Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 143
PHÁP HỘI NHỰT MẬT BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI
Như vậy tôi nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Thế Tôn vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục và Sắc, cùng vô lượng đại Bồ Tát câu hội.
Đức Thế Tôn vì đại chúng nói pháp Hư Không Mục xuất tức nhập tức cam lộ môn rồi yên lặng mà trụ. Tất cả đại chúng cũng đều ngồi yên lặng suy nghĩ rằng :
Ngày nay đức Như Lai biết rất rõ tâm tôi, cầu muốn chánh pháp không
nhàm, ắt sẽ tuôn mưa pháp cam lộ.
Suy nghĩ vậy rồi, đại chúng đều chắp tay cung kính chăm nhìn Như Lai dường như người bịnh nặng ưa nhìn lương y, như người ở trong chỗ tối ưa nhìn ánh sáng, như người chìm trong nước ưa muốn đến bờ, như người bị nạn khổ ưa được chỗ nương cậy.
Trong chúng ấy có một Bồ Tát tên là Liên Hoa Quang Công Đức Đại Phạm. Bồ Tát nầy đã ở nơi vô lượng vô biên chư Phật vun trồng các công đức, thiện căn tăng trưởng, với Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển, thành tựu đầy đủ pháp duyên đại từ, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính quỳ
dài bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ tâm sở duyên của tất cả chúng sanh không có biên tế nhanh chóng vô hình. Tánh nó bổn lai thanh tịnh ở trong các cõi không có gì chướng ngại được. Vì muốn thông đạt biết rõ chơn thiệt nên siêng năng tu
tập Tứ vô lượng tâm, nhơn tu tập nên được tận trí.
Bạch đức Thế Tôn! Giả sử tam giới tánh bổn tịnh cớ chi tu tập tận trí như vậy? Duy nguyện đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà tuyên dương nói rộng để người thối chuyển được bất thối, để xô dẹp vô lượng phiền não giới, để dứt phá vô biên khối khổ não. Duy nguyện Như Lai thương xót diễn nói pháp chưa từng được nghe. Chúng sanh nghe pháp chưa từng nghe rồi qua khỏi biển sanh tử xô gãy cây ái. Tại sao, vì trong tất cả phiền não thì ái là căn
bản vậy.
Duy nguyện Như Lai thương xót phân biệt diễn nói tội lỗi của ái. Như Lai có thể tịnh chúng sanh sáu
căn. Nguyện đức Như Lai diễn nói pháp tụ thanh tịnh”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Liên Hoa Quang! Nếu người có thể hành lục Ba la mật thì có thể tự biết chỗ sở hành của tâm, người ấy trọn chẳng tưởng niệm Thanh Văn thừa. Dầu còn tu hành vô lượng các hành chưa được cứu cánh nhưng cũng chẳng kinh sợ thối lui sa vào hàng
Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật.
Nếu có Bồ Tát chẳng thể tu tập Tứ vô lượng tâm, Bồ Tát như vậy nơi đạo Bồ đề là có thối thất, đây gọi là chẳng thể thanh tịnh sáu căn, đây gọi là nơi pháp có tham có xan, như vậy gọi là hành nơi tha hành, mà chẳng hành nơi tự hành, đây gọi là chẳng thành tựu được Thất thánh tài, chẳng thể độ thoát tất cả chúng sanh nơi biển sanh tử. Vì vậy nên Phật gọi hành giả như vậy là Thanh Văn
hành, là Bích Chi Phật hành. Lúc ban sơ Phật diễn nói Tứ thánh đế hành, sau đó tiếp nối dạy chư Bồ Tát hành”.
Lúc ấy đại chúng đều nghĩ rằng: Đây là Như Lai sắp sửa muốn nói Thanh Văn thừa mà chẳng nói Đại thừa chăng? Phải chăng đức Như Lai chẳng thích chúng Bồ Tát như vậy chăng? Như Lai chẳng muốn đoạn dứt chủng tánh Tam bửu chăng?
Tại sao đức Như Lai chẳng nói diệu pháp Đại thừa để hàng chư Thiên thế nhơn được tín tâm. Để người chưa phát tâm Bồ đề thì phát tâm, người đã phát tâm Bồ đề thì được tăng trưởng. Để các chúng sanh được tín tâm vậy.
Đức Như Lai nếu nói pháp Đại thừa thì vô lượng chúng sanh sẽ được phát khởi tâm Bồ đề, do được tu hành pháp Đại thừa bất cộng nên thành tựu đầy đủ pháp đà la ni.
Biết rõ tâm niệm của đại chúng, đức Phật nói: “Nầy chư thiện nam tử! Thanh Văn thừa ấy tức là Đại thừa, Đại thừa ấy tức là Thanh Văn thừa, hai thừa như vậy không có sai khác”.
Bấy giờ trong đại chúng chư Bồ Tát ở bực Thập trụ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đã
được Vô sanh pháp nhẫn. Chúng tôi đã có
thể hành mười tám pháp hành bất cộng của Như Lai. Chúng tôi đã hiểu rõ Thanh Văn thừa và Đại thừa. Trong đại chúng nầy còn vô lượng chúng sanh chẳng thể hiểu được Tiểu thừa và Đại thừa”.
Đức Phật bảo chư Bồ Tát ấy: “Nầy các thiện nam tử! Các ông nên tu bất thối thiền định”.
Chư Bồ Tát ấy liền tu nhập bất thối thiền định. Lúc nhập rồi, hoặc có Bồ Tát thân phóng
quang minh như một ngọn đèn một ngọn đuốc, hoặc có thân phóng
quang minh như thân Đế Thích, Phạm Vương, hoặc như quang minh nhựt nguyệt, hoặc như bốn mặt nhựt, hoặc như tám mặt nhựt, như ngàn mặt nhựt, như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Ánh sáng nơi thân chư Bồ Tát ấy phóng ra chiếu khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Quang minh ấy có thể làm cho vô lượng chúng sanh thân tâm tịch tĩnh. Kẻ trong ba ác đạo được rời lìa khổ não. Kẻ tà kiến xa lìa ác kiến. Lìa hẳn tham dục, sân hận, ngu si bố uý, các nạn khổ đói khát.
Chúng sanh cõi nầy đồng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, tăng
trưởng pháp lành.
Lúc bấy giờ thế giới Ta Bà nầy cùng mười phương vô lượng hằng hà sa số thế giới, hoặc không hay bất không, hoặc tịnh hay bất tịnh, quang minh ấy đều chiếu khắp. Chư Bồ Tát trong thập phương thế giới, những người có thể tu hành thánh hạnh Bồ đề đạo trong khoảng một niệm đều đến tụ tập trong Đại Bửu Phường Đình. Đến rồi đầu mặt lễ Phật ngồi qua một phía.
Đức Phật bảo chúng Thanh Văn rằng: “Nầy chư Tỳ Kheo! Các ông
có thấy thiện thần túc như vậy chăng?
Thần túc như vậy hay phá hoại tất cả ác ma cảnh giới và các hữu xứ, hay hộ pháp giới, hay hành tất cả chư phật cảnh giới, hay phân biệt cảnh giới Thanh Văn và Bích Chi Phật, hơn hẳn tất cả các thần thông.
Nầy chư Tỳ Kheo! Tất cả Bồ Tát sở dĩ thị hiện đại thần thông là để tăng trưởng các thiện căn cho chúng sanh, để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để kẻ chưa tin thì được tín tâm, kẻ đã tin thì được tăng trưởng, để cho chúng sanh được thọ an lạc, để trưởng dưỡng pháp Đại thừa, để thân được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các nhơn duyên như vậy nên Bồ Tát vì chúng sanh
mà thị hiện thần thông như vậy.
Nầy chư Tỳ Kheo! Tuỳ chỗ nào mà chư Bồ Tát như vậy đi đến thì trong ấy Phật pháp liền được tăng trưởng, hoặc hiện tại hay vị lai, Phật pháp còn ở lâu chẳng diệt mất. Nơi đó các chúng sanh xây dựng tháp miếu, cúng dường chúng Tăng, cầu thân vô tận, thân không khổ não. Các sự cúng dường ấy là tạo sanh thân và pháp
thân. Sanh thân cúng dường là Pháp tượng. Pháp thân cúng dường là thơ tả đọc tụng mười hai bộ kinh. Cúng dường như vậy hơn đem thất bửu, hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng, anh lạc cúng dường.
Nầy chư Tỳ Kheo! Lúc ấy tâm ta cũng nhận thọ đó. Do cúng dường như vậy, các chúng sanh ấy sẽ được đầy đủ quả báo tam thừa tâm chẳng thối chuyển.
Nếu có chúng sanh vì ta mà tạo nhà cửa, chỗ kinh hành ta liền thọ dụng, hoặc là rừng cây, vườn hoa, giảng đường, tinh xá dâng cúng dường ta. Các hàng đệ tử có những ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà ta
cũng thọ dụng. Nếu các Pháp sư thăng tòa cao thuyết pháp, lúc ấy ta cũng chí tâm lắng nghe. Nếu cúng thí cho Pháp
sư ấy những y phục, ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà, vườn rừng, xe cộ, ruộng nương, nô tỳ, ta cũng
thọ đó. Đây gọi là pháp cúng dường.
Người nầy như vậy có thể tịnh thân tâm, trang nghiêm thân tâm, cũng có thể trang nghiêm Vô thượng Bồ đề, có thể được an lạc vi diệu, hay bố thí tất cả vật, cho tất cả người, trong tất cả thời gian, có thể thọ tất cả quả báo, thọ tất cả người, thọ tất cả thời. Đây gọi là thành tựu phước bố thí. Người nầy trọn chẳng đến ba ác đạo được pháp chẳng đoạ lạc, như ý sở cầu, chẳng thối chuyển tam thừa.
Người nầy thường được có đủ hai thứ, đó là của cải và chánh pháp. Vì
vậy nên những vật mong cầu đều tuỳ ý liền được. Thường được thập phương chư Phật hộ niệm. Hay phá tất cả cảnh giới ma.
Nếu có người kính tin đem vật sở hữu của mình phụng dâng cho Pháp sư, nếu người phá giới mà thọ vật phụng dâng ấy, nhẫn đến một là, một bông, một trái, người ngu si nầy do cớ phá giới thọ cúng dường ấy nên mắc quả báo bất thiện, hiện tại liền bị bốn quả ác lớn, đó là tiếng ác đồn xa, thầy bạn thân thiện đều xa lìa, mắc phải bịnh nặng khổ ác mà chết, đó là lúc sắp chết ăn uống không vô thấy cảnh ác dữ miệng không nói được nằm ỉa đái dơ dáy và sau khi chết sáu vật sở hữu cùng những của cải khác chẳng đến trong tăng hoặc bị lửa cháy hoặc trộm cướp lấy. Đời sau còn bị bốn ác báo, đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và nếu được làm người thì thân không có tay chưn. Lúc thọ thân quỷ thì trong vô lượng năm chẳng thấy nước uống cũng chẳng nghe danh từ nước uống, lúc thọ thân súc sanh thì thường ăn bùn đất, nếu trở lại làm người thì ở xứ không có Tam bửu. Đời ngũ trược đui mù không mắt sáng, thường bị bịnh nặng ăn món dơ hôi. Bỏ thân người lại đoạ vào địa ngục. Tại sao phải ác báo lớn như vậy vì kẻ phá giới mà thọ vật đáng là của Pháp sư. Ác Tỳ Kheo nầy có thể hoại diệt có thể làm dứt Tam bửu nên phải bị ác báo như vậy”.
Trong chúng có một Đại Đức Tỳ Kheo tên là Già Gia Ca Diếp bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thân người như vậy đáng gọi là người chăng? Nay tôi
suy nghĩ thì chẳng phải là người vậy. Tai sao? Vì người ấy lòng rất vì lợi dưỡng mà thọ cấm giới nên chẳng phải là người vậy”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Ca Diếp! Thọ thọ các thân địa ngục v.v…trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy.
Nầy Ca Diếp! Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó gặp nay đã gặp, cấm giới khó thọ nay đã thọ, như vậy mà chẳng xu hướng thánh hạnh phạm hạnh, đây gọi là hư mất sự đại lợi ích.
Ác Tỳ Kheo ấy vì tâm tham ăn, tham tài lợi mà thọ cấm giới, chớ chẳng phải tâm vì chánh pháp. Người ngu si ấy cậy sức đa văn và thế lực quốc vương hay đại thần mà muốn thọ các vật tịnh thí ấy bèn sẽ bị ác quả lớn”.
Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người xuất gia thọ vật như vậy mắc quả như vậy. Còn người tại gia thọ tội ấy như thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay vua chẳng nên hỏi sự như vậy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi tu thánh hạnh trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy. Tôi vì các vua
ác đời vị lai mà hỏi sự ấy”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu Phật tuyên nói ác nghiệp quả của các ác vương đời vị lai, nếu có kẻ chẳng tin lời Phật sẽ bị ác quả báo lớn. Vì vậy nên Phật thôi không nói đến”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì đời vị lai các Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ
Xá, Thủ Đà, người có lòng kính tin
phụng trì Phật pháp thủ hộ Pháp sư và tài vật mà phân biệt nói đủ cả cho”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Đại Vương! Nếu các ác vương đời vị lai mà xâm đoạt các vật của Pháp sư như vậy, nên biết ác vương ấy hiện đời mắc hai mười điều ác:
Một là chư Thiên chẳng vệ hộ. Hai là tiếng ác đồn xa. Ba là thân hữu xa lìa. Bốn là oán địch tăng trưởng. Năm là tài vật tổn hao. Sáu là tâm nhiều tán loạn. Bảy là thân chẳng đầy đủ. Tám là ngủ chẳng yên. Chín là thường lo đói kém. Mười là món uống ăn biến thành ác độc. Mười một là nhơn dân chẳng ái kính. Mười hai là lân quốc hằng xâm lăng. Mười ba là quyến thuộc chẳng chịu nghe lời. Mười bốn là quốc sự bí mật bị mưu thần hiển lộ. Mười lăm là tài vật bị thuỷ hoả xâm đoạt. Mười sáu là thường có bịnh nặng. Mười bảy là thuốc men không nghiệm. Mười tám là chẳng chữa lành được. Mười chín là uống nước không xuống. Hai mười là thường nhớ tưởng bất tịnh. Xả thân rồi liền lại sẽ sanh vô gián ngục chịu khổ một kiếp. Quá một kiếp rồi thọ thân ngạ quỷ ở đồng hoang vắng, chẳng nghe tên nước uống, món ăn, thân thể tàn tật không đủ các căn thọ khổ não nhiều trong vô lượng kiếp. Thọ quả ngạ quỷ rồi sẽ sanh làm thân thú
lớn trong đại hải, thân lớn nhiều do tuần như khối thịt lớn, thường bị các chúng sanh nút cắn rất là đau khổ. Nếu được thân người thì sanh nhằm đời ngũ trược ác không có Phật xuất thế, tàn tật không đủ tai mắt.
Các ác vương vị lai bị những ác báo lớn như vậy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thà thọ thân địa ngục chớ trọn chẳng thọ thân ác vương như vậy”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay Phật đem các tài vật ấy của Pháp sư giao phó cho các vua, những quốc vương có tín tâm. Tại sao, vì Pháp sư là tạng pháp thân của Như Lai vậy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể hộ trì pháp tài như vậy, người nầy sẽ được những công đức gì?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người như vậy hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.
Nầy Đại Vương! Ví như có kẻ có khả năng giết chết tất cả thập phương chúng sanh, đoạt cả mắt, chặt cả tay chưn.
Nầy Đại Vương! Kẻ ấy mắc tội báo nhiều ít?”.
Vua Tần Bà Sa La yên lặng không đáp.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cớ sao không đáp?”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Kẻ ấy mắc nghiệp quả ác chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu gây ác hại như vậy cho một người tội còn khó kể được huống là với tất cả người”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Phật tại thế hoặc sau khi diệt độ, nếu có ác vương Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà xâm đoạt những vật như vậy của Pháp sư, mắc tội báo chia làm trăm phần, kẻ ác trên tội báo chẳng bằng một phần trăm ấy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng chánh pháp mà trị nước vua như vậy khó có được. Nếu chẳng phóng dật thì có thể hộ pháp, nếu phóng dật thì chẳng thể hộ.
Bạch đức Thế Tôn! Người hay hộ chánh pháp được công đức gì?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Ví như có người hay ban cho tất cả chúng sanh như trên sự sống còn và mắt sáng cùng tay chưn, người nầy được phước chừng có nhiều chăng?”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Có thể ban cho một người sự sống mắt sáng và tay chưn, phước còn nhiều huống là ban cho tất cả ngần ấy người”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu người hộ pháp được công đức chia làm trăm phần, người ban thí trên được phước chẳng bằng một phần trăm ấy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư thì có mắc tội chăng? Nếu người ủng hộ một Pháp sư lại có được phước chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư mắc tội bằng nhau. Nếu có người hộ trì tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư được phước như nhau không sai
khác.
Nầy Đại Vương! Nếu một chùa miếu, hoặc một thôn lạc, một rừng cây trụ năm Pháp sư. Nếu đánh kiền chuỳ hội tứ phương Tăng. Khách Tăng
tập hội rồi theo thứ đệ cung cấp phòng nhà, món uống ăn, ngoạ cụ, y dược không tâm lẫn tiếc. Đầu hôm cuối đêm đọc tụng giảng luận nhàm sợ sanh tử chuyên ưa Niết bàn, chẳng tự tán thán thân mình, chẳng nói chỗ dở kẻ khác, thiểu dục tri túc, thường thích tán thán
thiểu dục tri túc, siêng tu tinh tiến chí thích tịch tĩnh, tu tập niệm định thương mến chúng sanh. Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng như pháp mà trụ hộ giới tinh tiến trì mật tạng của Phật, đọc tụng thơ tả phân biệt thánh giáo. Đây gọi là chúng Tăng lân mẫn chúng sanh lợi ích chúng sanh, hay thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh, cũng hay thọ trì cấm giới tịch tĩnh, đầy đủ tàm quý hiền thánh công đức.
Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng biển đại công đức là thầy nhơn thiên hay đại lợi ích vô lượng chúng sanh, hay
dứt chúng sanh vô lượng khổ não, hay ban cho tất cả chúng sanh giải thoát. Năm Tỳ
Kheo ấy còn gọi là chúng Tăng hà huống gì đông vô lượng.
Nầy Đại Vương! Nếu vô lượng Tăng đều phá cấm giới, chỉ được năm Tỳ Kheo thanh
tịnh như pháp mà trụ, người bố thí được phước vô lượng, chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm. Tại sao, do có người hộ trì Phật pháp thương xót tất cả chúng sanh vậy, vì tâm bình đẳng không có hai tướng vậy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tỳ Kheo phá giới có được ở trong đại chúng thọ tín thí chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Như trong nước vua có một người tội chưa kịp đày đuổi, vua cấp thí cho hàng Sát
Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà người tội ấy có được thọ lạc chăng?”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không được thọ lạc”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cũng vậy, phá giới Tỳ Kheo dầu ở trong chúng thọ lấy tín thí chẳng được an lạc. Tại sao, vì phá cấm giới, vì chẳng như pháp vậy.
Nầy Đại Vương! Người như vậy tất cả mười phương chư Phật chẳng hộ niệm, dầu gọi là Tỳ Kheo mà chẳng ở Tăng số. Tại sao, vì nhập vào ma giới vậy. Người trì giới là đệ tử Phật. Người phá giới là đệ tử ma. Người trì giới là xuất thế đạo. Người phá giới là nhập thế đạo. Phật đều chẳng cho kẻ phá giới thọ của tín thí chừng bằng hột đình lịch, tại sao, vì kẻ ấy xa lìa Như Lai pháp vậy”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Người phá giới có những tướng gì có biết được chăng?”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người có trí thì biết được.
Nầy Đại Vương! Nếu có người chẳng có thể cung kính Tam bửu chẳng sanh tín tâm không có tàm quý, với Sư trưởng Hoà thượng kỳ lão trưởng túc đồng sư đồng học chẳng sanh cung kính, xô ngã tràng thánh, chẳng tu phạm hạnh, tăng trưởng xan tham, thích ở nhà tục, chẳng có thể thanh tịnh được bốn nghiệp ở nơi miệng, thường tu tâm thực xa lìa tâm pháp,
thích nói sự thế gian vô ích, đây gọi là Tỳ Kheo tướng ban sơ phá giới. Nếu người nầy thọ chứa tôi, tớ, voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, heo nhẫn đến tám thứ vật bất tịnh, đây gọi là đầy đủ phá cấm giới vậy. Đây gọi là cặn bã trong Sa Môn,
là vạy vò trong Sa Môn, là ảo huyễn trong Sa Môn, là giặc trong Sa Môn, là say sưa trong Sa Môn, là
Chiên Đà La trong Sa Môn. Tỳ Kheo như vậy chẳng nên cộng trụ, chẳng cộng hoà hiệp, chẳng nên chung làm
chín mươi chín yết ma. Đây gọi hư mất sự nghiệp Tỳ Kheo đoạ vào chỗ nghèo cùng.
Nầy Đại Vương! Thà cùng chung ở với hàng Chiên Đà La
mà chẳng ở chung với ác Tỳ Kheo như vậy. Tại sao, vì Tỳ Kheo
như vậy thiêu diệt thiện căn, dứt tam thế tâm thiện từ mẫn. Ác Tỳ Kheo ấy chính là cầu tiêu thêm lớn pháp sanh tử, tức là chủng tử ác nhơn thiên, tại sao, vì người nầy khi dối nhơn thiên khác. Tỳ Kheo nầy làm tắt đèn giải thoát xô ngã
tràng pháp làm khô biển pháp, hay phá người thuyết pháp, hay phỉnh gạt thí chủ, phá hoà hiệp Tăng. Nếu có ác vương hoặc hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà ủng hộ các ác Tỳ Kheo như vậy, thì là thêm lớn nghiệp ác đạo, là gieo trồng các giống ác nhơn thiên.
Nầy Đại Vương! Nếu ác Tỳ Kheo quở mắng Tỳ Kheo như pháp trụ, thì các vua quan kính tin Tam bửu phải nên phạt đuổi. Nếu phạt đuổi kẻ ấy thì được nhiều phước. Nếu là vua không có tín tâm thì như pháp Tỳ Kheo chẳng nên cùng ác Tỳ
Kheo cộng trụ.
Tỳ Kheo có trí nên trước qua chỗ vua mà thưa rằng: “Nay vua có thể hộ trì Phật pháp chăng? Nếu vua đáp là hay hộ trì thì Tỳ Kheo có trí nên nín lặng. Nếu vua ấy có tâm tham bảo rằng: Nầy Đại Đức! Trong chùa miếu ấy có đông chúng Tăng, sao ta lại vì năm Tỳ Kheo mà xua đuổi nhiều người. Tỳ Kheo có trí
nghe lời ấy thì chẳng nên đến nữa, bèn nên bỏ đi đến chỗ tịch tĩnh”.
Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có ác vương tuỳ thuận theo lời ác Tỳ Kheo như vậy thì cả đại địa nầy làm sao chở được vua ấy, từ đây quá hằng hà sa số kiếp sau trọn không còn được thọ thân người. Vô lượng chúng sanh được giải thoát rồi, ác vương ấy vẫn còn chưa khỏi được nghiệp ba ác đạo”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu đời vị lai có các vua có
lòng kính tin Tam bửu, hoặc Sát Lợi, hoặc Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể thủ hộ Pháp sư tạo lập tháp tượng cúng dường chúng Tăng các
món cần dùng, vì hộ chánh pháp mà trị ác Tỳ Kheo, thà bỏ thân mạng để hộ một Tỳ Kheo như pháp, chớ chẳng hộ vô lượng ác Tỳ Kheo, người hộ pháp nầy xả thân sẽ sanh thanh tịnh Phật độ, thường gặp Tam Bửu, chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Đại Vương! Nay Phật chẳng cho một người thọ chứa tám vật bất tịnh, chỉ cho đại chúng được thọ chứa và dùng.
Nầy Đại Vương! Nếu có người có thể hộ trì chánh pháp, nên biết người nầy là đại đàn việt của thập phương chư Phật Thế Tôn.
Nầy Đại Vương! Tăng vật khó chấp chưởng. Nay Phật chỉ cho hai hạng người chưởng hộ: một là A La Hán Tỳ Kheo đủ bát giải thoát, hai là người Tu Đà Hoàn. Trừ hai hạng người nầy không còn có ai chưởng hộ được Tăng vật vậy”.
Lúc đức Thế Tôn vì vua Tần Bà Sa La nói pháp ấy rồi, phương Đông có quốc độ tên là Vô lượng, có Phật hiệu là Ngũ Công Đức thường nói diệu pháp giáo hoá
chúng sanh. Cõi ấy có một Bồ Tát tên là Nhựt Mật chí tâm lắng nghe pháp ngước nhìn hư không thấy có vô lượng vô biên Bồ Tát từ phương Đông đến đi thẳng qua Tây phương, liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy phương Đông vô lượng Bồ Tát đi qua phương Tây. Có nhơn duyên gì mà họ bỏ nước tịnh diệu đi qua uế độ?”.
Đức Phật Ngũ Công Đức nói: “Nầy Nhựt Mật! Phương Tây quá đây vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, chúng sanh tệ ác đầy trong nước ấy. Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong thế giới ấy nói pháp tam thừa, vì muốn tăng trưởng Phật chánh pháp, vì chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, vì phá ma giới dựng pháp tràng, vì chánh pháp còn ở lâu mà chẳng diệt tận. Thế giới ấy có vô lượng Phật, vô lượng Bồ Tát tuyên nói bửu kế đà la ni pháp. Đã nói pháp ấy rồi, Thích Ca Như Lai lại nói pháp tam thừa tứ vô ngại trí, bốn thứ phạm hạnh và bốn nhiếp pháp. Vô lượng chúng sanh lúc nghe pháp ấy lòng không mỏi nhàm vì họ thích vị cam lộ vậy. Do bổn nguyện lực của Thích Ca Như Lai nên vô lượng chư Phật, vô lượng chư Bồ Tát đều tập hội cõi ấy. Lúc Phật Thích Ca nói pháp
chúng Bồ Tát nhập thiền định. Đã nhập định rồi thân phóng quang minh sáng như một ngọn đèn đuốc nhẫn đến sáng như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Nầy Nhựt Mật! Nếu muốn hộ pháp thì nên khởi định đi đến thế giới Ta Bà.
Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh cõi Ta Bà phiền não bền chặt, hệ phược sâu nặng, thân hình xấu xí hôi dơ, họ nhiều kiêu mạn ác khẩu lưỡng thiệt xa lìa thiệt ngữ, họ thiệt ngu si mà hiện tướng trí huệ, nhiều lòng xan tham mà hiện tướng xả ly, có nhiều siểm khúc mà hiện tướng chất trực, tâm nhiều trược loạn mà hiện tướng thanh tịnh, có nhiều tật đố mà hiện tướng nhu nhuyến, thích làm cho người ly biệt mà hiện tướng hoà hiệp, lòng nhiều tà kiến mà hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi ấy theo lời phụ nữ, vì nghe theo lời phụ nữ nên đoạn tuyệt thiện căn tăng trưởng ba ác đạo.
Nầy Nhựt Mật! Nay ông vả có thể vì ta mà làm sứ giả chăng? Ta muốn giữ dục khiến Như Lai ấy khéo nói pháp yếu. Nói dục ấy đó là chơn đà la ni. Chơn đà la ni nầy thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt được dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, ngã mạn, tất cả thủ tham, tất cả ngũ cái, tất cả ngã kiến, đoạn kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến, thường kiến, chúng sanh kiến, sĩ phu kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, nhơn kiến, thiên kiến, sắc, thanh, hương, vị, xúc kiến, tứ đại kiến, xuất kiến, sanh kiến, trụ kiến, diệt kiến. Đây gọi là tuỳ như thuận nhẫn. Đà la ni nầy chơn thiệt biết sắc đến thức, nhãn đến ý, ấm nhập giới, giải thoát pháp giới, vô thượng diệu lạc.
Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh Ta Bà thế giới kia như kẻ sanh lung, sanh
manh, sanh á, tham dục say cuồng, vì vậy nên ta giữ dục pháp tuỳ như chơn thiệt đà la ni, đây là tạng tất cả pháp, là pháp môn bất khả tư nghị có thể phá hoại tất cả bạn đảng ma và cảnh giới ma.
Nầy Nhựt Mật! Đà la ni nầy cũng hay điều phục tất cả ma chúng, hay khủng bố tất cả ác độc long, hay khiến ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay cảm hoá tất cả A Tu La chúng, hay
điều tất cả kim sí điểu, hay bố tất cả Khẩn Na La, hay làm cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà sanh lòng kính tin, hay phá tất cả kẻ tham thân nữ, khiến người đa văn sanh lòng ưa thích, người tập thiền định tâm được tịch tĩnh, hay khéo chữa lành tất cả ác trọng bịnh, hay trừ tất cả ác tướng trong quốc độ như là ác tặc, ác điểu, ác thú, ác phong, ác vũ, ác hàn, ác nhiệt.
Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay tụng đà la ni nầy thì có thể được thấy vô lượng chư Phật.
Nầy Nhựt Mật! Ông thọ trì chú nầy đến thế giới Ta Bà kia hướng hàng tứ chúng mà tuyên nói
đầy đủ đó”.
Đức Ngũ Công Đức Như Lai liền nói đà la ni rằng:
Bà di bà xà ba lợi bà linh, bà hê bà ha ba lợi bà linh, ti lợi si tỉ ti lợi si ba lợi bà linh, a tỳ a bà ba lợi bà linh, để để để xà ba lợi bà linh, ma linh ma la ba lợi bà linh, khê kỳ khước già ba lợi bà linh, a lộ xí a lộ ca ba lợi bà linh, đá mế đá ma ba lợi bà linh, tư linh tư la ba lợi bà linh, già mế già ma ba lợi bà linh, a bộ bà a bộ bà ba lợi bà linh, la ma,
la ma, la ma, la mế, la ma, lã la, lã la, ma tỉ toá nhã na, phục đa kỳ hê phục đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, giá táp kỳ lực hê giá táp kỳ lực ma ba lợi bà linh, thâu lộ đa kỳ lực hê thâu lộ đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, kỳ lãng na kỳ lực hê kỳ lãng na kỳ lãng ma ba lợi bà linh, thời chúc kỳ lực hê thời chúc kỳ lãng ma ba lợi bà linh, ca xà kỳ lực hê ca xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, ma na kỳ lực hê ma na kỳ lực ma ba lợi bà linh, bát thi kỳ lực he bát đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, tỳ đà na kỳ lực hê tỳ đa na kỳ lực ma ba lợi bà linh, thất nang kỳ lực hê thất nang kỳ lực ma ba lợi bà linh, ưu ba đà kỳ lực hê ưu ba đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, bà bà kỳ lực hê bà bà kỳ lực ma ba lợi bà linh, xa đề kỳ lực hê xà đề kỳ lực ma ba lợi bà linh, xà lã ma na la kỳ lực hê xà lã ma na la kỳ lực ma ba lợi bà linh, đậu khê tát đa ba kỳ lực hê đậu khê tát đa ba kỳ lực ma ba lợi bà linh, a lã ba lã chuỳ xà kỳ lực hê a lã ba lã chuỳ
xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, a bạt đa, tỉ bạt la tả, a ba lã mâu ba ma tát tả tỉ già, tỉ ni bạt đa, a đà lợi dã lại mế, tán tỉ già phiến đề, sá ha.
Nhựt Mật đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thể đến nơi Ta Bà thế giới kia tuyên nói chú
ấy, chỉ ở nơi cõi ấy sanh lòng e sợ. Tại sao, vì vừa rồi Như Lai vì tôi mà tuyên nói chúng sanh cõi Ta Bà có
nhiều tệ ác dường như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á tuỳ theo ý nữ nhơn.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thuận theo ý nữ nhơn thì nên biết người ấy dứt hẳn thiện căn”.
Đức Ngũ Công Đức Như Lai nói: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chẳng vì hiện lợi hậu lợi mà nên vì lợi ích tất cả chúng sanh, chỉ qua đó tuyên nói
thần chú chớ có lo sợ.
Nầy Nhựt Mật! Ông chẳng phải là Duy Ma Cật ở bên kia ư! Cớ chi ông lại lo sợ?”.
Nhựt Mật Bồ Tát nín lặng không đáp.
Đức Phật nói: “Nầy Nhựt Mật! Sao ông yên lặng vậy?”.
Nhựt Mật Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy Ma Cật kia tức là thân tôi. Tôi ở cõi kia hiện thân hình bạch y vì các chúng sanh mà tuyên nói pháp yếu, hoặc có lúc tôi hiện thân Bà La Môn,
hoặc Sát Lợi, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà, hoặc thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đế Thích, thân Phạm Thiên, hoặc hiện thân Long Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, hoặc hiện thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Trưởng giả, thân Nữ nhơn, thân Đồng nam, thân Đồng nữ, thân Súc sanh,
thân Ngạ quỷ, thân Địa ngục, tôi hiện các thứ thân hình như vậy để điều phục chúng sanh”.
Lúc ấy trong chúng có tám vạn Bồ Tát đồng một tam muội xuất nhập cùng đồng, còn có vô lượng vô số Bồ Tát tâm điệu động chí tâm hệ niệm muốn được gần lễ lạy Thích Ca Mâu Ni Phật và đại chúng, cũng muốn nghe học kinh điển Đại thừa vi diệu. Đại chúng như vậy đều đồng lòng muốn qua Ta Bà thế giới.
Nhựt Mật Bồ Tát nghĩ rằng: Ta vì đại chúng nầy muốn nói đại sự. Tại sao, vì đại chúng nầy tâm họ chưa định, nếu qua cõi kia hoặc có thể họ sanh tâm điên đảo gần kề ác tri thức.
Đức Ngũ Công Đức Phật bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chớ nên sanh lòng e sợ, nay ta sẽ ban cho đại chúng Bồ Tát bất cộng pháp hành, vô tưởng hành, điều phục hành, giải thoát hành, phân
biệt sanh tử hành, bất đoạn Tam bửu hành, đại từ đại bi hành, Nhứt thiết trí giải thoát hành, phá hoại tứ ma ác tà luận hành, tận trí vô sanh trí hành, tất cánh nhập Niết bàn hành. Đây gọi là liên hoa đà la ni môn. Đà la ni nầy làm cho Bồ Tát chẳng thích ưa tam giơi mà chứng vô tướng giải thoát môn và nhập vô hành giải thoát môn.
Nầy Nhựt Mật! Nếu người tin thì nên chí
tâm lắng nghe liên hoa đà la ni nầy, người ấy hay nhẹ mỏng tất cả tham dục tất cả phiền não xả thân bảy đời thường được sanh cõi trời nhớ biết túc mạng, dầu ở Dục giới chẳng bị dục làm ô nhiễm, thường thích xuất gia được nhơn thiên vui cúng dường. Nếu có người hay bảy ngày chí tâm rồi lắng nghe đà la ni nầy thì trọn chẳng đoạ lạc trong ba ác đạo. Nếu hàng nhơn thiên lắng nghe đà la ni nầy thì xa lìa tham dục mà tu tập thiền định. Nếu có người hay đối với Quốc Vương, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà tuyên nói liên hoa đà la ni nầy, người nghe liền phát tâm xuất gia. Nếu nữ nhơn chí tâm nghe đà
la ni nầy thọ trì đọc tụng liền chuyển thân nữ nhơn được thân nam tử nơi Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển nhẫn đến được Đại bát Niết bàn, trọn chẳng còn thọ thân nữ nhơn trừ tự phát nguyện.
Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay đem chú nầy mà chú các cây cỏ thuốc, rồi đem sơn trét trống loa, lúc đánh lúc thổi, người nghe tiếng tất cả tà kiến cổ độc các bịnh tệ ác đều không làm hại được. Liên hoa đà la ni nầy thành tựu vô lượng phước đức”.
Liền nói chú rằng:
Tư đà ma đề, tỉ lộ ca ma đề, y lê sí để lợi tỉ, lưu giá tu lưu giá, phật đề tỉ phật đề, ma ha phật đề, ôn ma đề ôn ma đa ba la đề tỉ đa ninh, la già bà
la ca đà ba lợi đề tỉ đà ninh, tần đậu tần đậu ma đề, chí tra chí tra ba la đề tỉ đà ninh, át sí chiến đà đậu, ha ha chí trí, ha đa ni mế, ha đa ca ma tỉ kỳ, ha đa phú na bà bà la xà, ha đa tam mộ để, ha đa tỉ ma đa phật đề, ha đa xà kỳ ly,
ha đa tỉ tam ma kỳ ly, ha đa tam mâu đà xà tỳ, ha đa tỉ ma đa lã kỳ, ha đa
hi hê, ha đa giá tri, ha đa đạt ba la xà, ha đa bà hưu la xà, ha đa bà
xà ma đề, ha đa lưu già ma đề, ha đa ô già lại mế, ha đa đà ma mật đề, ha đa tát bà ưu ba đà na, nhã nhã nhã, tỉ xà nhã nhã, tỉ bà xà nhã nhã, bà
lã mạt lực già nhã nhã, y sa an đâu lã già đậu xí, sá ha.
Nầy Nhựt Mật! Liên hoa đà la ni ấy hay dứt tứ lưu ông nên chí tâm
thọ trì đà la ni ấy mà đến cõi Ta Bà. Tại sao, vì thế giới kia có trăm ức ma chúng hay phá hoại các thiện pháp của chúng sanh, các ông nếu tụng đà la ni ấy thì chẳng bị ác ma kia xâm phạm.
Nhựt Mật Bồ Tát cùng vô lượng ức chư Bồ Tát và vô số nhơn thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai trí huệ bất khả tư nghị, từ trước chúng tôi chưa từng nghe đà la ni ấy”.
Lúc ấy tám vạn bốn ngàn nữ nhơn thế giới vô lượng nghe liên hoa đà la ni rồi liền chuyển thân nữ thành thân nam.
Phật Ngũ Công Đức lấy tràng hoa chiêm bà bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Ông cầm tràng hoa chiêm bặc nầy và đà la ni qua thế giới Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni”.
Trong đại hội có tám vạn Bồ Tát đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới”.
Đức Ngũ Công Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, các ông nếu đi thì nên hiện thân Phạm Thiên”.
Đại chúng Bồ Tát ấy liền hoá làm thân Phạm Thiên qua Ta Bà thế giới đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni đầu mặt lễ lạy hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía, bấy giờ cả cõi Ta Bà liền có trận mưa hoa chiêm bà khắp mọi nơi.
Đức Phật vẫn vì vua Tần Bà Sa La tuyên nói pháp hành.
Nam phương quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có một thế giới tên là Ca Sa
Tràng đủ ngũ trược, có Phật hiệu là Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại vì chúng sanh tuyên nói pháp yếu. Có một Bồ Tát hiệu là Hương Tượng Vương ngước nhìn hư không thấy có vô lượng Bồ Tát từ phương Nam đến đi thẳng qua phương Bắc liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng đại Bồ Tát từ phương Nam đi thẳng qua phương Bắc?”.
Đức Phật Sơn Vương Như Lai nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Về phương Bắc quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có thế giới tên Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu Ni ở đó tuyên nói kinh
Đại Tập vi diệu, phân biệt tam thừa để chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, chẳng dứt pháp hành phá ma giới dựng pháp tràng. Tất cả mười phương chư Phật Thế Tôn ở nơi cõi ấy tuyên nói giải bày Bửu tràng đà la ni, nói chư Phật trở về bổn xứ. Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát và chúng Thanh
Văn tuyên nói pháp yếu. Các ông có muốn qua Ta Bà thế giới nghe học pháp chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy, đó là Đoạn nghiệp đà la ni tuỳ thuận không môn dứt tham sắc kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến để được tận trí vô sanh trí vậy”.
Liền nói chú rằng:
Đậu mạc đề, đậu mạc đề, áo xoa đậu mạc đề, ba la bà sa đậu mạc đề, tát bà a ca xá đậu ma, a tỳ khê già, tỳ mế đa khê già, a tỳ xoa khê già, a bà mạc a khước già, a na nhã khước già, tỳ dã phật đề khước già, bà lộ giá khước già, thức xí khước già, tỉ đề di lã khước già ô số ma khước già, ô la khước già, a xoa khước già, xà bà ma na khước già, thấp ba ba khước già, xà bà tỉ nhã na khước già, giá táp đà
đâu khước già, xà bà ma ná
tỉ nhã na đà đâu khước già, ti lợi si tỉ đà đâu khước già, xà bà tỉ nhã na đà đâu khước già, chiết toá lợi mật đâu ba na khước tỉ già, xà bà a tỳ đà ni ca khước già, đậu khê khước già, xà bà mạt lực khước già, tỉ bà bà na, a tỉ xoa bà, a bà na
na, tỉ na na, bà mâu đà na na, tát bà ca lã na na, tát bà tán đá na tỉ cụ ba na na, a ký chi
na na, xoa bà, xoa bà, y lợi, mật lợi, y y lợi, y y lan di lợi, sá ha.
Nầy Hương Tượng Vương! Đây gọi là tuỳ không tam
muội đà la ni vậy. Đà la ni nầy có năng lực dứt hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham nhẫn đến dứt trừ tất cả phiền não. Ông nên nhứt tâm thọ trì đọc tụng đà la ni nầy qua thế giới Ta Bà kia giáo hoá chúng sanh”.
Hương Tượng Vương Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đọc tụng đà la ni tuỳ thuận không tam muội ấy, nay tôi muốn qua thế giới kia nhưng có lòng e sợ. Tại sao, vì tôi từng nghe đức Phật nói chúng sanh cõi Ta Bà tệ ác có nhiều tham sân si”.
Đức Phật Sơn Vương nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Ông thường hoá hiện nhiều thân để giáo hoá chúng sanh, hoặc hiện thân Bà La Môn, thân Ma Hê Thủ La, thân Đế Thích, thân Na La Diên, thân chư Thiên, thân Quỷ, thân Rồng, thân A Tu La,
thân Chuyển Luân Vương, thân Bà La Môn,
thân Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà, thân Đại thần, Trưởng giả, thân Thanh Văn,
Duyên Giác, thân Nam, thân Nữ để giáo hoá chúng sanh. Sao lại nói với thế giới kia có lòng e sợ ư!
Nay ta sẽ ban cho ông đại pháp hành pháp Nhứt thiết trí huệ hay biết được các hành, hay phá
tứ ma hành, hay điều tất cả chúng sanh hành, hay hỉ tất cả chúng sanh hành, chẳng dứt Tam bửu hành, hay điều tất cả ác long hành, hay phá tất cả chúng sanh ác nghiệp hành, đại từ đại bi hành, phá tam ác đạo hành, cứu chúng sanh hành, phá ác kiến hành, hay phá nữ nghiệp hành, tất cả pháp vô tận hành, hay phá tất cả xan tham hành, hay được tất cả tam muội thần thông hành, hay
khiến chúng sanh hoan hỉ hành, nhẫn đến có thể được Bồ đề đạo hành.
Nếu có chúng sanh nghe các hành nầy thì nên biết người nầy có thể phá hoại hằng hà sa các ác
nghiệp nhơn duyên, dứt tuyệt ba chướng, chỉ trừ tội ngũ nghịch huỷ báng kinh phương đẳng Đại thừa và chê bai Thánh
nhơn. Vì thế nên có người tín tâm hay nghe hay học các hành như vậy, thì người nầy tuỳ ý chứng được tam thừa, chẳng rời thập phương chư Phật, chư Bồ Tát A La Hán, hay thanh tịnh ba nghiệp tuỳ chúng sanh ý. Nên biết người nầy có thể xả thí tất cả nhẫn đến đầu mắt, tất cả các ác độc chẳng gia hại được. Người nầy nếu lúc Thi la Ba la
mật thì được đủ nhẫn giới, giới Thánh nhơn ưa, giới Thánh nhơn nhớ, giới đại tịch tĩnh, giới điều phục Phạm, Thích, Tứ Vương, giới điều phục Sát Lợi, Bà La Môn,Tỳ Xá,
Thủ Đà, người nầy trọn chẳng tự khen mình mà chê
trách người, tâm thường quở trách lợi dưỡng thế gian, ngủ yên thức an, thân không bịnh khổ dễ được uống ăn, mọi người đều thích thấy, lúc chết người ấy được thấy chư Phật, chư Bồ Tát khen rằng: Lành thay lành
thay, người khéo trì cấm giới tinh tiến không lười sẽ sanh nước ta, ta có thể làm cho ngươi trụ bực Thập trụ. Do thấy Phật lòng hoan hỷ, do nhơn duyên ấy nên xả thân liền sanh tịnh quốc vị ngang bực Thập trụ nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.
Người nầy nếu hành Tỳ lê gia Ba
la mật thì thành tựu đại lực thân tâm không tật bịnh đi đứng mạnh mẽ, thành tựu Bố thí Giới Ba la mật. Hàng chư Thiên và Bát Bộ Thần đều đến cúng dường, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.
Nếu lúc hành Sằn đề Ba la mật, được pháp duyên nhẫn, chẳng giác chẳng thấy tất cả chúng sanh. Người nầy nếu bị tất cả chúng sanh cắt thẻo thân thể trọn chẳng sanh một niệm giận thù nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.
Người nầy nếu lúc hành Thiền Ba la mật được pháp duyên thiền định giải thoát, thập phương chư Phật không lúc nào chẳng hộ niệm, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được hàng nhơn thiên cúng dường.
Người nầy nếu lúc hành Bát Nhã
Ba la mật, thường được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, thích nơi tịch tĩnh điều phục tâm giới, tỏ rõ thông đạt tất cả pháp giới, tâm không nghi ngại, tất cả nhơn thiên chẳng thể trở ngại phá hoại được tâm người nầy, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.
Nầy Hương Tượng Vương! Người thọ trì hành ấy thì qua thế giới Ta Bà không còn kinh sợ.
Nầy Hương Tượng Vương! Nếu là kẻ mà tịnh thế giới không chấp nhận thì đều ở cõi Ta Bà ấy, đó là kẻ phạm tội ngũ nghịch, huỷ báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai Thánh nhơn, phạm tứ trọng cấm. Những kẻ như vậy làm ô nhục thế giới Ta Bà. Phật Thích Ca Mâu Ni vì bổn nguyện nhơn duyên nên hiện thân trong cõi ấy.
Nầy Hương Tượng Vương! Nếu người ác cõi ấy nghe hành nầy thì trong bảy năm tu từ bi tâm lìa bốn lỗi nơi miệng tu tập lục niệm. Người nầy lại phải tự tắm gội sạch sẽ mặc y phục mới sạch hướng về phương Đông chí tâm lễ lạy tụng đại hành đà la ni nhẫn đến bảy năm, tất cả các tội ác đêu tiêu diệt cả. Nếu có nữ nhơn hay hành như vậy liền chuyển thân nữ thành thân nam, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề”.
Liền noi chú rằng:
Xá la na tỳ xà, thức xoa tỳ xà, mật đề tỳ xà, ba la ha na tỳ xà, luật đề tỳ xà, nhơn đề lợi xà tỳ xà, bà la tỳ
xà, bộ trừng già tỳ xà, tam ma đề tỳ xà, đà la ni tỳ xà, xoa đề tỳ xà, trường na tỳ xà, a lưu ba tỳ xà, đà ni xà tỳ xà, mạt lực già tỳ xà, a bí
nhã tỳ xà, ba la đề tán tỉ đà tỳ xà, phục di tỳ xà, bí đà tỳ xà, ma ha mế la tỳ xà, ma ha già lưu na tỳ xà, ty lợi si tỉ tỳ xà, tát đoả tỳ xà, đà ma tỳ
xà, đa ma tỳ xà, a lộ ca tỳ xà, ba la đề ba sa tỳ xà, ba la đề thủ lục ca tỳ xà, già già na tỳ xà, ma lưu đa tỳ xà, thủ nhã đa tỳ xà, ba la đề đa tỳ xà, a ni mật đa tỳ xà, cụ sa tỳ xà, cần giá na tỳ xà, a tỷ bà sa, a nâu na, a nâu na, a bà ha giá giá, giá giá la tỉ mâu, xoa xà tỉ mâu, a ma tỳ xà tỉ mâu, a tam mâu đà
giá la tỉ mâu, xa đà tỉ mâu, a ca xá tỉ mâu, bộ ba xá ma tỉ mâu, a na bà sa tỉ mâu, a ha ha tỉ mâu, a la ba lã tỉ mâu, úc ba xá ma sa lợi la tỉ mâu, sá ha.
Hương Tượng Vương Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thọ trì đọc tụng thơ tả đại hành đà la ni rồi qua Ta Bà thế giới”.
Cõi ấy còn có vô lượng đại Bồ Tát khởi định đồng bạch Phật Ngũ Công Đức rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi
cũng muốn cùng qua Ta Bà thế giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và nghe học kinh điển Đại Tập”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, các ông muốn qua cõi đó thì tuỳ
ý, nay chánh là phải lúc. Các ông nên hoa làm thân Thiên Đế Thích”.
Hương Tượng Vương Đại Bồ Tát cùng đại chúng Bồ Tát đều biến thân làm Thiên Đế Thích cùng đến Ta Bà thế giới. Đến nơi rồi, liền mưa các thứ hương xuống Ta Bà thế giới, đó là hương ngưu đầu chiên đàn, hương kiên ngạnh, hương đa ma la bạt, hương trầm thuỷ, hương đa già la để cúng dường Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Hương Tượng Vương đại Bồ Tát cúng chúng Bồ Tát từ hư không xuống đầu mặt lễ Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một phía.
Tây phương thế giới quá bốn mười hằng hà sa số chư Phật thế giới, có thế giới tên là Kiên Tràng
đủ ngủ trược, có Phật hiệu là Cao Quý Đức Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn hiện đương tuyên nói pháp yếu giáo hoá chúng
sanh. Có một Bồ Tát tên là Quang Mật Công Đức ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát chúng từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông?”.
Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Phương Đông quá bốn mười hằng hà sa số chư Phật thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, do nhơn duyên ấy nên Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì các chúng
sanh tuyên nói diệu pháp tên là Đại Tập phân biệt tam thừa để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để phá ma giới, để dựng pháp tràng, ấy tuyên nói pháp tràng đà la ni, nói rồi chư Phật đều trở về bổn trụ xứ.
Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát chúng Thanh Văn phô diễn tuyên nói tứ vô ngại trí thanh tịnh phạm hạnh.
Nay ông có muốn qua cõi đó để thấy đức Phật Thích Ca chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy. Nói là dục ấy, đó là đoạn nghiệp đà la ni tuỳ vô nguyện định thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến tận trí vô sanh trí được Vô thượng Bồ đề”.
Liền nói chú rằng:
Xá na xá bà, ma xá na xá bà, a bà xoa xá, xoa táp xá bà, giá táp
xá bà, thâu lô đa xá bà, kỳ lãng na xá bà, thị chúc bà, ca xà xá bà, ma na xá bà, xoa bà bí đà, giá táp ti lợi si tỉ xoa bà, thâu lô đa
a bà xoa bà, kỳ lãng na để kỳ xoa bà, thị chúc bà do xoa bà, ca xa ca lã ma xoa bà, ma na ô xà xoa bà, a
lộ ca nhã xà xoa bà, tần xà tán ca la ma xoa bà, an cừu lã khứơc già xoa bà, ma lưu ba tỳ xà xoa bà, xá ma ca xà xoa bà, xoa xà lã
sa xoa bà, phiến đa tỳ sa lã xoa bà, na nô na, nê na nô na, a bà nê na nô na,
na xà ba na di na nô na, y bàn đô đầu khê tả, sá ha.
Nầy Quang Mật Công Đức! Ông thọ trì đà la ni nầy qua thế giới Ta Bà, trước lễ Phật thăm hỏi mạnh khoẻ rồi tuyên đọc chú ấy.
Quang Mật Công Đức Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đà la ni ấy. Tôi dầu muốn qua đó mà lòng e sợ. Tại sao, tôi có từng nghe đức Thế Tôn nói chúng sanh cõi Ta Bà thành tựu ác kiến nhiều tham sân si tuỳ
theo lời nữ nhơn hay mau tạo nghiệp địa ngục A Tỳ”.
Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ông chẳng phải chính là đại kim sí điểu ở tứ thiên hạ giữa hai giới Dục Sắc nơi cõi kia ngày hai
mươi mốt khủng bố đại hải sáu vạn bốn ngàn ức các đại Long Vương khiến được quy y Tam bửu Phật, Pháp, Tăng phát
tâm Vô thượng Bồ đề ư?”.
Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật dạy, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Quốc độ bị khô hạn, ông chẳng phải là tượng long, mã long,
kim sí điểu long trong bảy ngày đêm tuôn mưa lớn và khủng bố các ác long ư?”.
Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật vừa nói, bạch đức Thế Tôn!”.
Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ở trong các ác long
như vậy mà ông còn chẳng e sợ, nay duyên cớ gì mà lại e sợ ư?”.
Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Ví như người trí nghe xứ khác có nhiều bửu tàng bèn đến nơi ấy bươi tìm. Bươi lần lần thấy báu lòng rất vui mừng trọn không mỏi nhàm. Nay tôi
cũng vậy, nhơn hỏi Phật được nghe thiệt ngữ. Nghe lời Phật rồi tôi được đại thế lực có thể chấp Phật ấn điều phục chúng sanh cõi Ta
Bà ấy”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, ta sẽ ban cho ông đại thần chú hay tịnh các nghiệp, hay tịnh nhơn duyên, hay tịnh điều phục, hay tịnh nơi dục, tịnh tăng trưởng, tịnh bình đẳng, tịnh ác phong, tịnh hành, tịnh vô minh, tịnh sanh tử, tịnh tất cả phiền não, tịnh tất cả pháp hữu vi tam giới, tịnh bỉ thử. Đây gọi là thần chú.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment