Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 14
PHÁP HỘI
MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ
THỨ BA
Đức Phật phán tiếp : « Bồ Tát lại có bốn pháp chí tánh thuần thục đi khắp đó đây mọi nơi :
Một là ở nhơn gian làm Chuyển Luân Thánh Vương được thấy chư Phật hưng khởi đạo tâm bất thối.
Hai là ở trên trời làm Thiên Đế Thích, vua của chư Thiên, thường thấy chư Phật chẳng trái đạo pháp.
Ba là nếu ở trên Phạm Thiên thì được tự tại vun trồng đạo nghiệp, chẳng hư đạo tâm.
Bốn là mặc dầu ở nhơn gian thiên thượng như vậy nhưng thường sanh về Phật độ thanh tịnh diện kiến chư Phật nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.
Đó là bốn pháp ».
Vua A Xà Thế lại bạch : « Bạch đức Thế Tôn ! Gì gọi là ngồi nơi đáng tin cậy ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Là chỗ ngồi của thiện hữu ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Bố thí thì ngồi ở đâu ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Bố thí thì ở chỗ giàu lớn lắm của nhiều báu.
Người trì giới thì được sanh lên cõi trời.
Người nhẫn nhục thì sắc mặt vui vẻ thường được xinh đẹp.
Người tinh tiến thì siêng tu thông suốt vượt hơn mọi người.
Người thiền quán thì được chánh định vắng lặng, các căn chẳng loạn động.
Người trí huệ thì dứt các trần lao họa hoạn cấu nhiễm.
Người nghe rộng thì được có đại trí, giải quyết sự nghi ngờ của mọi người nếu được hỏi, làm cho không còn thắt mắc.
Người siêng học thì nhóm họp nhập vào đạo vô thượng chánh chơn.
Người suy xét vô thường vô ngã vắng lặng thì ở tại chỗ nào đều tiêu trừ điên đảo.
Đó là ngồi nơi đáng tin cậy ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Tâm niệm thuận thời thì được ngồi chỗ nào? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Quán vô thường, khổ, không tịch thì ngồi ở chánh kiến chẳng sa vào tà nghiệp. Thân tâm thanh tịnh thì ngồi tại thiền định phát khởi thần thông ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Đạo ở chỗ nào ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Ngồi vững không thối thoát thì thành tựu đạo quả không còn nạn khổ của ba cõi ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Không thối thoát thì ngồi tại chỗ nào ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người không thối thoát thì ngồi tại nơi giải thoát họa hoạn sanh tử ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Phật ngồi tại đâu ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Ngồi tại ba mươi bảy pháp đạo phẩm đã được tu tập không có phá hoại, chuyển pháp luân mãi mãi không
bao giờ đoạn tuyệt giáo pháp Tam bảo ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai hưng khởi Phật ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Chánh là người hay phát lòng tin chí quyết tỏ thấu bổn lai không vô ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai phát khởi lòng tin chí quyết ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Nếu là người hay phát Bồ Tát tâm».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai phát Bồ Tát tâm ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người có chí tánh định chẳng tán loạn ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai có chí tánh định chẳng tán loạn? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người thi hành đại bi chưa bao giờ dứt ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng dứt lòng đại bi ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng rời bỏ chúng sanh ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Người làm mình an vui và làm an vui tất cả chúng sanh ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai làm mình an vui
và làm an vui đến chúng sanh ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Vương ! Người hưng long đạo pháp chẳng dứt tuyệt Tam bảo ».
Vua lại hỏi : « Bạch đức Thế Tôn ! Ai chẳng dứt Tam bảo ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Vương ! Vất bỏ trần lao là chẳng dứt Tam bảo ? ».
Vua A Xà Thế lễ Phật, bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Đức Thế Tôn thật là chưa từng có. Đức Như Lai phán dạy vào đúng pháp luật. Đức Như Lai ban dạy, pháp được nói ra tột đến nhu thuận rời lìa nghiệp đoạn diệt và hữu thường mà chẳng quên mất quả báo ứng. Vào chỗ gầy dựng, làm không loạn động, không có những nghiệp thiện, ác, tịnh, bất tịnh. Siêng tu đạo hạnh không trái không mất.
Bạch đức Thế Tôn ! Người nào nhập vào hạnh nguyện ấy thì giải quyết mọi điều nghi ngờ thuận theo giáo pháp chánh chơn của đức Như Lai.
Người nào nghe pháp ấy mà sanh lòng ngờ vực, đó là vì đời trước chẳng vun trồng cội đức, theo bạn ác, chẳng tin và hủy báng chánh pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi đời trước có trồng cội đức, chẳng phải là không công đức. Nay tôi được nghe chánh pháp, muốn báo ân sâu của đức Phật mà chí ý chẳng thể báo được trọn vẹn.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ mẫn vì chúng tôi mà giải quyết nghi ngờ hiển hiện đại quang minh.
Đưcù Thế Tôn khéo phán dạy đầy đủ phạm hạnh, là bực thân hữu chí thiện được đại nhơn từ là hàng thiện hữu vậy ».
Bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Ngài kiến lập kinh pháp nầy phải chăng là để lưu bố cho tất cả tương lai ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Kiến lập kinh pháp nầy để lưu bố khắp thiên hạ ở Diêm Phù Đề sau khi đức Như Lai diệt độ thời mạt thế sau cùng, làm cho các pháp sư, chư vị chánh sĩ đều được soi sáng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Phật kiến lập kinh điển quan yếu nầy, được chư Phật đều hộ trì. Ai thọ trì được kinh nầy thì là khéo học chánh pháp chẳng chấp văn tự, ngôn từ chẳng cùng tận, không ai dứt ngang được.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Như Lai chí chơn chẳng bỏ các pháp. Tại sao vậy ? Kia không chỗ sanh. Đã không chỗ sanh thì không chổ diệt. Vì thế nên đức Như lai nói : đức Như Lai xuất thế là không chỗ sanh. Chỗ đứng của Như Lai là đứng tại pháp giới. Pháp trụ như pháp, có Phật hay không Phật, Phật Pháp vẫn thường trụ.
Bởi trụ như vậy nên mười hai duyên khởi được chẳng sai trái, duyên khởi chẳng rối loạn, chẳng loạn chánh pháp.
Lại xét pháp ấy thường không có ngôn thuyết nên được gọi là chánh pháp, vì không
có ngôn thuyết ».
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «ThưaNgài Mật Tích ! Ngài hộ trì chánh pháp mặc áo giáp hoằng thệ. Vì vậy mà Ngài mặc áo giáp ư ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Mặc áo giáp hoằng thệ hộ trì chánh pháp, chẳng làm loạn các pháp, chẳng nắm lấy pháp ấy. Tại sao vậy ? Chánh pháp ấy, tất cả các pháp đều không có chỗ loạn. Đó là hộ trì chánh pháp ? ».
Ngài Tịch Ý Bồ Tát hỏi : « Sao gọi rằng làm loạn chánh pháp ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : « Nương dựa nơi hãi sợ là thành mê loạn.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Rốt ráo không loạn, nghĩa là ý nghĩa không loạn, mới được gọi là hộ trì chánh pháp”.
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích ! Chừng có phương tiện nào, lúc tất cả thế gian rối loạn, nhơn đó mà hộ trì chánh pháp chăng ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Nhơn vì loạn mà hộ trì vậy.
Tại sao vậy ? Nhơn vì thế gian dựa theo tà nghi sáu mươi hai kiến chấp. Chỗ làm của Bồ Tát lấy rỗng không làm căn bổn. Vì thế nên cùng tất cả thế gian làm loạn nhau.
Lại vì thế tục kia quan niệm có thường còn, nên họ lập có ngô ngã cho là sạch là an.
Bồ Tát luôn tỏ thấu các pháp vô thường, khổ, không, chẳng phải thân, không có ngô ngã.
Thế nên gọi là cùng tranh biện với thế gian.
Tùy theo thế gian chìm trong dòng nước sanh tử, Bồ Tát phương tiện ngược dòng tận nguồn trái lại dòng sanh tử, chứa công tích đức. Vì thế nên gọi là cùng thề gian tranh loạn nhau.
Người đời dựa nương năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới.
Người làm hạnh Bồ Tát, nơi tâm không dính mắc một pháp nào cả. Vì thế nên gọi là cùng thế gian tranh loạn. Tại sao vậy ? Vì chẳng đồng với trần lao vậy.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Vì thế nên hộ trì chánh pháp là cùng thế gian tranh loạn nhau ».
Tịch Ý Bồ Tát hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích! Hành giả làm thế nào hộ trì chánh pháp ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Vì thọ trì chánh pháp mà hộ trì thân mình cũng hộ trì thân chúng sanh, hộ trì tất cả pháp, nhưng vẫn không có chỗ hộ trì ».
Tịch Ý Bồ Tát lại hỏi : «Thưa Ngài Mật Tích ! Thọ trì thế nào ? ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Bặt dứt ngô ngã, chúng sanh vắng lặng. Chúng sanh đã lặng thì ba đời lặng. Ba đời đã lặng thì Phật pháp lặng. Phật pháp đã lặng thì Phật độ lặng, Phật độ đã lặng thì các pháp lặng.
Ở nơi các pháp mà không có chỗ về đến thì gọi là hộ trì chánh pháp vậy ».
Bấy giờ đức Thế Tôn khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Lành thay, lành
thay ! Đó gọi là hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp ấy, là không chỗ hộ trì, không chỗ quên mất.
Lại người hộ trì chánh pháp là thọ trì tất cả, nơi tất cả tưởng mà không vọng tưởng. Đa õkhông có tưởng thì nơi các vọng tưởng không để phóng túng. Đây gọi là ở trong tất cả pháp mà không phóng dật, mới gọi là đạo pháp ».
Lúc ấy trong pháp hội có một Thiên Tử tên là Hiền Vương tiến lên bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Ngôn từ của chư Phật rất là vắng bặt. Người được thấy, thế nào là phải ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Hiền Vương ! Nghĩa vắng bặt của ngôn từ chánh giáo, tất cả chỗ lãnh hội cùng công hạnh đều vắng bặt vậy. Người ấy nhẫn thọ được chánh giáo. Vì đã hay nhẫn thọ được nên hay phừng cháy. Vì đã hay phừng cháy nên hay chói sáng. Vì đã hay chói sáng nên vắng bặt thành là lặng lẽ. Đây là hộ trì chánh pháp của Như Lai. Mới gọi là chúng của chư Như Lai tổng trì Phật đạo. Chỗ trì như vầy : chẳng trì pháp lại chẳng xả pháp ».
Lúc đức Phật đáp lời Thiên Tử Hiền Vương, có một ngàn Tỳ Kheo được lậu tận ý giải thành A La Hán. Một ngàn Thiên Tử xa trần lìa cấu được pháp nhãn thanh tịnh.
Tịch Ý Bồ Tát hỏi Thiên Tử Hiền Vương: «Ngài từ đâu được biện tài ấy ? ».
Thiên Tử Hiền Vương nói : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu ai có thể dứt trừ tất cả chướng ngại đều vô sở đắc được đệ nhứt nghĩa không y ỷ vào đâu thì gọi là biện tài. Tự mình hiểu rõ, thần thức chẳng chuyển đổi, chẳng do người mà biết, cũng không chỗ lập, đây mới gọi là biện tài.
Tâm ý chẳng thả theo chỗ chấp trước, nếu có thể phụng hành pháp không chỗ chấp trước mới được biện tài nầy.
Nếu do suy gẫm tất cả các pháp qua lại hiển bày đều phải biết rõ nhận biết tin chắc mới được biện tài.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Hành giả như vậy được biện tài nầy, họ không chỗ trụ, không chỗ hành, vượt qua khỏi dòng sóng bốn nạn sanh lão binh tử. Họ không chỗ sanh không chỗ khởi cũng không chỗ diệt. Không bị ai diệt được mới gọi là vượt qua khỏi, là được biện tài vậy ».
Tịch Ý Bồ Tát tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Hiền Vương Bồ Tát nầy từ cõi nào đến cõi nầy mà có biện tài như vậy ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Tịch Ý ! Hiền Vương Thiên tử từ nước của đức Phật A Súc mà đến, chết kia sanh về đây, vì muốn được nghe kinh điển bí yếu của Như lai.
Tịch Ý nên biết rằng Hiền Vương Thiên Tử được chứng nhập nhà pháp tổng trì. Giả sử một kiếp hoặc hơn một kiếp tuyên nói công đức của ông ấy cũng chẳng hết được ngằn mé biện tài ».
Tịch Ý Bồ Tát lại bạch: « Bạch đức Thế Tôn ! Sao gọi là nhà pháp tổng trì ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Tịch Ý! Trước kia nói được nhập nhà pháp tổng trì đó là nhập nơi trí huệ văn tự vô tận, tất cả pháp đều vào trong nhà nầy. Ở nơi tất cả pháp đều không chỗ làm, hiểu rõ nhà pháp phụng hành nhà pháp. Với các văn tự dùng âm thanh để tuyên bày. Những lời từ miệng thốt ra làm thành sự pháp, chẳng nghĩ niệm sự pháp cũng chẳng phân biệt đó mà tuyên bố tất cả sự âm thanh. Đây gọi là nhập vào công hạnh nhà pháp tổng trì vậy.
Lại nầy Tịch Ý ! Pháp mà nhập vào được đó lại là pháp vô sở đắc. Chỗ được gọi là nhập. Phát ra trí huệ. Văn tự kia không từ đâu đến nhập vào trong nhà. Lại văn tự ấy chẳng hiện trong nhà cũng chẳng hiện ra ngoài. Lại không chỗ hướng đến cũng không có phương diện. Lại văn tự ấy xoay vần trình bày cũng chẳng tưởng niệm. Văn tự chẳng thuận với pháp cũng chẳng trái với pháp, không các tưởng niệm. Văn tự ấy đều không có ngôn thuyết, cũng không tăng không tổn. Lại văn tự ấy chẳng thấy có khởi, không chỗ hoại diệt, không làm văn tự cũng không chỗ mất.
Lại nầy Tịch Ý ! Như số văn tự, tâm số cũng vậy. Tất cả đều như vậy. Số của các pháp có chỗ quy thú. Nếu là số của các pháp thì kia là vô số. Tại sao vậy ? Chẳng về nơi pháp số, không có số mới gọi là pháp số vậy.
Tùy thuận pháp số như vậy mới gọi là nhập vào nhà pháp. Chẳng nhập vào quá khứ, nhập vào pháp vô sanh không chỗ đến.
Kia không chỗ sanh bởi không chỗ đến thì nhập vào chỗ nào. Do vô sở nhập mà nhập vào các số như vậy mới đến được pháp môn. Tự thấy bổn lai không có thì được an trụ nhập vào hạnh nghiệp nhà pháp tổng trì. Nhập vào tâm chúng sanh. Do nhập vào tâm chúng sanh mà tùy theo tâm chúng sanh chỗ đáng được độ mà vì họ thuyết pháp. Nếu lãnh thọ tổng trì mới gọi là ý vắng lặng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Do tâm ly cấu nên tâm được thanh tịnh nghiêm trang hòa nhã sáng suốt, tánh ấy siêu việt, đi đứng an tường, trí huêï không mất, chí nguyện kiên cố, chỗ nên độ ấy mà chẳng phá hoại được, các tà ngoại khác không ai chẳng bị dẹp phục, tiêu trừ trần lao, diệt các oán tặc, thân lực rất mạnh, tâm không khiếp nhược, biện tài vô tận, chỗ nói vô lượng, chỗ quy vô hạn, trí huệ vô ngại nhập vào giác ý rất sáng suốt, ban tuyên lời chánh chơn thâm diệu. Chỗ được nghe rộng như sông như biển. Tam muội chánh định vững như núi Tu Di ở tại giữa biển lớn. Ở trong đại chúng như vua sư tử. Chẳng nhiễm thế tục như hoa sen chẳng dính bùn nước. Chẳng có ghét thương, lòng mở rộng như mặt đại địa lúa đậu cỏ cây nhơn nơi đó mà sanh trưởng, muôn dân được an vui. Rửa sạch bụi dơ như nước trong, khai hóa chúng
sanh. Đốt các nạn độc như ngọn lửa hừng đốt cháy cỏ rác. Dạy dỗ khắp chúng sanh như luồng gió lớn thổi không sót chỗ. Tâm hành bình đẳng như mặt trăng tròn chiếu các tinh tú. Tiêu trừ tham sân si như ánh nắng soi bóng tối. Phục tâm ý thức như dũng tướng đè bẹp cường địch. Điều hòa tâm mình như Long Vương thuần thục theo đúng thời tiét.
Như thuần âm sấm nổ rồi mới mưa, cũng vậy, Bồ Tát điều hòa tâm mình, diễn bày pháp vũ nhuần thấm ba cõi. Tuyên nước pháp cam lộ trừ sạch tâm nhơ uế, như trời mưa rửa sạch bụi trần. Chữa lành các bịnh tật tham sân si như lương y trị bịnh mọi người. Chí gìn vô vi phụng hành chánh pháp, đây là Pháp Vương trị dạy mười phương. Cũng như Quốc Vương cai trị muôn dân bảo hộ khai hóa tất cả sanh già bịnh chết. Như Tứ Thiên Vương trị tứ thiên hạ, cũng như Thiên Đế Thích vua trời Đao Lợi dạy dỗ chư Thiên. Cũng vậy, Bồ Tát ở tại cõi dục giáo hóa chúng sanh, với sắc thanh hương vị xúc pháp, sạch như minh châu. Điều phục tâm ý luôn được tự tại, như Phạm Thiên Vương chúa tể trời người.
Tâm Bồ Tát thanh tịnh không hề dính mắc, như chim bay trong hư không không bị chạm đụng.
Hành động đúng pháp an tường, như lộc vương đi theo bầy nai, kính vâng pháp giáo
mến các chơn hạnh.
Như mẹ thương con làm cho được an ổn.
Dạy chúng sanh các kỹ thuật như nghiêm phụ dạy bảo con cháu.
Đức lớn tự trang nghiêm dùng ba mươi hai tướng đại nhơn, phước tướng xen đẹp có tám mươi tùy hình hảo và bao nhiêu vẻ tốt.
Được tất cả thế gian cùng kính ngưỡng, chẳng bị tà kiến ràng buộc. Có đủ bảy thánh tài chẳng bị nghèo thiếu.
Được mười phương chư Phật hộ niệm.
Được bực minh trí ngợi khen, được hàng thông đạt ca tụng và chư Thiên đều thủ hộ cúng dường.
Được các thiện hữu luôn tiếp trợ.
Là tối thượng trong hàng thuyết pháp, đủ sáu thần thông tự tại.
Lại thấu nhập tánh hạnh và căn trí của tất cả chúng sanh để ban tuyên kinh pháp chưa hề lười mỏi.
Không bao giờ mong mỏi lợi dưỡng. Chỉ thích đem chánh pháp ban bố chẳng hề lẫn tiếc.
Trong lòng thanh tịnh không có sai phạm, nhẫn nhục sáng suốt không có lầm lỗi.
Sự nghiệp được làm đều có thể đến trọn vẹn cả.
Thanh tịnh tinh tiến tâm tánh an hòa, nhứt tâm thanh tịnh trừ bỏ cội cấu, giác ý thản nhiên trí huệ thanh tịnh, tu bốn phạm hạnh không hề buông lung để thành tựu công nghiệp độ thế.
Thiền định tam muội được nên chánh thọ đến Bồ Tát đạo và Phật đạo Vô thượng.
Có thể thành tựu được khắp những hành nghiệp được làm, chẳng giữa chừng biếng nghỉ, đến bực bất thối chuyển.
NầyTịch Ý ! Bồ Tát đại sĩ nhập vào nhà pháp tổng trì công đức vô lượng vòi vọi như vậy. Giả sử có vị Bồ Tát ở thế gian trăm ngàn năm chẳng làm việc gì khác, chỉ chuyên khen ngợi hạnh tổng trì ấy cũng chẳng thể tuyên nói hết được ».
Bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát nói với Hiền Vương Thiên Tử : « Ngài được lợi lành rất lớn vô cùng. Hôm nay đức Như Lai khen ngợi công đức của Ngài rỡ ràng như vậy ».
Hiền Vương Thiên Tử nói với Tịch Ý Bồ Tát : «Thưa Ngài Tịch Ý ! Ở nơi các pháp ấy thiệt ra không thể được công đức để ngợi khen. Lại các pháp ấy không có sắc, không có tượng, không có hình mạo, công hạnh như vậy không thể tuyên xướng ngợi khen hết được ».
Hiền Vương Thiên Tử tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả các pháp chẳng nhận lấy được, không có ngô ngã cũng không ngã sở. Vì thế nên chẳng thể truyền thọ cho người cũng chẳng thể tập họp lại được.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người thích tu hành pháp nầy thì nên hành bình đẳng, hoặc siêng phụng hành tu pháp bình đẳng thì đến được pháp môn nầy.
Như đại địa đây, đất ở trên nước, nước ở trên gió. Khắp trong thiên hạ trên mặt đất nầy, giả sử có người đào đất ra công gắng sức thì được có nước để uống dùng không cần phải tìm ở phương xa.
Trí huệ Như Lai vào khắp trong tánh hạnh của tất cả chúng sanh. Như Lai giải thoát, tùy theo pháp môn
mà tu tinh tiến, do phương tiện nầy thành đại huệ quang minh.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì thế nên thiện nam thiện nữ muốn cầu Phật đạo phải thường tu hành tinh tiến. Lấy gì để tinh tiến ? Phải dùng các pháp môn ấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Như kẻ sanh manh không thấy được màu sắc bao giờ. Giả sử có người chẳng tu hành tinh tiến thì gọi là kẻ ngu tối manh minh chẳng thấy các pháp hoặc gốc hoặc ngọn.
Bạch đức Thế Tôn ! Như người mắt sáng nhờ ánh sáng mà được thấy. Chẳng có ánh sáng thì tăm tối không thấy, ngoại trừ tiên nhơn thiên nhãn. Cũng vậy, người rời xa bạn lành không được khai hóa chẳng hiểu được các pháp quán để thấy những pháp được thọ.
Như thiên nhãn thấy chẳng cần ánh sáng, nếu có thiện nam được trí huệ tự nhiên thành đại trí đức.
Bạch đức Thế Tôn ! Như chim bay trong đồng trống ngang qua đầm rộng chẳng thấy hư không cùng đồng ruộng có thêm có bớt. Cũng vậy, tất cả Bồ Tát tinh tiến tu hành nhập vào đạo phẩm chẳng thấy Phật đạo có tăng có giảm.
Bạch đức Thế Tôn ! Như núi tuyết kia, mưa tuyết rơi sương sanh trưởng cây cối chẳng bị các cơn gió làm tai hại. Cũng vậy, Bồ Tát theo đúng thời tu hành phát sanh trí huệ sáng soi thấu cả chúng sanh không có số lượng, đi ở chỗ nào không có quên mất.
Bạch đức Thế Tôn ! Như Chuyển Luân Thánh Vương sanh trong dòng quý tộc đủ bảy báu xuất hiện. Những gì là bảy báu ? Một là xe tử kim có ngàn căm. Hai là
voi trắng có sáu ngà. Ba là ngựa thần nhiều màu : đầu đen bờm đỏ. Bốn là châu minh nguyệt có tám cạnh. Năm là vợ ngọc nữ miệng thơm hoa sen thân thơm chiên đàn. Sáu là đại thần chủ tạng linh như thánh. Bảy là chủ binh đại tướng coi binh bốn cõi.
Cũng vậy, Bồ Tát đại sĩ lúc bảy báu xuất hiện thì tự nhiên đạo bửu xuất hiện thế gian. Những gì là bảy báu ? Đó là báu Bố thí ba la mật, Trì giới ba la mật, Nhẫn nhục ba la mật, Tinh tiến ba la mật, Thiền định ba la mật, Bát nhã ba la mật và báu Thiện quyền phương tiện ba la mật xuất hiện thế gian cứu độ tất cả.
Như vua Chuyển Luân đi khắp bốn cõi nước chẳng tính đếm được nhơn dân có bao nhiêu tâm niệm. Cũng vậy, Bồ Tát đại sĩ dùng pháp tứ ân nhiếp cứu chúng sanh chẳng tưởng chúng sanh có bao nhiêu
phẩm loại hiểu nó là bổn lai không có.
Như vua Chuyển Luân cai trị bốn cõi, ngồi yên trên ngai, không người đấu tranh, không xử phải quấy, mà dân chúng tự nhiên thuận theo mạng lịnh của nhà vua. Cũng vậy, Bồ Tát ngồi tòa Phật Pháp không kẻ đấu tranh, các bè đảng ma dầu cưu lòng ác mà tự nhiên đến hàng phục.
Bạch đức Thế Tôn ! Như cõi Đại Thiên nầy trước nhứt thiết lập núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di. Cũng vậy, Bồ Tát trước nhứt gầy dựng Đại thừa, kế lập đại bi, chí tánh nhơn hòa là vô thượng hơn cả.
Như mặt nhựt mới mọc trước tiên chiếu ánh sáng đến núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, núi Tu Di rồi sau đó mới chiếu đến các chỗ khác. Cũng vậy, Bồ Tát phóng sáng trí huệ chiếu khắp ba cõi,dùng tâm nhơn hòa trước soi đến chúng sanh, ánh sáng Đại thừa trừ tối ba độc đều được thần thông.
Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả cây cối quận huyện thôn ấp đều y cứ trên đất liền. Trăm giống cỏ cây đều nhờ nương nơi đất mà sanh trưởng. Từ mặt đất, muôn vật sanh ra mà được tự tại. Cũng vậy, tất cả cội công đức của Bồ Tát đều nhơn nơi đạo tâm nuôi lớn thánh huệ mà thành chánh giác vậy».
Đức Phật khen Hiền Vương Thiên Tử : « Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử khéo dẫn ví dụ để nói lên công hạnh Bồ Tát.
Lại nầy thiện nam tử ! Như Chúng sanh giới cùng với pháp giới được đến tổng trì. Trí huệ của Bồ Tát cũng như vậy, được biện tài vô ngại lời nói không cùng tận không bị ngăn che không ngớt không nghĩ. Với kinh pháp của chư Phật tuyên thuyết chẳng khiếp chẳng sợ. Vì Bồ Tát đã được môn tổng trì nên chỗ nói ra chẳng có lòng khiếp sợ.
Bồ Tát như vậy được ba vô ngại :
Một là tổng trì vô ngại.
Hai là Biện tài vô ngại.
Ba là đạo pháp vô ngại.
Bồ Tát lại có ba sự được vào hạnh nghiệp thanh tịnh :
Một là tự nhiên thanh tịnh.
Hai là bổn vô thanh tịnh.
Ba là bổn tế thanh tịnh.
Lại có ba sự Bồ Tát được vào vô tận :
Một là kinh pháp không cùng tận.
Hai là nghĩa văn tự không cùng tận.
Ba là tuyên lời dạy bảo không cùng tận.
Bồ Tát lại được vào ba chỗ vô trụ xứ :
Một là thánh huệ vô trụ xứ.
Hai là ngôn từ văn nghĩa vô trụ xừ.
Ba là chỗ tu kiến lập cũng vô trụ xứ.
Bồ Tát lại có ba quyết định :
Một là ứng theo cơ mà tuyên bày.
Hai là liền phát biện tài.
Ba là trí huệ đúng thời.
Bồ Tát lại được có ba trí huệ giải quyết nhanh:
Một là giải quyết nghi ngờ khiến không còn thắc mắc.
Hai là dứt hẳn dụ dự khiến không còn trầm ngâm.
Ba là làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh ».
Lúc đức Phật nói lời trên đây, trong đại hội có tám ngàn Bồ Tát được môn tổng trì.
Bấy giờ Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tiến lên bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Cúi mong đức Thế Tôn kiến lập pháp điển, sau đức Thế Tôn diệt độ, trong thời mạt thế sau cùng, chánh pháp lưu bố khắp Diêm Phù Đề được còn lâu chẳng dứt mất ».
Đức Thế Tôn quan sát khắp bốn phương xong nói kệ rằng :
« Nhiếp căn thì được thắng
Dứt căn không bị hại
Không vốn đã dứt không
Phục bè đảng binh ma.
Giải thoát biết thanh tịnh
Vô úy biết chỗ sợ.
Vất bỏ cả gánh nặng
Là thần chú y sư.
Hàng phục ngoại dị học
Dùng pháp để cứu nhiếp
Hộ trì người hành pháp
Thần chú của Phật nói.
Vô ngã để trừ ngã
Nghĩa ấy phải vượt qua
Đối với Tứ Thiên Vương
Nói câu không nhuần thấm.
Mạnh siêng giữ chương cú
Tịnh lại tịnh Chánh giác
Phạm Thiên Thiên Đế Thích
Làm nên thừa như đây.
Từ thị thông nhẫn kia
Bởi quán sát đại bi
Được Phạm Thiên ái kính
Người ấy không chỗ phạm.
Khoáng Dã rời không trống
Không căn gọi là tịnh
Hàng phục binh tướng ma
Nên nói thần chú nầy.
Đấng Thế Tôn kiến lập
Kinh lời nghĩa hay nầy
Bấy giờ lưu bố khắp
Tùy cơ hay lãnh thọ.
Bởi nói chú thuật nầy
Trời đất đều chấn động
Chư ma thảy đều đến
Đều tuyên nói như vầy :
Dùng lời giữ đầu cổ
Đây gọi là Pháp Sư
Nếu tay được kinh nầy
Về đến chỗ Phật nói ».
Lúc ấy đức Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đã kiến lập kinh điển nầy rồi, nay kiến lập không ai làm loạn động được. Tại sao vậy ? Ta nhớ lại thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bửu Nguyệt Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Vô Duyệt.
Trong đời đức Phật Bửu Nguyệt ấy có hai Tỳ Kheo làm Pháp Sư. Một vị tên là Trí Tịch, một vị tên là Trì Chí Thành. Hai vị đều có oai thần biến hóa đức cao vòi vọi. Hai vị lãnh thọ chương cú thần chú nầy nơi Phật Bửu Nguyệt mà phụng trì. Sau khi Phật Bửu Nguyệt diệt độ, hai vị ấy trì pháp nửa kiếp. Sau đó trăm ngàn ức loài ma trong cõi Đại Thiên đều được khai hóa tuân theo đạo Vô thượng chánh chơn.
Nầy Mật Tích ! Ông muốn biết hai vị Tỳ Kheo Pháp Sư thuở xưa ấy là ai chăng ? Trí Tịch Pháp Sư là tiền thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Còn Trì Chí Thành Pháp Sư là tiền thân của Mật Tích Kim Canh Lực Sĩ vậy.
Các chương cú ấy làm cho kinh pháp nầy được nhiều sự lợi ích hộ trì thành tựu chánh pháp ».
Bấy giờ đức Thế Tôn nhìn xem tất cả chúng hội bốn phía mà tuyên bố rằng : « Chư vị Chánh Sĩ ! Ai là người có thể gánh vác được đạo tổng trì vô thượng chánh chơn mà đức Như Lai đã từ trăm ngàn ức triệu vô số kiếp chứa công tích đức, tất cả chúng sanh nhờ đây mà được tế độ, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đây mà sanh ».
Trong chúng hội có ba vạn hai ngàn vị Bồ Tát rời chỗ ngồi đứng dậy vòng tay cúi đầu lễ Phật rồi nói kệ rằng :
« Xả bỏ thân mạng mình
Tư duy khéo vắng lặng
Thọ trì kinh pháp nầy
Được chư Phật khen ngợi.
Kinh điển nầy như thuốc
Chữa trị tất cả bịnh
Thọ trì ngôn giáo nầy
Phát sanh tâm ý Phật ».
Liền đó Hiền Vương Thiên Tử cùng năm trăm Thiên Tử nói kệ rằng :
« Tất cả chúng sanh
Siêng quán tưởng chứa đức
Thọ trì kinh điển nầy
Được tối thắng thâm diệu ».
Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cũng nói kệ rằng :
« Nghĩa ấy không văn tự
Mà lại tuyên văn tự
Đức Thế Tôn ban tuyên
Tôi nay phả i phụng trì ».
Lúc bấy giờ đức Như Lai bảo Phạm Thiên và Thiên Đế Thích : « Như Lai có ba điều chẳng thể hạn lượng được, nên thành bực cúng dường vô thượng công đức vô cùng cực.
Những gì là ba ?
Một là chí tâm nhơn hòa phát đạo tâm mình.
Hai là đem đạo tâm đã được phát mà hộ trì chánh pháp.
Ba là đúng như pháp được nghe mà giảng giải cho mọi người.
Đích thân thật hành ba điều như vậy nên được đến công đức chẳng thể tính lường được.
Phạm Thiên nên biết do ba sự ấy mà chứa công tích đức, dầu cho ta ở đời một kiếp phân biệt rộng nói cũng chẳng thể nói hết được.
Nầy Phạm Thiên ! Thế nên phải tùy thuận cung kính phụng sự ba điều của Như Lai.
Phạm Thiên cúng dường Như Lai lãnh thọ bốn câu kệ tụng mà ba đời chư Phật đã tuyên nói, lãnh thọ rồi ủng hộ.
Tại sao Vậy ?
Chư Phật Thế Tôn đều từ pháp nầy mà sanh. Vì thế nên cúng dường pháp.
Cúng dường pháp chẳng cần đến áo cơm. Bởi pháp cúng dường là hơn hết trong những sự cúng dường. Vì thế nên Phạm Thiên phải đem chánh pháp để cúng dường nhau, là cúng dường chơn đế, không dùng áo cơm.
Đức Phật tự nhớ Phạm Thiên Vương thuở quá khứ từng sanh làm Vương Thái Tử tên là Ý Hành, mến ưa đạo pháp. Một hôm nằm mơ nghe bốn câu kệ tụng nầy :
« Nếu mãi buông lung không đường thoát
Vì chúng sanh nên phát đạo tâm
Ở rảnh rang tùy thuận siêng tu
Xả thí không tham mình người an.
Vương Thái Tử nghe dạy bài kệ tụng ấy, sau khi tỉnh giấc suy gẫm rành rẽ, trong lòng rất vui mừng, liền nói kệ ca ngợi lời kệ tụng ấy :
Mừng thay rất an vui
Được pháp tạng vô tận
Nên thí cho kẻ nghèo
Khiến mọi người no đủ.
Nầy Phạm Thiên ! Khi ấy Vương Thái Tử được tạng an lập đế, hiểu văn tự vốn không, tự nghĩ rằng : đem nghĩa bài kệ ấy làm cho chúng sanh nghèo thiếu được no đủ.
Vương Thái Tử đến thưa Vương phụ và Vương mẫu, chừng có kho bảy báu : vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô chăng ? con rất vui mừng nếu được đem bố thí cho người nghèo khó.
Phụ mẫu nên biết rằng tất cả của cải chẳng phải là vật báu bền chắc, thường bị nước lụt, hỏa hoạn, trộm cướp, oan gia trái chủ, quan quyền, con bất hiếu làm tiêu tan. Trí huệ nghe rộng học nhiều không cần áo cơm rất là khó được.
Vương phụ, Vương mẫu nói : Hay lắm, cho phép con lấy của kho bố thí, như lòng con muốn.
Vương Thái Tử Vương liền bố thí khắp các người nghèo thiếu. Rõ biết ba cõi rỗng không làm cho họ được trí huệ vô tận khó được.
Vương Thái Tử nghe một bài kệ bốn câu mà giáo hóa được tám ngàn người khuyên phát đạo tâm Vô thượng Bồ đề, vô số chúng sanh được sanh cõi trời.
Thế nên, nầy Phạm Thiên ! Người nào lãnh thọ pháp thâm diệu nầy, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói, nghe đó vui mừng, thì được công đức vô lượng, được tạng vô thượng.
Nầy Phạm Thiên ! Hành pháp Đại thừa có ba sự pháp lợi ích rất nhiều cho Bồ Tát :
Một là giải và hạnh được lập nhẫn thọ không nhàm.
Hai là lấy giải để kiến lập, lấy hạnh làm trọng yếu, giữ gìn lời nói là thứ nhứt, chẳng móng tâm tổn hại chúng sanh.
Ba là chẳng rời bỏ đại bi.
Đó là ba sự. Vì thế nên, Phạm Thiên nầy ! Muốn làm lợi ích cho chúng sanh thì phải siêng khuyến trợ kinh điển nầy.
Lại có hai sự mà hạnh nguyện được lập ra chẳng bị quên mất :
Một là lúc Phật mới thành đạo, đến thỉnh cầu đức Phật chuyển chánh pháp luân.
Hai là Phạm Thiên phải thỉnh cầu, trong Hiền Kiếp nầy, một ngàn vị Phật đương lai chuyển chánh pháp luân giáo hóa những chúng xuất gia làm hạnh Bồ Tát, như đức Phật Thế Tôn làm Pháp Vương tự tại khéo giáo hóa dạy dỗ ít ai bằng được.
Nầy Phạm Thiên ! Vì lẽ ấy nên đức Phật làm cho tất cả mọi người trừ bỏ già bịnh chết đến quả vô vi, với sắc chẳng chấp trước. Vì hiểu lẽ ấy nên chịu được các sự khổ, không vọng mong cầu, làm chúa tể trời người, tạo lập ba pháp nhẫn, chấp trì chánh pháp thọ trì đọc tụng. Lãnh thọ kinh nầy là rất khó.
Phải quan niệm rằng : Bồ Tát trong trăm ngàn ức triệu kiếp tu hạnh thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ, ủng hộ chánh pháp, mau được thành bực Chánh giác ».
Lúc bấy giờ đức Phật phán bảo Ngài A Nan: « Nầy A Nan! Ông phải lãnh thọ kinh nầy, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho mọi người ».
Ngài A Nan bạch đức Phật : « Thưa vâng. Bạch đức Thế Tôn ! Con sẽ thọ trì làm cho được kiên cố ».
Đức Phật dạy : « Nầy A Nan ! Chớ đem pháp nầy truyền cho kẻ chẳng phải pháp khí, chớ trao cho ác tri thức. Nên truyền cho thiện hữu, những người mộ đạo thích học, những người nầy sẽ phụng trì thủ hộ.
Nầy A Nan ! Kinh điển nầy chẳng về nơi phi pháp mà sẽ về nơi người hạp căn khí, họ có thể phụng hành pháp nầy và thương cứu chúng sanh.
Lại kinh nầy không có vọng tưởng. Tinh tiến hành trì thì có thoại ứng hiện tiền. Người hành trì kinh nầy thì được nhiều phước báo ».
Ngài A Nan thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Con sẽ thọ trì kinh nầy, nương oai thần của đức Phật, con sẽ làm cho thường được lưu bố khắp nơi. Nếu ai lãnh thọ pháp nầy, thừa oai thần của đức Phật, quang minh chiếu xa. Những người ấy chẳng còn theo nghiệp hạnh sái quấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy danh hiệu là gì, phụng hành thế nào ? ».
Đức Phật phán dạy : « Kinh nầy tên là Lời dạy của đức Phật. Lại có tên là Pháp nghĩa của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ tuyên bố. Lại tên là Công huân báo ứng của Như Lai. Lại có tên là Phẩm pháp bí yếu của Như Lai.
Nầy A Nan ! Ông phải phụng trì như vậy. Vì người khác phân biệt giảng nói chớ có mong cầu lợi dưỡng. Chỉ vì vô lượng công đức mà thuận theo pháp luật nên phụng trì vậy. Tại sao ? Giả sử dùng Phật nhãn thấy khắp Phật độ và cõi nước mười phương, từ mặt đất lên cao đến trời Đao Lợi, trong đó đầy những bảy thứ châu báu và trăm thứ uống ăn đem cúng dường đức Như Lai, nếu có người lãnh thọ kinh nầy, thọ trì đọc tụng phụng hành, vì người mà giảng nói không có lòng cầu lợi dưỡng thì được công đức nhiều hơn.
Và có người nào đem y thực vật dùng cúng dường kinh yếu nầy, tuyên công đức của Như Lai thì được phước vô lượng, không gì để ví dụ được ».
Lúc đức Phật nói kinh nầy, có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô
thượng Bồ đề. Vô số Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn. Vô ương Bồ Tát đến bực nhứt sanh bổ xứ.
Ngài A Nan, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, Tịch Ý Bồ Tát và chư đại Thanh Văn, chư Thiên, chúng Nhơn cùng hàng A Tu La, Càn
Thát Bà, tất cả chúng hội nghe lời đức Phật phán dạy không ai chẳng vui mừng, cúi đầu đảnh lễ rồi lui ra.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment