Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 109
PHÁP HỘI BỬU KẾ BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BẢY
Nếu ở nơi các chỗ thấy mà không có tưởng niệm thượng hạ trung gian thì là
chánh kiến. Tại sao? Vì nơi sở kiến đều quán sát bình đẳng vậy.
Nếu thấy pháp phàm phu cho là ti tiện, còn pháp mình tu học cho là tôn cao, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là ô uế, thấy pháp Bồ Tát là thanh tịnh, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là hữu lậu, thấy pháp vô học là vô lậu, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu có cầu ăn mặc, thấy pháp Duyên Giác không mong cúng dường, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy ý Tiểu thừa có hi vọng, ý Bồ Tát không hi vọng, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là phóng dật, thấy pháp Bồ Tát là vô dục, quan niệm như đây là tà kiến.
Thấy pháp phàm phu là sự hữu vi, thấy chánh pháp Phật là đạo vô vi, quan niệm như đây là tà kiến.
Nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát hay quan niệm pháp phàm phu cho đến tất cả pháp đều bổn lai thanh tịnh, các học pháp cũng bổn tịnh, quán các pháp đều tự nhiên mới là chánh kiến vậy.
Pháp phàm phu là không, pháp được học cũng là không, rõ
pháp sở học là không mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu bình đẳng với nhơn duyên, hiểu rõ như đây thì pháp Duyên Giác, nhơn duyên cũng bình đẳng, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu vốn là tịch tĩnh, pháp Bồ Tát cũng là tịch tĩnh, đây mới là chánh kiến.
Pháp phàm phu không chỗ thành tựu, pháp chư Phật cũng không cứu cánh, đây mới là chánh kiến.
Người chánh kiến thì tâm chẳng nhập vào hai pháp, chẳng thấy hai pháp, nhơn cũng không có hai, chẳng thấy ngô ngã, đây là
chánh kiến.
Không có bao nhiêu thứ thấy, chẳng lấy bao nhiêu thứ làm có thấy sai khác là thấy bình đẳng, thì chẳng tưởng niệm tất cả các pháp có thượng trung hạ, nơi tất cả pháp mà không có tưởng niệm mới là chánh kiến.
Người chánh kiến không có bao
nhiêu sự thấy cũng không sở kiến, không có sở kiến mới là chánh kiến.
Chỗ quan sát được ấy không có hình sắc, do thấy các pháp không có
hình sắc mới là chánh kiến.
Bồ Tát nầy quán tất cả các pháp như thế ấy mới gọi là người ban tuyên pháp luật vậy”.
Ðức Phật nói lời trên đây xong, trong pháp hội có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận ý giải.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Hai là chánh niệm. Sao gọi là chánh niệm?
Gọi rằng chánh niệm là trừ bỏ các niệm cùng chẳng niệm đồng hiệp hội tịch tĩnh mà quán tỏ trí đức đến pháp tịch diệt, hiểu rõ sở quán thấy rành các pháp, gì là pháp gì là phi pháp, biết các pháp đều riêng sai khác chẳng thân cận nhau. Do hiểu rõ như vậy nên bình đẳng còn chẳng niệm huống là niệm sai biệt ư! Nơi tất cả niệm không có niệm không có chẳng niệm, không còn tư lự không đúng không
chẳng đúng, đây gọi là chánh niệm.
Ba là chánh ngữ. Sao gọi là chánh ngữ?
Bồ Tát lúc nói, chẳng tự thấy thân mình, chẳng thấy người khác, chẳng thấy kia đây, chẳng phạm thân mình cũng chẳng hại nơi người, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, Bồ Tát lúc nói, bình đẳng hiểu các pháp, biết tất cả pháp đến nơi diệt tận, biết tất cả pháp về nơi pháp hiền thánh và giải thoát, đây là chánh ngữ.
Lại nữa, chánh ngữ là phụng hành từ tâm bi mẫn tất cả, thân và thù không có khác, chánh ngữ ấy cũng là không, vô
tướng, vô nguyện, đều vô tác vô sanh vô
khởi, bình đẳng diễn nói các pháp vô thường khổ không chẳng phải thân tất cả các pháp không có
ngã nhơn thọ mạng. Bình đẳng diễn nói các pháp theo
ý duyên khởi, trồng giống nào thì được quả nấy. Bồ Tát bình đẳng chỉ dạy chúng sanh tuyên
giảng kinh pháp khiến họ hành Phật đạo. Ðược chánh ngữ thanh tịnh thì được tất cả chư Phật mười phương ủng hộ. Ðây là chánh ngữ.
Bốn là chánh nghiệp. Thế nào là chánh nghiệp?
Bồ Tát tiêu hóa tất cả nghiệp đã gây tạo chưa hề làm lại cơ bổn nghiệp hoặc. Công nghiệp được tu là diệt trừ khổ não. Việc làm thường ngày đều thấy hư giả. Chẳng hưng tạo tà nghiệp, rời lìa trần lao, không có uế trược. Bồ Tát hiểu rõ chánh nghiệp và các pháp, nơi các cội công đức không có tạo tác để tu đức hạnh thì gọi là vô tác là không hư. Ðây gọi là Bồ Tát hành đạo vô thượng làm chánh nghiệp vậy.
Năm là chánh mạng. Thế nào là chánh mạng?
Bồ Tát chẳng thấy có ngã chẳng thấy có nhơn, đây là chánh mạng. Người có chánh mạng thì chẳng tích tụ tất cả trần lao. Bồ Tát chánh mạng thì hay thanh tịnh tu tập chí nguyện chúng sanh, chí nguyện đã thanh tịnh thì chẳng tự chấp thân chấp nhơn cũng không có thọ mạng, mình người bình đẳng, tất cả pháp cũng bình đẳng, thật hành pháp nghĩa thanh tịnh. Ðây là chánh mạng.
Sáu là chánh phương tiện. Thế nào là chánh phương tiện?
Bồ Tát chẳng làm sự phi pháp, lòng chẳng bỏ công đức. Phương tiện được làm thì vững an chẳng khiếp nhược, tu các chánh hạnh thuần thục thân cận. Đây là chánh phương tiện.
Người có chánh phương tiện thì chẳng làm tà phương tiện. Phương tiện được làm đúng như lời đã nói, chẳng thấy các pháp đồng cùng dị, không có tác không có chẳng tác. Ðúng như pháp tánh mà thật hành, pháp của chư Phật cũng như vậy, đều là tịch tĩnh, nhơn đó làm phương tiện. Các pháp đều bình đẳng không có sai biệt, chỗ làm cũng bình đẳng. Vì các chúng
sanh mà trừ tà phương tiện, khuyến trợ họ đến nơi trí huệ. Ðây là chánh phương tiện vậy.
Bảy là chánh ý. Thế nào là chánh ý?
Bồ Tát nhớ Phật đạo, nhớ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, từ bi, hỉ hộ. Ân cần gìn ý chẳng cho có uế ác trần lao, chẳng theo ma nghiệp.
Bồ Tát ý niệm đến chỗ nào đều chẳng sa vào tà kiến chế ngự ý niệm của mình như người gác cửa biết rành lúc nên mở nên đóng, trừ bỏ tất cả ý niệm xấu ác, không hề có tư tưởng, chẳng cho có tà niệm, đây là chánh ý.
Bồ Tát đã ở nơi chánh ý nầy thì chẳng ở trong đạo tánh tịch diệt mà lấy quả chứng. Ðây là Bồ Tát chánh ý hạnh thanh tịnh.
Tám là chánh định. Thế nào là chánh định?
Bồ Tát tùy thuận hiền thánh hạnh, biết khổ đế đoạn dứt tập đế chủng, chứng tận đế chủng, phụng đạo đế chủng, đây là chánh định.
Bồ Tát chánh định, tự thân bình đẳng các pháp cũng đều bình đẳng, tự thân thanh tịnh các pháp cũng đều thanh tịnh, tự thân không hư các pháp cũng đều không, chánh ý
chánh thọ, được như đây thì nhập vào bình đẳng chẳng sa vào diệt tận. Trong khoảng phát tâm chỗ sở hành đều bình đẳng đầy đủ trí huệ và tất cả thánh phước, tỏ rành các pháp. Ðây
là Bồ Tát chánh định hạnh thanh tịnh”.
Lúc Đức Phật nói chánh định giác phẩm, một ngàn sáu trăm chư Thiên và Nhơn từng ưa thích Tiểu thừa đã được ngộ nhập pháp nầy nên đều phát tâm vô thượng chánh chơn.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Nầy thiện nam tử! Bồ Tát thủ hộ giác ý nuôi nấng tâm mình chẳng để sanh khởi, trừ dâm nộ si, bỏ đắm trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành và thức, không dính mắc ba chỗ, độc bộ trong tam giới, qua ba cửa giải thoát, đến ba đạt trí, thấy quá khứ vị lai hiện tại không chướng ngại, khai độ chúng sanh trừ sạch cấu uế, như mặt nhựt sáng không chỗ nào chẳng được soi tỏ, thiện quyền phương tiện trí huệ tùy thời nghi mà thị hiện đi khắp ba đời khai hóa tất cả chúng sanh làm cho
họ phát đạo tâm, như hoa sen trong nước. Ðây là Bồ Tát hộ trì giác đạo ý hạnh thanh tịnh”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Thế nào là Bồ Tát thành tựu thần thông làm hạnh thanh tịnh?
Bồ Tát lại do năm sự thấy suốt đầy đủ chứng được quang minh gọi là thiên nhãn:
Soi khắp mười phương chỗ rất kín tối không đâu chẳng thấy rõ, thấy tất cả Phật khai hóa độ thoát nhiều loài, xa thấy chúng sanh sau trước hướng đến trang nghiêm ý chí. Thấy hết mười phương có tất cả hình sắc tượng mạo chủng loại tốt xấu, dài ngắn, lớn nhỏ, thiên nhãn ấy không hề bị chướng ngại, ý niệm tịch diệt vô vi hơn cả hàng Bát Bộ Thiên Long, Thanh
Văn, Duyên Giác và cũng thấy suốt bổn mạt của họ. Ðây là thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử! Lại do năm sự Bồ Tát thành tựu nghe biết suốt hết tất cả gọi là thiên nhĩ. Nghe biết âm thanh của tất cả loài người, nghe suốt âm thanh của tất cả phi nhơn, cũng nghe tất cả âm thanh đau khổ của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cũng nghe âm thanh thuyết pháp của tất cả Phật mười phương, tất cả ngôn ngữ âm từ sai khác chẳng đồng, vạn ức thứ âm thanh khắp tất cả mười phương đều nghe rõ được hết. Ðây là thiên nhĩ thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử! Bồ Tát biết các tâm niệm có năm sự: Đều biết rõ được gốc ngọn của nghiệp nhơn các loài trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, tâm niệm thiện ác của họ, đến đời sau hoặc thấy họ thọ thân, biết tâm niệm họ hướng về đâu suốt quá khứ vị lai hiện tại quyết định chỗ đến về nơi tà nghiệp, tâm niệm của tất cả chúng sanh và nghiệp hành thiện ác đều biết rõ, xét tâm ý của chúng sanh hoặc có tham dâm, sân
hận, ngu si tùy theo bổn hạnh của họ mà thuyết pháp. Ðây là hạnh thanh tịnh biết các tâm niệm của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử! Thế nào là Bồ Tát biết đời quá khứ thần thông thanh tịnh?
Bồ Tát biết quá khứ có năm sự: Biết rõ đời trước ai có thọ những dâm nộ si thì đều tự nhiên, thọ mà chẳng chú ý suy nghĩ
gây ra sự việc ấy, lại biết rõ thân mình từ vô số đời chuyên suy gẫm về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ, từ bi, hỉ xả, do nơi định ý ấy mà được thân nầy, cũng là từ nơi mình gây nên, những ai chấp ngô ngã tâm niệm nhơn duyên quán sát các tướng, tướng nhơn duyên ấy cũng tự mình làm mà tự nhiên thọ, suy gẫm tâm ý họ quan sát chí hướng họ, họ vào cửa suy mê cũng là tự nhiên thọ, nhớ biết như vậy rồi tùy theo thân hình quyến thuộc thế lực danh xưng hào quý hay bần tiện khổ vui cũng tự mình tạo, đều tự nhiên làm mà thọ lấy họa hoạn ấy. Ðây là thần thông thanh tịnh biết rõ thân tâm đời quá khứ của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử! Cũng có năm sự Bồ Tát đầy đủ thần túc: Thị hiện mọi sắc thân thần thông tự tại, thị hiện mọi thanh âm thần thông tự tại, thấu suốt tâm ý và hành nghiệp của tất cả mọi loài thần thông tự tại, thần túc cùng khắp làm cho tất cả chúng sanh vui sướng, thần túc đều riêng biệt người gần gũi được thấy, thần túc đến khắp mọi nơi, ngồi một chỗ mà thấy vô số quốc độ mười phương, đi khắp cảnh giới của tất cả Phật, tùy theo tập tục của tất cả chúng sanh mà hiện thân hình khắp mười phương thuyết pháp cho họ làm cho họ được thông hiểu phát tâm Bồ Đề. Ðây là thần túc thanh tịnh của Bồ Tát.
Nầy Tộc Tánh Tử! Bồ Tát huệ nhãn có đủ thiên nhãn thanh tịnh không hề chấp trước, cũng đủ thiên nhĩ trước sau thanh tịnh không hề chướng ngại, liền biết rõ tất cả tâm niệm của mọi loài chúng sanh,
biết rõ cả đời quá khứ hiện tại vị lai, an trụ hạnh vô vi vô tác hết hẳn nghiệp hữu lậu sanh tử bèn đủ thần túc thanh tịnh thần thông tự tại, đây là cửa thánh huệ lậu tận. Ở đây Bồ Tát dùng năm thần thông ấy mà tự vui thích, tâm Bồ Tát chẳng an trụ nơi huệ lậu tận.
Nầy Tộc Tánh Tử! Ví như đường sá cách xa cư ấp trăm ngàn do tuần có quốc thành lớn. Con đường ấy gian hiểm nhiều nạn khó kể hết, nào có dốc cao hố sâu quanh co chật hẹp, nào là giặc cướp, sư tử, cọp sói, chúng ác thú trở lại ăn giết nhau. Nếu ra khỏi con đường dữ ấy thì đến được quốc thành. Người vào thành thì
thoát khỏi các họa nạn an ổn vô lượng. Bấy giờ có một người nghe quốc thành ấy có nhiều ân đức vui sướng, người nầy vốn chỉ có một con trai rất cưng yêu, khi nghe đến quốc thành kia, người nầy liền bỏ đứa con trai yêu quí lại mà đi, hết sức siêng năng chịu đựng các sự gian nguy khổ nạn ngày đêm chẳng biếng trễ, được gặp bóng mát, thân đủ sáu nghề, tay cầm năm món binh khí
vượt khỏi đường hiểm đến bên cửa thành, đứng trên ngạch cửa rồi lần bước lên đến từng cửa thứ hai mở cửa thành ra rồi đứng lại đó, thoạt nhớ đến đứa con trai yêu quí
chưa được đến quốc thành, vì ân tình cha con nên người nầy chẳng vào thành, mà vội trở lại cư ấp mang đứa con trai cùng đến quốc thành an lạc ấy.
Nầy Tộc Tánh Tử! Cũng vậy, Bồ Tát mặc giáp vô cực, dùng chí ý tinh tiến vững chắc thuần thành hiển phát đại đạo trừ sạch tâm nghiệp, công hạnh thuần thục lành tốt, hết các lậu khởi đại bi, vì chúng sanh mà thuyết pháp khai hóa cho họ. Bồ Tát nầy có trí huệ dứt trừ các lậu hết hẳn sanh tử thành tựu cứu cánh, vì lòng từ bi muốn cứu vớt chúng sanh nên lại vào sanh tử hiện thân ở hạng phàm phu.
Nầy Tộc Tánh Tử! Quốc thành ấy dụ cho thánh huệ vô thượng hết hẳn các lậu. Con đường hiểm nạn xa trăm ngàn do tuần là nói trải qua vô lượng sanh tử họa nạn độ thoát chúng sanh
chẳng lấy làm khổ. Trộm cướp cọp sói là nói các ma
tà kiến những nạn phi pháp. Ăn giết lẫn nhau là nói họa hoạn, thân ngữ ấm suy hư trong tam giới. Gặp được bóng mát là nói công hạnh bình đẳng. Sáu nghề và năm món binh khí là nói sáu Ba la mật và năm thần thông. Người nầy đến thành đứng trên ngạch cửa, từ cửa ngoài lần bước đến cửa trong rồi đứng lại mà chẳng tiến vào, là nói Bồ Tát từ hữu vi đến vô vi các lậu đã hết, tâm sáng suốt chẳng bỏ bổn nguyện muốn độ chúng sanh mười phương như nhớ đến đứa con trai duy nhứt vậy. Chẳng vào thành mà trở lại cư ấp, là nói Bồ Tát thương xót tất cả chúng sanh trong lòng nhớ mến họ như người cha nhớ con một. Bồ Tát đã diệt trừ họa nạn các lậu sanh tử siêu việt an trụ nơi pháp đảnh, dầu đã ra khỏi sanh tử mà chẳng dứt hết các lậu, liền trở lại ở tại lục đạo để khai hóa chúng
sanh. Ðây là hạnh đại bi thiện quyền phương tiện của Bồ Tát vậy”.
Bấy giờ Bửu Kế Bồ Tát bạch rằng: ” Ðấng Thiên Trung Thiên chưa từng có! Bồ Tát đại sĩ lòng chứa đại bi muốn độ chúng sanh chẳng thích giải thoát xem như tay mình trở lại sanh tử mà chẳng chán ghét.
Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát tuân tu pháp gì mà chẳng chán ghét sanh tử?”.
Ðức Phật dạy: ” Nầy Tộc Tánh Tử! Bồ Tát có hai mươi sự chẳng chán ghét sanh tử.
Những gì là hai mươi sự?
Nầy Tộc Tánh Tử! Bồ Tát phụng hành đức bổn đến được đại từ vô thượng, chấp trì đại từ để nhiếp nguy nạn lớn. Hoài bảo đại bi nhiếp kẻ mê ác, khai hóa chúng sanh cứu độ tất cả. Thường dùng tinh tiến nhiếp kẻ khiếp liệt. Dùng tánh hòa nhẫn nhiếp người hận thù. Dùng quyền phương tiện nhiếp kẻ chẳng biết tiết độ. Phải dùng trí huệ nhiếp kẻ ngu tối. Dùng nhứt tâm nhiếp người phóng dật. Hay dùng thần thông nhiếp kẻ chẳng thông. Hay dùng thánh minh nhiếp những ám tắt. Hay dùng tùy thời nhiếp những vô nghĩa. Dùng ý chuyên tư duy nhiếp kẻ phiền não. Tuân phụng tâm đạo nhiếp kẻ chẳng học. Mà thi hành tứ ân nhiếp kẻ không được cứu giúp. Dùng bố thí nhiếp bần cùng. Cung kính giới luật nhiếp các vô lễ. Dùng học rộng nhiếp ít trí. Dùng tổng trì nhiếp hay quên. Dùng biện tài nhiếp ngu độn. Dùng thượng đức nhiếp vô phước. Bồ Tát do hai mươi sự nầy mà thành đại trí huệ chẳng chán ghét sanh tử vậy”.
Bửu Kế Bồ Tát lại bạch rằng: ” Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát nên ở nơi sanh tử vì vô số người mà làm lợi ích?”.
Ðức Phật dạy: ” Nầy Tộc Tánh Tử! Nếu như Bồ Tát dùng đức để trang nghiêm thì
nên ở sanh tử, dùng phước nhuần thấm kẻ nghèo thiếu nguy ách. Học rộng trang nghiêm thì
nên ở sanh tử, dùng biện tài đem nhiều lợi ích hay gìn ý chí chẳng vội quên. Ðến được tổng trì thì nên ở sanh tử làm cho tất cả mọi người đều có văn huệ. Ðến được bàn tay báu thì
nên ở sanh tử đem sự bố thí tốt để tự trang nghiêm, của cải chẳng hao bớt làm nhiều lợi ích. Lại chẳng phóng dật thì nên ở sanh tử, giảng pháp chẳng chán mỏi đem lại nhiều lợi ích cho tất cả mọi người. Lại bình đẳng họp các tướng hảo thì nên ở sanh tử, tu huệ trang nghiêm cho các chúng sanh. Ngôn hành tương ưng thì nên ở sanh tử, việc làm đều đúng thời chẳng mất tiết độ có nhiều lợi ích cho các chúng
sanh. Bố thí tất cả sở hữu lòng không hối tiếc bỏn xẻn thì nên ở sanh tử, tùy theo thời mà khai hóa đều được đúng chỗ, thí pháp Ba la mật nhiều sự lợi ích cho các chúng
sanh. Phụng giới thanh tịnh thì nên ở sanh tử, trang nghiêm trì giới đem nhiều lợi ích lại cho chúng sanh. Nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ thì nên ở sanh tử, sáu Ba la mật đem nhiều lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy Tộc Tánh Tử! Thuở xa xưa vô ương số kiếp, có Đức Phật hiệu Phổ Hoại Thế Như Lai Ứng Cúng Chi Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên Thiên Quán, kiếp tên Hân Dự. Tại sao kiếp ấy tên Hân Dự? Trong kiếp ấy có sáu vạn Đức Phật xuất thế, bấy giờ Trời Tịnh Cư dùng vô số âm thanh ban tuyên
công đức của Phật, trong kiếp ấy có sáu vạn Phật, chư Thiên và người đời đều ca tụng. Nghe tiếng ca tụng ấy không ai là chẳng vui mừng sanh lòng lành. Do duyên cớ ấy mà gọi là Hân Dự.
Nầy Tộc Tánh Tử! Thế giới ấy an ổn khoái lạc công đức cao vợi, chư Thiên và nhơn dân ngắm xem chẳng nhàm nên gọi là Thiên Quán. Cõi ấy vi diệu rất mực trang nghiêm, nhiều thứ hương thơm làm đất, hơi hương bay khắp mười phương vô lượng vô số quốc độ. Ðất thơm tự nhiên mọc lên vô lượng hoa sen chói
sáng. Ánh sáng hoa sen thường chiếu sáng thế giới Thiên Quán ấy. Nhơn dân lớn nhỏ đều có thần túc đều có túc đức, hương thơm làm lâu đài giảng đường tinh xá, hiên lơn, cửa nẻo, giường ghế nệm mền đều vi diệu mịn láng. Thế giới của Đức Phật Phổ Hoại Thế ấy không phân chia nước ấp quận huyện thôn lạc. Nhơn dân ấy đều dùng thần thông đi đứng nơi hư không. Lâu đài giảng đường cũng ở hư không. Nhơn dân ngồi nơi lâu đài giảng đường ấy chuyên ròng niệm đạo, đọc tụng giảng luận. Cõi ấy không có người nữ, không có bào
thai, mọi người đều hóa sanh. Không
nghe nói đến người nữ, cũng không có tên
tam đồ ác thú, cũng không có các sự phiền não tai họa khổ nhọc. Mọi người dùng thiền định hoan hỉ làm ẩm thực, dốc lòng tin pháp vi
diệu chí cầu Ðại thừa, không có Thanh Văn, Duyên Giác hay thừa nào khác. Nhơn dân cõi ấy đội mão, y phục nhan sắc như chư Thiên. Giả sử có người xuất thế học đạo thì đều rời bỏ trần lao ái dục không hề có lo khổ.
Ðức Phổ Hoại Thế Như Lai ấy cũng chẳng truyền bảo chư Bồ Tát phải mặc pháp phục. Tại sao? Vì người cõi ấy chẳng sanh lòng uế trược. Hình thể của Đức Như Lai ấy như Phạm Thiên. Chư Bồ Tát cõi ấy đều đủ oai nghi lễ tiết, ngồi đứng an tường, giảng thuyết kinh pháp.
Giả sử ở quốc độ của chư Phật mười phương có hàng Bồ Tát thần thông quảng đại bi suốt các thế giới đến cõi Thiên Quán khể thủ quy mạng nghe Đức Phổ Hoại Thế Như Lai giảng thuyết kinh điển, thấy cõi ấy công đức siêu việt cao vọi vô lượng không đâu sánh kịp, đều cất tiếng khen ngợi chưa từng có rồi mới bỏ đi.
Nầy Tộc Tánh Tử! Nếu lúc Đức Phổ Hoại Thế Như Lai vì chư Bồ Tát mà ban tuyên đạo hóa thì Ngài thăng lên hư không cách đất sáu mươi sáu trượng ngồi trên tòa sư tử vi diệu thanh tịnh trang nghiêm mà luận giáo pháp vô thượng, chỉ nêu phần chủ yếu mà chẳng phân biệt rộng, còn ta ở đây thì ân cần nói nhiều. Tại sao? Vì chư Chánh Sĩ ấy đều nhập thánh huệ, do một chương một câu liền có thể ngộ nhập trăm ngàn diệu nghĩa nên Đức Như Lai ấy tuyên gọn kinh giáo mà chẳng nói nhiều.
Ðức Phật ấy nói về bốn hạnh thanh tịnh: Ba la mật thanh tịnh, đạo phẩm pháp thanh tịnh, thần thông hạnh thanh tịnh và hóa độ chúng sanh thanh tịnh.
Nầy Bửu Kế! Thuở ấy nơi quốc độ Thiên Quán có Bồ Tát hiệu Trân Bửu bạch hỏi Đức Phổ Hoại Thế Như Lai: Thế nào là Bồ Tát nên ở tại sanh tử làm nhiều lợi ích cho các chúng sanh? Ðức Phật bèn vì Bồ Tát mà rộng phân biệt nói nghĩa hai câu nầy: Nơi đại trí huệ đạo không gì bằng, sở hành của Bồ Tát hằng ở sanh tử chứng được trí huệ làm nhiều lợi ích.
Ðức Phổ Hoại Thế vừa nói xong lời ấy liền có sáu vạn Bồ Tát được nhu thuận nhẫn.
Nầy Tộc Tánh Tử! Lúc ấy Trân Bửu Bồ Tát lại hỏi: Thế nào là Bồ Tát nghiêm tịnh đạo tràng ngồi nơi Bồ Đề thọ?
Phổ Hoại Thế Như Lai bảo: Dùng không phóng
dật nghiêm tịnh đạo tràng ngồi nơi Bồ Đề thọ.
Hỏi: Thế nào gọi là không phóng dật?
Ðáp: Phụng hành kinh điển.
Hỏi: Sao gọi là phụng hành kinh điển?
Ðáp: Ngôn hành tương ưng là không phóng dật. Lại không phóng dật chẳng tự buông lung mà tu
vô lượng công đức lớn, chẳng hiệp với ngũ ấm vì vượt khỏi ngũ ấm, bố thí vô lượng vì của cải vô tận, trì giới vô lượng vì hàng chưa học, nhẫn nhục vô lượng vì kham chịu các sự khổ nhọc, tinh tiến vô lượng vì công nghiệp của Chánh Sĩ, thiền định vô lượng vì không lui sụt, trí huệ vô lượng vì không chướng ngại, từ tâm vô lượng vì khai hóa
chúng sanh không hạn cuộc, bi tâm vô lượng vì thương xót chúng sanh cứu giúp thiếu ngặt, hành vi vô lượng vì dùng pháp khuyên vui chúng sanh, hành xả vô lượng vì cứu tế dìu dắt quần sanh, sanh tử vô lượng vì nuôi lớn tất cả pháp Phật đạo, hóa độ vô lượng vì an ổn người và mình, chánh
pháp vô lượng vì thuận lợi tùy thời kiên trì tinh tiến, đức huệ vô lượng vì nắm quyền phương tiện đồng đúng thời tiết, phụng sự vô lượng Phật vì đầy đủ trí huệ, cầu vô lượng văn huệ vì trí lớn siêu việt, tâm nhập vô lượng vì nhìn thấy chí hướng tánh hạnh của chúng sanh, tiết độ vô lượng vì chí gìn nhàn tĩnh tri túc, nhàn cư vô lượng vì điều thuận tâm, tịch mặc vô lượng vì chỗ quan sát rộng khắp mau lẹ đầy đủ các thông huệ vậy.
Nầy Trân Bửu! Ðây là những pháp mà không phóng dật phải tuân theo. Bồ Tát tu hành không phóng dật đây thì nghiêm tịnh đạo tràng ngồi Bồ Đề thọ.
Ðức Phổ Hoại Thế Như Lai lại bảo Trân Bửu Bồ Tát: Nầy Tộc Tánh Tử! Không phóng dật ấy là căn bổn lập nên các phẩm đạo pháp, là nguồn của thánh huệ chứng pháp kiên yếu. Dùng không phóng
dật tích lũy đức bổn. Hay chưa phóng dật thì chưa hề quên sót pháp được nghe từ xa xưa, có thể nhớ lấy khắp tất cả kinh điển, tiêu hóa tất cả trần lao ấm cái, với đạo nghĩa không bị chướng ngại. Người không phóng dật có thể đốt hết tối ngu si, có thể giữ gìn tất cả kinh pháp, diệt trừ các tướng chấp, ức chế các căn. Người không phóng dật rời bỏ đường tà, phụng hành các điều thiện, thế lực siêu việt, có đủ mười trí lực, như hư không không gì sánh bằng. Người không phóng dật được vô sở úy thành tựu đủ tất cả Phật pháp về đến nguyên đảnh. Người không phóng dật thì có thể chứng được trí huệ Phật.
Lúc đức Phổ Hoại Thế Như Lai ấy nói xong về không phóng dật, có vạn hai ngàn Bồ Tát chứng được Vô sanh pháp nhẫn”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Nầy Tộc Tánh Tử! Ý của ông nghĩ sao? Trân Bửu Bồ Tát thuở xa xưa ấy nay không phải người nào khác mà chính là thân ông là Bửu Kế Bồ Tát vậy.
Nếu Bồ Tát không phóng dật thì có thể nghiêm tịnh đạo tràng ngồi Bồ Đề thọ chứng nhập Phật đạo Vô thượng.
Lại nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát khai hóa chúng sanh?
Nếu người Bồ Tát hạnh thanh tịnh thấy chúng sanh tâm
hành thiện ác thì có thể khai hóa vô lượng vô hạn bất khả tư nghị các loài chúng sanh khiến họ phụng hành pháp vô thượng. Bồ Tát nầy chí tánh điều nhu xét rõ tận tường tự tại khai hóa: Bao nhiêu chúng sanh căn cơ chẳng đồng sở kiến đều sai khác. Do đây nên Bồ Tát tùy thời nghi thị hiện để dạy bảo họ. Hoặc có kẻ hay kiên trì cấm giới mới khai hóa được. Hoặc có kẻ từ nơi phá giới do đó mà thọ lãnh giáo pháp. Hoặc có kẻ dùng y phục vật dụng giao tiếp qua lại làm duyên mà chịu đạo hóa. Hoặc dùng mềm dịu, hoặc dùng cứng thô, hoặc dùng tâm độc, hoặc khủng bố, hoặc dùng sự khổ não, hoặc dùng sự an ổn mà họ chịu khai hóa. Hoặc có những kẻ ở nơi ngôn ngữ, nơi sự đắc thắng, từ nhơn sanh, từ chí tánh, nơi sự bức não, nơi thuận ý, hoặc từ nơi sở hữu, nơi vô sở hữu, từ sự hưng thạnh, từ nơi sở thọ, nơi vô sở thọ, hoặc từ nơi của cải sự nghiệp sanh nhai, hoặc từ nơi yên tĩnh không đổi lấy, hoặc từ nơi ham mộ cầu dung nhan đẹp, hoặc từ nhan sắc xấu, hoặc từ sắc, thanh, hương, vị, xúc mà được khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi giận mắng mùi hôi vị đắng nhám cứng xấu xa mà được khai giải, hoặc từ nơi sự cùng ở chung mà thọ hóa, hoặc từ nơi qua lại thường thường gặp nhau, hoặc nghe Phật, Pháp, Tăng, hoặc từ sự vui mừng, hoặc từ sự lo buồn, hoặc từ vô ngã, hoặc từ tịch âm, hoặc từ âm thanh thí, giới, nhẫn, tiến, nhứt tâm, trí huệ mà chịu khai hóa, hoặc từ sự khổ não của thế gian hữu vi, hoặc nghe trên trời trong người hưởng sự an ổn mà chịu khai hóa, hoặc nghe giáo pháp Thanh Văn thừa, hoặc nghe giáo pháp Duyên Giác thừa, hoặc nghe giáo pháp Ðại thừa mà chịu khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi sự thường vui mừng, hoặc từ sự lo khổ, hoặc từ sự buồn rầu chẳng được mừng vui, hoặc từ tài lợi, hoặc từ hớn hở, hoặc từ nơi sự chẳng được yêu kính, hoặc do được lợi, hoặc do suy hao, hoặc từ nơi bổn ân mà được khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi nội nghiệp, hoặc từ ngoại nghiệp, hoặc từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thể tay chơn mà chịu khai hóa, hoặc do vui chơi ca kịch, hoặc do hoa hương mà chịu khai hóa, hoặc từ thân mình luôn bị khổ não hoạn nạn, hoặc từ nơi thường được an vui mà chịu khai hóa, hoặc có kẻ từ nơi tâm mình được phương tiện tịch tĩnh, hoặc từ nơi biến hóa làm tượng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tượng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà chịu khai hóa, hoặc hiện hình tượng dung mạo Phật mà khai hóa chúng sanh, hoặc hiện tượng mạo Ðế Thích, Phạm Thiên, Chuyển Luân Vương mà khai hóa họ”.
Ðức Phật bảo Ngài Bửu kế Bồ Tát: ” Nầy Tộc Tánh Tử! Giả sử Bồ Tát chẳng thị hiện bao nhiêu sự biến hóa như vậy, chẳng quan sát tánh hạnh và tâm niệm của chúng sanh thì
không thể hóa độ họ được.
Bồ Tát phải hiểu rõ biết rõ tánh hạnh tâm niệm của chúng sanh rồi theo đúng bịnh mà cho thuốc thì chỗ hóa độ mới rộng lớn được.
Nếu Bồ Tát thật hành Ba la mật thì có thể phụng thọ pháp phẩm Phật đạo, cũng hay sáng tỏ trí huệ thần thông, sau đó yên lặng khai hóa chúng sanh.
Bồ Tát có bốn pháp khai hóa chúng sanh:
Một là chẳng chán nhàm hoạn nạn khó nhọc mà chung thỉ dìu dắt, chỉ dạy người chưa bằng mình.
Hai là chẳng ham an ổn riêng mình mà nguyện an tất cả.
Ba là thường theo đúng thời nghi mà tuyên dạy đạo giáo.
Bốn là biết rõ tâm tánh sở hành của các loài.
Còn có bốn pháp:
Một là nói năng nhu hòa lời lẽ đáng kính.
Hai là phụng giới thanh tịnh như mặt nhựt sáng.
Ba là nhan sắc thường vui vẻ chưa hề hờn giận.
Bốn là thường có từ tâm.
Còn có bốn pháp:
Một là lòng chẳng hề nghĩ đến sự làm tổn hại người.
Hai là sẵn lòng đại bi.
Ba là nhiều thương xót chúng sanh.
Bốn là thường điều phục tâm mình.
Còn có bốn pháp:
Một là tánh hạnh thanh tịnh.
Hai là không dua siểm.
Ba là tinh tiến kiên cường.
Bốn là nhẫn sự khổ lạc thiện ác.
Trên đây là bốn pháp của Bồ Tát khai hóa chúng sanh. Quan sát như vậy mới có thể kham cứu tế tất cả.
Nầy Tộc Tánh Tử! Quá khứ xa xưa vô ương số kiếp, có Phật hiệu Ly Cấu Quang Như Lai Ứng Cúng Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Tịch Nhiên, kiếp tên Ái Kính. Thế giới Tịch Nhiên ấy giàu vui an ổn khoái lạc vô lượng, trời người đông đúc. Chúng Thanh Văn có chín mươi sáu ức, Bồ Tát có tám vạn bốn ngàn. Phật Ly Cấu Quang thọ ba mươi ba vạn sáu ngàn năm. Bấy giờ có phạm chí làm đại Quốc Vương, Thái Tử tên Nghiệp Thủ xinh đẹp đoan trang nhìn không chán mắt. Thái Tử ấy vừa mười sáu tuổi say vì nhan mạo, mê nơi quyền quí, tự cao tự đại hoang loạn không chịu đến chỗ Phật Ly Cấu Quang để cung kính đảnh lễ.
Phật Ly Cấu Quang nghĩ rằng: Thái Tử Nghiệp Thủ tại sao bỗng nhiên quên mất tâm Bồ Đề Vô Thượng cội gốc công đức, chẳng biết bổn nguyện mà đi chấp ngô ngã hoang mê
dung sắc giàu có quyền quý, lại tự cao đại chẳng chịu đến chỗ Phật để kính lễ. Nếu có ai ân cần vì gã mà tuyên nói bổn hạnh, gã tất biết đời trước và sẽ thường đến chỗ Phật lễ lạy thọ giáo.
Bấy giờ Phật Ly Cấu Quang hội tám vạn bốn ngàn Bồ Tát bảo bỏ thăm coi ai có khả năng đến chỗ TháiTử Nghiệp Thủ trong tám vạn bốn ngàn năm giáo hóa thuyết pháp chẳng mỏi nhàm chẳng sợ tất cả khổ não bức bách, dầu có đến đó thuyết dạy cũng chẳng được tiếp đãi mời ngồi chuyện vãn, chỉ có mắng nhiếc hủy nhục chê bai thôi. Lúc
ấy dầu có bỏ thăm mà trong hàng tám vạn bốn ngàn Bồ Tát không một ai chịu nhận sứ mạng. Sau đó trong pháp hội có Bồ Tát hiệu là Cực Diệu Tinh Tiến đứng dậy trịch y vai hữu quỳ gối chắp tay bạch Phật Ly Cấu Quang rằng : Tôi có thể kham trong tám vạn bốn ngàn năm thường qua chỗ Thái Tử Nghiệp Thủ, tôi cam bỏ tất cả an ổn mà nhận các sự khổ nhọc, dầu bị những ách nạn cũng chẳng sờn lòng.
Lúc Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát bạch vừa xong thì cả Ðại Thiên thế giới chấn động sáu lần, trăm ngàn chư Thiên ở hư không cất tiếng khen rằng: Lành thay lành thay! Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến hay mặc giáp hoằng thệ.
Bấy giờ Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến đến đứng trước cửa ngõ cung của Thái Tử Nghiệp Thủ. Thái Tử vừa thấy liền cả tiếng mắng nhiếc hủy nhục, giận dữ hủy báng, hốt đất ném đó, ngói đá
liệng đó, dao gậy chém đánh đó. Bồ Tát bị mắng nhục đánh đập như vậy mà chẳng giận chẳng hờn cũng chẳng hối hận lui về, càng thêm bền lòng chắc ý, trí lực càng tăng sanh
lòng đại bi thương xót Thái Tử. Như vậy quá một ngàn năm mới vào được cửa thứ nhứt, trải qua biết bao khổ nhục hoạn nạn mà chẳng sợ chẳng nhàm. Quá một vạn năm lại vào đến sân thứ nhứt trong vương cung, hai vạn năm vào đến sân thứ hai, quá tám vạn bốn ngàn năm mới vào được sân thứ bảy đứng đó bảy ngày bảy đêm. Thái Tử Nghiệp Thủ thấy vậy bèn gạn hỏi Tỳ Kheo sao đến đây muốn cầu sự gì? Bồ Tát đáp: Tôi cố ý đến đây để ca ngợi danh đức của Thái Tử.
Nghe vậy, Thái Tử thầm nghĩ: Lạ lùng chưa từng có, nay Tỳ Kheo
nầy giới đức khó lường không ai theo kịp, bị biết bao hủy nhục mà chưa hề hờn giận.
Thấy Thái Tử vui vẻ, Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát liền nói kệ rằng:
Thái Tử! Nay tôi không cầu gì
Chẳng cần uống ăn và y phục
Phải nên hiển bày lòng vô úy
Tôi mang pháp đến nên tới đây
Ðấng Thế Tôn hiệu Ly Cấu Quang
Ðại Thánh ra đời nhiều lợi ích
Giảng nói kinh pháp trừ khổ hoạn
Nếu có người nghe được cam lồ
Chư Phật ra đời thật khó gặp
Vô số ngàn kiếp khó gặp được
Ðiều phục mọi người khiến thọ pháp
Phật là đuốc sáng của thế gian
Người vì dục lạc mà phóng dật
Tham của ham sắc tự vui chơi
Mê hoang quyền quý và ngôi vua
Chẳng chịu đến gặp đấng Pháp Vương
Của cải vô thường mạng khó gìn
Phật dạy đời sống như sương mai
Thái Tử xét mình cũng như vậy
Sao nghe có Phật lại phóng dật?
Ngài cũng đã từng phát đạo tâm
Mời thỉnh chúng sanh muốn độ họ
Ðời nay sao bị dục lạc sai?
Phóng dật đâu độ được chúng sanh
Ngài nên phát tâm thương mọi loài
Ðể khỏi hối hận chuốc sầu não
Nay tôi muốn về chỗ Đức Phật
Hàng phục tâm ý diệt trần dục.
Thái Tử Nghiệp Thủ nghe lời kệ ấy liền tự trách và cung kính lễ chưn Bồ Tát Cực Diệu Tinh Tiến mà thưa rằng:
Khể thủ đại bi Cực Tinh Tiến
Nay tôi sám hối tội nhục Ngài
Tôi sẽ rời bỏ tất cả việc
Chẳng mộ quyền quý chẳng tham ngôi
Tôi sẽ qua đến chỗ an trụ
Vứt bỏ nhơ nhớp tìm lợi ích.
Thái Tử liền cùng một ức tám vạn người đều cầm hoa hương đến chỗ Phật cúng dường đảnh lễ rồi lui qua một bên.
Bấy giờ Thái Tử Nghiệp Thủ bạch Phật rằng:
Cực Diệu Tinh Tiến là thầy tôi
Lòng chẳng chán nhàm vui vẻ khuyên
Ân đức dường ấy không gì hơn
Cúng dường thế nầy chẳng đủ đền
Hối lỗi quy y đấng Cứu Thế
Tôi quên lời dạy của Pháp Vương
Nay tôi chí thành về sám hối
Nguyện Phật nạp thọ lòng thú tội
Nay tôi phát tâm cầu Phật đạo
Vì tất cả loài khởi lòng thương
Chẳng còn tạo tà và phóng dật
Nay tôi lập đức thành Phật đạo.
Thái Tử Nghiệp Thủ bỏ ngôi cùng một ức tám vạn bốn ngàn người ở nơi chỗ Phật Ly Cấu Quang làm Sa Môn phát tâm cầu Phật đạo.
Phật Ly Cấu Quang biết chí nguyện ấy nên giảng nói Phật đạo tối thượng. Nhiều người nghe pháp thanh tịnh được nhu thuận nhẫn, hàng Bồ Tát an trụ Vô sanh pháp nhẫn”.
Ðức Phật bảo Bửu Kế Bồ Tát: ” Cực Diệu Tinh Tiến thuở ấy nay là thân ta, là Thích Ca Mâu Ni Phật đây. Còn Thái Tử Nghiệp Thủ ấy nay là Di Lặc Bồ Tát vậy.
Nầy Tộc Tánh Tử! Thuở quá khứ, Bồ Tát khai hóa chúng sanh chẳng hề mỏi chán, oai đức cao vọi vô lượng dường ấy, sở học ngày thêm sâu tinh tiến vô song. Vì thế nên Bồ Tát muốn độ chúng sanh thì phải nhớ tu học công đức của Cực Diệu Tinh Tiến Bồ Tát quá khứ ấy.
Nầy Tộc Tánh Tử! Bồ Tát có bốn hạnh mà được tự tại, do bốn hạnh nầy mà nhiếp lấy Phật đạo pháp:
Một là siêu việt các ma không ai chẳng quy phục.
Hai là niệm tịnh Phật độ khiến tu tịnh pháp.
Ba là nghiêm thân khẩu ý thuận với căn bổn của bực khai sĩ.
Bốn là nhóm họp tất cả các Phật đạo phẩm.
Còn có bốn sự là Bồ Tát hạnh:
Một là trí huệ hiểu rõ chí tánh được nhập.
Hai là thấy khắp căn nguyên sở quy của chúng sanh.
Ba là phân biệt sở do của các loài rồi cho thuốc đúng bịnh.
Bốn là biết rõ tất cả đường tắt được đi khiến được tịch mịch chẳng có lòng hờn giận.
Ðây là những bốn hạnh sở hành của Bồ Tát đuợc tự tại đạo nghiệp”.
Bấy giờ Bửu Kế Bồ Tát lấy viên Minh Nguyệt châu trong búi tóc Ngài, châu ấy do từ trăm ngàn công đức cần khổ tu tập trong vô số kiếp cảm thành, giá trị bằng cả Ðại Thiên thế giới đem dâng lên Đức Phật mà tuyên rằng: ” Nay tôi đem báu trên đỉnh đầu cống hiến Đức Như Lai. Do công đức nầy sẽ gây nên tướng đỉnh đầu không ai thấy được, mãi đến thành đỉnh thánh huệ bất khả tư nghì của chư Phật”.
Liền đó Đức Phật mỉm cười, có ánh sáng năm
màu từ miệng Phật chiếu ra soi thấu vô ương số quốc độ chư Phật rồi trở về nhiễu quanh Phật ba vòng bỗng ẩn mất vào trên đỉnh Phật.
Lúc bấy giờ trong pháp hội có Bồ Tát tên là Kiện Biện đứng dậy trịch y vai hữu quỳ gối chắp tay tán thán Đức Phật và bạch hỏi rằng:
Ðấng Tối Tôn Vô Thượng
Ðấng siêu việt thế gian
Vô cấu do ly uế
Tam giới khen Phật đức
Lòng từ không gì sánh
Cao vọi hơn Tu Di
Cớ chi nay Phật cười?
Nguyện thương gì tôi nói
Chơn đế giới nghiêm định
Ðấng thanh tịnh khả kính
Khiến lòng tôi an ổn
Khéo tu sớm tịch tĩnh
Thiên Nhơn Sư ở đây
Chí Phật rất kiên diệu
Vì cảm ứng những gì
Xót thương mà nay cười
Thế mạnh khắp mười phương
Quang minh phước soi sáng
Phá tối sư tử mạnh
Vào chúng vô sở úy
Ba cõi không ai bằng
Có ai hơn được Phật
Pháp Vương xin thương nói
Cớ chi mà vui cười?
Ly cấu tánh thường an
Nhan sắc thường hòa vui
Danh đức khắp hư không
Vang lừng không hạn cuộc
Tiêu trừ những tối tăm
Quang minh chiếu khắp chỗ
An trụ chỉ vì hiểu
Cớ chi Phật vui cười
Tu đức lòng thanh tịnh
Chí như núi vàng báu
Thường dạy bảo hậu học
Người đời đều cúng dường
Phật là ruộng tốt nhứt
Thánh siêu thế độ đời
Thích Sư Tử thuyết pháp
Diễn pháp như hư không
Trên trời cùng trong người
Không có ai bằng Phật
Tâm bình đẳng rất vững
Tàm quý lành đầy thạnh
Trăm ngàn đức cao vọi
Tướng hảo như hoa nở
Tối Thắng Năng Nhơn cười
Xin được giải thích rõ
Phật huệ không chướng ngại
Trải rộng suốt ba đời
Nơi bao nhiêu tâm ý
Lòng Phật vô sở trước
Ðồng thời đều hiểu rõ
Giáo hóa đúng căn cơ
Ðấng Sư Tử mỉm cười
Nghĩa ấy là nghĩa gì?
Chư Thiên dừng trên không
Trong tâm nhiều vui đẹp
Nhơn dân tại đất liền
Vòng tay quy y Phật
Năng Nhơn Tối Thắng nói
Pháp vị cam lồ lạ
Chư Thiên Thần người nghe
Dứt sạch tối trần lao.
Ðức Phật bảo Kiện Biện Bồ Tát: ” Ông có thấy Bửu Kế đây chăng? Ông ấy đem bửu châu trong búi tóc dâng lên Như Lai chí cầu đạo chánh chơn vô thượng, đó là cúng dường Phật trí”.
Kiện Biện Bồ Tát bạch Phật: ” Vâng tôi đã thấy, bạch Đức Thế Tôn! “.
Ðức Phật bảo Kiện Biện Bồ Tát: ” Nầy Tộc Tánh Tử! Bửu Kế đây từ hằng hà sa số kiếp cúng dường hằng hà sa số Phật, ông ấy thường tu phạm hạnh khai hóa vô số loài chúng sanh lập nên tam thừa. Ðương lai quá mười a tăng kỳ kiếp sẽ làm Phật hiệu là Bửu Thành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Ly Cấu Quang, kiếp tên Vô Cấu. Thế giới Ly Cấu Quang ấy bằng bảy báu hiệp thành thường phát ra ánh sáng chiếu khắp vô lượng Phật độ mười phương, ánh sáng ấy màu tử kim. Nếu chúng sanh nào gặp được ánh sáng ấy thì tất cả trần lao tất nhờ đó mà tiêu diệt. Thế giới ấy giàu vui, đều là bậc Bồ Tát vô sở trước, không có tướng dị học khác phát khởi, đồng tu đạo bửu, do cớ nầy mà Đức Phật ấy hiệu là Bửu Thành. Chư Bồ Tát ấy đều được thần thông, đều có biện tài. Chư Thiên, nhơn dân đều thuần thục tuân hành theo đấng Ðẳng Chánh Giác, không có danh từ vô trí bất cập. Nước ấy cũng không có vua
chúa, chỉ do Phật làm Pháp Vương Vô Thượng. Chư Thiên và nhơn dân đều tự nhiên hóa sanh, không có người nữ, không có danh từ ái dục. Nhơn dân cõi ấy đều trồng cội công đức không có người vô phước, đầy đủ các căn, đều dùng các tướng hảo trang nghiêm thân
thể. Chúng Bồ Tát của Đức Như Lai thuở ấy đông không thể kể đếm. Ðức Phật Bửu Thành thọ mười bốn kiếp. Ngài không hề đàm luận gì khác, lời Phật chỉ tuyên bày trí huệ Bồ Tát, các Ba la mật, biện tài, đại bi, thuần một giáo phẩm, chư Bồ Tát đã được dạy bảo, các căn sáng suốt có thể do một câu mà khắp vào tất cả đạo pháp của chư Phật. Bửu Thành Như Lai vì chư Bồ Tát ấy mà nói ngôn giáo
tổng trì, từ tâm như đất.
Sao gọi là ngôn giáo tổng trì? Ðó là do một tuyệt cú mà vào khắp các chương.
Sao gọi là một tuyệt cú? Ðó là câu diệu thánh, pháp đạo phẩm chẳng thể cùng tận.
Sao gọi là câu vô tận? Ðó là ở nơi Phật đạo thì chẳng thể cùng tận.
Sao gọi là vô tận? Phàm luận nơi vô thì gọi là vô tận cú. Ðã nhập nơi vô rồi thì vào khắp văn tự, đây là nhứt cú mà tất cả văn tự chẳng thể cùng tận được.
Lại còn có nhị tự, trước chưa bao giờ nghe cũng chưa bao giờ làm, mà tuyên lời nói phát xuất từ nơi nhứt tự. Nhứt tự ấy chẳng đồng thế lực với nhị tự vậy. Ðây là dùng nhứt tự mà tuyên lời dạy.
Nếu tuyên bố lời dạy nầy thì không có niệm không chẳng niệm, không có ứng không chẳng ứng .
Câu nầy không có niệm cũng không chẳng niệm. Do câu vô niệm mà hoàn thành sự khai hóa.
Vì nhập tổng trì giáo nên Phật Bửu Thành vì chư Bồ Tát ấy tuyên nói ngôn cú
tổng trì. Do một câu ấy mà các học nhơn kia được vào khắp tất cả ý của Phật.
Hoặc một kiếp hay quá một kiếp, ta khen ngợi công đức của Ly Cấu Quang thế giới cũng không cùng tận được. Trí huệ giảng thuyết kinh đạo của Bửu Thành Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, cao vọi siêu tuyệt vô thượng.”
Lúc ấy Bửu Kế Bồ Tát nghe Đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở nói kệ khen Phật:
Biết khắp thấy được hết
Viên mãn Ba la mật
Như Lai đều vượt khỏi
Tất cả mọi sai lầm
Trí huệ chưa từng có
Biết hết đời trước tôi
Số cúng dường chư Phật
Phật đều nói đủ cả
Quá khứ vị lai nay
Gốc ngọn là như vậy
Phật còn biết mạt thế
Cùng tất cả mọi người
Tôi được Phật thọ ký
Chẳng còn có nghi ngờ
Khai hóa độ thế gian
Căn tánh bổn và mạt
Giả sử tất cả nơi
Nhựt nguyệt đều sa xuống
Lời từ miệng Phật tuyên
Trọn không cải biến được
Phật nói lời chí thành
Chơn thật không hư luống
Thọ ký đời vị lai
Thành Phật Nhơn Trung Tôn
Như chí tôi đã nguyện
Nghiêm tịnh Phật quốc độ
Lời Phật cũng như vậy
Biết rõ tâm niệm tôi
Nghe lời Phật dạy rồi
Vui vẻ không nghi ngờ
Hạnh được tu đệ nhứt
Vì muốn độ chúng sanh
Như hạnh tôi đã tu
Sẽ còn tăng vô lượng
Nghiêm trị nơi bổn tế
Thân tôi phụng tịnh hạnh
Tu hành được làm Phật
Chẳng do giải đãi gây
Gắng sức không khiếp nhược
Do từ tinh tiến nên
Phật nhận tôi cúng dường
Chứng đạo tâm của tôi
Chưa hề bỏ tinh tiến
Ðến thành Phật đại bi
Do vì các chúng sanh
Bổn mạt là như vậy
Tôi sẽ khai hóa cả
Thành Phật độ dị học.
Lúc Bửu Kế Bồ Tát nói kệ, có bảy vạn hai ngàn người phát tâm Vô Thượng Bồ Đề nguyện sẽ sanh nơi thế giới Ly Cấu Quang đồng thời phát thanh nói lời nầy: Lúc đức Bửu Thành Như Lai thành Phật khiến chúng tôi đều sanh tại Phật độ ấy.
Ðức Phật đều thọ ký sẽ được sanh tại cõi ấy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài A Nan thọ kinh điển nầy trì tụng đọc thuyết rộng truyền ý nghĩa nầy cho mọi người, ân cần hộ trợ kinh điển nầy cốt yếu sao cho trên trời trong người đều quy y mà cúng dường. Tại sao vậy? Vì ai nghe kinh
nầy thì Phật sẽ thọ ký. Người không tin là do
phước đức kém mỏng, người thọ trì kinh nầy thì phước đức phi phàm. Người tạm nghe kinh nầy thì đời đời được gặp Phật, huống là nghe rồi thọ trì phụng hành giảng thuyết công đức vô hạn vô lượng.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn đem thất bửu đầy Ðại Thiên thế giới theo thời mà bố thí trọn trăm ngàn năm, người nghe kinh nầy mà vui mừng tín thọ thì công đức hơn trên.
Ngài A Nan bạch Phật: ” Bạch Đức Thế Tôn! Kinh nầy tên gì và phụng trì thế nào?”.
Ðức Phật dạy: ” Kinh nầy tên là kinh Bồ Tát Tịnh Hạnh Bửu Kế Sở Vấn. Phải phụng trì như vậy.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Bửu Kế Bồ Tát và thập phương chư Bồ Tát dự hội, hiền giả A Nan, Thiên, Long, Quỷ, Thần, Kiền Thát Bà, A Tu La, Nhơn, Phi Nhơn nghe lời Phật dạy đều vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment