Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 104
PHÁP HỘI PHỔ MINH BỒ TÁT
THỨ BỐN MƯƠI BA
Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo tám ngàn
người câu hội. Đại Bồ Tát vạn sáu ngàn người đều là bực bất thối chuyển từ các Phật độ đến họp, đều là bực nhất sanh thành Phật.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp: "Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp thối thất trí huệ. Một là chẳng tôn trọng pháp chẳng kính pháp sư. Hai là được thọ thâm pháp bí ẩn chẳng nói hết. Ba là có người ưa thích pháp thì
làm chướng nạn nói các nhơn duyên làm trở hoại lòng họ. Bốn là kiêu mạn tự cao ti hạ người khác. Đây là bồ Tát bốn pháp thối thất trí huệ.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp được đại trí huệ: một là thường tôn trọng pháp cung kính pháp sư, hai là tùy theo
phápđược nghe dùng tâm
thanh tịnh mà rộng giảng nói cho người chẳng cầu tất cả danh văn lựi dưỡng, ba là biết rằng từ đa văn mà sanh trí huệ nên siêng cầu chẳng lười như cưú cháy đầu, bốn là nghe kinh tụng trì thích như thuyết thật hành chẳng theo ngôn thuyết. Đây là Bồ Tát bốn pháp được đại trí huệ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mất tâm Bồ đề: một là khi dối sư trưởng chẳng cung kính kinh pháp đã thọ, hai là chỗ không có nghi hối mà làm người khác nghi hối, ba là người cầu Đại thừa mắng rầy chê bai bêu xấu họ, bốn là dùng tâm siểm khúc mà tùng sự nơi người. Đây là Bồ Tát bốn pháp mất tâm Bồ đề.
Lại nầy Đại Cá Diếp! Bồ Tát bốn pháp đời đời chẳng mất tâm Bồ đề nhẫn đến lúc ngồi đạo tràng tự nhiên hiện tiền: một là dầu là nhơn duyên mất mạng cũng chẳng vọng ngữ huống là chơi cười, hai là thường dùng trực tâm tùng sự cho người rời lìa siểm khúc, ba là đối với chư Bồ Tát tưởng là Phật hay xưng dương danh hiệu các Ngài khắp bốn phương, bốn là tự mình chẳng yêu thích pháp Tiểu thừa có giáo hóa ai đều khiến họ an trụ Vô thượng Bồ đề. Đây là Bồ Tát bốn pháp chẳng
mất tâm Bồ đề nhẫn đến đạo tràng tự nhiên hiện tiền.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mà pháp lành đã được sanh phải mất chẳng tăng trưởng: một là dùng tâm kiêu mạn đọc tụng tu học kinh lộ già gia, hai là lòng tham lợi dưỡng đến nhà đàn việt, ba là ghét và hủy báng Bồ Tát, bốn là với kinh chưa nghe thì trái nghịch chẳng tin. Đây là Bồ Tát bốn pháp làm mất chẳng tăng trưởng pháp lành đã sanh.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp mà pháp lành được sanh tăng trưởng chẳng mất.
Một là bỏ lìa tà pháp cầu chánh kinh điển lục Ba la mật Bồ Tát pháp tạng, hai là lòng không kiêu mạn đối với chúng sanh khiêm ti hạ hạ, ba là như pháp được bố thí biết vừa biết đủ lìa các tà mạng an trụ thánh chủng, bốn là chẳng bêu tội lỗi hư thiệt của người chẳng cầu chỗ dỡ của người, nếu ở các pháp lòng mình
chẳng thông đạt thì nghĩ rằng: Phật pháp vô lượng tùy chỗ thích của chúng sanh mà
thuyết pháp cho họ, chỉ có Phật biết chẳng phải chỗ hiểu của tôi, lấy Phật làm chứng mà chẳng sanh lòng trái nghịch. Đầy là Bồ Tát bốn pháp mà pháp lành đã sanh thì tăng trưởng chẳng mất.
Nầy Đại Ca Diếp! Có bốn tâm siểm khúc mà Bồ Tát phải xa lìa: một là ở trong Phật pháp thì sanh lòng nghi hối, hai là đối với chúng sanh thì kiêu mạn sân hận, ba là với lợi dưỡng của người thì sanh lòng tật đố, bốn là mắng chửi Bồ Tát bêu tiếng xấu các Ngài. Đây là bốn tâm siểm khúc mà Bồ Tát phải xa lìa.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng trực tâm: một là có phạm tội không phú tàng mà
phát lộ với người lòng không phiền muộn, hai là nếu mất nước thân mạng tài sản, gặp lúc sự việc gấp ấy cũng chẳng vọng ngữ chẳng nói kháic, ba là tất cả sự ác hủy báng mắng nhiếc đánh đập trói buộc, lúc bị các sự khổ nạn như vậy chỉ tự trách mình tự y theo nghiệp báo chẳng giận hờn ngươi, bốn là an trụ tín lực nếu nghe Phật pháp thậm thâm khó tin thì tin mình thanh tịnh có thể đều thọ trì cả. Đây là Bồ Tát có bốn tướng trực tâm.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng bại hoại: một là đọc tụng kinh điển mà sanh hí luận chẳng thật hành theo pháp,
hai là chẳng có thể cung kính phụng thuận sư trưởng khiến lòng các Ngài vui đẹp, ba là làm tổn sự cúng dường của người tự trái bổn thệ mà thọ tín thí, bốn là Bồ Tát tốt thì khinh mạn bất kính. Đây là Bồ Tát có bốn tướng bại hoại.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng thiện thuận: một là kinh chưa được nghe, nghe rồi tín thọ thật hành như lời y chỉ nơi pháp chẳng y theo ngôn thuyết, hai là tùy thuận sự giáo hay biết ý chỉ dễ dàng cùng thưa nói chỗ làm đều hay giỏi chẳng sai ý sư trưởng, ba là chẳng thối giới định dùng tâm điều thuận mà thọ cúng dường, bốn là thấy Bồ Tát tốt thì cung kính yêu
thích tùy thuận người lành bẩm thọ đức hạnh. Đây là Bồ Tát có bốn tướng điều thuận.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn tướng sai lầm: một là với người chẳng tin được mà đồng ý với họ, hai là với chúng sanh phi
khí mà thuyết pháp thậm thâm, ba là với người thích Đại thừa lại tán thán Tiểu thừa cho họ, bốn là lúc bố thí chỉ cho người trì giới người lành mà không cho
người ác. Đây là Bồ Tát có bốn tướng sai lầm.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chánh đạo: một là đối với chúng sanh có tâm bình đẳng, hai là khắp giáo hóa chúng sanh đồng dùng Phật huệ, ba là đối với chúng sanh bình đẳng thuyết pháp, bốn là khắp làm cho chúng sanh đồng an trụ chánh hạnh. Đây là Bồ Tát có bốn chánh đạo.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chẳng phải thiện tri thức chẳng phải thiện đẳng lữ: một là người cầu Thanh Văn chỉ muốn tự lợi, hai là người cầu Duyên Giác vui thích ít sự, ba là đọc ngoại điển Lộ Già Gia Tỳ văn từ nghiêm sức, bốn là người được thân cận chỉ thêm thế lợi chẳng lợi ích chánh pháp. Đây là Bồ Tát có bốn phi thiện tri thức phi thiện đẳng lữ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn thiện tri thức bốn thiện đẳng lữ: một là người đến cầu xin cầu học là thiện tri thức vì là nhơn duyên Phật đạo, hai là người hay thuyết pháp là thiện tri thức vì sanh trí huệ, ba là người hay bảo người khác khiến xuất gia là thiện tri thức vì tăng trưởng thiện pháp, bốn là chư Phật Thế Tôn là thiện tri thức vì tăng trưởng tất cả Phật pháp vậy. Đây là Bồ Tát bốn thiện tri thức bốn thiện đẳng lữ.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn phi Bồ Tát mà tợ Bồ Tát: một là tham cầu lợi dưỡng mà chẳng cầu pháp, hai là tham
cầu danh xưng
mà chẳng cầu phước đức, ba là tham cầu tự vui mà chẳng cứu chúng sanh để diệt pháp khổ, bốn là thích tụ họp đồ chúng mà chẳng thích xa lìa.
Đây là bốn phi Bồ Tát mà tợ Bồ Tát.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn chơn thiệt Bồ Tát: một là hay tin hiểu không mà cũng tin
nghiệp báo, hai là biết tất cả pháp không có ngô ngã mà đối với chúng sanh khởi tâm đại bi, ba là rất thích Niết Bàn mà đi trong sanh tử, bốn là thật hành sả thí đều vì chúng sanh mà chẳng cầu báo. Đầy là bốn chơn thiệt Bồ Tát.
Nầy Đại ca Diếp! Bồ Tát có bốn đại tạng: một là nếu Bồ Tát được gặp chư Phật, hai là hay nghe sáu Ba la mật và nghĩa giải ấy, ba là dùng tâm vô ngại nhìn người thuyết pháp, bốn là thích hạnh viễn ly tâm không giải đãi. Đây là Bồ Tát có bốn đại tạng.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp hay quá ma sự: một là thường chẳng bỏ rời tâm Bồ đề, hai là đối chúng sanh lòng
không giận hại, ba là biết rõ các tri kiến, bốn là lòng chẳng khinh tiện tất cả chúng sanh. Đây là Bồ Tát bốn pháp hay vượt khỏi ma sự.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn pháp nhiếp các thiện căn: một là ở tại chỗ không nhàm rời lìa tâm siểm khúc, hai là ở trong các chúng sanh hành bốn nhiếp pháp mà chẳng cầu báo, ba là vì cầu pháp nên chẳng tiếc thân mạng, bốn là tu các thiện căn lòng không chán đủ. Đây là Bồ Tát bốn pháp nhiếp các thiện căn.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát có bốn vô lượng phước đức trang nghiêm: một là dùng tâm thanh tịnh mà thật hành pháp thí, hai là ở nơi người phá giới sanh lòng đại bi, ba là ở trong các chúng sanh ca ngợi tuyên dương tâm Bồ đề, bốn là đối với những kẻ hạ liệt thì tu tập nhẫn nhục. Đây là Bồ Tát có bốn vô lượng phước đức trang nghiêm.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Gọi là Bồ Tát ấy chẳng phải chỉ danh tự là Bồ Tát mà người hay thật hành pháp lành thật hành tâm bình đẳng thì gọi là bồ Tát. Lược nói người thành tựu được ba mươi hai pháp thì gọi là Bồ Tát: một là thường vì chúng sanh thâm cầu an lạc đều làm cho họ được an trụ trong Nhứt thiết trí, hai là lòng
chẳng ganh ghét trí huệ của người, ba là phá hoại kiêu mạn, bốn là rất thích Phật đạo, năm là yêu kính
không luống thân hậu cứu cánh, sáu là ở trong oán thân
tâm mình đồng đều đến nơi Niết bàn, bảy là lúc nói thường mỉm cười để ý thăm hỏi trước, tám là công việc được làm chẳng nghỉ giữa chừng, chín là khắp vì chúng sanh mà
bình đẳng hành đại bi lòng không nhàm mỏi, mười là đa văn không
chán, mười một là tự tìm lỗi mình chẳng nói lỗi người, mười hai là dùng tâm Bồ đề hành các oai nghi,
mười ba là ban ơn cho người chẳng cầu báo đáp, mười bốn là chẳng y nơi chỗ sanh mà hành trì
giới, mười lăm là ở trong các chúng
sanh hành vô ngại nhẫn, mười sáu là vì tu tất cả thiện căn mà hành tinh
tiến, mười bảy là rời lìa sanh cõi Vô Sắc mà phát khởi thiền định, mười tám là hành phương tiện huệ ứng dụng bốn nhiếp pháp, mười chín là với chúng sanh thiện hay ác đều từ tâm vô úy, hai mươi là nhứt tâm nghe pháp,
hai mươi mốt là tâm an trụ viễn ly, hai mươi hai là tâm chẳng thích ham các sự thế gian, hai mươi ba là chẳng tham Tiểu thừa, hai mươi bốn là ở trong Đại thừa thường thấy lợi ích lớn, hai mươi lăm là lìa ác tri thức thân cận thiện hữu, hai mươi sáu là thành bốn phạm hạnh, hai mươi bảy là du hí thần thông, hai mươi tám là thường y chơn trí, hai mươi chín là ở nơi chánh hạnh được các chúng sanh thật hành đều chẳng vứt bỏ, ba mươi là lời nói thường quyết định, ba mươi mốt là quí pháp chơn thiệt, ba mươi hai là tất cả việc làm đều lấy Bồ đề làm đầu. Nếu người có ba mươi hai pháp nầy thì gọi là Bồ Tát.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát phước đức vô lượng vô biên nên dùng thí dụ nhơn duyên để rõ biết.
Ví như đại địa, tất cả chúng sanh thọ dùng mà không tâm
phân biệt chẳng cầu họ báo đáp. Cũng vậy, Bồ Tát từ sơ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tất cả chúng sanh đều nhờ lợi ích, mà Bồ Tát tâm không phân
biệt chẳng cầu báo đáp.
Ví như thủy chủng, tất cả lúa mạ cỏ cây đều được tăng trưởng, Cũng vậy, Bồ Tát vì tự tâm thanh tịnh nên từ bi trùm khắp tất cả chúng sanh đều khiến tăng trưởng tất cả pháp lành.
Ví như hỏa chủng đều có thể thành thục tất cả trái hột của lúa cây. Cũng vậy, trí huệ của Bồ Tát đều có thể thành thục tất cả pháp lành.
Ví như phong chủng có thể thành lập tất cả thế giới. Cũng vậy, Bồ Tát phương tiện đều có thể thành lập tất cả Phật pháp.
Ví như mặt nguyệt từ lúc sơ sanh ánh sáng hình sắc của nó ngày ngày tăng
trưởng. Cũng vậy, Bồ Tát tịnh tâm tất cả pháp lành ngày
ngày tăng trưởng.
Ví như mặt nhựt lúc mới mọc đồng thời phóng quang chiếu sáng khắp nơi cho chúng sanh. Cũng vậy, Bồ Tát phóng trí huệ quang đồng thời chiếu khắp tất cả chúng sanh.
Ví như sư tử thú vương đến chỗ nào cũng chẳng kinh chẳng sợ. Cũng vậy, Bồ Tát trì giới thanh tịnh trí huệ chơn thiệt ở chỗ nào cũng đều chẳng kinh chẳng sợ.
Ví như tượng vương khéo điều thuận thì có thể làm xong việc lớn nặng mà thân chẳng mệt nhọc. Cũng vậy, Bồ Tát vì khéo điều tâm nên có thể vì chúng sanh làm
lợi ích lớn tâm không mỏi nhọc.
Ví như các hoa sen sanh
trong nước mà nước chẳng dính được. Cũng vậy, Bồ Tát sanh giữa thế gian mà pháp thế gian chẳng ô nhiễm được.
Ví như có người đốn cây vì còn gốc nên lại mọc. Cũng vậy, Bồ Tát vì có sức phương tiện nên dầu đoạn kiết sử mà còn có thiện căn ái nên lại sanh trong tam giới.
Ví như những dòng nước các phương chảy vào biển thì đều thành một vị. Cũng vậy, Bồ Tát dùng nhiều pháp môn họp các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề đều thành một vị.
Ví như núi Tu Di, chư Thiên Trời Đai Lợi và Trời Tứ Thiên Vương đều nương đó mà ở. Cũng vậy, tâm Bồ đề của Bồ Tát làm chỗ nương ở cho Nhứt thiết trí.
Ví như có có đại quốc vương do sức các quan mà xong việc nước. Cũng vậy, trí huệ của Bồ Tát do sức phương tiện nên đều thành tựu được tất cả Phật sự.
Ví như lúc tạnh sáng sạch không có mây mù ắt không có tướng mưa. Cũng vậy, trí huệ của Bồ Tát do sức phương tiện nên đều thành tựu được tất cả Phật sự.
Ví như lúc tạnh sáng sạch không có mây mù ắt không có tướng mưa. Cũng vậy, Bồ Tát quả văn không có tướng pháp vũ.
Ví như lúc trời đầy mây âm u ắt có thể mưa xuống đầy đủ cho chúng sanh. Cũng vậy, Bồ Tát từ mây đại bi khởi mưa đại pháp lợi ích chúng sanh.
Ví như Chuyển Luân Vương xuất hiện nơi nào thì có thất bửu. Cũng vậy, lúc Bồ Tát xuất hiện thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo xuất hiện thế gian.
Ví như châu như ý bửu ở chỗ nào thì có vô lượng kim ngân trân bửu. Cũng vậy, Bồ Tát xuất hiện ở nơi nào thì có trăm ngàn vô lượng bửu Thanh Văn, Duyên Giác.
Ví như chư Thiên Trời Đao Lợi vào vườn Đồng đẳng thì chỗ thọ dụng đều đồng đẳng. Cũng vậy, vì Bồ Tát tâm chơn tịnh nên ở trong chúng sanh bình đẳng giáo hóa.
Ví như sức chú thuật và thuốc làm cho độc chẳng hại người. Cũng vậy, do sức trí huệ mà Bồ Tát kiết độc chẳng đọa ác đạo.
Ví như vật dơ uế phế thải trong đại thành mà đem đổ vào ruộng mía ruộng nho thì có lợi ích. Cũng vậy, Bồ Tát kiết sử còn thừa đều là nhơn duyên lợi ích Nhứt thiết trí.
Nầy Đại Ca Diếp! Bồ Tát thường muốn học kinh Đại Bửu Tích này thì phải thường tu tập chánh quán các pháp. Thế nào là chánh quán? Đó là chơn thiệt tư duy các pháp. Người chơn thiệt chánh quán thì chẳng quán ngã nhơn chúng sanh thọ mạng. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán thì quán sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường, quán thọ tưởng hành và thức chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán thì quán địa chủng chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường, quán thủy hỏa và phong chủng chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Đây gọi là trung đạo chơn thiệt chánh quán.
Tại sao vậy? Vì thường là một bên, vô thường là một bên, còn giữa thường và vô thường thì không có sắc không có hình không có danh không có trí giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Ngã là một bên, vô ngã là một bên, còn giữa ngã và vô ngã thì không có sắc không có hình không có danh không có tri giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Nếu tâm có thiệt thì là một bên nếu tâm phi thiệt cũng là một bên, nếu không có tâm thức cũng không có tâm số pháp, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Như thế thì pháp thiện và pháp bất thiện, pháp thế gian và pháp xuất thế gian, pháp có tội và pháp không có
tội, pháp hữu lậu và pháp vô lậu, pháp hữu vi và pháp vô vi, nhẫn đến pháp có cấu uế và pháp không có cấu uế cũng đều như vậy, rời lìa hai bên mà chẳng thể thọ được cũng chẳng thể nói được, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Hữu là một bên, vô cũng là một bên, còn giữa hữu và vô thì không có sắc không có hình không có danh không có tri giác, đây gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Nầy Đại Ca Diếp! Thập nhị nhơn duyên đã được ta thuyết pháp: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc
duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Nhơn duyên như vậy chỉ là họp lại thành, là khối đại khổ. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt mà khối đại khổ diệt. Minh cùng vô
minh không có hai không có khác. Biết rõ như vậy thì gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Như thế thì hành và phi
hành, thức và sở thức, danh sắc thấy được và chẳng thấy được, các lục nhập xứ và lục thần thông, xúc và sở xúc, thọ và thọ diệt, ái và ái diệt, thủ và thủ diệt, hữu và hữu diệt, sanh và sanh diệt, lão tử và lão tử diệt, đều không hai không khác. Biết rõ như vậy thì gọi là trung đạo thiệt quán các pháp.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Người chơn thiệt quán, chẳng do vì không khiến các pháp không mà pháp tánh tự không, chẳng do vì vô tướng khiến các pháp vô tướng mà các pháp tự vô tướng, chẳng do vì vô nguyện khiến các pháp vô nguyện mà các pháp tự vô nguyện, chẳng do vì vô khởi vô sanh vô ngã vô
thủ vô tánh khiến các pháp vô khởi đến vô tánh mà các pháp tự vô khởi đến vô tánh. Người quán như vậy gọi là thiệt quán.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Chẳng phải vì vô nhơn nên gọi là không mà không
có tự không: tiền tết không hậu tế không trung tế cũng không. Nên y nơi không chớ y nơi nhơn. Nếu do được không bèn y nơi không thì nơi Phật pháp là thối đọa vậy.
Vì thế nên, nầy Đại Ca Diếp! Thà khởi ngã kiến chứa bằng núi Tu Di mà chẳng lấy không kiến khởi tăng thượng mạn.
Tại sao vậy, vì tất cả kiến chấp do nơi không mà được thoát, nếu khởi không kiến thì chẳng thể trừ được.
Ví như y sư cho thuốc khiến bịnh chuyển động, thuốc ấy ở trong thân người bịnh mà không ra
ngoài, nầy Đại Ca Diếp, ý ông thế nào, người bịnh ấy được lành chẳng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không lành, thuốc ấy chẳng ra ngoài thì bịnh càng tăng.
- Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, tất cả kiến chấp duy không là có thể trừ diệt, nếu khởi không kiến thì chẳng trừ được.
Ví như có người sợ hư không kêu khóc đấm ngực mà la lên rằng: tôi bỏ hư không. Nầy Đại Ca Diếp! Ý ông thế nào, hư không ấy có bỏ được chăng?
- Bạch đức Thế Tôn! Không bỏ được.
Nầy Đại Ca Diếp! Nếu ai sợ pháp không thì ta bảo người ấy cuồng loạn thất tâm. Vì họ thường đi trong pháp không mà lại sợ pháp không vậy.
Ví như hoạ sư tự tay họa tượng quỉ Dạ Xoa, rồi thấy tượng quỉ lại kinh sợ mê muội té xuống đất. Cũng vậy, tất cả phàm phu tự tạo sắc thanh hương vị xúc nên qua lại sanh tử thọ các khổ não mà chẳng tự hay biết.
Ví như huyễn sư tự hóa người huyễn rồi trở lại tự tàn hại. Cũng vậy, Tỳ Kheo có pháp
được quán đều không đều tịch không có kiên cố, quán ấy cũng không.
Ví như hai khúc gỗ cọ nhau có lửa phát sanh trở lại đốt cháy khúc gỗ ấy. Cũng vậy, do chơn thiệt quán nên sanh thánh trí, thánh trí sanh rồi trở lại đốt tiêu thiệt quán.
Ví như thắp đèn thì tối tăm tự không có, tối ấy không từ đâu lại đi cũng không đến đâu, chẳng phải từ phương Đông lại đi cũng chẳng đến Nam Tây Bắc tứ duy trên dưới, chẳng từ kia lại đi cũng chẳng đến đâu. Ánh sáng đèn
nầy không có quan niệm tôi hay diệt tối. Chỉ vì đèn sáng mà không tối. Sáng và tối đều không vô tác vô thủ. Cũng vậy, lúc thiệt trí sanh thì vô trí diệt. Trí và vô trí đều không vô tác, vô thủ.
Ví nhà tối suốt ngàn năm chưa từng thấy ánh s1nhg, nếu lúc thắp đèn, nầy Đại Ca Diếp, ý ông thế nào, bóng tối ấy chừng có quan niệm rằng tôi ở đây đã lâu chẳng muốn đi chăng?
-Bạch đức Thế Tôn! Không, nếu lúc thắp đèn, tối ấy vô lực ắt phải diệt mất.
-Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, trăm ngàn vạn kiếp đã kiết nghiệp từ lâu, dùng nhứt thiệt quán sát thì liền tiêu diệt. Ánh sáng đèn kia là thánh trí vậy, bóng tối kia là kiết nghiệp vậy.
Ví như hột giống mà ở hư không thì chẳng bao giờ sanh trưởng được. Cũng vậy, Bồ Tát thủ chứng thì chẳng bao giờ tăng trưởng Phật pháp được.
Ví như hột giống mà ở tại ruộng tốt thì hay sanh trưởng. Cũng vậy, Bồ Tát có các kiết sử rời lìa thế gian pháp có thể tăng trưởng Phật pháp.
Ví như đất khô cao nguyên chẳng sanh hoa sen.
Cũng vậy Bồ Tát ở trong vô vi chẳng sanh Phật pháp.
Ví như trong bùn nước ướt thấp sanh hoa sen.
Cũng vậy Bồ Tát ở trong sanh tử tà định chúng sanh hay sanh Phật pháp.
Ví như có bốn đại hải, trong ấy, đầy sanh tô. Cũng vậy, Bồ Tát hữu vi thiện căn nhiều vô lượng.
Ví như chẻ sợi lông ra làm trăm
phần, lấy một phần lông chấm một giọt nước trong biển. Cũng vậy, tất cả hành Thanh Văn thiện căn hữu vi cũng rất ít như vậy.
Ví như lỗ rỗng trống của một hột cải nhỏ. Trí huệ hữu vi của tất cả hành Thanh Văn
cũng nhỏ như vậy.
Ví như khoảng không gian mười phương vô lượng vô biên. Bồ Tát hữu vi trí huệ năng lực cũng vô lượng như vậy.
Ví như Đại Vương dòng Sát Lợi có đại phu nhơn thông dâm với kẻ bần tiện mang thai sanh
con trai, nầy Đại Ca Diếp, ý ông thế nào, có phải là Vương Tử chăng?
-Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
-Nầy Đại Ca Diếp! Cũng vậy, chúng Thanh Văn của ta dầu đồng chứng do pháp tánh sanh mà chẳng gọi là chơn thiệt Phật tử của đức Như Lai.
Ví như Đại Vương dòng Sát Lợi thông dâm với thể nữ có thai sanh con trai, cầu ra từ họ hèn hạ mà được gọi là Vương Tử. Cũng vậy, sơ phát tâm Bồ Tát dầu chưa có đủ phước đức trí huệ lại qua sanh tử tùy lực thế của mình mà lợi ích chúng sanh.
Đây gọi là Như Lai chơn thiệt Phật tử.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có ngàn con trai chưa có một người có tướng Thánh Vương, trong ngàn con
trai ấy Chuyển Luân Thánh Vương chẳng nghĩ tưởng là con trai mình.
Cũng vậy, dầu có trăm ngàn vạn ức Thanh Văn quyến thuộc vây quanh mà không có Bồ Tát trong đại chúng ấy, đức Như Lai chẳng nghĩ tưởng là Phật tử.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có đại phu nhơn mang thai bảy ngày, đứa con trai ấy có tướng Chuyểng Luân Vương chư Thiên tôn trọng hơn các con trai khác
đã có đủ thân thể sức lực. Tại sao? Vì Vương Tử trong thai non ấy chắc sẽ nối ngôi tôn quí kế làm giống Thánh Vương. Cũng vậy, sơ phát tâm Bồ Tát dầu chưa đủ Bồ Tát căn nhưng được chư Thiên thần vương hết lòng tôn trọng hơn bực đại A La Hán đủ bát giải thoát. Tại sao? Vì Bồ Tát ấy được gọi là nối ngôi tôn quí chẳng dứt giống Phật.
Ví như một viên lưu ly châu hơn cả tòa núi thủy tinh. Cũng vậy, Bồ Tát từ lúc mới phát tâm đã hơn chúng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Ví như ngày phu nhơn của Đại Vương sanh con trai,
các tiểu vương quần thần đều đến bái yết. Cũng vậy, Bồ Tát lúc sơ phát tâm, chư Thiên thế nhơn đều nên lễ kính.
Ví như trong núi Tuyết sanh dược thảo không thuộc về ai không có phân biệt, tùy bịnh uống dùng đều hay chữa trị. Cũng vậy, Bồ Tát chức họp trí huệ không chỗ phân biệt bình đẳng cứu hộ khắp tất cả chúng sanh.
Ví như mặt nguyệt sơ sanh được mọi người ái kính hơn mặt nguyệt tròn. Cũng vậy, người tin lời Phật thì ái kính Bồ Tát hơn đức Như Lai. Tại sao? Vì do nơi chư Bồ Tát mà sanh ra đức Như Lai vậy.
Ví như kẻ ngu bỏ mặt nguyệt mà lễ thờ tinh tú. Người trí thì chẳng như vậy, chẳng bỏ lìa người tu hạnh Bồ Tát để lễ kính hàng Thanh Văn.
Ví như tất cả thế gian dầu Trời hay Người giỏi dồi sửa viên ngọc giả cũng chẳng thể làm thành lưu ly bửu châu được. Cũng vậy, người cầu Thanh Văn dầu trì tất cả giới thành tựu thiền định cũng trọn chẳng thể được ngồi đạo tràng thành Vô thượng Bồ đề.
Ví như dồi sửa lưu ly bửu châu hay xuất sanh vô lượng trân bửu. Cũng vậy, giáo hóa thành tựu Bồ Tát hay xuất sanh vô lượng Thanh Văn Bích Chi Phật.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Chư Bồ Tát phải thường cầu lợi ích cho chúng sanh và chánh tu tập, tất cả thiện căn phước đức đã có đều bình đẳng ban cho tất cả chúng sanh, trí dược đã có mang đến khắp mười phương chữa trị cho chúng sanh khiến đều cứu cánh.
Những gì gọi là trí dược cứu cánh? Đó là dùng
bất tịnh quán trị tham dâm, dùng từ bi quán trị sân khuể, dùng nhơn duyên quán trị ngu si, dùng không
quán trị các kiến chấp, dùng vô tướng quán trị các ức tưởng phân biệt duyên niệm, dùng vô nguyện xuất ly tam giới, dùng tứ phi đảo trị tất cả đảo, dùng nghĩa các pháp hữu vi đều vô thường để trị quan niệm điên đảo chấp thường trong vô thường, dùng nghĩa hữu vi đều khổ để trị quan niệm điên đảo chấp vui trong các khổ, dùng nghĩa vô ngã
để trị quan niệm điên đảo chấp ngã trong vô ngã, dùng Niết bàn tịch diệt để trị quan niệm điên đảo chấp tịnh trong bất tịnh.
Dùng tứ niệm xứ để trị những chấp kiến dựa nương thân thọ tâm pháp. Hành giả quán thân, thuận theo thân tướng mà quán chẳng sa vào ngã kiến, thuận theo thọ tướng mà quán chẳng sa và ngã kiến, thuận theo tâm tướng mà quán chẳng sa vào ngã kiến, thuận theo pháp tướng mà quán chẳng sa vào ngã kiến. Tứ niệm xứ ấy hay chán tất cả thân thọ tâm pháp mà mở cửa Niết bàn.
Dùng tứ chánh cần hay dứt các pháp bất thiện đã sanh và ngăn các pháp bất thiện chưa sanh, hay khiến các thiện pháp chưa sanh thì xuất sanh và các pháp thiện đã sanh thì hay khiến tăng trưởng. Tóm lại, hay dứt tất cả pháp bất thiện và thành tựu các thiện pháp.
Dùng tứ như ý túc hay trị tất cả thân tâm trầm trọng khiến được như ý thần thông.
Dùng ngũ căn trị các chúng sanh bất tín giải đãi thất niệm loạn tâm không trí huệ.
Dùng ngũ lực chướng ngăn sức lực của các phiền não.
Dùng thất giác phần trị sự ngu si nghi hối sai lầm ở trong các pháp.
Dùng bát chánh đạo trị tất cả chúng sanh sa vào tà đạo.
Đây là cứu cánh trí dược của Bồ Tát mà chư Bồ Tát phải thường siêng tu tập vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Trong hàng y sư nơi Diêm Phù Đề, Kỳ Vức y vương là tối đệ nhứt. Giả sử tất cả chúng sanh trong
tam thiên Đại Thiên thế giới đều như Kỳ Vức, nếu có người hỏi thuốc trị bịnh kiết sử phiền não tà kiến nghi hối trong tâm thì họ còng chẳng đáp được huống là chữa trị được.
Bồ Tát ở trong đây phải quan niệm rằng: Tôi chẳng nên lấy thế dược làm đầy đủ mà phải cầu học tu tập thuốc trí xuất thế, cũng tu tất cả thiện căn phước đức. Bồ Tát như vậy được trí dược rồi đến khắp mười phương cứu cánh chữa lành cho tất cả chúng sanh.
Những gì gọi là Bồ Tát trí dược? Đó là biết các pháp không có
ngã nhơn chúng sanh thọ mạng tri kiến, không có tác
không có thọ, tin hiểu thông đạt không có ngã sở. Ở trong pháp không vô sở đắc ấy không có kinh sợ siêng năng tinh tiến mà suy tìm tâm tướng. Bồ Tát suy tìm tâm như vầy: Gì là tâm? Là tham dục hay sân khuể ngu si ư? Là quá khứ vị lai hiện tại ư! Nếu là tâm quá khứ thì đã dứt mất hết rồi, nếu là tâm vị lai thì chưa sanh chưa đến, nếu là tâm hiện tại thì không có an trụ. Tâm nầy chẳng phải tội ngoại trung gian. Tâm nầy không có sắc không có hình không có đối không có thức không có tri không có an trụ không có xứ sở. Tâm ấy như vậy, tam thế thập phương chư Phật đều chẳng có đã thấy đang thấy sẽ thấy. Nếu tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại mà chẳng thấy được tâm ấy thì nó làm sao có
được? Chỉ do nơi điên đảo tưởng nên tâm sanh các
pháp nhiều thứ sai biệt. Tâm nầy như ảo huyễn do ức tường phân biệt mà khởi các thứ nghiệp và thọ các thứ thân.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Tâm đi như gió vì chẳng nắm bắt được, tâm như nước chảy vì sanh diệt chẳng ngừng, tâm như ngọn đèn vì các duyên
mà có, tâm như ánh chớp vì niệm niệm diệt dứt, tâm như hư không vì khách trần ô nhiễm, tâm như khỉ vượn vì tham lục dục, tâm như họa sư vì hay khởi các nghiệp nhơn, tâm chẳng nhứt định vì theo dõi các thứ phiền não, tâm như đại vương vì là chủ tăng thượng các pháp, tâm thường độc hành không hai không bạn vì không có hai tâm đồng thời, tâm như voi cuồng đạp ngả các nhà đất vì hay phá hoại tất cả các thiện căn, tâm như nuốt lưỡi câu vì trong khổ mà tưởng là vui, tâm nầy như mộng vì trong vô ngã
mà sanh ngã tưởng, tâm như lằn xanh vì trong bất tịnh mà sanh tịnh tưởng, tâm như ác quỉ vì tìm dịp hại người, tâm thường cao hạ vì tham và sân làm hư hại, tâm như trộm cướp vì cướp mất tất cả thiện căn, tâm thường tham sắc như bướm đáp lửa, tâm thường tham thanh như quân đi lâu thích
tiếng trống trận, tâm thường tham hương như heo thích nằm trong chỗ bất tịnh, tâm thường tham vị như cô gái nhỏ ham ưua ăn ngon, tâm thường tham xúc như ruồi ưa dầu.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp! Suy tìm tâm tướng ấy trọn bất khả đắc. Nếu bất khả đắc thì chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Nếu chẳng phải quá vị hiện tại thì ra ngoài tam thế. Nếu ngoài tam thế thì phi hữu phi vô. Nếu phi hữu phi vô thì bất khởi. Nếu bất khởi thì vô tánh. Nếu vô tánh thì vô sanh. Nếu vô sanh thì vô diệt. Nếu vô diệt thì vô sở ly. Nếu vô sở ly thì vô lai vô khứ vô thối vô sanh. Nếu vô lai khứ thối sanh thì không có hành nghiệp. Nếu không có hành nghiệp thì vô vi. Nếu là vô vi thì là căn bổn của tất cả chư Thánh, trong ấy không có trì giới phá giới. Nếu không trì phá thì
vô hành cũng vô phi hành. Nếu không có hành không có phi hành thì không có tâm không có tâm
số pháp. Nếu không có tâm tâm sở thì không có nghiệp không có nghiệp báo. Nếu không có nghiệp không có nghiệp báo thì không có khổ lạc. Nếu không khổ lạc là thánh tánh, trong ấy không có nghiệp không có người khởi nghiệp, không có thân
nghiệp khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong ấy không có thượng trung hạ sai biệt, vì thánh tánh
bình đẳng như hư không vậy. Tánh ấy không sai biệt vì các pháp bình đẳng nhất vị. Tánh ấy viễn ly vì lìa tướng thân tướng tâm. Tánh ấy lìa tất cả pháp vì tùy thuận Niết Bàn tịch diệt vậy. Tánh ấy thanh tịnh vì lìa các phiền não cấu uế vậy. Tánh ấy vô ngã vì lìa ngã ngã sở vậy. Tánh ấy không cao hạ vì từ bình đẳng sanh vậy. Tánh ấy là chơn đế vì là đệ nhất nghĩa đế vậy. Tánh ấy vô tận vì cứu cánh bất sanh vậy. Tánh ấy thường trụ vì các pháp thường như vậy. Tánh ấy an lạc vì Niết bàn là đệ nhứt vậy. Tánh ấy thanh tịnh vì lìa tất cả tướng vậy. Tánh ấy vô ngã bất khả đắc vậy. Tánh ấy chơn tịnh vì từ bổn lai cứu cánh tịnh vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Các ông nên tự quán bên trong chớ duyên theo bên ngoài.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp! Các Tỳ Kheo đời sau như chó đuổi theo khối đất.
Thế nào là Tỳ Kheo như chó đuổi theo khối đất?
Ví nhu có người lấy khối đất ném chó, nó liền bỏ người mà đuổi theo khối đất. Cũng vậy, có các Sa Môn Bà La Môn sợ tục lụy mà ưa sắc thanh hương vị xúc, họ đến ở chỗ không nhàn không bè bạn rời chúng ồn náo, thân họ rời ngũ dục mà lòng họ chẳng bỏ. Có lúc hoặc họ nhớ sắc thanh hương vị xúc tốt rồi sanh lòng tham muốn mà chẳng quán bên trong,
họ chẳng biết thế nào là rời sắc thanh hương vị xúc. Vì chẳng biết nên có lúc họ đi vào tụ lạc thành ấp ử trong nhơn chúng, rồi họ lại bị sắc, thanh, hương, vị, xúc tốt trói chặt. Do họ trì tục giới nên sau khi chết được sanh cõi trời rồi lại bị ngũ dục lạc trói chặt. Sau thân trời họ chẳng khỏi được bốn ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và A Tu
La. Đây gọi là Tỳ Kheo như chó đuổi theo khối đất.
Thế nào là Tỳ Kheo chẳng như chó đuổi theo khối đất?
Nếu có Tỳ Kheo bị người mắng chẳng mắng lại, bị người đánh chẳng đánh lại, bị người giận hại chẳng giận hại lại, chỉ tự quán bên trong cầu điều phục tâm mình mà suy
nghĩ như vầy: kẻ mắng kẻ đánh kẻ hại là ai? Người thọ chịu là ai? Đây gọi là Tỳ Kheo chẳng như chó đuổi theo khối đất.
Ví như người chăn ngựa giỏi, tùy con ngựa ngang chứng thế nào đều có thể điều phục. Cũng vậy, hành giả giỏi tùy tâm mình hướng nơi đâu liền có thể thâu nhiếp, chẳn cho nó phóng dật.
Ví như bịnh nghẹt yết hầu liền có thể chết. Cũng vậy trong tất cả kiến chấp, duy có ngã kiến có thể tức thì đoạn mạng trí huệ.
Ví như có người bị trói, họ tùy chỗ bị trói mà cầu được mở. Cũng vậy, tùy tâm tham chấp chỗ nào, hành giả phải cầu tháo mở.
Nầy Đại Ca Diếp! Người xuất gia có hai tâm bất tịnh: một là đọc tụng các kinh sách ngoại đạo như Lộ Già Gia v.v..., hai là chứa nhiều y bát tốt.
Người xuất gia còn có hai sự cột chặt: một là kiến phược và hai là lợi dưỡng phược.
Người xuất gia còn có hai
pháp chướng: một là thân cận bạch y, hai là ghét bỏ người thiện.
Người xuất gia còn có hai thứ cấu uế: một là chịu đựng phiền não, hai là tham
các đàn việt.
Người xuất gia còn có hai thứ mưa đá phá nát thiện căn: một là trái chê chánh pháp, hai là phá giới mà thọ của tín thí.
Người xuất gia còn có hai nhọt ghẻ: một là tìm thấy lỗi người, hai là tự che lỗi mình.
Người xuất gia còn có hai
pháp thiêu đốt: một là tâm cấu uế mà thọ mặc pháp y, hai là thọ sự cúng dường của người lành trì giới.
Người xuất gia còn có hai thứ bịnh: một là ôm lòng tăng
thượng mạn mà tâm chẳng phục, hai là phá hoại người phát tâm Đại thừa.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Hàng Sa Môn có bốn hạng: một là hình phục Sa Môn, hai là oai nghi khi dối Sa Môn, ba là tham cầu danh văn Sa Môn, bốn là thiệt hành Sa Môn.
Có hạnh Sa Môn hình dạng và y phục đầy đủ: cạo bỏ râu tóc đắp tăng già lê cầm bát mà thành tựu thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, chẳng khéo giữ mình tham xan tật đố giải đãi phá giới làm ác, đây gọi là hình phục Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn đầy đủ bốn oai nghi nơi thân Sa Môn đi đứng ngồi nằm nhất tâm an tường, dứt các mùi ngon tu bốn thánh chủng, xa rời chúng hội và nhà ồn náo, nói năng dịu dàng, thật hành các pháp như vậy đều là để dối trá chớ chẳng phải là vì đạo thiện tịnh, nơi pháp không họ có chỗ thấy được, với pháp vô sở đắc họ sanh lòng e sợ như sợ rơi xuống hố sâu, với Tỳ Kheo luận đàm pháp không họ quan niệm như oán tặc, đây gọi là oai nghi khi cuống Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn do nhơn duyên hiện tại thật hành trì giới mà muốn khiến người biết, tự lực đọc tụng muốn khiến người biết mình đa văn, tự lực ở một mình nơi nhàn tĩnh muốn khiến người biết mình là a lan
nhã, thiểu dục tri túc hành viễn ly hạnh chỉ vì muốn người biết chớ chẳng vì chán lìa, chẳng vì đạo thiện tịch chẳng vì đắc đạo chẳng vì bốn quả Sa Môn chẳng vì Niết bàn, đây gọi là tham cầu danh văn Sa Môn vậy.
Có hạng Sa Môn chẳng tham thân mạng huống là lựi dưỡng, nghe các pháp
không vô tướng và vô nguyện thì tâm thông đạt tùy thuận thật hành đúng như lừi, họ chẳng vì Niết bàn mà tu phạm hạnh huống là tam giới, họ còn chẳng ưa khởi khiến chấp không vô ngã huống là kiến chấp ngã nhơn chúng sanh thọ giả, họ lìa pháp y chỉ mà cầu giải thóat phiền não, họ thấy tất cả pháp bổn lai vô cấu cứu cánh thanh tịnh mà tự y chỉ, cũng chẳng y chỉ nơi người, do chánh pháp thân còn chẳng thấy Phật huống là hình sắc khác, do không viễn ly nên còn chẳng thấy Pháp huống là tham trước âm thanh ngôn
thuyết, do pháp vô vi nên còn chẳng thấy Tăng huống là thấy có hòa hiệp chúng, mà nơi các pháp không chỗ đoạn trừ không chỗ tu hành, chẳng an trụ sanh tử chẳng tham trước Niết bàn, biết tất cả pháp bổn lai tịch diệt, chẳng thấy hệ phược chẳng cầu giải thoát, đây gọi là thiệt hành Sa Môn vậy.
Như vậy, nầy Đại Ca Diếp! Các ông nên tập làm thiệt hành Sa Môn, chớ bị danh tự nó làm hư hoại.
Nầy Đại Ca Diếp! Ví như người nghèo cùng hèn hạ giả danh giàu sang, ý ông thế nào, có xứng với danh chăng?
-Bạch đức Thế Tôn! Không.
-Cũng vậy, nầy Đại Ca Diếp! Người chỉ có danh tự Sa Môn Bà La Môn
mà không có công đức hạnh chơn thiệt của Sa Môn Bà La Môn
thì cũng như kẻ nghèo hèn kia mang
danh giàu sang giả.
Ví như có người trôi chìm giữa dòng sông lớn đói khát mà chết. Cũng vậy, có các Sa Môn đọc tụng nhiều kinh điển mà chẳng thể ngăn được sự thiếu khát tham sân si
nên trôi chìm trong pháp thủy mà chết vì phiền não.
Ví như dược sư tay cầm túi thuốc đi mà tự thân bịnh lại chẳng trị được. Cũng vậy người đa văn có phiền não, dầu có đa văn mà chẳng ngăn phiền não thì chẳng được tự lợi ích.
Ví như có người uống thuốc quí của nhà vua mà chẳng thích hớp nên bị thuốc làm hại. Cũng vậy, người đa văn có bịnh phiền não được thuốc pháp tốt mà chẳng thể tu tập thì tự hại thiện căn.
Ví như ma ni bửu châu rơi vào chỗ bất tịnh thì không thể đeo vào mình. Cũng vậy, người đa văn tham trước lựi dưỡng thì chẳng còn lợi ích được cho Trời Người.
Ví như thây người chết đeo chuỗi vàng, Tỳ Kheo đa văn phá giới đắp pháp y thọ người cúng dường cũng như vậy.
Ví như trưởng giả tử cắt móng tắm gội sạch thoa xích chiên đàn mặc y phục trắng mới đội vòng hoa trong ngoài tương xứng. Tỳ Kheo đa văn
trì giới mặc pháp y thọ người cúng dường cũng như vậy.
Lại nầy Đại Ca Diếp! Có bốn hạng Tỳ Kheo phá giới mà tợ trì giới tốt.
Có hạng Tỳ Kheo trì giới đầy đủ, trong các tội lớn nhỏ lòng thường e sợ, giới pháp được nghe đều có thể làm theo, thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp đều thanh tịnh, chánh mạng thanh tịnh, mà Tỳ Kheo nầy lại tuyên nói hữu ngã luận. Đây là tợ trì giới tốt thứ nhứt.
Có hạng Tỳ Kheo tụng trì giới luật thật hành theo lừi mà thân kiến chẳng diệt. Đây là tợ trì giới tốt thứ hai.
Có hạng Tỳ Kheo trì giới đầy đủ chấp lấy tướng chúng sanh mà
hành từ tâm, nghe nói tất cả pháp bổn lai vô sanh thì rất kinh sợ. Đây là trợ trì giới tốt thứ ba.
Có hạng Tỳ Kheo thật hành đủ mười hai đầu đà hạnh thấy co sở đắc. Đây là tợ trì giới tốt thứ tư.
Nầy Đại Ca Diếp! Người thiệt trì giới tốt thì không có ngã
ngã sở, không có tác phi tác, không có sở tác, cũng không có
tác giả, không hành phi hành, không sắc không danh, không có tướng phi tướng, không có diệt phi diệt, không có thủ xả, không có khả thủ khả khí, không có chúng sanh cũng không có danh tự chúng sanh, không
có tâm không có danh tự tâm, không có thế gian phi thế gian, không có y chỉ phi y chỉ, không lấy giới đức để tự cao cũng chẳng chê giới người, cũng chẳng ức tưởng phân biệt giới ấy. Đây gọi là giới hạnh được chư Thánh thọ trì, vô lậu chẳng hệ phược chẳng thọ tam giới xa rời tất cả các pháp y chỉ”.
Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa nầy nên nói kệ rằng:
Người trì giới thanh tịnh
Vô cấu vô sở hữu
Trì giới không kiêu mạn
Cũng không chỗ y chỉ
Trì giới không ngu si
Cũng không có hệ phược
Trì giới không trần ô
Cũng không có trái lỗi
Trì giới lòng lành mềm
Rốt ráo thường tịch diệt
Xa rời tất cả niệm
Ức tưởng và phân biệt
Giải thoát các động niệm
Là tịnh trì giới Phật
Chẳng dùng sanh tam giới
Tu tập các chánh hạnh
An trụ trong chánh đạo
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt trì tịnh giới
Trì giới chẳng nhiễm thế
Cũng chẳng nương thế pháp
Thành tựu sáng trí huệ
Không tối không sở hữu
Không tưởng ngã tưởng bỉ
Đã thấy biết các tướng
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt trì tịnh giới
Không thử ngạn bỉ ngạn
Cũng không có trung gian
Nơi không thử bỉ trung
Cũng không có sở trước
Không hệ phược không lậu
Cũng không có khi dối
Đây gọi là Phật pháp
Chơn thiệt trì tịnh giới
Tâm chẳng trước danh sắc
Chẳng chấp ngã ngã sở
Đây gọi là an trụ
Chơn thiệt trì tịnh giới
Dầu hành trì tịnh giới
Mà lòng chẳng tự cao
Cũng chẳng cho là hơn
Gặp giới cầu thánh đạo
Đây gọi là chơn thiệt
Thanh tịnh tì giới tướng
Chẳng cho giới tối thượng
Cũng chẳng quý tam muội
Quá hai sự nầy rồi
Tu tập chánh trí huệ
Không tịch vô sở hữu
Tánh thể của hiền thánh
Trì tịnh giới như vậy
Được chư Phật ngợi khen
Tâm giải thoát thân kiến
Trừ diệt ngã ngã sở
Tin hiểu nơi chư Phật
Sở hành pháp không tịch
Trì thánh giới như vậy
Thì không gì sánh bằng
Y giới được tam muội
Do định tu trí huệ
Nhơn nơi tu trí huệ
Bèn được thanh tịnh trí
Người đã được tịnh trí
Thì đủ giới thanh tịnh.
Đức Phật nói kệ xong, có năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát Ba vạn hai ngàn người xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có năm trăm Tỳ
Kheo nghe thâm pháp nầy lòng họ chẳng thông đạt chẳng tin hiểu, họ rời chỗ bỏ đi.
Trưởng lão Đại Ca Diếp bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Năm trăm Tỳ
Kheo ấy đều đã được thiền định mà vì chẳng thể tin hiểu nhập vào pháp thậm thâm nên họ đứng dậy bỏ đi”.
Đức Phật nói: “Nầy Đại Ca Diếp! Các Tỳ Kheo ấy đều là hạng tăng thượng mạn, họ nghe giới tướng thanh tịnh vô lậu nầy chẳng tin hiểu được chẳng thông đạt được Kệ của đức Phật nói ý nghĩa thậm thâm, tại sao? Vì chư Phật Bồ đề rất thậm thâm vậy. Nếu là người trồng thiện căn chẳng dày bị ác tri thức nắm giữ sức tin hiểu ít thì khó tín thọ được.
Nầy Đại Ca Diếp! Thuở Phật Ca Diếp quá khứ, năm trăm Tỳ Kheo ấy làm đệ tử ngoại đạo, họ đến chỗ Phật Ca Diếp muốn tìm hay dở. Họ nghe Phật thuyết pháp được chút ít lòng tin
mà suy nghĩ rằng: Đức Phật đây hy hữu lời nói lành tốt vi diệu. Do tâm lành ấy nên sau khi chết họ được sanh Trời Đao Lợi. Mãn thọ Trời Đao Lợi, họ sanh làm người Diêm Phù Đề được xuất gia trong pháp của ta. Các Tỳ Kheo ấy chấp sâu các kiến chấp, họ nghe nói pháp thậm thâm chẳng tin hiểu được chẳng tùy thuận thông đạt được. Các Tỳ Kheo ấy dầu chẳng thông đạt nhưng do nhơn duyên nghe pháp
thậm thâm nầy họ được lợi ích lớn chẳng sanh ác đạo. Họ sẽ ở thân hiện tại được nhập Niết bàn”.
Đức Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Ông qua nơi kia đem các Tỳ Kheo ấy đến đây”.
Trưởng lão Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Họ còn chẳng tin được lời Phật dạy, huống là Tu Bồ Đề nầy”.
Đức Phật liền hóa làm hai Tỳ Kheo đi trên đường mà năm trăm Tỳ
Kheo ấy đang hướng đến.
Chư Tỳ Kheo ấy gặp Hóa Tỳ Kheo liền hỏi: “Hai Đại Đức muốn đi về đâu?”. Hóa Tỳ Kheo
đáp: “Chúng tôi muốn đến chỗ ở riêng để tu Thiền định lạc. Tại sao? Vì chẳng tin hiểu được Pháp của Phật nói”.
Các Tỳ Kheo nói: “Nầy hai Đại Đức! Chúng tôi nghe Phật thuyết pháp cũng chẳng tin hiểu được nên muốn đi ở riêng tu hạnh thiền định”.
Hóa Tỳ Kheo nói: “Chúng ta phải rời lìa lòng tự cao nghịch tranh chấp, phải cầu tin hiểu nghĩa của Phật nói. Tại sao? Vì không cao không tranh chấ là pháp Tỳ Kheo vậy. Niết bàn được nói gọi là diệt ấy là diệt những gì? Trong thân nầy có ngã để diệt chăng? Có nhơn, có tác giả, có thọ giả, có mạng giả để diệt chăng?”.
Chư Tỳ Kheo đáp:
“Trong thân nầy không có ngã, nhơn tác giả, thọ giả, mạng giả để diệt, chỉ vì tham dục sân khuể ngu si diệt mà gọi là Niết bàn”.
Hóa Tỳ Kheo nói: “Tham sân si của các Ngài có tướng nhứt định diệt hết được chăng?”.
Chư Tỳ Kheo đáp: “Tham
sân si chẳng ở tại nội chẳng ở tại ngoại chẳng ở tại trung gian, lìa các ức tưởng thì nó chẳng sanh”.
Hóa Tỳ Kheo nói: “Vì thế nên các Ngài chớ có ức tưởng. Nếu các Ngài chẳng khởi ức tưởng phân biệ nơi pháp, thời ở nơi các pháp không nhiễm không lìa. Không
nhiễm không lìa thì gọi là tịch diệt. Giới phẩm được có cũng chẳng vãng lai cũng chẳng diệt tận. Định phẩm huệ phẩm giải thoát phẩm giải thoát tri kiến phẩm cũng chẳng vãng lai cũng chẳng diệt tận. Do pháp như vậy nên gọi là Niết bàn. Pháp ấy đều không đều viễn ly cũng chẳng thủ lấy được. Các Ngài xả ly tưởng niệm Niết bàn ấy, chớ theo tưởng chớ theo phi tưởng, chớ dùng tưởng để xả bỏ tưởng, chớ dùng tưởng để quán nơi tưởng. Dùng tưởng xả bỏ tưởng thì bị tưởng hệ phược. Các Ngài chẳng nên phân biệt tất cả thọ tưởng diệt định, vì tất cả các pháp vô phân biệt vậy. Nếu có Tỳ Kheo diệt dứt các thọ tưởng mà được diệt định thì là mãn túc không còn có trên”.
Lúc Hóa Tỳ Kheo nói pháp ấy, năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát, họ trở lại chỗ đức Phật đầu mặt lạy chơn Phật rồi đứng qua một bên.
Trưởng lão Tu Bồ Đề hỏi các Tỳ Kheo: “Các
Ngài đi đến chỗ nào, nay từ đâu lại?”
Các Tỳ Kheo đáp: “Như đức Phật thuyết pháp, không tư đâu lại, đi không đến đâu”.
Hỏi: Ai là thầy các Ngài?
Đáp: Thầy chúng tôi từ trước chẳng sanh cũng không
có diết.
Hỏi: Các Ngài từ đâu nghe pháp?
Đáp: Không có ngũ ấm thập nhị nhập thập bát giới từ đó nghe pháp.
Hỏi: Nghe pháp thế nào?
Đáp: Chẳng vì hệ phược chẳng vì giải thóat.
Hỏi: Các Ngài tu tập pháp gì?
Đáp: Chẳng vì được chẳng vì dứt.
Hỏi: Ai điều phục các Ngài?
Đáp: Thân không định tướng, tâm không sở hành, là điều phục tôi.
Hỏi: Làm sao tâm được giải thóat?
Đáp: Vì không dứt vô minh không sanh vô minh vậy.
Hỏi: Các Ngài là đệ tử ai?
Đáp: Người vô đắc vo tri kia.
Hỏi: Các Ngài chừng naò sẽ nhập Niết bàn?
Đáp: Như hóa nhơn của đức Như Lai nhập Niết bàn chúng tôi sẽ nhập.
Hỏi: Các Ngài đã được kỷ lợi chăng?
Đáp: Vì tự lợi bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài chỗ làm đã xong chăng?
Đáp: Vì chỗ làm bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài tu phạm hạnh chăng?
Đáp: Nơi tam giới chẳng hành cũng chẳng phải chẳng hành là phạm hạnh của chúng tôi vậy.
Hỏi: Các Ngài phiền não đã hết chăng?
Đáp: Tất cả các pháp cứu cánh không có tướng hết vậy.
Hỏi: Các Ngài đã phá ma chăng?
Đáp: Ấm ma bất khả đắc vậy.
Hỏi: Các Ngài phụng sự đức Như Lai chăng?
Đáp: Chẳng do thân tâm vậy.
Hỏi: Các Ngài an trụ phước điền chăng?
Đáp: Không có an trụ vậy.
Hỏi: Các Ngài đã đoạn sanh tử qua lại chăng?
Đáp: Không có thường không có đoạn vậy.
Hỏi: Các Ngài tùy pháp hành chăng?
Đáp: Vô ngại giải thoát vậy.
Hỏi: Các Ngài cứu cánh sẽ đến chỗ nào?
Đáp: Tùy nơi chỗ đến của hóa nhơn của đức Như Lai”.
Lúc Trưởng lão Tu Bồ Đề cùng các Tỳ Kheo hỏi đáp, trong đại chúng có năm trăm
Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ Phổ Minh Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Muốn học kinh Bửu Tích nầy, Bồ Tát nên trụ thế nào nên học thế nào?”.
Đức Phật dạy: “Bồ Tát học lời được nói trong kinh nầy đều không có tướng nhứt định, chẳng thủ lấy được cũng chẳng nên trước, Tùy theo đây thật hành có lợi ích lớn.
Nầy Phổ Minh! Ví như có người ngồi thuyền bằng đất chưa hầm chín để qua sông Hằng, họ dùng sức tinh tiến nào để ngồi thuyền ấy mà qua sông được?”.
Phổ Minh Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người ấy phải dùng sức đại tinh tiến mới qua sông được. Tại sao? Vì sợ giữa dòng thuyền rã”.
Đức Phật dạy: “Nầy Phổ Minh! Cũng vậy, Bồ Tát muốn tu Phật pháp nên siêng tinh tiến còn hơn nữa. Tại sao? Vì thân nầy vô thường không quyết định, nó là tướng bại hoại chẳng dừng được lâu trọn về nơi dứt diệt, vì sợ chưa được pháp lợi mà giữa chừng hư hoại vậy.
Ta ở dòng nước lớn muốn độ chúng sanh dứt bốn dòng nước vậy, nên tu tập pháp thuyền rồi ngồi pháp thuyền ấy qua lại sanh tử độ thoát chúng sanh.
Thế nào là pháp thuyền được Bồ Tát tu tập?
Đó là tâm bình đẳng. Tất cả chúng sanh làm nhơn duyên của thuyền, tu tập vô lượng phước để làm dây chắc, giới thanh tịnh làm ván, bố thí và quả để làm trang nghiêm,
tịnh tâm Phật đạo làm chất gỗ, tất cả phước đức để làm hoàn đủ, nhẫn nhục làm dây kiên cố mềm dài, chánh niệm là định. Các Bồ đề phần kiên cường tinh tiến tối thượng diệu thiện sản xuất trong rừng pháp, bất khả tư nghị vô lượng thiền định phước đức nghiệp thành, thiện tịch điều tâm để làm thợ giỏi, cứu cánh bất hoại được đại bi nhiếp lấy, dùng tứ nhiếp pháp rộng độ đến xa, dùng sức trí huệ phòng ngừa các oán tặc, sức thiện phương tiện nhiều thứ tập họp, dùng bốn phạm hạnh lớn để trang nghiêm, dùng tứ niệm xứ làm lầu vàng, dùng tứ cần tứ túc làm gió mạnh, ngũ căn khéo quan sát rời lìa hiểm trở, ngũ lực càng nhẹ nổi, thất giác thường giác ngộ hay phá giặc ma, vào đường bát chánh chơn tùy ý đến bờ rìa mé ngoại đạo, chỉ làm điều ngự, quán làm lợi ích, chẳng dính mắc hai bên, có pháp
nhơn duyên để làm an ổn, Đại thừa rộng rãi biện tài vô tận tiếng tăm vang xa, hay
tế độ thập phương tất cả chúng sanh mà tự xướng lên rằng: Đến đay lên pháp thuyền theo đường an ổn đến bờ Niết bàn khỏi bến thân kiến mà đến bến Phật đạo rời tất cả kiến chấp.
Nầy Phổ Minh! Vì thế mà Bồ Tát phải tu tập pháp thuyền như vậy.
Dùng pháp thuyền ấy trải vô lượng trăm ngàn vạn a tăng kỳ kiếp ở trong sanh tử độ thoát tất cả chúng sanh troi
chìm trong dòng nước lớn.
Lại nầy Phổ Minh! Còn có pháp hành hay làm cho Bồ Tát mau được thành Phật. Đó là các việc được làm đều chơn thiệt chẳng hư, tu tập thiện pháp sâu dày,
thâm tâm thanh tịnh, chẳng bỏ tinh tiến, ưa muốn gần sáng suốt để tu tập tất cả các thiện căn, thường chánh ức niệm vì thích pháp lành, đa văn không chán vì đủ trí huệ, phá hoại kiêu mạn để tăng ích trí huệ, trừ diệt hí luận để đủ phước đức, thích an ở một mình vì thân tâm rời lìa, chẳng ở ồn náo vì xa kẻ ác, sâu cầu chánh pháp vì y đệ nhứt nghĩa, cầu đại trí huệ vì thông đạt thiệt tướng, cầu nơi chơn đế vì được bất hoại pháp, cầu nơi pháp không vì sở hành chơn chánh, cầu nơi viễn ly vì được tịch diệt vậy.
Nầy Phổ Minh! Đây là pháp hành hay làm cho Bồ Tát mau thành Phật đạo".
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Phổ Minh Bồ Tát, Trưởng lão Đại Ca Diếp, Trưởng lão Tu Bồ Đề v.v... tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La đều rất hoan hỉ đảnh đới phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment