Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 112
PHÁP HỘI NHẬP PHẬT CẢNH GIỚI
TRÍ QUANG MINH TRANG NGHIÊM
THỨ NĂM MƯƠI
Tôi nghe như vầy : một lúc nọ đức Thế Tôn ở núi Linh Thứu thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đề, cùng câu hội với hai vạn năm ngàn đại Tỳ Kheo. Chúng đại Tỳ Kheo nầy đều là bực A La Hán đã hết tất cả lậu lìa hẳn tất cả phiền não, tâm và huệ đều giải thoát tốt, tất cả việc phải tu phải làm đều đã làm xong như đại long vương, đã vứt gánh nặng phần đoạn tử, phần lợi ích riêng mình đã
được, đã hết kiết phược trong tam giới, tâm trí giải thoát, tâm được tự tại đã đến bờ kia. Mười tám vị A La Hán như A Nhã Kiều Trần Như v.v...làm thượng thủ.
Còn có bảy trăm hai mươi vạn câu chi na do tha
chúng đại Bồ Tát, danh hiệu các Ngài là Diệu Cát Tường đại Bồ Tát, Tài Cát Tường Bồ Tát, Giác Cát Tường đại Bồ Tát, Dược Vương đại Bồ Tát, Dược Thượng đại Bồ Tát v.v...
Chư Bồ Tát nầy đều có thể chuyển pháp luân bất thối chuyển, giỏi thỉnh hỏi nơi các chánh pháp bửu tích thừa phương đẳng. Các Ngài ở bực Pháp Vân địa, trí huệ cao rộng như núi Tu Di, hay giỏi quan sát các pháp
: không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô khởi, vô tánh, soi
sáng rộng lớn pháp lý thậm thâm, khéo hiện oai nghi tốt. Chư Bồ Tát nầy đều riêng do chư Phật Như Lai ở trăm ngàn câu chi
na do tha thế giới sai đến pháp hội Thích Ca Mâu Ni Phật nầy. Các Ngài giỏi hay xuất sanh những sự thần thông và khéo an trụ tự tánh thanh tịnh của các pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nghĩ rằng : Chúng đại Bồ Tát nầy đã đủ oai đức lớn vì cầu pháp nên từ hằng hà sa số thế giới đại oai đức mau chóng đến dự pháp hội. Nay ta nên vì họ mà mở sáng tuyên nói chánh pháp rộng lớn, hoặc hiện tướng sáng chiéu suốt rộng lớn, làm cho chư Bồ Tát ấy nghe ta thuyết pháp rồi thỉnh hỏi ý nghĩa.
Liền đó đức Thế Tôn phóng quang minh chiếu khắp mười phương bất khả tư nghị vi trần số tam thiên Đại Thiên thế giới.
Liền đó mỗi phương trong mười phương có mười Phật sát vi trần số bất khả tư nghị trăm ngàn câu chi
na do tha đại Bồ Tát đến dự pháp hội. Mỗi Bồ Tát đều riêng hiện bất tư nghị thần thông mà Bồ Tát đã có. Đến pháp hội xong, các Ngài đều riêng mang bất tư nghị món cúng dường màu sắc vi diệu để cúng đức Phật. Mỗi đại Bồ Tát ấy đều riêng ngồi tòa liên hoa do sức tự nguyện xuất sanh, nhứt tâm chiêm ngưỡng đức Thế Tôn.
Bấy giờ trong điện pháp giới tự nhiên xuất hiện tòa sư tử đại bửu liên hoa tạng, tòa sư tử đại liên hoa ấy ngang rộng thứ đệ cao hiển đều a tăng kỳ câu chi do tuần, do các ma ni bửu chói sáng làm thành, dùng ma ni bửu điện quang minh làm đường ranh giới. Cọng hoa bằng ma ni bửu bất tư nghị quang minh, xen lẫn với tỉ dụ ma ni bửu, tràng hoa vi diệu thù thắng bằng siêu việt thí dụ ma ni bửu. Tự tại vương ma ni bửu làm lưới trùm che phía
trên. Dựng chắc những lọng báu ma ni bửu quang minh và tràng báu phan báu. Trên tòa sư tử đại liên hoa tạng ma ni bửu ấy, phổ biến xuất hiện mười a tăng kỳ trăm
ngàn câu chi na do tha quang minh chiếu khắp mười phương thế giới.
Bấy giờ trong mười phương, mỗi mỗi phương có số mười Phật sát bất khả thuyết vi trần số trăm ngàn câu chi na do tha chúng chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế chư Thiên v.v... đều đến tập hội.
Trong số đó hoặc có chúng ở lâu các báu cùng bất tư nghị trăm ngàn câu chi
na do tha Thiên nữ hòa tấu âm nhạc vi diệu. Hoặc có chúng ở lâu các làm thành bằng hoa vi diệu, hoặc ở lâu các bằng long kiên chiên đàn hương, hoặc ở lâu các bằng chơn châu, hoặc ở lâu các bằng kim cương bửu, hoặc ở lâu các bằng kim cương quang minh ma ni bửu, hoặc ở lâu các bằng thuần hoàng kim, hoặc ở lâu các nhứt thiết quang minh tích tập đại ma ni bửu, hoặc ở lâu các bằng tự tại vương ma ni bửu, hoặc ở lâu các bằng như ý bửu châu, hoặc ở lâu các bằng đế thanh ma ni bửu, hoặc ở lâu các bằng thanh tịnh trang nghiêm phổ biến quang minh đại ma ni bửu xuất sanh trong đại hải.
Trong những lâu các đó đều có vô số bất tư nghị trăm ngàn câu chi
na do tha chúng Thiên nữ hòa tấu âm nhạc vi diệu bay trên hư không mà đến.
Đã đến pháp hội rồi, đều riêng mang bất tư nghị vô đẳng tỉ các món cúng dường vi diệu siêu việt phần lượng dâng lên cúng dường đức Phật. Cúng dường xong mọi người đều về tòa ngồi do tự nguyện xuất sanh, nhứt tâm chiêm ngưỡng đức Phật.
Bấy giờ cõi tam thiên Đại Thiên thế giới nầy đều thành sắc tướng đẹp lạ màu Diêm Phù Đàn
Kim, tự nhiên xuất hiện các loại cây ma ni bửu trang nghiêm, các loại cây diệu y phục, loại cây long kiên chiên đàn hương, lưới ma ni bửu điện quang minh do bửu châu vi diệu kết thành giăng che phía trên, dựng chắc những lọng báu và tràng báu, phan báu. Trong giữa rặng cây đều có vô số trăm ngàn câu chi
na do tha Thiên nữ. Các Thiên nữ ấy mang nửa thân mình toàn chuỗi ngọc chơn châu, có vị cầm tràng hoa ma ni bửu.
Lúc bấy giờ trong tòa sư tử đại ma ni bửu liên hoa tạng ấy tự nhiên có tiếng nói kệ rằng:
Thỉnh đấng vua Trời Người lên ngồi
Tòa báu nầy do phước lực sanh
Khiến khắp chúng nguyện đều viên thành
Đấng Lưỡng Túc Tôn xin nhiếp thọ
Do tướng báu thân ta làm
thành
Một báu tên là Liên Hoa Tòa
Đức Phật Thế Tôn tùy ý thích
Đấng cứu đời hay tròn sở nguyện
Nay tòa liên hoa bằng châu báu
Là rất tốt lạ trong thế gian
Vì câu chi chúng nói pháp môn
Khiến người nghe pháp được tòa nầy
Thân Phật xuất hiện ngàn tia sáng
Chói soi cùng khắp các thế gian
Tôi thấy sáng nầy lòng hoan hỉ
Xin Phật nay đến ngồi tòa tôi
Mau lên tòa ngồi nhiếp thọ tôi
Tòa nầy số nhiều tám câu chi
Nay đấng Mâu Ni trí tự nhiên
Đăng tòa nhiếp hết hàng phàm thánh.
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn từ bổn tòa đứng dậy, liền lên ngồi kiết già trên tòa sư tử bửu liên hoa tạng. Ngồi xong, đức Phật quan sát khắp tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Nhơn Thiên đại chúng, sẽ vì chư Bồ Tát mà tuyên thuyết diệu pháp tối thượng.
Tất cả chúng đại Bồ Tát đều tự nghĩ rằng nay nếu chúng ta được nghe Ngài Diệu Cát Tường Đồng Chơn Bồ Tát thỉnh hỏi đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác về chánh pháp thậm thâm bất sanh bất diệt thì thật là hân hạnh lắm.
Ngài Diệu Cát Tường Đồng Chơn Bồ Tát ở trước tại pháp hội biết chỗ mong muốn của chúng đại Bồ Tát, liền rời chỗ ngồi đủ oai nghi bạch đức Phật rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật dạy về nghĩa bất sanh bất diệt. Bạch đức Thế Tôn ! y cứ nơi pháp nào mà đức Phật nói nghĩa thậm thâm ấy ?”.
Ngài Diệu Cát Tường Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng :
Bất sanh và bất diệt
Là lời của Phật nói
Ý nghĩa ấy thế nào
Mà Phật dạy như vậy
Nếu pháp chẳng sanh diệt
Thì không thấy không nhơn
Đấng Mâu Ni Thế Tôn
Lại tuyên dạy thế nào
Bồ Tát ở mười phương
Do chư Phật sai đến
Cầu đại trí pháp môn
Xin Phật nói chánh pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn khen Bồ Tát Diệu Cát Tường rằng : “ Lành thay
lành thay nầy Diệu Cát Tường ! Nay ông có thể khéo hỏi đức Như Lai nghĩa lý như vậy làm lợi ích lớn cho rất nhiều người, ông thương xót thế gian khiến họ tu hành đều được an lạc, lại có thể làm lợi lạc cho chúng Trời Người. Nay đây, chư Bồ Tát từ phương khác đến vì muốn được Phật địa chẳng còn e sợ, làm Phật sự tại đây cũng không kinh khiếp, chư Bồ Tát ấy đều được nhiếp vào thiệt trí. Đức Như Lai nay nói về pháp bất sanh bất diệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Bất sanh bất diệt ấy là lời chơn thật của đức Như Lai.
Nầy Diệu Cát Tường ! Ví như báu phệ lưu ly hiện thành tướng cõi trời Đao Lợi, Trong cõi ấy có cung điện Thắng Diệu Trang Nghiêm rộng lớn là chỗ ở của Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn. Thiên Đế Thích ở trong cung điện ấy hưởng thọ ngũ dục an lạc thắng diệu tự tại. Chư Thiên Đao Lợi tuyên bảo các nam tử nữ nhơn ở Diêm Phù Đề rằng : Mau đến đây nhìn xem cung điện vi diệu thù thắng lớn rộng của Thiên Đế ở, Thiên Đế hưởng thọ khoái lạc thù thắng ở trong đó. Mọi người nên làm việc rộng bố thí, nghiêm giữ giới hạnh, tu tạo sự phước đức, cầu mong được quả báo thù thắng vi diệu an vui tự tại thần thông quảng đại, được ở cung điện nguy nga xinh đẹp trang nghiêm như Thiên Đế.
Bấy giờ người Diêm Phù Đề nghe thấy sự việc như trên liền mang hương hoa vói cúng dường và phát nguyện, mong cầu cho mình sẽ được quả báo thắng diệu ở Trời Đao Lợi như Thiên Đế Thích.
Nầy Diệu Cát Tường ! Nhưng người Diêm Phù Đề chẳng biết cõi Trời Đao Lợi ấy là ảnh tượng của báu phệ lưu ly, cung điện lớn rộng vi diệu thù thắng an lạc tự tại thanh tịnh trang nghiêm
cũng là ảnh tượng do báu phệ lưu ly hiện thành.
Nầy Diệu Cát Tường ! Do rộng làm bố thí nghiêm gìn giới hạnh tu tạo nhiều phước đức mà Thiên Đế Thích cảm được cung điện vi diệu trang nghiêm ấy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Mà cõi trời báu phệ lưu ly ấy vốn không sở hữu, cung điện trang nghiêm vi diệu của Thiên Đế Thích cùng chư Thiên đang ở hưởng vui tự tại thù thắng ấy cũng vốn không sở hữu, đều là ảnh tượng thanh tịnh hiện thành, nhưng nó cũng vẫn là thường tồn tại, thật ra là bất sanh cũng là bất diệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Tất cả các pháp, tất cả chúng sanh cũng như vậy. Người dùng lòng thanh tịnh quán tưởng đúng thật thì đức Như Lai liền vì người đó mà đối hiện thân tướng. Cũng có thể là do oai thần của đức Như Lai làm cho các chúng sanh thấy thân Phật, dầu vậy mà vốn không sở hữu vẫn là bất sanh cũng là bất diệt, là không có tánh
cũng là chẳng phải không có tánh, không có được thấy cũng là chẳng phải không có được thấy , chẳng phải thế gian cũng chẳng phải phi thế gian, không có tướng mạo cũng chẳng phải không có tướng mạo.
Nầy Diệu Cát Tường ! Tất cả chúng sanh chỉ do đức Như Lai đối hiện ảnh tượng mà làm cảnh sở duyên, họ đem hương thơm hoa đẹp rải rắc để cúng dường mà nói rằng : nguyện cho chúng tôi sau nầy được quả báo thù thắng vi diệu đồng như đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Vì cầu được Phật trí mà các chúng sanh ấy làm nhiều sự bố thí, trì giới, tạo các việc phước đức hồi hướng nguyện sẽ được trí huệ Như Lai.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Như báu phệ lưu ly làm thành cõi
Trời Đao Lợi, Thiên Đế Thích đối hiện ảnh tượng ấy, không có động chuyển, không có lãnh thọ, cũng không có hí
luận, không có phân biệt cũng chẳng rời lìa phân biệt, không có kế đạt cũng chẳng rời lìa kế đạt, chẳng phải tư duy tác ý tịch tĩnh thanh tịnh vô sanh vô diệt, không có thấy, không có nghe,
không có ngửi, không có nếm, không có chạm xúc, không có suy tưởng, không có thi
thiết cũng không co tiêu biểu.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, không có động chuyển nhẫn đến cũng không có thí
thiết không có tiêu biểu. Đức Như Lai không có sanh
có đến, bao nhiêu sự đối hiện đều giống như ảnh tượng, tùy theo tín giải sai biệt của các chúng sanh mà hiện ra những sắc tướng cùng các tuổi thọ, chỉ do sức tín giải thành thục thành căn khí bồ đề mà các chúng sanh ấy được đức Như Lai đối hiện, tùy theo sở nguyện tùy theo trình độ tín giải của họ làm cho họ được nghe chánh pháp, như sở nguyện mà họ được biết tướng ba thừa, như sở nguyện mà họ đều được giải thoát.
Nầy Diệu Cát Tường ! Như nơi cung điện vi diệu thù thắng do sức phước đức của Thiên Đế Thích có trống pháp lớn phát ra pháp âm vi diệu, trong hư không khắp mọi nơi Trời Đao Lợi đều được nghe. Chư Thiên Tử nghe tiếng trống vang ra phát âm vi diệu, nhưng suốt tột nhãn lực cũng không thấy được trống pháp ấy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Trống pháp ở Trời Đao Lợi có thần lực khó nghĩ bàn. Nếu cõi trời ấy có các vị Thiên Tử say đắm ngũ dục không chịu vào trong nhà thiện pháp để ca vịnh pháp âm, hoặc có lúc Thiên Đế Thích vui mê dục lạc không lên pháp
tòa để thuyết pháp cho chúng Thiên Tử, thì trống pháp ở hư không tột nhãn lực của chư Thiên không thấy được ấy liền tự nhiên phát ra âm
thanh cảnh giác rằng : Nầy các Ngài, những sắc thanh hương vị xúc là những thứ vô thường, nay các Ngài chớ sanh lòng buông lung, chớ để mau chóng mất phước trời mà phải rời cung điện vi diệu thù thắng, bao nhiêu sự lãnh thọ đều là khổ, tất cả các hành đều vô thường còn đó mất đó, các pháp đều không có ngã không có chủ tể chớ có duyên lấy. Thân trời ngũ uẩn nầy không bền lâu, nó sẽ diệt mất và thân loài khác lại sanh.
Các Ngài nên mau siêng năng ca tụng chánh pháp, du hí nơi vườn chánh pháp, thích ưa chánh pháp, cầu lấy pháp chơn thiệt. Các Ngài ở trong chánh pháp tùy chỗ ghi nhớ mà suy tư thì được chẳng rời lìa những phước lạc cõi trời.
Nầy Diệu Cát Tường ! Trống pháp ở Trời Đao Lợi ấy không có phân biệt cũng không có rời lìa phân biệt, vượt khỏi cảnh giới của nhãn mục, bất sanh cũng bất diệt, ra ngoài phạm vi ngữ ngôn, lìa ngoài phạm vi tâm ý thức, là chẳng thể nghĩ bàn. Trống ấy tự nhiên phát ra pháp âm làm cho chư Thiên được tỉnh ngộ biết lo sợ vô thường mê loạn mà cùng nhau vào
nhà thiện pháp để ca tụng chánh pháp du hí vườn chánh pháp ưa thích chánh pháp cầu pháp chơn thiệt, ở trong chánh pháp tùy ý nhớ biết mà suy tư, sau khi mãn báo
trời, rời cõi trời sanh vào nơi thù thắng vi diệu khác.
Còn Thiên Đế Thích nghe tiếng cảnh giác của trống pháp liền vào nhà thiện pháp lên ngồi pháp tòa vì chư Thiên mà diễn nói chánh pháp vi
diệu.
Nầy Diệu Cát Tường ! Có lúc phải chiến đấu với A Tu La, hoặc chư Thiên đánh thua, trống pháp ấy ở hư không tự nhiên phát ra âm thanh hùng mạnh làm cho hàng A Tu La kinh sợ mê loạn cùng nhau bỏ chạy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Dầu có oai lực như vậy, mà trống pháp lớn ấy không có tưóng ngã, cũng không
có ngôn thuyết, phát âm thanh xong thì nó tự nhiên ẩn mất, trống pháp ấy không có nhìn thấy, nó an trụ nơi chơn thiệt vô tâm vô tư, không có tướng, không có sắc, không có âm thanh, không có tánh chất, siêu quá cảnh giới nhãn mục cũng không có đối tượng.
Nầy Diệu Cát Tường ! Do vì sức phước nghiệp lành trước của chúng Trời Đao Lợi mà có trống pháp lớn phát ra tiếng vang vi diệu làm cho những phiền não mê loạn trong lòng chư Thiên tự nhiên mất lặng.
Trống pháp ấy luôn tồn tại ở Trời Đao Lợi mà không có tâm cũng không có tư, không sắc; không tướng, không thanh, không tánh cũng không có đối đãi.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, không có kiến văn không có giác
quán nhưng vẫn tồn tại. Thường tồn tại, mà Như Lai không có tướng ngã, không có tâm ý, không có suy tư, không tướng, không sắc, không thanh,
không tánh siêu quá cảnh giới của nhãn mục, chỉ tùy theo báo lành nghiệp thiện đã có của chúng sanh rồi theo trình độ tin hiểu của họ mà vì họ giảng dạy pháp yếu làm cho họ thông đạt. Nhờ nghe pháp âm của đức Như Lai mà nội tâm phiền não mê loạn của các chúng sanh ấy đều lặng mất. Phải biết pháp âm vi diệu ấy mà âm thanh của đức Như Lai.
Nầy Diệu Cát Tường ! Pháp âm vi diệu ấy vẫn không phải thiệt có, chỉ vì tất cả chúng sanh có thiện duyên mà đức Như Lai phương tiện quyền tạm hiển hiện ra thôi. Tùy theo
nghiệp báo lành đã có trước của các chúng sanh mà
đức Như Lai vì họ phát ra pháp âm,
các chúng sanh ấy được nghe pháp âm của đức Phật rồi tùy theo sở nguyện của họ mà được hiểu được rõ, cũng làm cho
họ được an lạc, những kẻ giải đãi thì làm cho họ tỉnh ngộ mà siêng tu.
Nầy Diệu Cát Tường ! Tất cả chúng sanh được nghe pháp âm của Phật rồi đều phát nguyện sẽ được thân tướng trang nghiêm như đức Như Lai.
Nầy Diệu Cát Tường ! Hàng Bồ Tát sơ phát tâm cùng hàng ngu phu với hàng dị sanh kia thì chỉ lấy pháp lành của Như Lai tuyên dạy mà làm cảnh sở duyên khiến họ được nghe pháp âm của Như Lai.
Nầy Diệu Cát Tường ! Lời tuyên dạy của đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải biết là pháp lý thậm thâm bất sanh bất diệt vậy.
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Như vào mùa viêm hạ, do sức nghiệp báo trước của các chúng sanh ở một địa phương nào đó mà có mưa ướt đất, tất cả giống ngũ cốc rau cỏ hoa trái vườn tược lùm rừng đều được nẩy nở tăng trưởng.
Lúc bấy giờ trong hư không có gió thổi mây nhóm mưa tuôn nhuần thắm cả mặt đất.
Bấy giờ mọi người ở địa phương ấy đồng nghĩ rằng mây lớn phủ giăng mưa lớn ào xuống đáng mừng đáng vui.
Nầy Diệu Cát Tường ! Mưa nhuần lợi ích ấy chẳng phải do riêng mây lớn làm ra cũng là do phần sức của gió lớn, gió đùa mây họp, gió cũng thổi tan mây. Điểm chánh là do nghiệp báo trước của mọi người ở địa phương ấy mà có mưa tốt hay xấu, cũng do nghiệp báo mà có tạnh tốt xấu cùng nắng tốt xấu.
Nầy Diệu Cát Tường ! Mưa nhuần xấu tốt chẳng phải riêng mây có cũng chẳng riêng làm ra. Mây ấy vốn không có chỗ sanh chẳng phải theo tâm mà mất, rời lìa sự đến đi.
Các chúng đại Bồ Tát, chúng Duyên Giác, chúng Thanh Văn và hàng dị sanh căn lành
thành thục cũng như vậy. Nghĩa là do các
đại chúng ấy, tùy theo căn trí của họ ưa thích rồi họ chứa họp công hạnh thù thắng vun trồng các căn lành, đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện thế gian vì các loài chúng sanh mà chỉ bày đạo Niết bàn đối hiện vô ngại. Đức Như Lai ở giữa hàng đại chúng Trời NgườI có những lời tuyên nói danh tự được kiến lập ra đều không hề dị biệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Ông phải biết rằng ở chỗ đại chúng Thìên Nhơn Hiền Thánh phàm ngu đức Như Lai phát ra âm
thanh vi diệu thù thắng ấy, nó không có chơn thiệt tất cả đều là không có sở hữu.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai không có tướng vì rời lìa tất cả tướng dạng vậy, đức Như Lai không có phương xứ mà chẳng lìa ngoài phương xứ, Như Lai không có thật hiện thành không sanh cũng không diệt.
Đức Như Lai xuất hiện thế gian vì hàng Thiên
Nhơn, tùy nghi đối hiện rộng tuyên dạy chánh pháp đều đã hoàn thành, đầy đủ rồi, mà hàng tân phát
ý Bồ Tát cùng chúng ngu phu dị sanh, những kẻ do nghiệp báo lành trước nên ưa thích pháp Niết bàn mà hóa độ ấy, họ chẳng thấy đức Như Lai có chỗ đối hiện, họ đều cho rằng đức Như Lai đã nhâp đại Niết bàn.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai hoặc sanh hoặc diệt đều là không có sở hữu, vì Như Lai là bất sanh bất diệt vậy.
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác bổn lai tịch tĩnh. Như Lai không thiệt có như Đại thủy kia, sở duyên không có thiệt mà mây mù cũng
không có thiệt, là vô sanh vô diệt vì mây không có thiệt vậy chỉ là giả thi thiết có ở thế gian thôi.
Bao nhiêu sở duyên thuyết pháp của Như Lai cũng như vậy, đều là giả thi thiết mà không có thiệt, bổn lai là bất sanh bất diệt như vậy.
Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong pháp vô sanh
như vậy vì hàng chúng
sanh mà giả danh an lập thi thiết.
Nầy Diệu Cát Tường ! Như Đại Phạm Thiên Vương là bực tối thắng trong hàng tối thắng, người được tự tại trong mười Đại Thiên trăm Đại Thiên, mỗi ngày người quan sát tất cả Thiên chúng dưới đến Trời Tứ Vương Thiên là ranh
chót, do vì Đại Phạm Thiên Vương thường quan sát các chư Thiên vậy.
Các hàng đại chúng chư Thiên trong phạm vi mười Đại Thiên hoặc trăm Đại Thiên đều riêng hưởng lạc thú trong Thiên
cung của mình hoặc tấu nhạc hoặc ca múa, xong rồi chấm dứt các sự vui, tất cả cung kính chắp tay tôn trọng chiêm ngưỡng Phạm Vương mắt không tạm rời. hàng Thiên Tử đều nguyện cầu Đại Phạm Thiên Vương xuất hiện thế gian thành thục thiện căn. Lúc ấy Đại Phạm Thiên Vương trong thời gian khoảnh khắc liền vì chúng Thiên Tử mà xuất hiện. Nếu vị Đại Phạm Thiên Vương nầy lúc báo trời đã hết thì có Đại Phạm Thiên Vương khác an lập cung điện trong mười Đại Thiên thế giới hoặc trong trăm Đại Thiên thế giới, do thiện căn túc nguyện mà được tự tại. Chúng Thiên Tử cũng do thiện căn túc nguyện thành thục mà cảm vời sự ấy, mỗi ngày được vị Đại Phạm Thiên Vương quan sát đến và trong khoảnh khắc vì họ mà xuất hiện.
Nầy Diệu Cát Tường ! Vị Đại Phạm Thiên Vương ấy hoàn toàn là vô sở hữu, là không có xứ sở, là không có động chuyển, là rỗng không, là không có thiệt, không có văn tự, không có âm thanh, không có ngôn thuyết, không có thể tánh, không có suy
tư, không có tướng dạng rời lìa tâm ý thức vô sanh vô diệt, mà vì chúng Thiên Tử tùy nghi đối hiện, đó là do thiện căn nguyện lực đời trước mà kiến lập như vậy, và cũng do thiện căn đời trước của chúng Thiên Tử đã thành thục. Chư Thiên Tử nầy cũng không có ý nghĩ các sự quá hiện tự tại của Đại Phạm Thiên Vương là không có thiệt là không có văn tự ngôn thuyết âm thanh, cũng
không có ý nghĩa, là không có thể tánh không có tướng dạng, là chẳng phải tư duy là rời lìa tâm ý thức vô sanh vô diệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác cũng như vậy, rỗng không tự tại, không có thiệt không có văn tự âm thanh ngôn thuyết không có tánh thể tướng dạng chẳng phải tư duy rời lìa tâm ý thức vô sanh vô diệt, chỉ do vì đời trước hành Bồ Tát hạnh thành tựu thiện căn nguyện lực, đồng thời cũng do nơi thiện căn thành thục đời trước của chúng tân phát ý Bồ Tát của chúng Duyên Giác Chúng Thanh Văn cùng tất cả hàng dị sanh, mà đức Như Lai cò trăm ngàn tướng dạng thanh tịnh trang nghiêm xuất hiện thế gian. Tất cả đều như tượng trong gương bóng treo hình,
không có động chuyển không có xứ sở, cũng không có chúng tân phát ý Bồ Tát, chúng Duyên
Giác, chúng Thanh Văn cùng hàng dị sanh, cũng không có đức Như Lai, rỗng không tự tại không có thiệt không có văn tự không có âm thanh
ngôn thuyết không có tánh thể tướng dạng chẳng phải tư duy lìa tâm ý thức vô sanh vô diệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Vì tất cả pháp rỗng nên thân tướng của Như Lai có trăm ngàn vẻ đẹp trang nghiêm
thanh tịnh, hiện khởi ra bao nhiêu là oai đức tác dụng đúng pháp tắc, theo bao nhiêu trình độ tín giải mà rộng bày pháp yếu sâu xa vi diệu. Pháp yếu được đức Như Lai tuyên dạy đều có thể làm lắng dứt tất cả phiền não tội chướng của tất cả chúng sanh.
Đức Như Lai bình đẳng nơi tất cả chỗ luôn vô trụ vô trước không có nghi hoặc cũng không có sai
biệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Vì cớ ấy nên biết bất sanh bất diệt là lời liễu nghĩa của Như Lai ».
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Như Lai vô sanh pháp
thường trụ
Tất cả pháp với Phật bình đẳng
Còn có thấy tướng là ngu si
Không có pháp thiệt thiện thế gian
Thân tướng Như Lai đồng ảnh tượng
Tất cả Phật pháp đều vô lậu
Tất cả đều tánh chơn như Phật
Ba thân Như Lai hiện thế gian
Lại nầy Diệu Cát Tường ! Như mặt trời mọc ra từ phương Đông, trước chiếu núi Tu Di, kế chiếu các núi Thiết Di núi Đại Thiết Di các núi lớn rồi chiếu đến núi Hắc Sơn các cao nguyên
sau cùng chiếu sáng khắp bình nguyên mọi nơi trong Diêm Phù Đề, dẫu soi sáng khắp chỗ nhưng mặt trời không có phân biệt cũng không rời phân biệt chẳng phải tư duy chẳng phải chẳng tư duy rời lìa tâm ý thức là vô sanh vô diệt không có tướng dạng vì là rời lìa tướng dạng vậy, cũng không có tác ý vì là rời lìa tác ý vậy, cũng không có hí luận vì là rời lìa hí luận vậy, cũng không tổn não vì là rời lìa tổn não vậy, chẳng phải đây kia, chẳng phải cao hạ, chẳng phải phược giải, chẳng phải có trí không trí,
chẳng phải phiền não chẳng rời phiền não, chẳng phải chơn thiệt chẳng rời chơn thiệt, chẳng phải bờ nầy chẳng phải bờ kia, chẳng phải bằng thẳng chẳng phải chẳng bằng thẳng, chẳng phải sông biển chẳng phải đất liền, chẳng phải giác quán chẳng rời giác quán, chẳng phải màu sắc chẳng phải không màu sắc. Nầy Diệu Cát Tường ! Do vì đại địa có cao có thấp có bằng phẳng nên ánh sáng mặt trời chiếu soi theo đó mà có
cao thấp hoặc bằng phẳng.
Cũng như vậy, đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vô sanh vô diệt không có các tướng dạng vì rời lìa các tướng vậy. Đức Như Lai cũng lại không có tác ý vì
là rời lìa tác ý vậy. Đức Như Lai cũng không có
hí luận vì là rời lìa hí luận vậy. Đức Như Lai cũng không có
tổn não vì là rời lìa tổn não vậy. Đức Như Lai chẳng phải đây chẳng phải kia, chẳng phải cao chẳng phải thấp, chẳng phải trói buộc chẳng phải cởi mở, chẳng phải có trí chẳng phải không trí, chẳng phải có phiền não chẳng phải rời phiền não, chẳng phải chơn thiệt ngữ chằng phải hư vọng ngữ, chẳng phải bờ nầy chẳng phải bờ kia, chẳng phải bình chẳng phải bất bình, chẳng phải nước ướt chẳng phải đất khô, chẳng phải Nhứt thiết trí chẳng phải không Nhứt thiết trí, chẳng phải tầm từ giác quán chẳng phải rời tầm từ giác quán, chẳng phải tích tập chẳng phải không tích tập, chẳng phải có niệm lự chẳng phải không niệm lự, chẳng phải tư duy chẳng phải rời tư duy, chẳng phải ý sanh chẳng phải chẳng ý sanh, chẳng phải danh chẳng phải chẳng danh, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải ngôn thuyết chẳng phải chẳng ngôn thuyết, chẳng phải biểu hiện chẳng phải không biểu hiện, chẳng phải thấy chẳng phải không thấy, chẳng phải cảnh thấy chẳng phải chẳng cảnh thấy, chẳng phải dạy bảo dẫn dắt chẳng phải chẳng đẫn dắt dạy bảo, chẳng phải đắc quả chẳng phải chẳng đắc quả, chẳng phải phân biệt chẳng phải chẳng phân biệt, chẳng phải rời phân biệt chẳng phải chẳng rời phân biệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Như ánh sáng chiếu soi khắp mọi nơi, sự chiếu sáng ấy không có phân
chia ranh rấp bên nầy bên kia hay chặng giữa.
Trí quang của đức Như Lai phóng ra trước chiếu cao sâu thẩm vững chắc Bồ Tát, kế chiếu đến các hạng trụ Duyên Giác thừa, kế đến chiếu đến chúng trụ Thanh Văn thừa, kế đến chiếu soi các chúng sanh có căn lành tin hiểu vững chắc, kế đến cũng soi sáng cho
những chúng sanh chấp kiến đoạn thường cùng các hạng tà định.
Trí quang của đức Như Lai chỉ vì làm trưởng dưỡng làm thành thục thiện căn của các hạng chúng sanh, cũng
để làm nhơn lành cho chúng
sanh ở đời vị lai, cũng là để tăng truởng thiện pháp ngữ vậy.
Đức Như Lai là bình đẳng, là không trụ không trước ở tất cả nơi chỗ, rời lìa tất cả nghi lầm cũng không có sai
biệt.
Nầy Diệu Cát Tường ! Trí quang của đức Như Lai không có ý nghĩ loài chúng sanh nầy có đủ tin hiểu rộng lớn, Phật nên vì họ mà tuyên dạy pháp yếu rộng lớn, cũng không có ý
nghĩ rằng chẳng vì loài chúng sanh nầy tuyên dạy, cũng chẳng có ý phân biệt đây là loài chúng sanh có đủ tin hiểu pháp Bồ Tát, hoặc có đủ tin hiểu pháp Duyên Giác, cũng chẳng phân biệt là loài chúng sanh có đủ tin hiểu pháp Thanh Văn, có đủ trí nguyện lành, cũng chẳng phân biệt đây là loài chúng sanh hạ liệt tà kiến.
Đức Như Lai cũng chẳng bao giờ có ý nghĩ rằng với hạng tin hiểu rộng lớn nầy Phật nên vì họ mà nói pháp Bồ Tát Đại thừa, với hạng tin hiểu trung thừa Phật nên vì họ mà nói pháp Duyên
Giác, cũng chẳng có ý nghĩ rằng với hạng tin hiểu hạ thừa Phật nên vì họ mà dạy pháp Thanh Văn, với hạng chúng sanh có ý nguyện lành và chúng sanh có chánh kiến Phật nên vì họ mà tuyên dạy chí nguyện thanh tịnh. Đức Như Lai cũng không có
suy nghĩ rằng với các loài chúng sanh tà kiến mê chấp Phật nên vì họ mà tùy nghi thuyết pháp. Trí quang của đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không
hề có những thứ suy tư phân biệt như vậy, tại sao, vì trí quang của đức Như Lai vốn là soi phá tất cả phân biệt suy tư chiếu phá tất cả phân biệt bất bình đẳng vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Ông nên biết rằng vì các loài
chúng sanh có những ý nghĩ sai biệt có những thích muốn không đồng, nên tác dụng soi sáng của đức Như Lai cũng sai biệt như vậy.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Như trong đại hải có châu như ý bửu vương, châu vương nầy có khả năng làm viên mãn
tất cả sở cầu tốt của các chúng sanh, để châu vương nầy trên tràng cao
thì tùy theo sở cầu tốt của mọi người tự nhiên có tiếng vang làm cho
châu vương biết rõ và mọi người đều được như ý mình mong muốn. Nhưng châu vương trước sau vẫn không có phân biệt suy tư cũng không rời lìa phân biệt suy tư, chẳng phải tâm ý thức chẳng phải rời lìa tâm ý thức.
Nầy Diệu Cát Tường ! Cũng vậy đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác không có phân biệt chẳng rời phân biệt, chẳng phải tư duy chẳng phải chẳng tư duy, chẳng phải tâm ý thức chẳng phải rời tâm ý thức, không có năng thủ không có sở thủ, không sẽ được không đã được, không có tánh thể sai biệt, không có tham không có sân không có si, không thiệt không hư, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, không có quang minh chẳng phải không có quang minh, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, không tầm không từ, vô sanh vô diệt, chẳng phải tư duy chẳng phải rời tư duy, không có tự tánh không có tự tánh rỗng không, không có xuất không có nhập, không có tánh thể lấy được, không có ngôn
thuyết vì dứt ngôn thuyết vậy, không có mừng vui yêu thương cũng không rời vui thương vì dứt vui thương vậy, không có số lượng vì rời số lượng vậy, không có loài
không có nhơn của loài vì dứt các loài vậy, vì tất cả sở thành đều dứt nên không kiến văn không giác
quán không duyên lấy, chẳng phải dung thọ chẳng phải chẳng dung thọ, chẳng phải hòa hiệp chẳng phải chẳng hòa hiệp không có phân biệt không có kế đạt, không chướng không ngại không biểu hiện không lộ bày, chẳng phải nhiễm ô chẳng phải thanh tịnh, không danh hiệu không sắc tướng, không có nghiệp nhơn không có quả báo, không có quá
khứ không có vị lai không có hiện tại, không có chút pháp gì để được, không văn tự không âm thanh vì
rời lìa văn tự âm thanh vậy, không có tướng dạng vì rời các tướng dạng vậy, chẳng phải trong chẳng phải ngoài cũng chẳng phải chặng giữa mà có sở đắc.
Nầy Diệu Cát Tường ! Trí bửu thanh tịnh sâu rộng của đức Như Lai đặt trên tràng cao vi diệu thù thắng đại bi, tùy theo những ý nguyện cùng các tin hiểu của mọi loài chúng sanh mà phát ra âm thanh vi diệu thuyết pháp đều phù hợp thời nghi, làm cho mọi loài chúng sanh đều được hiểu biết đều được lợi ích. Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác bình đẳng an trụ nơi bình đẳng xả ly đối với tất cả chỗ tất cả loài, rời lìa tất cả nghi lầm cũng không có sai
biệt.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Như nơi hang hốc trong núi sâu có
âm vang ứng theo tiếng, tùy theo âm vang ứng với tiếng mà chúng sanh nghe biết. Âm vang ấy không có thiệt, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải trong ngoài trung gian, nhưng nó có sở đắc, nó vô sanh vô diệt, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, nó chẳng phải có trí chẳng phải vô trí, nó chẳng phải có huệ chẳng phải không huệ, nó chẳng phải sáng chẳng phải chẳng sáng, nó chẳng phải giải thoát chẳng phải chẳng giải thoát, nó chẳng phải có tội chẳng phải không tội, nó chẳng phải có niệm lự chẳng phải không niệm lự, nó chẳng phải có trụ trước chẳng phải không trụ trước, nó chẳng phải rỗng không chẳng phải chẳng rỗng không, nó chẳng phải địa đại thủy đại hỏa đại phong đại, nó chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, nó chẳng phải hí luận chẳng phải rời hí luận, nó chẳng phải có tạo tác chẳng phải không tạo tác, nó chẳng phải thấy nghe chẳng phải không thấy nghe, nó không có văn tự không có âm thanh vì nó rời lìa văn tự âm thanh vậy, nó chẳng phải cân lường vì nó vượt quá cân lường vậy, nó không có tướng dạng vì rời lìa các tướng dạng vậy, nó chẳng phải tịch tĩnh chẳng phải chẳng tịch tĩnh, nó chẳng phải dài chẳng phải vắn, chẳng phải tư duy chẳng phải không tư duy, nó chẳng trạng mạo chẳng phải không trạng mạo, nó chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, các sự thấy nghe không có tự tánh, không niệm tưởng, không tác ý, không tầm từ giác quán rời lìa tâm ý thức tất cả nơi chỗ đều bình đẳng, rời lìa tất cả phân biệt vượt quá quá khứ vị lai hiện tại.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phát ra các loại âm thanh đều như là âm vang ứng với tiếng, chỉ là tùy thuận những ý thích của mọi loài chúng sanh
mà xuất phát âm thanh thích thời nghi lập thành ngôn thuyết làm cho các chúng sanh đều được hiểu tỏ.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai vượt quá tam thế chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, cũng chẳng phải là trong là ngoài
là trung gian mà có sở đắc. Đức Như Lai vô sanh vô diệt chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải có trí chẳng phải không trí, chẳng phải có huệ chẳng phải không huệ, chẳng phải minh chẳng phải vô minh, chẳng phải giải thoát chẳng phải chẳng giải thoát, chẳng phải tội chẳng phải không tội, chẳng phải niệm lự chẳng phải không niệm lự, chẳng phải có trụ trước chẳng phải không trụ trước, chẳng phải tọa ngọa chẳng phải chẳng tọa ngọa, chẳng phải địa Đại thủy đại hỏa đại phong đại, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải hí luận chẳng phải rời lìa hí luận, chẳng phải kiến văn chẳng phải không kiến văn, chẳng phải âm thanh văn tự vì siêu việt văn tự âm thanh vậy, chẳng phải cân lường vì vượt quá cân lường vậy, chẳng phải tướng trạng vì rời các tướng trạng vậy, chẳng phải tịch tĩnh chẳng phải chẳng tịch tĩnh, chẳng phải dài chẳng phải vắn, chẳng phải tư duy chẳng phải chẳng tư duy, chẳng phải dạng mạo chẳng phải không dạng mạo, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, kiến văn tự tánh rỗng không, không niệm tưởng không tác ý, không tầm không từ rời lìa tâm ý thức, tất cả nơi chỗ đều bình đẳng, rời lìa tất cả phân biệt vượt quá tam thế.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai tùy thuận những ý nguyện những tin hiểu của mọi loài chúng sanh mà phát ra âm thanh vi diệu tùy thời nghi thuyết pháp khiến các chúng sanh đều được hiểu tỏ.
Vì như ở thế gian có đất đai, từ đó mà tất cả rừng cây cỏ thuốc ngũ cốc rau dưa nương nơi đất mà sanh sản rộng nhiều, nhưng đất ấy chẳng có phân biệt chẳng rời phân biệt, tất cả nơi tất cả chỗ đều bình đẳng không có phân biệt rời lìa tâm ý thức .
Cũng vậy, tất cả chúng sanh y chỉ nơi đức Như Lai mà được an lập, dựa nơi đức Như Lai mà tất cả căn lành công đức của mọi loài chúng sanh được vun trồng bồi dưỡng lớn rộng như là Đại thừa Bồ Tát, Trung thừa Duyên Giác, Tiểu thừa Thanh Văn, cho đến hàng phạm chí ni Kiền tử tà kiến tà định tất cả căn lành của họ có được đều do y chỉ nơi đức Như Lai mà an lập đều được sanh trưởng thành tựu. Nhưng đức Như Lai không có phân
biệt chẳng rời phân biệt, tất cả phân biệt của đức Như Lai đều chẳng phải cảnh duyên phân biệt vì đã dứt hẳn tất cả tác ý vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác rời lìa tâm ý thức không có tầm từ giác quán biểu thị, không có tư duy không có tác
ý, nơi tất cả chỗ luôn an trụ bình đẳng xả ly, đều không có sai biệt.
Như hư không, tất cả nơi tất cả chỗ hư không chẳng có cao chẳng có thấp chẳng có sai biệt, vô sanh vô diệt, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, không có màu sắc tướng dạng cũng không có hí
luận, không có biểu thị, không có buộc ràng dính mắc, không có cân đo đông lường, không có so
sánh tỉ lệ, không có an lập không có sở thủ, siêu quá cảnh giới thấy nghe, rời lìa tâm ý thức, siêu việt tất cả ngữ ngôn, nơi tất cả chỗ đều không có trụ trước.
Lại nữa, nầy Diệu Cát Tường ! Vì tướng hình dạng mạo của chúng sanh có hạ trung thượng sai biệt nên cho rằng hư không có hạ trung thượng. Cũng vậy, đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác tất cả chỗ tất cả nơi đều bình đẳng không có sai biệt, vô sanh vô diệt, chẳng phải tam thế quá khứ vị lai hiện tại, không có sắc tướng, không có hí luận, không có biểu thị, không có thi thiết, không có giác xúc, không có hệ phược không có cân lường vì quá cân lường không có tỉ dụ vì quá tỉ dụ, không có trụ trước không nắm lấy vì siêu quá thấy nghe, rời lìa tâm ý thức không có trạng mạo, không có văn tự, không có âm thanh, không có tác ý, không có xuất không có nhập, không có cao
không có thấp, siêu quá cảnh giới ngôn ngữ. Đức Như Lai ở nơi tất cả chỗ tùy thuận tri kiến tùy thuận xuất nhập đều do vì các chúng sanh có hạ trung thượng sai biệt nên thấy đức Như Lai có sai biệt hạ trung thượng.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác không có ý nghĩ rằng đây là hàng chúng sanh thuộc về hạ phẩm tín giải ta nên vì hạng hạ phẩm nầy mà thị hiện thân tướng hạ phẩm. Đức Như Lai không có ý nghĩ rằng đây là hàng
chúng sanh thuộc về trung phẩm tín giải ta nên vì hạng trung phầm nầy mà thị hiện thân tướng trung phẩm. Đức Như Lai không có ý nghĩ rằng đây là hàng
chúng sanh thuộc về thượng phẩm tín giải ta nên vì hạng thượng phẩm Đại thừa nầy mà thị hiện thân tướng thượng phẩm vô lượng trang nghiêm. Chỉ vì họ có tín giải hạ trung thượng sai biệt nên họ thấy thân tướng đức Như Lai có sai biệt thượng trung hạ.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thuyết pháp cũng như vậy. Đức Như Lai chỉ dùng một âm thanh duy nhất để thuyết dạy chúng sanh, mà các loài chúng sanh tùy theo loài của chính mình đều được tỏ hiểu. Đức Như Lai không hề có ý nghĩ rằng đây là hạng người tín giải thượng phẩm ta nên vì họ nói pháp thượng phẩm Đại thừa. Đức Như Lai không hề có ý nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh có
tín giải trung phẩm ta nên vì họ mà tuyên pháp trung phẩm Duyên Giác thứa. Đức Như Lai không hề có ý nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh thuộc về hạ phẩm tín giải ta nên vì hạng nầy mà dạy pháp Thanh Văn thừa hạ phẩm.
Nầy Diệu Cát Tường ! Đức Như Lai không hề có ý nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh có tín giải bố thí ta nên vì họ mà dạy pháp Bố thí Ba la mật. Đức Như Lai không có ý
nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh thuộc về tín giải trì giới ta nên vì họ mà dạy pháp Trì giới Ba la mật. Đức Như Lai không có ý
nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh có tín giải nhẫn nhục ta nên vì họ mà dạy pháp Nhẫn nhục Ba la mật. Đức Như Lai không có ý
nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh thuộc về tín giải tinh tiến ta nên vì họ mà dạy pháp Tinh tiến Ba la mật. Đức Như Lai không có ý
nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh có tín giải thiền định ta nên vì họ mà dạy pháp Thiền Ba la mật. Đức Như Lai không có ý
nghĩ rằng đây là hạng chúng sanh có tín giải trí huệ ta nên vì hạng nầy mà dạy pháp Bát Nhã Ba la mật.
Đức Như Lai ở trong các pháp chẳng sanh phân biệt, tại sao, vì pháp thân
Như Lai rốt ráo vô sanh. Do
vì vô sanh nên đức Như Lai chẳng dùng danh sắc theo thức để chuyển khởi tuyên thuyết. Trong khoảng sát na đức Như Lai tạm thời vô phân biệt. Đức Như Lai có đủ vô tận tướng dạng, vì cùng tận biên tế và chơn thiệt tánh thể đều đã quyết định vậy, đây chính là thiệt tánh bình đẳng của tất cả pháp. Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác bình đẳng tất cả nơi tất cả chỗ không có thượng trung hạ sai khác phân biệt. Tất cả pháp cũng đều bình đẳng không có thượng trung hạ sai khác phân biệt, tại sao, vì tất cả pháp vô sở đắc vậy.
Nầy Diệu Cát Tường ! Nếu tất cả pháp vô sở đắc thì tất cả pháp bình đẳng, nếu tất cả pháp bình đẳng thì tất cả pháp thường trụ, nếu tất cả pháp thường trụ thì tất cả pháp không động chuyển, nếu tất cả pháp không động chuyển thì tất cả pháp không có y dựa, nếu tất cả pháp không có y dựa thì tâm không chỗ trụ trước, vì tâm không trụ trước nên là vô sanh mà
sanh. Nếu quán trí như vậy thì tâm vương và tâm sở chuyển khởi mà không điên đảo. Tâm chuyển khởi không điên đảo thì là đúng như thuyết mà hiện hành, đã như thuyết mà hành thì không có hí luận. Nếu không hí luận thì hành mà không sở hành, đã không có sở hành thì không có lưu tán. Nếu không lưu tán thì không có tụ tập. Nếu tất cả pháp không lưu tán thì không trái với pháp tánh, nếu không trái pháp
tánh thì ở tất cả chỗ đều tùy thuận pháp tánh, nếu tất cả chỗ đều tùy thuận thì pháp tự tánh không động chuyển, nếu pháp tự tánh không động chuyển thì pháp tự tánh bèn có sở đắc. Nếu pháp tự tánh có sở đắc thì không có chút pháp gì là có thể duyên lấy được, tại sao, vì phải biết tất cả pháp đều là tánh nhơn duyên sanh, nếu là tánh nhơn duyên sanh thì là rốt ráo vô sanh, nếu là rốt ráo vô sanh thì được tịch tĩnh, nếu được tịch tĩnh thì tất cả pháp tác ý liền đồng với không y dựa,, nếu tất cả pháp tác ý đồng với không y dựa thì chính đó đều là không có y dựa, nếu không có y dựa thì chính là
không có được không chẳng được. Nếu không có được không chẳng được thì được pháp thường trụ. Nếu được pháp thường trụ thì tương ưng nơi pháp cứu cánh kiên cố. Nếu tương ưng nơi pháp cứu cánh kiên cố thì không có chút pháp để được, cũng không có Phật pháp, tại sao, vì đã giác
ngộ tánh không, nếu giác ngộ tánh không thì chính đó là Bồ đề. Vì giác ngộ tánh không vô tướng vô nguyện vô tác vô trụ vô sanh vô thủ vô y như vậy nên gọi là Bồ đề. Bồ đề đây là tương ưng nơi pháp tánh cứu cánh kiên cố tên gọi tương ưng do đây mà được kiến lập. Vì thế nên không cao không hạ là pháp tương ưng, không tạo tác chẳng phải không tạo tác là pháp tương ưng, không hệ phược không giải thoát là pháp tương ưng, không một tánh không nhiều tánh là pháp tương ưng, không đến không đi là pháp
tương, đây chính là tương ưng nơi pháp tánh cứu cánh kiên cố vậy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment