Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 2
PHÁP HỘI
TAM TỤ LUẬT NGHI
THỨ NHẤT
Nầy Đại Ca Diếp! Phật không bao giờ cho những kẻ chấp lấy ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, hữu tình kiến được xuất gia trong chánh pháp của Phật. Phật đã không cho mà vẫn cố xuất gia thời đều là kẻ giặc ăn nhờ tín thí, và cũng không thành được Tỳ Kheo chơn thật.
Nầy Đại Ca Diếp! Thà tuyệt thực, chớ không nên đã được xuất gia trong chánh pháp ăn nhờ tín thí mà chấp lấy ngã, chúng sanh, thọ mạng, hữu tình nhẫn đến chấp lấy Niết Bàn.
Do đây nên chư Bồ Tát phải phát tâm tinh tấn, chẳng nên có kiến chấp ngã, chúng sanh, thọ giả, hữu tình cùng chấp lấy Niết Bàn. Phải thuyết pháp để dứt trừ tất cả kiến chấp.
Nầy Đại Ca Diếp! Kinh điển nầy, nay Phật giao phó cho chư Bồ Tát. Vì ý chí của chư Bồ Tát đồng với Phật, là bạn lữ của Phật, có thể lãnh được sự giao phó của Phật”.
Lúc đó đức Phật nói kệ rằng:
“Sự đau khổ quần sanh bị bức
Không có ai cứu hộ vẹn toàn
Chỉ có nhờ bực Đại Đạo Sư
Chính là đấng không còn hí luận.
Những chúng sanh chìm trôi khổ não
Tu học theo tà đạo kém hèn
Lần lần thêm dục nhiễm tham sân
Do đây phải vào ba ác đạo
Không ai dắt cũng không người cứu
Ở mãi nơi nguy hiểm xa xuôi
Thẳng đến trong mê chấp đạo tà
Trọn không chỗ an vui yên ổn.
Ví như người đi buôn cầm vốn
Muốn lợi nhiều dong ruổi đường xa
Nơi giữa đường gặp giặc xông ra
Cướp tiền hết hóa hàng cũng hết
Mất của cải tay không trở lại
Tiếc của tiền đau xót nơi lòng
Mất hết luôn cả vốn mượn vay
Bị đòi nợ càng thêm sầu khổ.
Những chúng sanh đời sau cũng vậy
Vì pháp nên dốc chí xuất gia
Bao nhiêu pháp đã thọ đã trì
Cùng thiện nghiệp đều tiêu tan sạch.
Chỉ cạo được sạch râu cùng tóc
Mà ngu si vào giữa đạo tà
Chấp lấy ngã, thọ giả, chúng sanh
Cũng chấp lấy hữu tình là thật.
Với Tỳ Kheo đúng theo chánh pháp
Giảng pháp không chẳng chấp ngã nhơn
Họ không tin hủy báng chê bai
Do tà kiến sa vào địa ngục
Lại thêm vì giận hờn ganh ghét
Nên kiếm điều bài bác lẫn nhau
Tự phạm lỗi vì sợ người hay
Nên họ vọng vu người phạm tội
Thân đã ác miệng càng thêm ác
Ý nghiệp nhiều tưởng niệm chẳng lành
Mãi đảo điên theo kiến chấp tà
Hạng người này tất vào ác đạo.
Đã gây tạo rất nhiều nghiệp ác
Tất mau qua đến cửa tam đồ
Biết bao nhiêu đau đớn đốt thiêu
Rất khổ sở không ai cứu được.
Đời vị lai có Tỳ Kheo chúng
Lòng vội vàng nhiều giận nhiều hờn
Bức não người chơn chánh xuất gia
Đã phát tâm Bồ đề Vô thượng.
Đây là hạng đáng kinh đáng sợ
Đã bác bài kinh điển đại thừa
Lại không lòng lãnh thọ kính tin
Giáo pháp của Thích Ca Văn Phật
Họ giận hờn lẫn nhau ganh ghét
Nên lẫn nahu làm khổ làm nàn
Lại rêu rao bày lỗi lẫn nhau
Tiếng xấu xa truyền lan khắp chỗ.
Đem việc xấu vu khống người khác
Lỗi của mình thời thẹn dấu che,
Người nhu hòa yếu thế ít người
Kẻ tà ác chúng đông thế mạnh,
Thấy như thế biết chánh pháp suy
Nên người ác thêm nhiều thế lực.
Những đệ tử đáng thương của Phật
Chính chỉ cho các thiện Tỳ Kheo
Phải dắt nhau tìm chỗ tìm nơi
Lánh kẻ ác ở nơi an ổn
Khỏi tai nạn sanh lòng bi mẫn
Người nhu hòa khó được chung cùng
Phải gẫm suy giáo nghĩa trong kinh
Cố thật hành theo lời Phật dạy.
Nếu người bảo đây là xứ ác
Chớ nên ở phải gấp lìa xa
Nên mau qua đến thánh đạo tràng
Là nơi Phật thành Vô thượng giác.
Hoặc có người hảo tâm chỉ bảo
Chính các Ngài khéo nói lời lành
Kinh hành quanh tháp để cầu chơn
Đúng thật là Thế Tôn giáo pháp
Thiện Tỳ Kheo phải cùng nhau đến
Chốn đạo tràng an ổn tu hành
Chớ chẳng nên thường ở nơi đây
Phải mang lấy ác tà bứt ngặt.
Đến đạo tràng thấy di tích Phật
Nhớ xưa kia đức Phật kinh hành
Chính chỗ này Phật ngự tu hành
Thành đạo chuyển pháp luân Vô thượng
Pháp hữu vi vô thường biến hoại
Giờ đâu còn thấy được cảnh xưa
Thiên, Long, Bát bộ, Nhơn, phi Nhơn
Bồ Tát, Thanh Văn đồng nghe pháp
Thiện Tỳ Kheo đã đồng vân tập
Phải nhiếp tâm đúng lý nghĩ suy
Chính chỗ này đức Phật đạo thành
Bố ma quân dẹp trừ tà ngoại
Sau khi quán Bồ đề giác thọ
Vì năm người A Nhã Trần Như
Chuyển pháp luân tứ đế ba vòng
Nên Phật ngự đến vườn Lộc Uyển
Và kia là Ta La Song Thọ
Nơi cuối cùng Phật nhập Niết Bàn
Kim thân thành Xá lợi Kim cương
Để lợi ích quần sanh mãi mãi.
Kính mến thay! Thế Tôn Đại Thánh
Đau lòng thay! Phật nhập Niết Bàn
Nay chỉ còn nghe được Phật danh
Chẳng gặp Phật thật là đáng tiếc.
Vì trí Phật đã thấy xa biết rộng
Giờ cuối cùng lại độ Thiện Hiền
Đây là lần giáo hóa rốt sau
Duyên đã mãn hiện bày tịch diệt.
Đời còn Phật người tu chơn chánh
Đương tu chết hoặc lúc phát tâm
Hoặc tu rồi thân chết mạng vong
Đều được sanh cõi lành tất cả.
Đời mạt pháp còn đâu chánh pháp
Được cúng dường không luận phạm trì
Của thí kia thọ dụng quá nhiều
Sau khi chết tất vào ác đạo
Này Ca Diếp! Ông nên quan sát
Hàng Tỳ Kheo thiện ác phân hai
Người chơn tu dầu ở đời sau
Vẫn được hưởng quả lành phước huệ.
Chư Bồ Tát những người đại trí
Có lòng từ lợi ích chúng sanh
Phải chuyên cần tu học kinh nầy
Tâm an ổn vui mừng hớn hở.
Được như thế sau đây thành Phật
Ngày gần đây gặp đức Từ Tôn
Nghe pháp lành cung kính cúng dường
Được Di Lặc xoa đầu thọ ký.
Này Ca Diếp! Nay ta thành thật
Thốt ra lời an ủi người lành.
Đời sau này dầu chẳng thấy ta.
Nhưng không
khác hiện tiền gặp Phật.
Ta cũng nhắc đời sau phụ nữ
Nếu phát tâm Vô thượng Bồ đề
Ta sẽ cùng chư Phật mười phương
Hộ niệm họ ban lời an ủi.
Họ sẽ sớm rời thân phụ nữ
Được thân nam gặp đức Từ Tôn
Hầu Di Lặc cung kính cúng dường
Lòng sở nguyện thảy đều như ý.
Ta nhắn nhủ đời sau đệ tử
Phải học đòi người trí xuất gia
Tín tâm sâu chí nguyện vững bền
Thông chánh pháp kiên trì giới luật.
Để sau này dự hội Long Hoa
Được Di Lặc xoa đầu thọ ký.
Hàng đệ tử đã nghe lợi ích
Sanh tín tâm tu hạnh thiện hiền
Tâm vững bền chí nguyện cao xa
Tận vị lai nhiếp quần sanh loại.
Này Ca Diếp! Nơi đây ai được?
Ông lắng nghe ta sẽ nói đây
Người tinh cần có huệ siêng tu
Quả Vô thượng chứng liền không khó.
Siêng tu tập từ bi rộng lớn
Xa hẳn lòng dua bợ vạy vò
Nên thích ưa vắng vẻ rảnh rang
Chính đó là Bồ đề đạo cả.
Chánh pháp đây nếu không tin thọ
Luống nói suông không thể thật hành
Được mọi người lễ kính cúng dường
Đây là kẻ giặc loàn đáng sợ.
Nếu lại có người vì ăn mặc
Cầu mong nhiều lợi lộc cúng dường
Mà thọ trì chánh pháp kinh đây
Truyền lẫn nhau luận bàn giảng thuyết
Đây là kẻ ác tà hoạt mạng
Cũng gọi là luống sống qua ngày
Sau khi rời bỏ mất thân người
Tất phải đọa tam đồ thọ khổ
Hoặc có kẻ vào trong Phật pháp
Giả danh làm Đại Đức Tỳ Kheo
Họ không tin hủy báng khế kinh
Khéo rành rẽ giảng bày giới cấm
Rằng ta đây hoằng tuyên đầy đủ
Ba la đề giới pháp mộc xoa
Hạng này dầu có tướng Tỳ Kheo
Trọn sa đọa mất thân thiện đạo
Nếu có kẻ chê bai thiện đạo
Hủy báng luôn nhứt thiết trí lành
Đây là người báng chánh pháp luân
Tội nầy lại nặng hơn tội trước
Nếu người nào khéo gìn thân ý
Cũng gìn lời không lỗi không lầm
Ác nghiệp xa thêm lớn hạnh lành
Tất sẽ được Niết Bàn quả tốt”.
Đức Phật bảo Đại Ca Diếp: “Sau khi Như Lai diệt độ, các Tỳ Kheo ở nơi Phật trồng căn lành sâu cũng đã nhập Niết Bàn, những chúng sanh đủ thắng ý lạc cũng qua đời cả. Lúc thời kỳ chánh pháp dứt, năm trăm năm sau, sẽ có hàng Tỳ Kheo lòng đầy tham dục mê chấp, thích lời ly gián não hại người khác, nói năng cộc cằn hung ác, thường ở trong ba điều: nghề nghiệp thuốc men, buôn bán và gần phụ nữ. Do ở trong ba điều trên nên thối thất bốn điều: mất giới hạnh, mất thiện đạo, mất quả chứng và mất như thật thấy Phật.
Vì thối thất bốn điều trên nên sanh ra bốn điều hừng thạnh: tật đố hiềm ghét hừng thạnh, giận dữ ác tâm hừng thạnh, tham đắm giòng họ hừng thạnh, và tham đắm uống ăn chứa cất các thực phẩm, ưa thích y phục cất để đầy rương. Vì bốn điều hừng thạnh trên đây nên họ không được pháp Sa Môn, cũng chẳng phát sanh quả chứng của Sa Môn. Họ nghe kinh này sẽ sa vào bốn điều: một là hủy báng chánh pháp, hai là
những điều Phật không cho phép họ lại đem giảng nói, ba là riêng vì hàng phụ nữ mà nói pháp yếu, bốn là hủy báng giới biệt giải thoát của Như Lai. Hàng Tỳ Kheo này nghe
kinh điển đây càng thêm sanh lòng phá hoại chánh pháp, thêm lớn nghiệp ác.
Nầy Đại Ca Diếp! Như lấy mật đắng nhỏ vào mũi chó dữ, con chó đó sẽ thế nào, nó có hung dữ thêm chăng?
- Bạch Thế Tôn! Chó dữ nó càng thêm hung dữ.
-
- Nầy Đại Ca Diếp! Những người ác đã nói trên kia cũng
như chó dữ cùng quỉ Tỳ Xá Xà. Họ thấy có Tỳ Kheo chơn tu giới hạnh thanh tịnh, thọ trì kinh pháp nầy, giảng thuyết kinh pháp nầy, thiểu dục tri túc và ca ngợi thiểu dục tri túc, họ liền ganh ghét hờn giận cho là bị khinh hủy. Do đây nên khi nghe nói kinh pháp nầy, họ liền hủy báng cho là không phải của Phật nói.
-
Nầy Đại Ca Diếp! Phật dùng nhiều từ ngữ đề tán thán người thiểu dục tri túc, là người dễ nuôi, người dễ đầy, người sạch sẽ, người có hạnh đầu đà, người rất đoan nghiêm. Phật cũng tán thán người ở a lan nhã, người phát tâm tinh tấn, người sanh hoạt thanh tịnh.
Các ông chớ nên chứa để nhiều rương nhiều tủ, mà phải tu tập hạnh thiểu dục.
Các ông chớ nên như chụp chã đồng, chỉ luống có tiếng kêu, mà phải tùy thuận tu tập pháp của Như Lai dạy đây, cũng chẳng nên thêm lớn lòng sân hận cùng tham chấp sự vật, phải trụ nơi vô sự vô vật.
Các ông chớ trụ trước nơi chỗ ở, mà phải vô sở trụ.
Các ông chớ tự khoe, chớ nuôi loài bò, lừa v.v...
Các ông chớ sanh lòng biếng nhác trễ lười, mà phải phát tâm tinh tấn xa lìa pháp ác, tu tập pháp lành.
Nầy Đại Ca Diếp! Phật thường khen ngợi sự tịch tịnh ở a lan nhã xa lìa ồn ào. Nay Phật nói rõ hạnh dứt trừ rất thanh tịnh.
Những kẻ không thật hành hạnh dứt trừ rất thanh tịnh, kẻ nhiều tham dục, kẻ tạo tội ác, tất sẽ hủy báng người có hạnh dứt trừ rất thanh tịnh.
Nầy Đại Ca Diếp! Như kẻ ngu kia, giữa tháng tư uống chất tô sanh khát bèn đến người xin nước uống. Người bảo: Anh vừa uống chất tô chớ uống nước, vì sẽ có thể nguy đến tánh mạng. Kẻ ngu giận dữ mắng nhiếc, không nghe lời khuyên của người, nó uống nước rồi chết.
Nầy Đại Ca Diếp! Cũng thế, đời vị lai, các Tỳ Kheo ưa chấp có, thích việc ác. Nếu có người thọ trì chánh pháp bảo họ: Đây là việc nên làm, đây là việc chẳng nên làm. Họ sẽ giận dữ trách mắng, và hủy báng kinh điển nầy.
Hiện tại đây còn có nhiều người cạnh tranh với Như Lai, huống là đời vị lai! Như Hiền Hộ Tỳ Kheo chẳng hạn. Phật chế giới khiến các Tỳ Kheo thọ pháp một lần ngồi ăn, Hiền Hộ giận hờn trọn ba tháng hạ không chịu đến chỗ Phật.
Nầy Đại Ca Diếp! Hiện nay ở trước Phật còn có người khinh hủy phạm hạnh, huống là sau khi Phật diệt độ, những kẻ tham ăn, tham mặc, thuốc men ngủ nghỉ, thêm nhiều giận hờn! Những kẻ này nghe kinh pháp đây còn
chẳng kính trọng đức Như Lai Đại Sư, huống là đối với Tỳ Kheo trì giới!
Nầy Đại Ca Diếp! Những người ấy gọi là bất thiện, cũng gọi là rất ác. Pháp bảo này sẽ ẩn mất.
Trong đời ác trược sau này, thời kỳ mà người lành rất khó có, nếu thiện nam hay thiện nữ nào muốn được sự lợi ích lớn, tin giáo pháp của Phật, nghe kinh pháp rất sâu nầy rồi, nên vì người đúng lý, người có lòng tin mà giảng nói, chớ chẳng nói với người không đúng lý, không tin.
Hiện nay, Phật cũng chỉ giảng nói với những người đúng lý, với những người có lòng tin mà thôi.
Nầy Đại Ca Diếp! Như ngựa ác dở chẳng chịu mặc giáp, nếu bắt nó mặc giáp như ngựa hay, thời tất nó sẽ kinh sợ, huống là nghe tiếng loa, tiếng trống mà có thể chịu được.
Nầy Đại Ca Diếp! Tỳ Kheo phá giới không có lúc nào ưa thích pháp lành. Nhẫn đến họ nghe nói các pháp không ngã chấp không ngã tưởng, họ liền sợ hãi bài bác, huống là nghe đến pháp lành! Nếu thật hành pháp lành thời có thể hàng phục trăm ức quân ma và trọn không có sự đấu tránh.
Các thiện Tỳ Kheo nên mặc giáp tinh tấn, chẳng hư công đức đầu đà, dứt sạch căn bản tham sân si, không tật đố, ly dục, thích nhàn tịnh, thường thức tỉnh, nơi vật dụng không mong cầu, phát tâm Bồ đề Vô thượng, không chấp pháp, không chấp ngã, chúng sanh, thọ giả, hữu tình, không kiến chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, trì giới, phá giới, tánh không v.v... Tóm lại, không nên có tất cả chấp tất cả tưởng. Vì tất cả tưởng đều vô sở đắc.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có tham, Tỳ Kheo phải biết rõ và liền dứt trừ tâm tham ái, chẳng phải cứ trụ một chỗ mà được vô trụ! Chỉ trừ kẻ vọng ngữ.
Do đây nên Như Lai hiệu là đấng thật ngữ.
Như Lai nói bao nhiêu tham ái đều là chẳng phải ngã. Các pháp như vậy là Sa Môn pháp. Các Sa
Môn pháp đều vô sở đắc.
Nếu người nào còn có tưởng chấp lấy pháp, thời là chấp ngã, chúng sanh v.v.. như núi Tu Di, mà thối thất thánh giáo. Nơi người này pháp Sa Môn không có
được, cũng không thể trụ nơi Sa Môn pháp.
Pháp quảng đại tối thắng này chẳng nên giảng nói với những kẻ ngu si kia, dầu chỉ một ít. Vì nếu họ chấp trước thời tất sẽ phải chịu khổ ở địa ngục trọn một kiếp.
Nầy Đại Ca Diếp! Ông xem các Tỳ Kheo: Câu
Ca Lợi, Đề Bà Đạt Đa, Khiên Đồ Đạt La, Ca Lô Để Luân, Mẫu Đạt Đa La, A Thấp Phiền, Bố Na Bà Tô, Tô Khí Đát La, các Tỳ Kheo trên đây là những người thường ở gần bên Phật, nghe Phật thuyết pháp, thấy Phật kinh hành, thấy Phật đoan tọa, thấy Phật hiện thần thông đi đứng trên không gian, thấy Phật hàng phục hàng ngàn ngoại đạo, giữa đại chúng thấy Phật trừ dẹp tà pháp, mà họ còn chẳng có lòng tin mến đối với Phật. Vì họ luôn muốn hủy báng Phật nên càng ngày họ thêm lớn ác nghiệp.
Nếu có người nghe danh hiệu Phật có lòng tin chắc là thật, thời mọi người nên đem hoa hương như núi Tu Di, phan lọng trùm cả Đại Thiên để cúng dường, vì người nầy tin Phật vậy. Huống là người đã tin Phật rồi bỏ dục lạc xuất gia, không kiến chấp, tu các môn tịnh lự!
Nầy Đại Ca Diếp! Người nào tin ưa kinh pháp nầy thời đáng gọi là hi hữu. Người nầy có thể khéo hộ trì giới cấm của Phật chế, có thể rõ biết pháp cam lồ nầy.
Ví như trong đại chúng dùng da thúi cùng những vật hôi nhơ cùng nhau chế làm hình người, hoặc làm các thứ mặt nạ, rồi sơn vẽ trau tria rất mực xinh đẹp. Có người lấy những thứ ấy mang lên mặt, hoặc gói lại xách đi. Như thế há lại vì tướng mạo mà gọi là tốt ư! Biết rõ là vật hôi nhơ thời sẽ nhàm bỏ.
Cũng vậy, với các ác Tỳ Kheo, phải dùng oai đức dung nghi của Như Lai để thẩm xét mới biết họ là cực ác. Do họ chấp ngã nhơn mà sanh lòng tham ái.
Nếu người rõ biết ngã chấp không thật, thời khi nghe kinh nầy tất ưa thích vui mừng.
Nếu kẻ nào chấp trước thời là tà kiến. Đã có tà kiến thời không tin ưa lời dạy chơn chánh nơi kinh này. Vì người chấp ngã thời có giận hờn.
Nếu hàng tứ chúng nghe kinh pháp này
mà giận ghét hủy báng thời không phải là Sa Môn. Dầu họ có danh hiệu Sa Môn, nhưng không phải đệ tử Phật. Ta cũng không phải thầy của họ. Vì đệ tử Phật thời không vọng ngữ. Phật không phải thầy của kẻ vọng ngữ.
Nên biết rằng Phật là đấng thật ngữ, có thể nói đúng thật tất cả pháp không.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu kẻ nào tranh cãi Như Lai thời gọi là ác ma. Như Lai không cho ma chúng xuất gia thọ giới cụ túc.
Ý ông nghĩ thế nào? Như có người nói chim thanh tước đẻ rồng lớn. Lời này có đáng tin và có đồng loại chăng?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng
không phải đồng loại.
- Như có người nói kim xí điểu đẻ loài phi điểu. Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng
không phải đồng loại.
- Như có người nói con đom đóm mang núi Tu Di bay lên không gian. Ông nghĩ thế nào?
- Bạch Thế Tôn! Lời đó không đáng tin, cũng
không phải đồng loại.
- Nầy Đại Ca Diếp! Những kẻ ác trên kia chấp ngã nhẫn đến chấp Niết Bàn kêu Phật bằng thầy lại càng chẳng phải đồng loại.
-
Nầy Đại Ca Diếp! Như có Đế Vương ở nước mình lãnh đạo nhơn dân an lạc vô cực. Cạnh vua có các thị thần tuân hành chánh hóa của vua.
Lúc đó có người không ai quen biết, người này vì danh lợi mà học cách làm quan, không lãnh
lịnh vua, tự ý ở giữa bá quan dối tuyên lịnh vua, bảo mọi người rằng các Ngài phải ở nơi đây, làm như vầy.
Cũng vậy, đức Như Lai Pháp Vương quản trị cả Đại Thiên thế giới, nhiếp hóa tất cả tam thừa chúng sanh, đầy đủ mười trí lực, viên mãn tất cả công đức, thật hành Phật sự vô biên an lạc.
Có một hạng người đại chúng chưa từng quen biết, vì sanh sống mà nói tướng ngã, chúng sanh v.v... nhẫn đến Niết Bàn, chẳng tuân theo thánh giáo vô ngã của Như Lai, vọng nói rằng Phật bảo việc này nên làm, việc này chẳng nên làm.
Trong đại chúng có những người tin thuận Phật pháp, nghe lời nói trên đây nhận là bực phước điền thanh tịnh, bèn đem của cải cung kính dâng cúng mãi
trong thời gian chưa rõ họ là sái quấy!
Kẻ ác này đồng với kẻ dối lịnh vua trong ví dụ kia. Sau khi ăn uống xong, họ ở chỗ đông người thường luận bàn việc vua, việc giặc, việc ăn mặc, việc dâm dật, việc phụ nữ, việc thuốc men, việc rượu trà, việc nhựt thực nguyệt thực, việc nhà vua đi về, việc dòng họ, việc ngày tốt xấu v.v... Ngày đêm họ luôn suy tính luận bàn những việc như vậy, không có chánh niệm chánh huệ, hư mất oai nghi, ngủ mê lăn lộn miệng chảy nhớt dãi. Lúc thức tưởng nghĩ gì, lúc ngủ họ mơ thấy việc ấy. Đến lúc thức dậy, họ tụ nhau luận bàn chiêm bao tốt xấu. Họ đi đứng hành động không khác người thế tục. Họ nói không nhằm lúc, tâm niệm buông lung, thích đến xóm đông, đến nhà giàu sang. Họ không giữ được giới cấm của Phật. Họ riêng nói pháp cho phụ nữ. Lúc nói pháp họ sanh nhiễm tâm, được cúng dường nhiều, tham trước luyến ái, chẳng biết hối hận.
Họ được cúng thí tốt thời ca ngợi, trái lại thời chê trách.
Lúc họ gặp nhau bèn xem đồ được cúng của nhau. Họ hỏi nhau hôm nay thí chủ cúng món chi? Cho ai? Tiền bạc đồ dùng nhiều hay ít?
Đây gọi là hạng chẳng tu hành, cũng gồm cả lỗi hủy báng chánh pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Với hạng người ngu ác trên đây, các ông
phải có lòng xót thương họ. Vì họ sẽ phải bị quả báo rất khổ não”.
-Tôn giả Đại Ca Diếp bạch rằng: “Thế Tôn! Rất lạ thay, những người ấy được nghe kinh pháp nầy, mà họ không có lòng yểm ly!”
- Nầy Đại Ca Diếp! Nếu là kẻ có bốn điều sau đây, thời dầu được nghe kinh pháp nầy, nhưng họ vẫn không yểm ly. Đây là bốn điều: nhiều phóng dật, không tin chắc nghiệp quả, không tin chắc đại địa ngục, không tin chắc mình sẽ chết.
Lại có kẻ vì có bốn điều dưới đây nên không yểm ly: lúc tráng niên khỏe mạnh tự cậy sức mạnh, mê say dục lạc, ham uống rượu, không suy gẫm quan sát để hiểu biết.
Nếu Tỳ Kheo có bốn điều dưới đây thời hủy báng Vô thượng Bồ đề: ác nghiệp thành thục chẳng biết phát lồ chẳng rành nghiệp quả ác, làm uế dục với Tỳ Kheo Ni, cậy có Hòa Thượng A Xà Lê được nhiều người kính mến, theo thầy học tập vì tật đố mà khinh chê thầy là ít học.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu có người được một pháp sau đây thời trọn nên bực Sa Môn, Bà La Môn: đối với tất cả pháp, tâm vô sở trụ.
Nầy Đại Ca Diếp! Ví như có người rơi trên chót núi, bèn cho rằng không có mặt đất cây cối rừng rậm, chỉ tưởng trống không mà dứt hơi thở.
Những kẻ chấp pháp cũng như vậy. Nếu chấp có nhãn, nhĩ v.v... cùng chấp có tướng nhãn, nhĩ v.v... hoặc chấp sắc, thọ v.v... hoặc chấp trì giới, đa văn, tàm quý, tu hành, được Bồ đề v.v... Đây đều là không phải pháp của Sa Môn, Bà La Môn. Nếu có tưởng chấp thời bị làm hại. Những gì làm hại? Chính là tham, sân, si vậy.
Nếu chấp tướng nhãn, nhĩ v.v... thời thấy có sắc, thanh v.v... khả ái hay không khả ái, tất bị nhãn, nhĩ v.v... làm hại. Đã bị hại thời rất bị hại nơi trong vòng địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhơn và thiên.
Do đâu mà bị hại? Do tưởng chấp.
Sao gọi là tưởng chấp? Chính là chấp ngã và ngã sở, chấp nam, nữ, địa, thủy, hỏa, phong, chấp thây chết xanh bầm, tan rã, xương trắng, chấp thắng giải thoát, chấp kia có phần ít giải thoát, đây không phần ít giải thoát, chấp hiện chứng, ta tùy niệm khác với quá khứ, khác với hiện tại, ta là quá khứ, ta là hiện tại, nhẫn đến chấp Niết Bàn, thấy ta được Niết Bàn, với các pháp sanh tưởng chấp.
Nầy Đại Ca Diếp! Tóm lại, kẻ chấp trước thời với chỗ nào cũng sanh niệm tưởng, nhẫn đến trong tánh không, họ vẫn có tất cả tưởng niệm. Đây đều chẳng phải pháp Sa Môn, Bà La Môn, đều chẳng phải hạnh Sa Môn, hạnh Bà La Môn.
Nầy Đại Ca Diếp! Như Lai nói pháp Sa Môn, Bà La Môn như hư không cùng với mặt đất. Vì hư không trọn không nghĩ rằng ta là hư không. Cũng vậy, bực Sa Môn, Bà La Môn trọn không tự nói ta là Sa môn, Bà La
Môn. Các pháp cũng chẳng tự nói là pháp Sa Môn, Bà La Môn. Chẳng tạo tác chẳng trừ bỏ, đây gọi là Sa Môn, là Bà La Môn.
Nầy Đại Ca Diếp! Như có kẻ giữa đêm tối múa tay chơn, động đầu mặt, rồi nói rằng ta đùa cợt thế gian! Ta đùa cợt thế gian!
Ý ông thế nào, họ đùa cợt ai?
- Bạch Thế Tôn! Kẻ đó tự đùa cợt lấy họ, vì giữa đêm tối không có ai để họ đùa cợt cả.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, nếu có Tỳ Kheo đến a lan nhã, hoặc đến dưới tàng cây, nhà vắng, đất trống, quán tưởng rằng nhãn, nhĩ v.v... đều là vô thường, sắc, thinh v.v... cũng đều vô thường. Ta thẳng đến Niết Bàn.
Các Tỳ Kheo ấy tự luống khổ nhọc không phải thật hạnh của Sa Môn. Vì họ có rất nhiều tà chấp.
Họ biết tướng nhãn, nhĩ v.v... rồi vì muốn diệt nhãn, nhĩ v.v... mà tu tập nhọc nhằn. Nếu ở nơi căn, trần, thức, ba chỗ đó mà biết rành thời sanh niệm phân biệt đối với ba chỗ ấy. Nếu đã ở nơi chỗ thấy biết mà sanh niệm phân biệt thời làm thế nào được tâm nhứt tánh cảnh.
Nầy Đại Ca Diếp! Thậm thâm Bồ đề rất khó đến khó vào, khó có đủ tư lương.
Thế nào gọi là tâm nhứt tánh cảnh? Suy tìm cùng khắp nhẫn đến một pháp cũng là bất khả đắc. Nghĩa là nhãn, nhĩ
v.v... đều chẳng thể có thật. Tất cả pháp đều chẳng có thật. Vì bổn tánh như vậy. Tâm tánh vốn bất sanh, tất cả các pháp đều không có thật nên tâm đó bất khả đắc.
Vì nếu quá khứ, hiện, tại, vị lai là vô sở đắc thời là vô sở tác.
Thế nào gọi là vô sở tác? Hoặc cũ hoặc mới đều chẳng thể tạo tác nên gọi là vô sở tác.
Trong đây, quá khứ tâm không giải thoát, hiện tại tâm không giải thoát, vị lai tâm không giải thoát, tùy chỗ có tâm đều vô sở đắc, đây là tâm nhứt tánh cảnh, chính đây gọi là nhập vào số của tâm vậy.
Nầy Đại Ca Diếp! Sẽ có hàng tứ chúng chấp cho rằng nhãn, nhĩ v.v... là diệt hoại. Đối với các uẩn chấp là vật có thật.
Như Lai nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao. Nhưng họ lại bảo chiêm bao là thật có, vì thế gian nói có chiêm bao; nếu không chiêm bao, lẽ ra mọi người không có sự mộng tưởng để biểu thị. Do đây chúng ta trong lúc ngủ mơ sanh mộng tưởng. Thật vậy, vì các uẩn có sở nhơn nên gọi là như chiêm bao. Nếu uẩn đã không, thời chẳng nên nói các uẩn dường như cảnh chiêm bao!
Những kẻ ngu si kia cho chiêm bao
là thật có. Họ nghe kinh pháp này bèn hủy báng. Trong hạng này lại có Tỳ Kheo Ni đối với các nhà thí chủ, vọng xưng rằng ta là bậc A La Hán. Hoặc vì y cứ nơi trí thô cạn, họ nói hiện chứng được. Hoặc có Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe kệ tụng trong kinh luật rồi nói tôi hiện chứng.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hoặc có Tỳ Kheo đã thường ở a lan nhã trải qua hai ba mươi năm tinh tấn tu tập, vì Phật pháp mà họ đến nơi Ưu Bà Tắc mới có lòng tin vừa được một ngày, rồi chỉ dùng lời không mà xướng thuyết lẫn nhau. Họ bảo rằng vì không không nên ta biết khắp tất cả, ta biết khắp tất cả!
Hoặc có Tỳ Kheo nghe kinh pháp
này rồi luận nói với nhau. Có người nghe sanh lòng hãi sợ, lại nói những người tại gia cùng xuất gia chẳng nên gần gũi các vị ấy, phải xa lìa, vì chẳng phải giáo sư.
Hoặc có người giảng nói pháp lý thậm thâm lại bị hàng tại gia xuất gia khinh tiện bỏ rơi.
Hiện nay đây Phật nói phạm hạnh thắng diệu còn ít người biết, huống là đời vị lai đến cả người biết chút ít cũng đã qua đời. Lúc đó, một ngàn, hai ngàn vị Tỳ Kheo thuyết pháp khó có được một người hiểu biết đúng thật tin nhập diệu pháp. Trong hàng đó, hoặc có Tỳ Kheo hoặc đến đỗi không nói được suông câu huống là hiểu rõ.
Nầy Đại Ca Diếp! Lúc đó, hàng tại gia, xuất gia chung nhau khinh hủy giáo pháp nầy.
Nếu có Tỳ Kheo tinh tấn vì thêm lành dứt ác, nên bớt ngủ nghỉ, đầu hôm cuối đêm tinh tấn tu học. Các vị này tất bị kẻ khác ganh ghét chê bai hoặc giết chết. Những kinh pháp như đây sẽ diệt mất. Hàng Tỳ Kheo đúng pháp cũng đều tiêu diệt. Trong lúc đó, người có trí thanh tịnh vô nhiễm hiểu rõ diệu pháp, phải tôn trọng kinh pháp này, tin sâu cung kính, cùng nhau họp ở nơi a lan nhã.”
Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ rằng:
“Pháp lành của Phật dạy
Hiệp với đệ nhất nghĩa
Rằng uẩn không chắc thật.
Nên xem nó như mộng.
Đời sau, các Tỳ Kheo
Lòng ganh đua lăng xăng
Không phân biệt tôn ti
Chỉ luống có danh tự.
Lời Tỳ Kheo nói ra
Tại gia cũng nói vậy
Giáo pháp lúc bây giờ
Đạo tục đồng cùng nói.
Tỳ Kheo bảo kẻ tục
Ông hiểu pháp hi hữu
Chính là Phật Bồ đề
Đã phát quả Sơ địa!
Lòng tự cho thấy pháp
Gần gũi người tại gia
Đây dâng cúng Tỳ Kheo
Đồ cúng dường tối thượng.
Các Tỳ Kheo này nói
Tất cả lời đều thật
Cùng tại gia thân nhau
Rằng ta đã thấy pháp.
Người ở đời vị lai
Vì lợi dưỡng xuất gia
Chẳng tuân theo chánh pháp
Hủy hoại Bồ đề đạo.
Ta đem đạo dạy cho
Gần ta chớ theo ai
Ít lâu ngươi sẽ được.
Như chỗ ta đã được.
Đây là ngôi tịch tịnh
Ta nói rõ cho ngươi
Trong đại chúng đông người
Làm hư giáo pháp Phật.
Ví như bọn giặc cướp
Lòng hung dữ hiểm độc
Đánh phá thành xóm làng
Cũng cướp tụ lạc lớn.
Tỳ Kheo nầy cũng vậy
Vô trí, nhiều ngu si
Huệ ít hay phạm lỗi
Chấp ngã chấp thọ mạng.
Rời xa giáo pháp Phật
An trụ trong kiến chấp
Tự xưng A La Hán
Đầy lòng tăng thượng mạn.
Họ ở giữa đại hội
Đối trước chúng Tỳ Kheo
Khoe mình nhiều trí huệ
Danh tiếng ít người có.
Lúc đó có Tỳ Kheo
Hoặc thật hành đúng pháp
Bị họ ghét chê bai
Bác không phải Phật tử.
Chư Phật đại Bồ đề
Lúc đó bị hủy báng
Chư Thiên lòng buồn lo
Thường hướng nhau than thở.
Chư Thiên tin chánh pháp
Thấy mất chánh pháp luân
Của Thích Ca Văn Phật
Đau lòng lăn trên đất.
Chư Thiên ca ngợi Phật
Cùng tán thán pháp môn
Khen ngợi phước điền Tăng
Con yêu của chư Phật.
Chúng ta chẳng còn nghe
Pháp nhiệm mầu của Phật
Thích Ca đã diệt độ
Không hiểu ôm lòng mê.
Tứ Thiên, Đao Lợi Thiên
Vang lên tiếng tăm lớn
Phổ cáo cùng chư Thiên
Đuốc pháp nay sắp tắt.
Các Ngài được nghe Phật
Nếu chẳng gần Như Lai
Hàng Thiên, Long sau này
Sẽ ôm lòng hối hận.
Trải qua vô số kiếp
Vì mình cũng vì người
Chịu đủ điều khốn khổ
Rồi sau mới thành Phật.
Đây là lời chư Phật
Vì giáo hóa chúng sanh
Giảng nói thiện pháp môn
Nay đây sẽ ẩn mất.
Kẻ giả dối ra đời
Gây nhiều tội đáng sợ
Là ma sứ, ác ma
Tha hồ nói lời ác.
Dua dối nhiều ngu si
Phỉnh gạt người khờ dại
Hoặc giận hoặc chẳng hờn
Chê Thầy, chê chánh pháp.
Nghe tiếng Trời truyền xướng
Các cõi trên đều buồn
Tứ Vương Thiên, loài người
Cũng đều cưu sầu khổ.
Thần Dạ Xoa nhóm họp
A Tra Phiệt Để thành
Kêu lên tiếng hãi hùng
Đôi mắt đồng rơi lệ.
Đền đài châu báu đẹp
Nghiêm lệ của chư Thiên
Thảy đều mất quang huy
Đen tối như đống đất.
Cung điện xưa xinh đẹp
Rất đáng mến đáng ưa
Nay mất cả oai quang
Nhìn xem không còn thích
Chư Thiên cùng nhau đến
Xưa kia chỗ Phật sanh
Lăn trên đất kêu gào
Càng thêm sầu thêm khổ.
Ta từ trời xuống đất
Đi qua các quốc thành
Phật pháp đều trầm luân
Nhìn khắp chẳng còn thấy.
Khắp cả Diêm Phù Đề
Chánh pháp đã suy tàn
Bức não người xuất gia
Nên chư Thiên than khóc.
Cung trời bảy ngày trọn
Nơi nơi mất oai quang
Chư Thiên cũng bảy ngày
Thường buồn rầu than khóc:
Than ôi đấng Đại Hùng!
Xưa tôi từng gặp Ngài
Nào ngờ nay chẳng thấy
Lời Ngài cũng thành không.
Phật thường ở Xá Vệ
Chúng tôi đến kính lễ
Nay thấy chỗ nhớ Người
Càng thêm buồn than khóc.
Và đây là rừng Lộc
Phật xưa ở nơi đây
Chuyển Tứ đế pháp luân
Chúng tôi thân nghe thấy!
Nay thế gian tăm tối
Chẳng kính mến lẫn nhau
Đã gây tạo tội nhơn
Tất sanh ba ác đạo.
Trên trời nhiều cung điện
Nay đều trống vắng người
Chúng sanh Diêm Phù Đề
Không chủ, không ai cứu.
Chỗ kinh hành của Phật
Nay hủy hoại hoang vu
Pháp Vương đã Niết Bàn
Thế gian mất an lạc
Giữa chúng trời Đao Lợi
Thiên Chúa Thích Đề Hoàn
Lòng khổ não ưu sầu
To tiếng than thở khóc.
Như vậy hàng Thiên chúng
Thường tán thán Như Lai
Tự hận xa Thế Tôn
Từng là Thầy thuyết pháp.
Không ăn cam lồ được
Cũng tuyệt tiếng đờn ca
Hàng chư Thiên như đây
Lòng sầu cả sáu tháng.
A Tu La nghe nói
Chánh pháp đã trống hư
Bèn kêu gọi lẫn nhau
Đem binh đánh Đao Lợi.
Diêm Phù các vua chúa
Hủy hoại Phật luật nghi
Chính trong thời kỳ nầy
Trời cùng Tu La chiến.
Sanh vào trong ác đạo
Có rất đông Tỳ Kheo
Cũng nhiều Tỳ Kheo Ni
Chịu đủ mọi sự khổ.
Tại gia phạm các tội
Cư sĩ phá thi la
Tranh bài bác lẫn nhau
Do đây đọa ác đạo.
Phụ nữ làm việc ác
Đều cũng vào tam đồ
Lúc hưng thạnh việc này
Thế gian chẳng an tịnh.
Có lúc qua tụ lạc
Hoặc trốn vào núi rừng
Vì lo sợ nhọc nhằn
Mọi người thọ ngắn yểu.
Khắp nơi nhiều trộm cướp
Sự đói khát lan tràn
Lúa má lại mất mùa
Thêm sâu keo phá hại.
Đời nhiều nghèo đói khổ
Loài người lúc chết rồi
Ngạ quỉ nhiều sanh vào
Chịu biết bao khổ sở.
Những đồ cúng chùa tháp
Vật dâng tứ phương Tăng
Lúc đó các Tỳ Kheo
Cùng nhau chia lấy hết.
Sau khi Phật diệt độ
Khổ như thế dẫy đầy
Phải sớm cố siêng năng
Chớ nhìn lui trở lại.
Bao nhiêu kẻ ngu dại
Người không huệ không căn
Do nghiệp ngu đã thành
Sớm đọa vào ác đạo.
Phải thích giảng đọc tụng
Trí huệ do đây sanh
Người tu huệ tu tâm
Mau sanh cõi lành tốt.
Thường dùng trí quán sát
Học đúng theo lời Phật
Lìa hẳn những buộc ràng
Sớm được Niết Bàn đạo.
Chánh pháp chẳng còn lâu
Phải gắng tinh tấn tu
Phật nói đã cạn lời
Gấp gẫm suy chơn chánh.
Khi kiếp này đã qua
Cả sáu mươi đại kiếp
Hiệu Phật chẳng được nghe
Làm sao có ưa thích.
Đến thời kỳ cơ cẩn
Sự đói khổ không cùng
Dầu cho đến mẹ con
Cũng giết nhau ăn thịt.
Lúc đó đến con đẻ
Kinh hãi đi chẳng yên
Dầu ở trong nhà mình
Vẫn lòng lo sợ sệt.
Thấy nghe những việc này
Rõ kia sanh tử khổ
Ai là người có trí
Mà lại thích lại ưa.
Vô minh là gốc sanh
Phụ nữ là gốc dục
Thân là cội gốc khổ
Do đây phải xa lìa.
Trong đời chúng sanh ngu
Say đắm nơi nữ dục
Người lìa được ngu si
Sẽ được Niết Bàn đạo.
Lúc giảng nói pháp nầy
Chẳng bị quả báo ác
Vì bác không nhơn quả
Nên phải sa ác đạo.
Pháp công đức vô lậu
Không không vô sở đắc
Tịch tịnh vốn không bền
Nên phải mau hiểu rõ”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment