Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 130
PHÁP HỘI VÔ NGÔN BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI SÁU
Như vậy tôi nghe đức Thế Tôn lúc ấy vẫn ở trong Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, cùng hàng đại chúng vây quanh thuyết pháp.
Bấy giờ trong thành Vương Xá nhà của Sư Tử Tướng Quân sanh một con trai. Lúc
trai ấy vừa sanh ra, trên hư không có đông chư Thiên nói rằng: “Nầy đồng tử! Phải nên niệm pháp, tư duy nơi pháp. Lúc phát ngôn chớ nói thế sự. Thường nên tuyên nói pháp xuất thế. Thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, nói ít. Chớ sanh giác quán nơi thế sự. Phải y nơi nghĩa, chớ y văn tự”.
Lúc đồng tử nghe lời chư Thiên nói liền chẳng còn kêu khóc
không có tướng trẻ nít, cho đến bảy ngày sắc mạo vui vẻ thấy người mừng rỡ mắt chưa từng nháy.
Có người bảo cha mẹ đồng tử rằng trẻ nầy bất tường chẳng nên nuôi dưỡng, tại sao, vì nó câm
không hề lên tiếng vậy.
Cha mẹ đồng tử nói: “Con trai chúng tôi dầu câm chẳng phát ra tiếng, nhưng thân nó có đủ các tướng, hình thể không thiếu chỗ nào. Do đây nên biết trẻ nầy ắt có phước đức chẳng phải là người bất tường bạc phước”.
Nhơn vì trẻ ấy không phát ra tiếng nên đặt tên cho nó là Vô
Ngôn.
Đồng tử Vô Ngôn lần lần trưởng đại như trẻ lên tám, đi đến đâu đều được mọi người thích nhìn. Hễ chỗ nào có thuyết pháp chuyển pháp luân thì đồng tử Vô Ngôn đều thích đến nghe, mà miệng không hề nói.
Do thần lực của Phật, Vô Ngôn đồng tử cùng cha mẹ và quyến thuộc tôn thân đến Đại Bửu Phường Đình. Đến nơi rồi thấy Phật, đồng tử lòng rất vui mừng lễ kính cúng dường hữu nhiễu ba vòng chắp tay đứng yên. Đồng tử gồm thấy chư Bồ Tát từ mười phương đến lòng thêm mừng rỡ.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Đồng tử con trai của nhà Sư Tử Tướng Quân thân căn đầy đủ mà chẳng nói được. Là do ác nghiệp nhơn duyên gì mà gây nên như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! nay ông chớ nên nói như vậy, chớ nên khing đồng tử nầy. Tại sao, vì đồng tử nầy là một vị đại Bồ Tát đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật vun trồng thiện căn bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ Đề. Lúc đồng tử nầy sanh ra, có nhiều chư Thiên đến bảo rằng: Lành thay đồng tử! Nên niệm chánh pháp nên tư duy chẳng pháp, chớ có tuyên nói sự việc thế gian, nên thường tuyên nghĩa xuất thế, thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, ít nói, chớ có giác quán nơi thế sự. Nên y nơi nghĩa chớ y văn tự.
Nầy Xá Lợi Phất! Đồng tử nầy tuân lời chư Thiên nên không
nói mà yên lặng tư duy được Tứ thiền.
Nầy Xá Lợi Phất! Vô Ngôn Bồ Tát thị hiện thân như vậy thì có thể điều phục vô lượng chúng sanh nên yên lặng không nói.
Nầy Xá Lợi Phất! Nay Phật nói kinh Đại Tập thậm thâm này, Vô Ngôn Bồ Tát có thể ở trong kinh điển nầy lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh”.
Lúc ấy Vô Ngôn Bồ Tát dùng sức nguyện của mình thần thông đạo lực của mình làm cho hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà,
A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều riêng thấy trong bàn tay hữu của mình có hoa sen lớn như vòng xe đầy đủ sắc hương tươi đẹp đệ nhứt được người thích thấy, trên mỗi hoa đài đều có một Bồ Tát ngồi kiết già đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân hình.
Hiện đại thần thông như vậy rồi, Vô Ngôn Bồ Tát chắp tay cúi đầu xướng rằng: Nam Mô Phật Đà, nam mô Phật Đà. Các Bồ Tát ngồi trên đài hoa sen cũng đồng xướng nam mô Phật Đà, nam mô Phật Đà.
Tiếng xướng ấy vừa dứt thì cả đại địa trong mười hằng hà sắc thế gian chấn động sáu cách. Chư Thiên trong hư không dùng các thứ hoa hương kỹ nhạc ccúng dường đức Phật.
Vô Ngôn Bồ Tát do Phật thần lực và nguyện lực của mình cùng chư Bồ Tát đồng vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa lại hướng ngay về phía đức Phật mà nói kệ rằng:
Như Lai không sắc thị hiện sắc
Cũng lại nơi sắc không nhiễm trước
Nếu có chúng sanh nhập Phật pháp
Thế nào sẽ biết sắc chơn thiệt
Trong khối phi sắc có Như Lai
Cũng chẳng rời sắc có Như Lai
Như Lai đã rời các sắc tướng
Vì thương chúng sanh mà hiện sắc
Như Lai vì thương các chúng sanh
Dùng các tướng hảo trang nghiêm sắc
Thiệt không sắc tướng vì chúng nói
Vì vậy Như Lai khó nghĩ bàn
Chánh pháp Như Lai không văn tự
Rời văn tự rồi không có tiếng
Không có văn tự không nói được
thậm thâm tịch tĩnh không giác quán
Như Phật ngày trước ở đạo thọ
Giác ngộ các pháp cũng như vậy
Pháp ấy không chữ không âm thanh
Cũng không tạo tác không nói được
Các pháp như vậy không tướng mạo
Cũng vì xa lìa tất cả tướng
Tất cả các pháp nếu vô tướng
Như Lai thế nào mà diễn nói
Như Lai đầy đủ đại từ bi
Thế nên thương xót làm lợi ích
Pháp chẳng nói được mà diễn nói
Cũng biết chơn thiệt chẳng nói được
Như Lai biết rõ chẳng nói được
Cũng biết âm thanh tánh không tịch
Chơn thiệt biết rõ tất cả nghĩa
Vì vậy gọi Phật đấng Chánh Giác
Những pháp được nói gọi thế đế
Như Lai chơn thiệt biết rõ đó
Thế đế chẳng ngoài tánh có không
Chẳng tạo tác được không thời kỳ
Chơn thiệt không có sắc tướng mạo
Vì chúng nên hiện các thứ sắc
Biết pháp không pháp đấng Vô thượng
Vì chúng sanh nên diễn nói pháp
Lúc tôi sơ sanh được trời bảo
Vì vậy nín lặng không nói tăng
Chí tâm niệm pháp tư duy pháp
Vì vậy chẳng thấy sắc và tiếng
Nếu được nhập vào thâm pháp giới
Bấy giờ không có các sắc thanh
Nếu xa lìa được các tâm nghiệp
Thì được xa lìa các khẩu nghiệp
Không có ngôn thuyết tức là lời
Dầu có ngôn thuyết cũng không lời
Lời chẳng phải làm chẳng phải nói
Vì bổn tánh ngôn ngữ tịch tĩnh
Nay tôi chí tâm niệm Bồ đề
Cũng lại chí tâm tu Bồ đề
Nay tôi nói lời vô thượng nầy
Quyết định sẽ được chơn thiệt đạo
Tâm tôi chẳng được đạo Bồ đề
Khẩu và khẩu hành cũng chẳng được
Vô thượng Bồ Đề tức rỗng không
Tánh ấy bổn lai thường tịch tĩnh
Như tánh Bồ đề thanh cũng vậy
Chẳng thấy chẳng lấy pháp tánh vậy
Như vậy thanh âm chẳng thấy được
Bồ đề được cầu cũng như vậy
Vì Bồ đề nên có tu hành
Hành ấy cũng không có chỗ đến
Như vậy hành ấy không chỗ đến
Nên chỗ Bồ đề chẳng phải chỗ
Sáu Ba la mật như Bồ đề
Tất cả thiện pháp cũng như vậy
Tất cả ngữ ngôn không ngữ ngôn
Trong không ngữ ngôn hay thuyết ngữ
Nếu có bố thí diệu âm thanh
Chủ bố thí ấy và tài vật
Bình đẳng bố thí tức Bồ đề
Tất cả thảy đều bất khả thuyết
Nếu bố thí ấy miệng nói được
Thể Bồ đề lẽ ra nói được
Tánh thể Bồ đề như hư không
Tất cả âm thanh cũng như vậy
Nếu nơi tâm hay chơn thiệt biết
Biết rồi hay tuyên thuyết âm thanh
Tùy biết thanh ấy diệt chỗ nào
Tức là Bồ đề chơn thiết tướng
Nếu hay xa nghiệp than khẩu ý
Tất cả phiền não cũng lìa xa
Tức là tất cả Ba la mật
Là thiệt pháp tánh được Phật nói
Bố thí chẳng ở trong Bồ đề
Bồ đề chẳng ở trong bố thí
Hai pháp như vậy tức âm thanh
Cũng không chỗ trụ không chỗ đến
Nếu hay biết được như vậy thảy
Tức là chơn thiệt đại Bồ đề
Nếu lúc bố thí chẳng kiêu mạn
Tức là thí chủ đại vô thượng
Hộ trì cấm giới tức là thanh
Không có hình sắc không chỗ đến
Các pháp chẳng sanh cũng chẳng diệt
Tức là tướng trì giới vô thượng
Cấm giới như vậy không năng tác
Cũng lại không nghiệp thân khẩu ý
Chẳng sanh chẳng diệt chẳng tạo tác
Thế nào gọi được là cấm giới
Vì lưu bố phát ra âm thanh
Chúng sanh đặt tên gọi cấm giới
Biết các cấm giới thanh cũng vậy
Hai pháp như vậy đều vô lậu
Vì được miện nói là cấm giới
Nên nói các loại thứ trang nghiêm
Âm thanh cũng không các trang nghiêm
Chơn thiệt biết là vô sở hữu
Thân nghiệp khẩu nghiệp và tâm nghiệp
Hay hồi giới nầy hướng Bồ đề
Cấm giới âm thanh và Bồ đề
Hai pháp như vậy như hư không
Nếu hay chơn thiệt biết như vậy
Người nầy thì hành chỗ giới hành
Thì hay đến được giới bỉ ngạn
Chỗ ấy thậm thâm khó thấy được
Nói nhẫn âm thanh tức là không
Tánh không không xứ không tạo tác
Nhẫn nhục với không là hai pháp
Không có sai biệt như hư không
Tiếng nhẫn nhục chẳng phải sắc tướng
Chẳng nhìn thấy được không xứ sở
Nếu hay tướng tu tập tâm bình đẳng
Tức là tướng nhẫn chơn thiệt vậy
Nhẫn nhục dầu là niệm niệm diệt
Mà cùng sắc than thường đi chung
Tất cả văn tự đều vô lậu
Chúng sanh đạt tên gọi nhẫn nhục
Nếu hay điều phục than khẩu ý
Đâu là nhẫn nhục tối vô thượng
Nêu hay nhẫn người nhẫn nhục
Đây cũng là nhẫn nhục vô thượng
Nếu có chúng sanh nghiền than mình
Lóng đốt nát nhỏ như hột mè
Xem thân dường như gổ cỏ khô
Đây thì gọi là thân nhẫn nhục
Lúc nghe ác khẩu tiếng mắng chửi
Tâm niệm chẳng động trụ đúng pháp
Quán sát âm thanh như hư không
Đây là vô thượng khẩu nhẫn nhục
Nếu hay thông đạt nhơn phiền não
Xa lìa tất cả các phiền não
Đây thì gọi là tâm nhẫn nhục
Chẳng bị phiền não làm nhiễm ô
Như nhẫn nhục là tánh Bồ đề
Thân khẩu ý nghiệp cũng như vậy
Nếy hay hồu nhẫn hướng Bồ đề
Đây thì gọi là được Bồ đề
Nếu có chúng sanh siêng tinh tiến
Hoặc thượng trung hạ hoặc thô tế
Trong vô lượng kiếp tu tập đó
Vô sở đắc cũng vô cứu cánh
Nếu người tinh tiến vô sở đắc
Nên gọi Bồ đề vô sở đắc
Nếu hay chẳng được tất cả pháp
Tức là vô thượng cần tinh tiến
Nếu hay tinh tiến được như vậy
Chẳng tăng chẳng giảm như hư không
Như vậy tức là đại Bồ Tát
Siêng hành tinh tiến vô sở úy
Tất cả các thiền không có họp
Không có tạo tác không chỗ đến
Nếu hay tư duy tất cả pháp
Tức là chơn thiền Ba la mật
Xa lìa tất cả các ác sắc
Ác thân ác khẩu cũng xa lìa
Hay tiêu tất cả các phiền não
Tức là chơn thiền Ba la mật
Nếu hay quán tâm chơn thiệt tánh
Trong tất cả pháp cũng chẳng thấy
Nếu hay vô tâm xa rời tâm
Tức là chơn thiền Ba la mật
Nếu hay quán tâm và Bồ đề
Tức là vô thượng chơn thiệt thấy
Nếu hay như vậy chơn thiệt thấy
Chứng được Bồ đề chẳng khó khăn
Nếu hay thấy biết không văn tự
Tất cả các pháp không sanh diệt
Nếu người xem thấy được như vậy
Đây thì gọi là đại trí huệ
Dầu là miệng nói đại trí huệ
Trí huệ cũng chẳng ở miệng tiếng
Nếu biết miệng tiếng thiệt không tiếng
Tức là chơn tánh của trí huệ
Nếu pháp không trụ đây trụ kia
Trung gian cũng lại không chỗ trụ
Tất cả pháp tánh không chỗ trụ
Đây là vô thượng đại trí huệ
Không có văn tự không có hành
Không có tướng mạo không có tánh
Không có hai tướng thủ xả thảy
Đây gọi vô thượng đại trí huệ
Nếu quán tất cả Ba la mật
Tánh nó bình đẳng như hư không
Đây thì gọi là không bình đẳng
Hay quán tất cả pháp bình đẳng
Nếu hay bình đẳng tất cả pháp
Cũng hay quán chúng sanh bình đẳng
Đều hay bình đẳng quán chư Phật
Trí huệ được đó không bình đẳng
Nếu chư Bồ Tát người có trí
Hay quán pháp vô đẳng như vậy
Thì được Vô thượng Bồ Đề quả
Cũng như Tiên Phật đã chứng được.
Lúc Vô Ngôn Bồ Tát nói kệ ấy, có một vạn hai ngàn nhẫn nhục do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Đề, sáu vạn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn.
Chư Bồ Tát trong hoa đài
đều đứng dậy đầu mặt lễ Phật, rồi dùng diệu liên hoa cung kính cúng dường lên Vô Ngôn Bồ Tát miệng tuyên lời rằng: “Tôi là người biết ơn, nay đây tôi báo ơn”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà Bồ Tát nầy nói: Tôi là người biết ơn nay tôi báo ơn?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát nầy đều nhơn nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà phát Bồ đề tâm, vì vậy nên đồng lên tiếng nói: Tôi là người biết ơn, nay tôi báo ơn.
Nay chư Bồ Tát ấy lại nhơn nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà được nghe thọ kinh điển Đại Tập thậm thâm nầy gồm đến đây thân cận nhìn thấy cúng dường nơi ta”.
Vô Ngôn Bồ Tát bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chỗ nghi nay muốn thưa hỏi. Ngưỡng mong đức Như Lai thương xót hứa cho”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Ngôn! Tùy ý ông hỏi, Phật sẽ vì ông mà nói”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Ngôn Bồ Tát: “Thưa Đại Sĩ! Nếu không có ngôn ngữ sao lại hỏi được?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Tất cả các pháp thảy đều vô ngôn tự vô thuyết, tại sao, vì tất cả chúng sanh tánh vô
ngôn vậy. Do nơi giác quán mà có
âm thanh phát ra, nếu không có giác quán thì làm sao có âm thanh làm sao nói được làm sao có văn tự.
Thưa Đại Đức! Luận về trong giác quán không
văn tự không ngôn thuyết, lìa rời giác quán cũng không có âm thanh văn tự, thể của giác quán tức chẳng phải giác quán. Tôi
làm văn tự cũng chẳng giác quán.
Tôi nhơn nơi giác quán mà có công đức lớn. Nếu hay quán thâm
pháp như vậy thì gọi là thập nhị nhơn duyên. Nếu pháp từ duyên sanh tức là rỗng không tịch tĩnh thì không có tướng nhứt định. Nếu có chơn thiệt biết như vậy tức là chơn thiệt biết rõ pháp tánh.
Thưa Đại Đức! Các pháp đều từ nhơn duyên hòa hiệp. Mà trong hòa hiệp thiệt không có tác giả không có sanh không có xuất. Vì vậy mà các pháp không có chủ không có âm không có thanh không có tâm không có giác quán chẳng phải không giác quán.
Tại sao, vì điên đảo nhơn duyên mà có sanh
có diệt. Vì vậy nên nếu có hỏi có nghe có giải nói đều chẳng hiệp chẳng tan là nhứt tướng là vô tướng.
Thưa Đại Đức! Luận về vấn nạn gạn hỏi đó tức là đại biết. Tôi có đại biết nên tôi hỏi Phật. Hỏi như vậy tức là biết vấn chẳng phải là khẩu vấn. Luận về khẩu vấn là Thanh văn vấn. Thanh Văn thủ trước nơi thanh nên gọi là Thanh Văn. Bồ Tát thì biết rộng khắp nên không có khẩu vấn”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp tánh vô định thì tất cả chúng sanh tánh vô
định, nếu là vô định thì Bồ Tát vì ai mà tu tâm bi?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Nếu các chúng sanh có
tánh nhứt định thì tất cả Bồ Tát trọn chẳng tu tâm bi. Tất cả chúng sanh thiệt chẳng phải chúng sanh, vì điên đảo mà quan niệm chúng sanh, vì vậy mà Bồ Tát tu tập tâm bi, vì phá hoại điên đảo nên tuyên nói không có ngã.
Thưa Đại Đức! Chư đại Bồ Tát chẳng vì phá hoại các cõi mà nói chánh pháp, chẳng vì phá hoại ngã thọ mạng sĩ phu mà tu từ bi tuyên nói chánh pháp, vì biết chơn thiệt thâm pháp giới mả tuyên nói chánh
pháp. Chơn pháp giới đó là không tam
muội vô tướng vô nguyện.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Lành thay, lành thay, thưa Đại Sĩ! Tôi cũng chơn thiệt biết rõ như vậy, sở dĩ tôi hỏi là muốn thử trí của Đại Sĩ. Vì muốn Phật pháp tăng trưởng nên hỏi, vì muốn lợi ích chúng sanh nên hỏI”.
Vô Ngôn Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như trong khế kinh nói có hai nhơn duyên có thể sanh chánh kiến, đó là nghe tiếng và khéo tư duy. Ngưỡng mong thương xót vì chư Bồ Tát mà diễn nói đó. Thế nào là nghe tiếng và khéo suy nghĩ có thể sanh chánh kiến?
Đức Phật nói: “Nầy Vô Ngôn! Chí tâm lắng nghe Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy Vô Ngôn! Vì tâm Bồ đề ,ma nghe pháp tức là nghe tiếng, chí tâm nghĩ nhớ tâm Bồ đề đó là khéo tư duy, quán tâm Bồ đề đó là chánh kiến.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì Bồ đề đạo mà nghe pháp đó là nghe tiếng, chẳng xa lìa đạo là khéo tư duy, như pháp mà trụ là chánh kiến. Vì điều phục tâm mà nghe pháp là nghe tiếng, xa lìa ác tâm là khéo tư duy, được thiện tâm là chánh kiến. Vì trang nghiêm thiện pháp mà nghe pháp đó là nghe tiếng, tu tập trang nghiêm là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề đó là chánh kiến. Ví nghe pháp bố thí đó là nghe tiếng, có thể xả bỏ tất cả là khéo tư duy, chẳng cầu quả báo thì gọi là chánh kiến. Vì nghe các cấm giới đó là nghe tiếng, chí tâm hộ giới đó là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe pháp nhẫn gọi là nghe tiếng, bị đánh mắng chẳng báo trả gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe tinh tiến gọi là nghe tiếng, phá hoại giải đãi gọi là khéo tư duy, nguyện hướng Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe tam muội gọi là nghe tiếng, hay tịnh thân tâm là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe các trí
huệ là nghe tiếng, nghe rồi chánh quán gọi là khéo tư duy, nguyện đến
Bồ đề gọi là chánh kiến. Ví nghe Tứ nhiếp pháp gọi là nghe tiếng, nhiếp thủ chúng sanh gọi là khéo tư duy, biết rõ pháp nhiếp thủ ấy không có thủ không có tác rỗng không không sở hữu đây gọi là chánh kiến.
Vì nghe pháp Ngũ thông gọi là nghe tiếng, được thân tâm nhẹ gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Nghe Tứ vô ngại gọi là nghe tiếng, tu tập Tứ vô ngại là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe pháp Tứ y gọi là nghe tiếng, siêng tu Tứ y gọi là nghe tiếng, siêng tu Tứ y gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Nghe Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gọi là nghe tiếng, diễn nói bốn niệm là Tứ niệm xứ, nói về bỏ lìa là Tứ chánh cần, nói về các môn định là Tứ như ý túc, nói vô sở úy là Ngũ căn, nói không hư hoại được là Ngũ lực, nói lìa phiền não là Thất giác phần, nói chơn thiệt biết pháp là Bát chánh
đạo, đây gọi là khéo tư duy, chẳng thủ trước đoạn thường đem đạo như vậy nguyện đến Bồ đề đây gọi là chánh kiến. Nghe pháp Tứ đế gọi là nghe tiếng, biết Khổ lìa
Tập chứng Diệt tu Đạo gọi là khéo tư duy, thấy những pháp như vậy bất sanh bất diệt gọi là chánhững kiến. Vì nghe Ba môn giải thoát gọi là nghe tiếng, tin không tam muội chẳng sợ vô tướng chẳng nghi vô nguyện là khéo tư duy, đem pháp như vậy nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến.
Tu không tam muội điều tâm thấy rõ, tu tập vô tướng để trừ giác quán, tu tập Vô nguyện vì cầu các cõi đây gọi là chánh kiến.
Nghe pháp phát tâm gọi là nghe tiếng, tu tập đạo Bồ đề là khéo tư duy, tâm Bồ đề bất thối là chánh kiến.
Được thiện tri thức gọi là nghe tiếng, cúng dường thân cận gọi là khéo tư duy, thọ lãnh lời dạy bảo gọi là chánh kiến.
Nghe pháp giới gọi là nghe tiếng, quán pháp giới là khéo tư duy, như pháp mà trụ là chánh kiến.
Thấy Phật Thế Tôn gọi là nghe tiếng, nhớ chư Bồ Tát là khéo tư duy, được đạo cứu cánh gọi là chánh kiến.
Mới đầu nghe tám vạn bốn ngàn pháp môn gọi là nghe tiếng, quán các chúng sanh hánh xứ như vậy gọi là khéo tư duy, điều phục tám vạn bốn ngàn các căn gọi là chánh kiến.
Nầy Vô Ngôn! Tùy theo nhơn duyên gì mà có thể sanh được thiện pháp thì gọi là nghe tiếng. Nghe rồi chẳng rời các thiện nhơn duyên gọi là khéo tư duy. Đem pháp như vậy nguyện đến Bồ đề thì gọi là chánh kiến.
Nầy Vô Ngôn! Hai pháp như vậy không có sai biệt, đó là khéo tư duy và chánh kiến. Tại sao, vì tất cả pháp bình đẳng vô nhị là khéo tư duy, hay quán bình
đẳng là chánh kiến vậy. Không tăng giảm tức là chánh kiến. Không thủ xả tức là chánh kiến. Không có tác và tác giả tức là chánh kiến. Không có giác quán tức là chánh kiến. Không có niệm và niệm xứ tức là chánh kiến, không có tạo tác không có tư duy tức là chánh kiến. Không có nhứt không có nhị tức là chánh kiến. Một môn một vị một thừa một hạnh, tánh ấy là một không có các phiền não kiêu mạn v.v…, các kiết sử, không nghe không
nói, không cấu không tịnh, tánh pháp giới chẳng phân biệt được, như như bất động, tam thế bình đẳng, không có ngã
ngã sở, không có nhơn thọ mạng chúng sanh,
không có văn tự không có âm thanh, không thể tuyên nói, chẳng biết chẳng thấy, trong tất cả pháp được tâm tri túc, xa
lìa các tướng dạng, dứt tất cả hỉ lạc giác quán y chỉ, nhẫn đến tán than Phật mà chẳng có quan niệm là Phật. lúc nhập định quán pháp giới thậm thâm như vậy thì gọi là khéo tư duy. Từ định dậy vì các chúng sanh
mà diễn nói pháp giới thậm thâm như vậy thì gọi là chánh kiến”.
Lúc đức Phật nói pháp ấy, có mười ngàn Bồ Tát được chánh kiến như vậy.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Theo ai nghe
pháp mà được chánh kiến ?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói : “Thưa Đại Đức! Nếu có người chẳng được tâm Bồ đề quá khứ vị lai hiện tại, tôi từ nơi người ấy nghe pháp mà được chánh kiến.
Người quán tam thế bình đẳng, tất cả pháp bình đẳng, nơi tất cả pháp chẳng sanh giác quán, tâm chẳng trụ hữu vi vô vi, xa lìa tất cả tướng chúng sanh mà vì
chúng sanh tu tất cả khổ hạnh, cũng xa lìa hai thứ tướng, một là tướng chúng sanh và hai là tâm tướng. Xa lìa hai tiết biết thiệt pháp tánh, thiệt pháp tánh là
không có không chẳng có, thông đạt tất cả thâm pháp của chư Phật mà chẳng sanh lòng kiêu mạn tự nói là ta biết. Thưa Đại Đức! Tôi từ người ấy nghe thọ chẳng pháp. Người ấy cũng chẳng tuyên nói một chữ mà làm cho tất cả đều thích nghe. Biết pháp chơn thiệt chẳng thể tuyên nói được mà vì chúng sanh tuyên nói đó, ra khỏi thế gian chẳng bị thế gian nhiễm ô, cứu cánh tu tập không có ai biết được là tu cùng chẳng tu. Tôi từ nơi người ấy nghe thọ chánh pháp trụ nơi pháp tánh, nơi chúng sanh tánh chẳng sanh phân biệt. Quán chúng sanh
tánh pháp tánh không tánh thảy đều bình đẳng. Tôi ở bên người ấy nghe pháp. Người ấy chẳng ngồi dưới cây Bồ đề, chẳng dậy, chẳng đi, chẳng nghỉ, chẳng nằm, chẳng ngủ, chẳng thức mà được Bồ đề, được Bồ đề rồi trọn chẳng hiện tướng nói là được Bồ đề, tất cả chúng sanh cũng chẳng biết người ấy đã được Bồ đề, không được mà được nên không có tướng được.
Thưa Đại Đức! Luận về chánh pháp không
có quang minh, không có quang minh tức là không có xứ sở, không có xứ sở tức là không có thân, không có thân tức là vô sở úy, vô úy tức là bất xuất, bất xuất tức là bất sanh, bất sanh tức là bất diệt, bất diệt tức là bất trước, bất trước tức là bất động, bất động tức là bất biến, bất biến tức là không phóng chạy không tối tăm, không phóng
không tối tức là không giác quán, không giác quán tức là không thời gian, không thời gian tức là không có các
môn vật, không vật thì không có tham, không tham tức là tánh thanh tịnh, tánh tịnh ấy chẳng hiệp với phiền não, chẳng hiệp với phiền não thì không điên đảo, chẳng điên đảo thì là bình đẳng, bình đẳng tức là chơn thiệt, chơn thiệt là bất sanh bất diệt, bất sanh bất diệt ấy gọi là từ nhơn duyên, từ nhơn duyên ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai tức là không có cảnh giới, không cảnh giới tức là vô cú, vô cú tức là chẳng cuồng, chẳng cuồng ấy tức là không có nghe, không có nghe ấy tức là không có tạo tác, không có tác
ấy tức là không có trụ, không trụ ấy tức là không có chữ, không có chữ tức là không có tướng, không có tướng tức là quá tâm ý thức, quá tâm ý thức tức là tịch tĩnh, tịch tĩnh ấy tức là không nhiệt não, không nhiệt tức là không có sân, không sân ấy tức là cứu cánh, cứu cánh tức là không có, không có tức là Niết bàn đây gọi là pháp.
Thưa Đại Đức! Tức là chánh pháp tức là thuyết pháp tức là nghe pháp tức là chánh kiến.
Thưa Đại Đức! Luận về người chánh kiến chẳng thấy có thân, hễ thân hành thì bịnh hành, chẳng thấy nơi thấy chẳng sanh tham trước chẳng giác chẳng quán, đây gọi là Phật pháp thánh kiến chánh kiến.
Còn nữa, thưa Đại Đức! Quán vô minh và
ái bình đẳng với giải thoát không có sai biệt, đây gọi là chánh kiến. Chánh kiến như vậy chẳng trước chẳng thủ, đây gọi là thánh kiến.
Còn nữa, thưa Đại Đức! Quán tham sân và
si với không vô tướng và cô nguyện bình đẳng không có hai chẳng thấy nơi tướng thấy tướng không có tướng, đây gọi là thánh kiến. Chẳng thấy một hai bình đẳng tất cả pháp, gọi là thánh chánh kiến.
Còn nữa, thưa Đại Đức! Nếu có thể quán ngã và chúng
sanh bình đẳng, vì chúng sanh bình đẳng nên Như Lai bình đẳng, vì Như Lai bình đẳng nên Phật pháp bình đẳng, vì Phật pháp bình đẳng nên thánh và chúng sanh bình đẳng, vì thánh và chúng sanh bình đẳng nên đại từ bình đẳng, vì đại từ bình đẳng nên hư không bình đẳng, dùng bất trụ mà trụ bình đẳng như vậy gọi là thánh chánh kiến.
Thưa Đại Đức! Như tất cả pháp âm thanh cũng như vậy. Như âm thanh tức là thánh kiến tức là chánh kiến.
Thưa Đại Đức! Thánh chánh kiến cũng không có
sanh không có xuất. Nếu không có sanh xuất thì theo ai điều phục nghe pháp!
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Như tôi hiểu nghĩ của Đại Sĩ nói thì tất cả các pháp không có
ngữ ngôn”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Đúng như vậy đúng như vậy, thưa Đại Đức! Tất cả các pháp thiệt không có ngôn ngữ”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Đại Đức! Nếu nói Như Lai thành tựu công đức. Trong lời nói ấy mắc những tội gì?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói: “Thưa Đại Đức! Nếu có nói như vậy thì phải biết người nói ấy có tội lỗi lớn. Tại sao, vì Như Lai công đức chẳng quyết định vậy, tại sao, vì không phước không tội gọi là Như Lai. Nếu thấy Như Lai có công đức đây gọi là dục, luận về người có dục tức là đại dục. Có dục và đại dục tức là lỗi lầm vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Thưa Đại Đức! Thế nào được gọi là không tội lỗi?”.
Vô Ngôn Bồ Tát nói : “Thưa Đại Đức! Như đệ ngũ đại, như đệ thất căn, như đệ thập cửu giới vô xuất vô nhập vô sanh vô diệt, không có tạo tác, không có tâm ý thức mới gọi là không lỗi. Nếu có tri kiến xa lìa chứng tu đây gọi là tội lỗi. Nếu có các giới đây gọi là tội lỗi, nếu không có các giới đây gọi là không lỗi”.
Đức Phật nói: “Lành thay, lành thay, nầy Vô Ngôn! Đúng như lời ông nói. Lời ông nói đó tức là thiện thuyết”.
Lúc nói pháp nầy, có một vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn.
Vô Ngôn Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Phật đã nói đại Bồ Tát có bốn thứ lực. Đó là tín lực, tiến lực, niệm lực và huệ lực. Ngưỡng mong đức Như Lai rộng phân biệt nói thế nào gọi là bốn lực của Bồ Tát?”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Ngôn! Chí tâm lắng nghe nay Phật sẽ nói.
Nếu có Bồ Tát ở nơi chánh pháp của Phật thâm tín thuận hiểu chẳng sanh lòng nghi
đây gọi là tín lực. Nếu siêng năng tinh tiến cầu Phật pháp chẳng nghĩ chẳng thôi chẳng sanh lòng nghi hối, đây gọi là tiến lực. Nếu có Bồ Tát cầu thiện pháp được rồi chẳng mất niệm Bồ đề tâm, thiện căn được làm nguyện đến Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Nếu có Bồ Tát nội tâm tư duy chẳng theo lời người rõ biết pháp tánh, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu cótín tâm thân cận thánh nhơn, đây gọi là tín lực. Nếu hay cúng dường thánh nhơn như vậy, đây gọi là tiến lực. Chí tâm nghe thọ lời dạy của thánh nhơn, đây gọi là niệm lực.
Nghe thánh pháp rồi như pháp mà trụ, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Tin nghiệp quả đây gọi là tín lực. Đã có lòng tin rồi chẳng làm các việc ác, đây gọi là tiến lực. Thiện nghiệp quá khứ hiện nay vẫn tăng trưởng, đây gọi là niệm lực. Nếu biết các pháp có nhơn có quả, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu tin tâm pháp chẳng thể nói được, đây gọi là tín lực. Nếu nhơn lòng tin nầy mà điều phục tâm, đây gọi là tiến lực. Nếu hay chí tâm, đây gọi là niệm lực. Quán pháp như huyễn, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu thấy pháp không, đây gọi là tín lực. Nếu đoạn dứt tà kiến, đây gọi là tiến lực. Nếu thấy nội ngoại thảy đều không tịch chẳng sanh bố úy, đây gọi là niệm lực. Nếu hay quán thấy đệ nhứt nghĩa không, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu hay quán thấy vô tướng vô nguyện, đây gọi là tín lực. Vì người mà diễn nói vô tướng vô nguyện, đây gọi là tiến lực. Chí tâm quán sát
vô tướng vô nguyện, đây gọi là niệm lực.
Biết rõ pháp ấy chẳng tuyên nói được, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Hay bố thí tất cả chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực. Bố thí rồi chẳng hối tiếc cũng chẳng thôi nghỉ thường làm chẳng tuyệt, đây gọi là tiến lực. Lúc thí chí tâm
niệm Bồ đề phát nguyện hồi hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Chẳng quán tài vật người thí người thọ và quả báo, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có thọ trì thanh tịnh cấm giới chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực, chẳng sanh phiền não hủy hoại cấm giới, đây gọi là tiến lực. Tịnh giới như vậy chí tâm hộ trì nguyện hồi hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Quán thân khẩu ý như thủy nguyệt như hương như ảo như diệm v.v…, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có tu hành pháp nhẫn nhục chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực. Nếu có bị đánh mắng hay nhịn lặngười yên, đây gọi là tiến lực. Vì nhẫn nhục mà tu tâm từ bi bất phóng dật nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Quán thân khẩu ý đều không có gì để nhẫn, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có rõ biết do siêng năng tinh tiến được Vô thượng Bồ đề chẳng phải đời giải đãi, đây gọi là tín lực. Nếu hay điều phục tất cả chúng sanh, hộ trì người nghe thọ, cúng dường chánh pháp, hay vì chúng sanh mà cung cấp phục dịch, hay tịnh Phật độ, đây gọi là tiến lực. Hay làm cho
chúng sanh xa lìa giải đãi siêng tu hành tinh tiến nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Nếu tu tinh tiến chẳng tăng chẳng giảm, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu thích tịch tĩnh lìa nói việc đời, đây gọi là tín lực. Nếu trụ không tịch được tứ thiền và bát giải thoát, đây gọi là tiến lực. Nếu ở nơi các thiền giải thoát không có thối thất, đây gọi là niệm lực. Nếu quán các thiền vô thường khổ vô ngã, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu nghe các Ba la mật các phẩm trợ đạo tin mà không nghi, đây gọi là tín lực. Nghe rồi vì chúng sanh mà diễn nói, đây gọi là tiến lực. Tâm khéo tư duy, đây gọi là niệm lực. Như pháp mà trụ, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì các chúng sanh mà tu tập tâm từ, đây gọi là tín lực. Thương mến chúng sanh làm cho họ lìa khổ, đây gọi là tiến lực. Quan sát pháp rồi lòng được đại hỉ, đây gọi là niệm lực. Với oán thân tâm luôn
bình đẳng tu tập đại xả, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Quán sát thân nầy do vô lượng thứ ác xấu làm thành gạt gẫm kẻ phàm phu dường như hình tướng ảo huyễn, đây gọi là tín lực. Lúc thọ tử khổ chuyên tâm hệ niệm Phật Pháp Tăng Tam bửu chẳng tiếc thân mạng, đây gọi là tiến lực. Cũng chẳng sanh các tâm ác, tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, tâm tham, tâm
sân, tâm si, tâm tật đố, tâm xan lẫn, tâm hủy giới, đây gọi là niệm lực. Nếu quán pháp giới, quán vô ngại trí, cũng biết quá khứ vị lai hiện tại, đây gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Hỉ gọi là tín, bất thối chuyển gọi là tinh tiến, chẳng cuồng loạn gọi là niệm lực, biết rõ rang gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Do tín lực mà có được làm, do tiến lực mà việc được cứu cánh, do niệm lực mà không sót mất, do huệ mà có thể nói đúng chánh pháp.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì quán lưới nghi nên gọi là tín lực, xa lìa nghi gọi là tiến lực, không còn sanh
nghi nữa gọi là niệm lực, nói pháp có thể phá nghi gọi là huệ lực.
Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Tin Phật pháp đây gọi là tín lực. Vì Bồ đề mà tu hành đây gọi là tiến lực. Được nhu thuận nhãn đây gọi là niệm lực. Được Vô sanh nhẫn đây gọi là huệ lực.
Nầy Vô Ngôn! Tín căn tín lực không có sai biệt, tiến căn tiến lực, niệm căn niệm lực, huệ căn huệ lực cũng như vậy không có sai biệt”.
Đức Phật nói pháp nầy, có trăm ngàn Bồ Tát được bực Vô sanh nhẫn. Bốn vạn hai ngàn chúng
sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment