chỉ Phật khéo ở soi sáng cả
Xin Phật diễn nói pháp ấy cho
Khiến tôi mau ngộ Vô Thượng Giác
Nay tôi chẳng cầu tướng tốt đẹp
Dâng Phật y vô giá tối thượng
Chỉ mong Bồ đề diệu tịch tĩnh
Để độ chư Thiên và nhân thế
Như Lai đã ở pháp vi diệu
Tất cả dị luận không động được
Nay tôi vì cầu pháp như vậy
Nên dâng y vô giá thắng thượng
Các pháp không sanh không
lão bệnh
Cũng không rầu buồn lo khổ than
Xin Phật dạy nói pháp tịch tĩnh
Dắt dìu lợi ích trời người vậy
Nếu pháp không có tham sân si
Cũng không kiêu mạn và khác ái
Xin nói Bồ đề và Phật tánh
Pháp vô vi mát mẻ cam lồ
Những pháp Như Lai đã an trụ
Được hàng Thiên Long đều kính lễ
Hoặc có tư lự hoặc vô tư
Xin Phật dạy nói pháp tịch tĩnh
Phật ở tại đây hay chiếu khắp
Bốn phương vô lượng những Phật độ
Như ngọn lửa hừng trong hang tối
Tôi nguyện chứng được cam lộ nầy
Hoặc tất cả những ái vô ái
Tánh thường chẳng nương nơi dục giới
Sắc vô sắc giới cũng chẳng nương
Xin Phật tuyên nói pháp diệu ấy.
Trụ Luật Nghi nghe anh nói kệ xong bèn đem một bộ guốc báu mới dâng cúng Thắng Hiện Vương Như Lai và nói kệ rằng :
Nguyện tôi sẽ vì các quần sanh
Làm cứu làm về làm nhà ở
Chẳng còn lại đi trên đường tà
Hằng dắt bầy mê nói chánh đạo
Nguyện thường chẳng quen các tham dục
Tham dục là đường kẻ ngu đi
Rời hẳn tất cả pháp hữu vi
Hằng gặp Như Lai Phật xuất thế
Đã gặp được đấng soi sáng đời
Phải nên cúng dường Lưỡng Túc Tôn
Cần cầu Vô thượng Phật Bồ đề
Lợi ích cho các quần sanh vậy
Phải đem vô lượng vòng hoa hương
Tràng phan cao đẹp và lọng báu
Dâng hiến vua rồng trong loài rồng
Lợi ích cho các quần sanh vậy
Lại đem các thứ y phục đẹp
Mền nệm uống ăn những thuốc men
Đều mang đem dâng hiến Phật Thế Tôn
Lợi ích cho các quần sanh vậy
Đánh trống lớn nhỏ thổi ốc loa
Hòa tấu tiêu sáo tiếng ca thanh
Đều đem dâng hiến đấng soi đời
Lợi ích tất cả quần sanh vậy
Món ăn thơm ngon rất bổ dưỡng
Thế gian vi diệu thường ưa chuộng
Đều đem dâng hiến đấng cứu đời
Lợi ích tất cả quần sanh vậy
Cúng dường rộng lớn như vậy rồi
Lợi ích vô lượng các chúng sanh
Bấy giờ tôi liền học xuất gia
Siêng năng tu học các phạm hạnh
Sẽ an trụ nơi bát chánh đạo
Lại an vui lượng ức chúng sanh
Nguyện tôi làm chỗ hữu tình nương
Thường chẳng đi trên đường tà vạy
Chư thánh quở rầy rất hạ liệt
Đó là dâm dục tôi bỏ được
Lại sẽ vứt bỏ các phóng dật
Với chẳng phóng dật luôn tu học
Nguyện tôi chẳng sanh vào các nạn
Thường được sanh vào nhà tịnh tín
Đời đời thường thấy đức Thế Tôn
Thấy được Phật rồi rất tin tưởng
Đã tin tưởng Phật rồi cung kính
Đem vòng hoa đẹp và hương thoa
Các thứ âm nhạc cúng dường rồi
Cần cầu trí huệ sâu của Phật
Rộng sắm đồ cúng Phật như vậy
Trải qua vô lượng câu chi kiếp
Dứt hẳn dục lạc bỏ tại gia
Siêng năng tu học hạnh thanh tịnh.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment