Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 146
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật du Vương Xá thành chỗ đi của Như Lai, ở tại nhà Bửu Trang Nghiêm Đường được tạo nên bởi đại công đức, là quả báo bổn hành tất cả pháp của Phật, hay dung chứa vô lượng chúng Bồ Tát, pháp được Phật giảng tuyên đều là vô lượng nghĩa thậm thâm, đều được Như Lai thần lực hộ trì, nhập vô ngại hành vi diệu pháp môn, tâm Phật hoan hỉ được niệm tiến ý, phân biệt trí huệ không có ai khinh
huỷ, nếu có người muốn tán thán công đức của Phật thì tận vị lai thế chẳng cùng tận được. Như Lai chánh giác
pháp bình đẳng, khéo chuyển pháp luân độ vô lượng chúng, được tự tại nơi tất cả pháp, biết tận nguồn gốc tâm ý của chúng sanh, khéo
dứt các tập khí cho chúng sanh, dầu thường làm phật sự mà tâm không có sở tác, cùng đại Tỳ Kheo sáu trăm
vạn người câu hội, đều là Như Lai Pháp Vương Tử, khéo được giải thoát dứt phiền não tập, hiểu rõ thậm thâm Vô sanh pháp nhẫn, thành tựu oai nghi đi đứng đoan nghiêm, kham thọ cúng dường làm phước điền cho đại chúng, khéo trì giáo giới của chư Phật dạy. Còn có đại Bồ Tát chúng số đông vô lượng chẳng xưng kể được, chẳng tư nghị được, chẳng tuyên nói được. Trong khoảng một niệm, chư Bồ Tát ấy có thể đi qua vô lượng vô biên Phật độ, đã từng cúng dường quá khứ chư Phật thưa học diệu pháp không có nhàm đủ, thương xuyên giáo hoá
vô lượng chúng sanh, khéo
hiểu phương tiện đầy đủ trí huệ, tâm các Ngài an
trụ vô ngại giải thoát, khéo trừ ức tưởng thủ tướng hí luận, gần nhứt thiết trí đều là bực Bổ xứ. Tên các Ngài là: Điện Thiên Bồ Tát, Thắng Tranh Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Dũng Kiện Bồ Tát, Ly Ác Bồ Tát, Du Hành Bồ Tát, Quán Nhãn Bồ Tát, Ly Ám Bồ Tát, vô lượng Bồ Tát Đại Sĩ đầy đủ công đức như vậy câu hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn nhập chư Bồ Tát sở hành vô ngại chư pháp môn kinh. Đó là trang nghiêm chư Bồ Tát đạo Phật pháp thậm thâm, thập lực vô uý trí huệ thành tựu, chứng được ấn môn tự tại tổng trì, môn phân biệt biện tài đại thần thông, chuyển pháp môn vô sanh
bất thối chuyển, thông đạt các pháp đồng nhứt tướng, nơi pháp nhứt tướng chẳng sanh phân biệt, biết rõ chúng sanh căn
tánh vô ngại, khéo hay quán sát thiệt tướng của các pháp, phá hoại tất cả cảnh giới các ma, nhập môn thông đạt thiện tư duy, hay trừ tất cả phiền não các kiến chấp, vô ngại trí huệ thiện quyền phương tiện, tất cả Phật pháp bình đẳng vô nhị, thọ trì môn trí huệ của chư Phật, diễn thuyết các pháp như chơn thiệt tướng, ức tưởng thủ tướng nhập bình đẳng môn, thành tựu công đức nhập thâm nhơn duyên, trang nghiêm thân Phật thân khẩu ý nghiệp, niệm ý tiến trì hiển thị tứ đế, phân biệt diệu huệ vì giáo hoá hàng
Thanh Văn , thân tâm tịch tĩnh vì giáo hoá Duyên Giác, được Nhứt thiết trí vì giáo hoá Đại thừa, nhập nhứt thiết pháp được tự tại trí vì tán thán các công đức Như Lai. Các môn như vậy đều được Thế Tôn tuyên nói khai
thị dạy bảo chỉ dẫn phân biệt.
Lúc đức phật nói kinh Đại Tập nầy, phương Đông tự nhiên xuất hiện quang minh lớn màu chơn kim chiều khắp cả Đại Thiên thế giới nầy. Trừ Phật quang minh, tất cả quang minh của Phạm, Thích, Tứ Vương, Thiên, Long,
Bát Bộ, nhựt, nguyệt đều chẳng còn hiện, các tường vách cây cối lùm rừng tất cả sông núi quốc độ đều được quang minh kim sắc ấy chiếu suốt cả. Bao nhiêu địa ngục ở cõi nầy đều được quang minh ấy chiếu đến, chúng sanh trong
đó lúc quang minh chạm đến thân liền trừ tất cả khổ thọ lạc vi diệu.
Trước mặt Phật, dưới đất tự nhiên mọc lên sáu mươi ức tịnh diệu liên hoa hương thơm lan khắp các thứ trang nghiêm nhiều màu làm vui đẹp lòng đại chúng. Hoa sen ấy có ức trăm ngàn cánh có
lưới the báu giăng
phía trên, chất hoa mềm dịu như thiên y, ai chạm đến đều thọ khoái lạc vi diệu. Các hơi hương của hoa sen ấy lan khắp Ta Bà thế giới làm luốt mất tất cả hơi hương của Nhơn Thiên trong thế giới nầy. Hàng Thiên, Long, Bát Bộ, Quỷ Thần nghe hơi hương ấy đều được vui vi diệu lần lần lìa phiền não.
Tôn giả A Nan thấy quang minh kim sắc và các liên hoa ấy bèn bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ai làm thoại ứng ấy, có quang minh kim sắc và các tịnh diệu liên hoa?”.
Đức phật nói: “Nầy A Nan! Có đại Bồ Tát tên là Vô Tận ý ở phương Đông cùng sáu mười ức chư Bồ Tát quyến thuộc muốn đến đây nên trước hiện thoại tướng ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát dùng thần lực cảm động cõi nầy làm cả đại địa chấn động lớn, phóng vô lượng quang mưa các thứ hoa, vô lượng chư Thiên Nhơn trỗi thiên kỹ nhạc, cùng sáu mươi ức chúng Bồ Tát vây quanh đồng đến chỗ Phật. Đến rồi ở trước Phật dừng trên hư không cao bảy cây đa la chắp tay hướng về Phật phát âm thanh vi
diệu khăp nghe cả Đại Thiên thế giới, nói kệ tụng tán thán Đức phật:
Thanh tịnh lìa hẳn các cấu nhiễm
Dũng kiện trừ diệt những tham dục
Có thể dứt hết các trần lao
Mà được thanh tịnh vi diệu nhãn
Ba cấu hoang vu uế trược thảy
Khéo hay đoạn dứt rửa sạch hết
Tất cả diệt hẳn không còn thừa
Nay tôi cúi lạy Đại Từ Giác
Trừ bỏ tất cả các bố uý
Khéo hay diệt dứt lưới vô minh
Thập lực Thánh chúa Đại Pháp Vương
Tất cả tà luận chẳng phục được
Các hàng ngoại đạo người dị kiến
Thảy đều có lòng rất kinh sợ
Như Lại dường như sư tử chúa
Riêng mình bước đi không có sợ
Như Lai chánh giác đại quang minh
Thanh tịnh vô cấu chói sáng khắp
Trong tất cả Nhơn Thiên thế gian
Có thể xa lìa tất cả tối
Trừ hết tất cả các tối tăm
Sáng suốt không còn lưới vô minh
Phật quang chiếu khắp thường minh tịnh
Dường như mặt nhựt ra khỏi mây
Chúng sanh già bịnh chết rất khổ
Không có được người cứu hộ họ
Như Lai xót thương vì độ họ
Mà vô lượng đời thọ khổ nhiều
Có thể sanh lòng từ bi vững
Chỉ có Như Lai Đẳng chánh giác
Như Lai cũng như đại Y Vương
Có thể chữa lành tất cả bịnh
Tất cả các pháp từ bổn lai
Tánh tất cả pháp không có ngã
Dường như tiếng vang trong hang núi
Đều từ các duyên hoà hiệp sanh
Tất cả chúng sanh bổn vô tánh
Không có tác giả không thọ giả
Như Lai có thể vì chúng ấy
Mà sanh khởi lòng đại từ bi
Các cõi dường như vực biển lớn
Vô minh tối tăm rất rộng sâu
Trong ấy có nhiều giác quán xấu
Cuồn cuộn sôi tràn những sóng mòi
Như Lai chẳng từ người nghe pháp
Tự nhiên giác ngộ đến bỉ ngạn
Dường như hoa sen mọc trong nước
Đi khắp thế gian chẳng nhiễm ô
Mùa thu cây cỏ đều héo úa
Hạn nóng suối sông đều khô cạn
Tỷ trí phân biệt biết thế pháp
Đổi dời chuyển động chẳng thường trụ
Chỗ thân cận của những người ngu
Là chỗ Thánh trí luôn quở bỏ
Biết rõ các pháp chẳng vững chắc
Riêng mình qua khỏi các hữu lưu
Như Lai mặt mắt rất rộng sáng
Ví như hoa quý Ưu đàm bát
Sáng rỡ vi diệu rất thanh tịnh
Hơn cả trăm ngàn mặt nhựt nguyệt
Tất cả bao nhiêu đời quá khứ
Cùng đời hiện tại các chúng sanh
Tất cả tán thán công đức lớn
Như Lai đều hay thọ được cả
Vì điều người chưa được điều phục
Trừ hết nhiệt não được thanh lương
Vì thế hôm nay tôi cung kính
Đầu mặt cúi lạy đấng Vô Thượng
Cứu độ thế gian phước tăng thượng
Như Lai công đức vô biên lượng
Tất cả các pháp đại Pháp Vương
Nay tôi đảnh lễ Phật phước điền.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ tán thán Phật rồi từ hư không xuống đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng, cùng chư Bồ Tát sáu mười ức đến ngồi kiết già trên đài liên hoa.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô Tận Ý đại Bồ Tát từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên gì, cách đây bao xa?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông nên hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát, sẽ được giải đáp”.
Tôn giả kính thuận Phật giáo hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát: “Bạch Đại Sĩ! Ngài từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Có tưởng đến ư?”.
Tôn giả nói: “Thưa Đại Sĩ! Tôi biết tưởng rồi”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Nếu biết tưởng thì lẽ ra không có hai tướng, có gì lại hỏi từ xứ nào đến.
Thưa Tôn giả! Có lai khứ ấy là nghĩa hoà hiệp, như hoà hiệp tưởng là không hiệp không chẳng hiệp, không hiệp không chẳng hiệp tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là nghiệp tướng. Như nghiệp tướng ấy không có tác không chẳng tác. Không có tác không chẳng tác ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là tướng quốc độ. Như tướng quốc độ ấy không có quốc độ không chẳng quốc độ tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là duyên tưởng. Như duyên tưởng ấy không duyên không chẳng duyên, không duyên không chẳng duyên ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy là nhơn v.v…sanh tướng. Như nhơn tướng ấy không có nhơn không chẳng nhơn, không nhơn không chẳng nhơn tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là văn tự ngữ ngôn, như văn tự tướng ấy không có văn tự không chẳng văn tự. Không văn tự không chẳng văn tự ấy tức là chẳng khứ chẳng lai. Chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Bạch Đại Sĩ! Nay Ngài nói sự tướng vi diệu, từ trước tôi chưa từng nghe. Vừa rồi tôi có chỗ hỏi, bây giờ tôi lại xin hỏi nữa.
Như người chủ ải, nếu thấy người đi không, hoặc thấy người mang gánh thì phải gạn hỏi: Ông mang gánh đó là những vật gì? Nếu biết là hột lúa giống thì phải thâu thuế.
Bạch Đại Sĩ! Chúng tôi cũng vậy, từ người khác nghe pháp
theo âm thanh nhận hiểu để tự chiếu tâm, vì vậy nên nay tôi phải thưa hỏi.
Hàng Đại Sĩ các Ngài vì hộ Đại thừa xuất sanh vô lượng Thanh Văn, Duyên
Giác.
Bạch Đại Sĩ! Xin Ngài phân biệt nói từ xứ nào đến”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nay Ngài tự hỏi đức Như Lai, Phật sẽ nói cho Ngài hết nghi”.
Tôn giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện nói Bồ Tát ấy từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa? Nếu được nghe tên hiệu Phật và thế giới ấy, thì làm cho vô lượng vô biên Bồ Tát trang nghiêm Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, nay ta sẽ nói công đức cõi ấy và danh hiệu Phật. Lúc ông nghe chớ có nghi sợ phải nên nhứt tâm tín thọ phụng trì”.
Tôn giả nói: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Nguyện phải thời tuyên nói, tôi sẽ nhứt tâm đảnh đới thọ trì”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Phương Đông cách đây chừng mười hằng hà sa quốc độ vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bất Thuấn, Phật hiệu là Phổ Hiền Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn nay hiện tại thế.
Nầy Xá Lợi Phất! Cõi ấy không có Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến không nghe tên Nhị thừa. Tất cả Thánh chúng thuần là Bồ Tát đã lâu từ quá khứ tu đức bổn, thiện nghiệp thành xong đầy đủ bố thí, điều phục, tự thủ, phòng hộ, thí giới, đa văn, tâm
không phóng dật an trụ công đức, oai nghi thành tựu nhẫn lực vô ngại, nơi vô thượng đạo kiên cố tinh tiến, các thiện căn được tu tất cả đều thành tựu chư thiền giải thoát tam muội, du hí thần thông trí huệ lớn chiếu sáng, khéo phân biệt biết rõ tất cả các pháp, lòng từ các Ngài bình đẳng như hư không, đại bi kiên cố cứu tế chúng sanh, thường hành hỉ tâm khiến người khác đồng vui, xả tâm các Ngài khéo dứt tắng ái, lưới ma tranh tụng dứt hết không thừa, khéo hiểu chúng sanh các
căn lợi độn theo căn họ mà ban cho pháp tài. Tâm các Ngài bình đẳng như địa, thuỷ, hoả, phong, hay phá tất cả ngoại đạo dị luận, xô dẹp địch trận kiến lập thắng phan, nhập thâm Phật pháp Thập lực, Tứ vô sở uý, nơi các đại chúng tâm không
có sợ, các Ngài thường quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên, lìa hữu kiến, vô kiến thường hành trung đạo, không có các tướng ngã, ngã sở, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, đoạn, thường, hữu, vô, tất cả các kiến chấp kiết phược nhơn duyên đều dứt chẳng còn khởi. Dùng tổng trì vương ấn để ấn đó. Từ biện phân biệt diễn giải của các Ngài na do
tha kiếp nói chẳng hết được, có đại thần lực cảm động vô lượng vô biên Phật độ, khéo qua lại các Phật độ dứt trừ sân hận, bố uý, kiêu mạn, phóng dật. Các Ngài diễn thuyết như sư tử hống, với tất cả chúng sanh kẻ oán người thân thảy đều đặt để cứu cánh Niết bàn, mây pháp phủ trùm để nổi sấm chớp, tam minh giải thoát dùng làm chớp sáng, mưa pháp vô thượng dùng làm cam lộ, hay ban bố pháp tài để Tam bửu chẳng đoạn tuyệt, nội ngoại thanh tịnh dường như bửu châu, tướng hảo thù thắng tối thượng vô tỉ, dùng các thiện căn trang nghiêm
thân mình, Phật pháp quán đảnh được vị bổ xứ, khéo có thể phân biệt các chúng sanh
hành tuỳ thuận đều phục cho được giải thoát, hay tịnh đạo tràng ngồi toà sư tử, ở trong tất cả pháp được vô sở uý, hay tự biến hình như thân Phật, đều có thể thị hiện tất cả Phật sự, tâm được tự tại chuyển chánh pháp luân.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn ấy thuần có chư đại Bồ Tát như vậy làm quyến thuộc”.
Đại chúng nghe đức Phật ca ngợi chư đại Bồ Tát ấy đầy đủ công đức trí huệ như vậy, đều hớn hở vui mừng đem các thứ hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la rải cúng dường Vô Tận Ý Bồ Tát và sáu mười ức Bồ Tát rồi khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi hôm
nay vui mừng được lợi lành mà thấy các Chánh Sĩ như vậy để lễ bái cúng dường cung kính vây
quanh. Nếu có chúng sanh nghe tên các Ngài cũng được vô lượng lợi lành như vậy, nếu nghe tán thán xưng dương công đức ấy đều phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Lúc nói lời ấy, trong đại chúng có ba trăm sáu mươi vạn chúng sanh phát
Vô thượng Bồ đề tâm.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai không có ba ác
đạo và tên gọi, cũng không có tên tà hành việt giới, cũng không có danh từ nữ nhơn, xan tham, tật đố, phá giới, sân hận, giải đãi, loạn tâm, ngu si, chướng ngại ấm cái. Các chúng sanh cõi ấy căn tánh đồng nhau không có thượng trung hạ thuần là nhứt thừa không có tên đại tiểu, Phật độ cũng không có tên
tịnh hay uế, cũng không có danh xưng Tam bửu sai biệt, chẳng nghe tiếng đói khác ăn uống, chẳng có danh từ ngã, ngã sở, giá, hộ, ma võng, vọng kiến.
Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai ấy bằng phẳng rộng lớn, một nhựt nguyệt chiếu giáp khắp sáu mươi ức trăm ngàn na do tha do tuần. Các sự hi hữu ấy đều do Bồ Tát cõi ấy bổn nguyện làm nên, lưu ly và các báu xen
lẫn làm thành, đất mịn mềm như thiên y, người chạm đến thọ lạc vi diệu, cây báu trang nghiêm hàng ngũ tương đương, dây báu giăng nối để làm ranh tám ngả đường, tất cả các hoa đều tự nở, không có đá cát gai chông dơ dáy, tất cả đồi núi đều là các thứ báu trang sức, người và trời không có sai biệt, pháp hỉ thiền duyệt làm món ăn uống. Cõi Bất Thuấn ấy không có danh từ vua chúa, chỉ có Phổ Hiền Như Lai làm Đại Pháp Vương. Phổ Hiền Như Lai và chư Bồ Tát chẳng dùng văn tự để có nói. Chư Bồ Tát ấy chỉ tu quán Phật nhìn kỹ không nhàm mắt không hề nháy bèn có thể được niệm Phật tam muội ngộ Vô sanh nhẫn. Vì vậy cõi ấy có tên là Bất Thuấn thế giới. Chư Bồ Tát ấy niệm Phật thế nào?
Đó là chẳng quán sắc tướng xuất sanh chủng tánh quá khứ tịnh nghiệp, lúc ấy trong tâm không
có tự cao. Chẳng quán hiện tại ấm giới các nhập kiến văn giác tri tâm ý thức v.v…, không có tướng sanh trụ diệt hí luận, chẳng thủ chẳng xả chẳng niệm chẳng tư, chẳng quán tư tưởng và chẳng tư tưởng, chẳng phân biệt tưởng pháp tưởng kỷ tưởng, không có nhứt dị tưởng, cảnh giới công đức nội ngoại trung gian chẳng khởi niệm giác quán thỉ chung, chẳng quán hình mạo oai nghi pháp thức, chẳng quán giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp. Chánh niệm Phật ấy chẳng thể tư nghị. Chẳng tạo hành chẳng tác tưởng, vô đẳng đẳng lìa tư duy, vô sở niệm vô tư xứ, không có tưởng ấm giới nhập sanh trụ diệt, không có xứ sở chẳng phải không xứ sở, chẳng động chẳng trụ, chẳng sắc, chẳng thức, chẳng tưởng, chẳng thọ, chẳng hành. Nơi thức chẳng sanh thức tri, nơi địa thuỷ hoả phong chẳng sanh thức tri, nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp cũng chẳng sanh thức tri.
Chăng duyên tất cả cảnh giới như vậy, chẳng sanh các tướng ngã và ngã sở, chẳng khởi tưởng kiến văn giác tri, cứu cánh có thể đến tất cả giải thoát, tâm và tâm
số pháp diệt dứt chẳng tương tục, tịnh các ức tưởng chẳng ức tưởng, khéo trừ tham ái, sân khuể, ngu si nhơn duyên tướng, thử bỉ và trung gian đều dứt không thừa. Pháp ấy thanh tịnh vì không có văn
tự vậy. Pháp ấy không có hoan hỉ vì không có động chuyển vậy. Pháp ấy không có khổ vì không có tham trước vậy. Pháp ấy không nhiệt não vì bổn tịch diệt vậy. Pháp ấy không giải thoát vì bổn xả ly vậy. Pháp ấy không có thân vì
lìa sắc tướng vậy. Pháp ấy không có tướng thọ vì không có ngã vậy. Pháp ấy không có kiết phược vì tịch diệt vô tướng vậy. Pháp ấy vô vi vì không có sở tác vậy. Pháp ấy không có ngôn giáo vì không có thức tri vậy. Pháp ấy không có thỉ chung vì không có
thủ xả vậy. Pháp ấy không dừng ở vì không có xứ sở vậy. Pháp ấy không có tác vì lìa thọ giả vậy. Pháp ấy không có diệt vì bổn vô sanh vậy.
Với tâm số tư duy sở duyên trụ pháp, chẳng lấy tướng nó chẳng sanh phân biệt, chẳng thọ chẳng trước chẳng nhiên chẳng diệt chẳng sanh chẳng xuất, pháp tánh bình đẳng như hư không, quá nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp.
Đây gọi là Bồ Tát niệm Phật tam muội.
Bồ Tát được niệm Phật tam muội ấy, ở trong tất cả pháp được môn tự tại trí đà la ni, nghe Phật nói pháp đều có thể thọ trì hết chẳng quên mất, cũng được hiểu rõ tất cả chúng sanh ngôn tử âm thanh, được vô ngại biện tài.
Nầy Xá Lợi Phất! Phổ Hiền Như Lai kia chẳng như cõi nầy dùng hai nhơn duyên để diễn nói chánh kiến, đó là theo người khác nghe âm thanh và nội tâm chánh ức niệm.
Chư Bồ Tát kia lúc thấy Phật liền có thể phân biệt các nghĩa thâm diệu, đầy đủ thành tựu sáu Ba la mật. Tại sao vậy? Vì nếu chẳng lấy sắc tướng tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Nếu trừ sắc tướng tức là đầy đủ Thi Ba la mật. Nếu quán sắc tận tức là đầy đủ Nhẫn Ba la mật. Nếu thấy sắc tịch diệt tức là đầy đủ Tiến Ba la mật. Nếu chẳng duyên sắc tướng tức là đầy đủ Thiền Ba la mật. Nếu chẳng hí luận sắc tướng tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật. Chư Bồ Tát ấy lúc quán Phật liền đầy đủ sáu Ba la mật như vậy được Vô sanh nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật thế giới nghiêm tịnh vi diệu ít có như Phổ Hiền Như Lai thế giới Bất Thuấn ấy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Mừng thay các Ngài ở thế giới kia được thấy Phổ Hiền Như Lai được vô lượng lợi lành”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Phải chăng các Ngài muốn được thấy thế giới Bất Thuấn Phổ Hiền Thế Tôn và đại chúng Bồ Tát chăng?”.
Tôn giả nói: “Vâng, chúng tôi muốn được thấy, để cho đại chúng đây tăng trưởng thiện căn”.
Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát thị hiện nhứt thiết Phật độ tam muội. Nhập tam muội rồi làm cho đại chúng đây và Xá Lợi Phất đều thấy cõi kia Phổ Hiền Như Lai và đại chúng. Thấy rồi tất cả đại chúng đây đồng đứng dậy chắp tay vói kính lễ Phật Phổ Hiền và chúng Bồ Tát. Đại chúng đây nhờ thần lực Phật và Vô Tận Ý Bồ Tát nên đều được vi diệu hoa đời thật ít có. Hoa ấy màu sắc và hương vị chưa từng được thấy nghe, tự nhiên đầy nắm tay mỗi người, đồng vói rải qua phương Đông dùng cúng dường Phổ Hiền Như Lai. Hoa ấy liền khắp đến Phổ Hiền Như Lai và đại chúng.
Chư Bồ Tát kia thấy hoa ấy liền bạch Phổ Hiền Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoa nầy thơm đẹp đời rất ít có. Đây là từ xứ nào hoa đến đây?”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Đây là
Vô Tận Ý ở tại Ta Bà thế giới, nơi đó cũng còn có mười phương chư Bồ Tát đến tụ tập chỗ Phật Thích Ca để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán nghe Phật Thế Tôn nói kinh Đại Tập. Hoa nầy là của đại chúng ấy rải đến”.
Chư Bồ Tát kia lại bạch Phật Phổ Hiền rằng: “Ta Bà thế giới ở phương nào cách đây bao xa?”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Tây cách đây mười hằng hà sa số thế giới vi trần số quốc độ chư Phật, có thế giới tên là Ta Bà”.
Chư Bồ Tát kia lại nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi rất muốn được thấy Thích Ca Như Lai và đại chúng”.
Phổ Hiền Như Lai liền phóng đại quang minh chiếu khắp thế giới nầy. Nhơn Phật quang chư Bồ Tát kia đều được vói thấy Ta Bà thế giới Thích Ca Như Lai và đại chúng.
Thấy rồi đồng chắp tay cung kính nói rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Cõi ấy Bồ Tát tất cả đại chúng từ chỗ nào đến tập hội đầy khắp mọi nơi không còn chỗ trống”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Đại chúng kia từ mười phương vô lượng thế giới đến đó tập hội để thưa hỏi nghe học pháp thậm thâm vi diệu”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Ai đặt tên cho Ngài là Vô Tận Ý vậy?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Tất cả pháp nhơn duyên quả báo tên là Vô Tận Ý, tại sao, vì tất cả pháp chẳng thể tận được vậy”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Mong Ngài diễn nói vô tận pháp môn”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Lúc sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề đã chẳng thể tận được. Tại sao, phát Bồ đề tâm vì chẳng lìa phiền não vậy, phát tâm tương tục vì chẳng mong thừa khác vậy, phát tâm kiên cố vì chẳng xen ngoại luận vậy, phát tâm chẳng hư hoại vì ma chẳng trở ngại vậy, phát tâm hằng thuận vì thiện căn tăng trưởng vậy, phát tâm đến thường trú vì pháp hữu vi vô thường vậy, phát tâm chẳng động chuyển vì chư Phật an ủi hộ trợ vậy, phát tâm thắng diệu vì lìa suy tổn vậy, phát tâm ở yên vì chẳng hí luận vậy, phát tâm không ví dụ vì không có tương tự vậy, phát tâm kim cương vì phá các pháp vậy, phát tâm vô tận vì vô lượng công đức đều thành tựu vậy, phát tâm bình đẳng vì lợi ích chúng sanh vậy, phát tâm khắp che vì không có biệt dị vậy, phát tâm tươi sáng vì tánh thường thanh tịnh vậy, phát tâm vô cấu vì trí huệ sáng tỏ vậy, phát tâm thiện giải vì chẳng lìa cứu cánh vậy, phát tâm rộng sướng vì từ tâm như hư không vậy, phát tâm lớn trống vì dung thọ tất cả chúng sanh vậy, phát tâm vô ngại vì trí huệ thông đạt vậy, phát tâm đến khắp nơi vì đại bi chẳng dứt vậy, phát tâm chẳng đoạn dứt vì khéo hiểu lập nguyện vậy, phát tâm làm chỗ về vì được chư Phật khen vậy, phát tâm thù thắng vì nhị thừa tôn ngưỡng vậy, phát tâm thâm viễn vì tất cả chúng sanh chẳng biết được vậy, phát tâm chẳng bại vì chẳng phá Phật pháp vậy, phát tâm an ổn vì khéo cho chúng sanh những khoái lạc vậy, phát tâm trang nghiêm vì tất cả công đức đều thành tựu vậy, phát tâm khéo quán sát vì trí huệ thành tựu vậy, phát tâm tăng trưởng vì tuỳ ý ban cho vậy, phát tâm như nguyện vì giới thanh tịnh vậy, phát tâm Bồ đề đến khắp mọi loài vì với kẻ oán người thân có đủ nhẫn nhục vậy, phát tâm khó hư hoại vì có đủ tinh tiến vậy, phát tâm tịch diệt vì đủ thiền định vậy, phát tâm không bị huỷ báng vì đủ trí huệ vậy, phát tâm vô nguyện vì tăng trưởng đại từ vậy, phát tâm Bồ đề an trụ thiện căn vững chắc vì tăng trưởng đại bi vậy, phát tâm hoà duyệt vì tăng trưởng đại hỉ vậy, phát tâm bất động vì tăng trưởng đại xả vậy, phát tâm kham
nhiệm gánh nặng vì được chư Phật dạy trao vậy, phát tâm chẳng tuyệt vì Tam bửu chẳng dứt đoạn vậy.
Thưa Tôn giả! Bồ Tát vì Nhứt thiết trí phát tâm Bồ đề như vậy há có thể cùng tận được ư!”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Như hư không chẳng thể cùng tận, vì Nhứt thiết trí mà phát tâm Bồ đề cũng chẳng cùng tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Phật cấm giới vô tận, nhơn cấm giới phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật chánh định vô tận, nhơn chánh định phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật trí huệ vô tận, nhơn trí huệ phát tâm Bồ đề cũng vô tận. Phật giải thoát vô tận, nhơn giải thoát phát tâm
cũng vô tận. Phật giải thoát tri kiến cũng vô tận, nhơn giải thoát tri kiến phát tâm cũng vô
tận.
Thưa Tôn giả! Phật giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tánh nó vô tận, nhơn năm tụ ấy mà phát Bồ đề tâm há lại có thể tận được ư!
Như Lai thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp vô tận, nhơn đó mà phát tâm Bồ đề cũng vô tận.
Tóm lại mà nói, Như Lai tất cả pháp thảy đều vô tận, nhơn đó để phát Bồ đề tâm cũng vô tận.
Tam bửu vì chẳng dứt nên vô tận. Vì chúng sanh tánh vô tận nên vô tận. Vì như thiệt trí vô tận nên vô tận. Vì tuỳ theo các chúng
sanh vô lượng tâm hành trí vô
tận nên vô tận. Vì hồi hướng vô thượng vô tận nên vô tận. Vì giáo hoá chúng sanh vô tận nên vô tận. Vì vô tận trí vô sanh nên vô tận. Vì lý tánh vô sanh nên vô tận. Vì biết tất cả pháp bổn tánh vô tận nên vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát phát Bồ đề tâm chẳng thể tận được vậy.
Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm thanh tịnh vô tận, tâm thanh tịnh ấy là chẳng làm siểm khúc vậy. Chẳng làm siểm khúc ấy là không có gian
trá vậy. Không có gian trá ấy là khéo phân biệt vậy. Khéo phân biệt ấy là không có tà mạng vậy. Không tà mạng ấy là tâm trong trắng vậy. Tâm trong trắng ấy là thường chánh nhứt vậy. Thường chánh nhứt ấy là tánh thù thắng vậy. Tánh thù thắng ấy là không có khinh huỷ vậy. Không có khinh huỷ ấy là diệt các cong vạy vậy. Diệt các cong vạy ấy là tâm chất trực vậy. Tâm chánh trực ấy là nhập bình chánh vậy. Nhập bình chánh ấy là tâm kiên thiệt vậy. Tâm kiên thiệt ấy là chẳng hư hoại được vậy. Chẳng hư hoại được ấy là tánh kiên cố vậy. Tánh kiên cố ấy là chẳng động được vậy. Chẳng động được ấy là không có sở y vậy. Không có sở y ấy là trừ ngã tâm vậy. Trừ ngã tâm ấy là không có đồng bạn vậy. Không có đồng bạn ấy là dứt chê khi vậy. Dứt chê khi ấy là làm thiện nghiệp vậy. Làm thiện nghiệp ấy là không có quở trách vậy. Không quở trách ấy là tiêu tội lỗi vậy. Tiêu tội lỗi ấy là chẳng nhiệt não vậy. Chẳng nhiệt não ấy là tánh chơn thiệt vậy. Tánh chơn thiệt ấy là không hư cuống vậy. Không hư cuống ấy là như thuyết hành. Như thuyết hành ấy là có thể khéo làm vậy. Hay khéo làm ấy là không có tỳ vết vậy. Không tỳ vết ấy là không có lộn lầm vậy. Không có lộn lầm ấy là không bị trệ ngại vậy. Không bị trệ ngại ấy là không thối chuyển vậy. Không thối chuyển ấy là quán chúng sanh vậy. Quán chúng sanh ấy là đại bi căn sâu vậy. Đại bi căn sâu ấy là khéo giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhọc vậy. Khéo hoá độ chúng sanh không mỏi nhọc ấy là chẳng cầu lợi cho mình vậy. Chẳng cầu lợi lạc cho mình ấy là chẳng tham lợi dưỡng vậy. Chẳng tham lợi dưỡng ấy là chẳng ái nhiễm vậy. Chẳng nhiễm ái ấy là duyên các pháp
vậy. Duyên các pháp ấy là quán kém yếu vậy. Quán kém yếu ấy là thấy chúng sanh vậy. Thấy chúng sanh ấy là thường ủng hộ vậy. Thường ủng hộ ấy là làm chỗ quy y vậy. Làm chỗ quy y ấy là không có cấu uế hệ luỵ vậy. Không có cấu luỵ ấy là khéo quán sát vậy. Khéo quán sát ấy là không có luận chê vậy. Không có luận chê ấy là tâm thuần thiện vậy. Tâm thuần thiện ấy là chẳng động dao vậy. Chẳng động dao ấy là thiện thanh tịnh vậy. Thiện thanh tịnh ấy là thường tinh tiến vậy. Thường tinh tiến ấy là nội thanh tịnh vậy. Nội thanh tịnh ấy là thường tươi sáng vậy. Thường tươi sáng ấy là không có cấu nhiễm vậy.
Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh ấy hay đoạn dứt xan lẫn cũng giáo hoá người khiến họ dứt xan lẫn.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt phá giới cũng giáo hoá người khiến họ dứt phá giới.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt sân hận cũng giáo hoá người khiến họ dứt sân hận.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt giải đãi cũng giáo hoá người khiến họ dứt giải đãi.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt loạn tâm cũng giáo hoá người khiến họ dứt loạn tâm.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt ngu si cũng giáo hoá người khiến họ dứt ngu si.
Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh có khả năng dứt tất cả pháp bất thiện như vậy, đặt chúng sanh ở trong thiện pháp. Vì vậy nên gọi là Bồ Tát tâm thanh tịnh chẳng thể cùng tận được.
Còn nữa, thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tâm hành thanh
tịnh cũng chẳng cùng tận được. Tại sao vậy?
Lúc Bồ Tát bố thí, tất cả đều thấy xả bỏ các sở hữu.
Bồ Tát lúc hành giới chẳng thể tận được, tất cả đều thấy trì các cấm giới đầu đà chánh hạnh oai nghi không
có phạm.
Bồ Tát lúc hành nhẫn chẳng thể tận được, tất cả đều thấy với các chúng sanh
tâm không sân hận trở ngại.
Bồ Tát lúc hành tinh tiến chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy nơi các thiện pháp đều tinh cần tu tập.
Bồ Tát lúc hành thiền chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy các thiền định không có lầm loạn.
Bồ Tát lúc hành huệ cũng chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy tu tập đa văn.
Đây gọi là Bồ Tát hành thí, hành giới, hành nhẫn, hành tiến, hành định, hành huệ vậy.
Bồ Tát tu hành từ, bi, hỉ, xả cũng chẳng cùng tận được. Tất cả đều thấy cứu hết khổ hoan lạc dũng dước khéo dứt tham ái sân khuể vậy.
Đây gọi là Bồ Tát hành từ, bi, hỉ, xả.
Bồ Tát sở hành ba nghiệp thanh tịnh, lìa thân ba ác, lìa khẩu bốn ác, lìa ý ba ác là tham dục, sân khuể và tà kiến.
Bồ Tát tu học đa văn vô tận vì chẳng lẫn tiếc vậy. Vì Bồ Tát tu hành không lẫn tiếc nên tập họp Nhứt thiết trí vậy. Bồ Tát tu tập Nhứt thiết trí vì khuyên chư Bồ Tát khác phát đạo tâm vậy. Khuyên các Bồ Tát khác phát đạo tâm vì tu hành đặt ở thiện căn vậy. Tu hành đặt ở thiện căn vì hướng Vô thượng Bồ đề đạo vậy. Nguyện hướng Vô thượng Bồ đề đạo ấy là vì nhiếp lấy tất cả các Phật pháp vậy. Nhiếp lấy tất cả Phật pháp ấy là vì bốn sự nhiếp thủ vậy.
Bồ Tát tu hành bốn sự nhiếp thủ ấy là vì sám hối các tội vậy. Bồ Tát tu hành pháp sám hối ấy là vì phát lồ các sự ác vậy. Bồ Tát tu hành phát lồ sự ác là vì hồi hướng tất cả các công đức vậy. Bồ Tát hồi hướng các công đức ấy là vì tích tụ vô lượng trân bửu vậy. Bồ Tát tích tụ vô lượng trân bửu ấy là vì khuyến thỉnh chư Phật vậy. Bồ Tát khuyến thỉnh chư Phật ấy là vì nhiếp các pháp vậy. Bồ Tát nhiếp thủ các pháp ấy là vì hành Đại Sĩ pháp vậy. Bồ Tát hành Đại Sĩ pháp ấy là vì có thể vì chúng sanh mà làm trọng nhiệm vậy. Bồ Tát vì chúng sanh làm trọng nhiệm ấy là vì chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm vậy. Bồ Tát chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm ấy là vì thành tựu chúng sanh các thiện sự vậy!
Còn nữa thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn hành vô tận, đó là tâm hành
vô tận, pháp thí vô tận, giáo hoá vô tận và thiện căn vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thích ở rảnh rang nhiếp trì oai nghi không có nhàm đủ, thường thích tụ tập vô lượng công đức mà không nhàm đủ, cầu nhiều học vấn rộng biết các nghĩa mà không nhàm đủ và thường nguyện Vô thượng Bồ đề trí huệ mà không nhàm đủ.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ so tính vô tận, rõ cân lường vô tận, rõ tư duy vô tận và rõ quán pháp vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ cấu nhơn vô tận, rõ bạch pháp vô tận, quở các phiền não vô tận và tán thán bạch pháp vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là quán các ấm tận vô tận, quán các giới tận vô tận, quán các nhập tận vô tận và quán nhơn duyên tận vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thuyết vô thường hành vô tận, thuyết khổ hành vô tận, thuyết vô ngã hành vô tận và thuyết tịch diệt Niết bàn vô tận.
Tóm lại để nói, Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận: hướng Nhứt thiết trí, tôn Nhứt thiết trí, ngưỡng Nhứt thiết trí. Vì Nhứt thiết trí vô tận nên Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát tâm hành vô tận vậy.
Còn nữa thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm cứu cánh vô tận, tại sao, vì chỗ tư duy nhẫn đến nhứt niệm của Bồ Tát thường duyên Bồ đề lòng chẳng nhàm mỏi, chuyên đến các địa vì qua khỏi sanh tử vậy, cứu cánh tăng trưởng vì đến bỉ ngạn vậy, cứu cánh bổn hành vì càng tăng thượng hơn vậy, cứu cánh lìa mang nặng vì nhiếp thắng pháp vậy, cứu cánh không ngang bằng vì đầy đủ tất cả Phật pháp vậy, cứu cánh sở duyên vì tăng trưởng thiện pháp vậy, cứu cánh có thể đến vì vượt quá tâm hành xứ vậy, cứu cánh trang nghiêm vì không mỏi nhàm vậy, cứu cánh tu hành cát tường Bồ đề vì các thứ khổ hạnh đều thành tựu vậy, cứu cánh chẳng trông mong vì chẳng cầu vui cho mình vậy, cứu cánh tuỳ thuận vì không có các
ác vậy, cứu cánh điều phục vì an trụ thánh pháp vậy, cứu cánh chẳng xen tạp vì lìa phiền não vậy, cứu cánh bố thí khó vì chẳng tiếc đầu mắt vậy, cứu cánh giới cấm khó vì ủng hộ phạm cấm vậy, cứu cánh nhẫn nhục khó vì nhẫn các quá ác không có thế lực vậy, cứu cánh tinh tiến khó vì chuyên tu khổ hạnh bỏ nhị thừa vậy, cứu cánh thiền định khó vì chẳng tham trước các thiền định vậy, cứu cánh huệ khó vì chẳng tham trước tất cả thiện căn vậy, phát hành liền có thể đến vì tất cả thiện sự đều thành tựu vậy, cứu cánh xa lìa vì khéo phân biệt những mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn vậy, cứu cánh có thể xả thí vì ban cho
chúng sanh chẳng cầu quả báo vậy, cứu cánh chẳng kinh sợ vì sâu quán Phật pháp thậm thâm vậy, cứu cánh tăng tiến vì chẳng đình trệ vậy, cứu cánh vô tận vì thường tinh tiến vậy, cứu cánh chẳng hư cuống vì quyết chắc vì chúng sanh mà làm kẻ gánh nặng vậy.
Lại nữa, cứu cánh ấy là điều nhu chúng sanh, là thương che lợi ích người hiền thiện, là thương cứu kẻ làm ác, là tôn
kính bậc tôn trưởng, là thủ hộ kẻ không được hộ, là chỗ về cho kẻ không chỗ về, là đuốc soi cho kẻ không ánh sáng, là chỗ nương cho kẻ không nơi nương, là bạn cho kẻ không có bạn, là thẳng cho kẻ cong, là lành cho
kẻ chăng lành, là không gian cho kẻ gian, thanh tịnh kẻ tà mạng, làm ơn cho người ơn và kẻ không ơn cùng kẻ chẳng biết ơn, làm lợi cho kẻ chẳng được lợi, chơn thiệt cho kẻ dối khi, chẳng kiêu với kẻ kiêu, chẳng phá hư tác giả, lời dịu dàng dạy răn các kẻ làm ác, hộ kẻ tà hành, thấy hành phương tiện chẳng cho là lỗi, với người thọ lãnh tâm bình đẳng cung kính, với Bồ Tát khác thường khuyên dắt, dùng lời dịu dàng để giảng dạy, thích ở chỗ vắng tu hành thiện pháp, lìa các lợi dưỡng chẳng tiếc thân mạng, không có tà niệm vì tâm tịch diệt vậy, không có tà siểm vì nhiếp lỗi nơi miệng vậy, chẳng dùng tà nghiệp để cầu lợi ích, tâm thường thiểu dục vì tri túc vậy, tâm điều nhu hoà vì không cấu uế vậy, trở lại ở sanh tử vì đủ thiện căn vậy, hay nhẫn các sự khổ vì chúng sanh vậy.
Đây là Đại Sĩ sở hành tất cả đều cứu cánh mà chẳng tận được vậy.
Tâm Bồ Tát ấy, sanh từ phiền não vĩnh viễn không phá hoại được, tại sao, vì tâm ấy tăng trưởng các công đức vậy, vì chứa nhận tất cả chúng sanh vậy, vì thành tựu vô tận diệu trí huệ vậy.
Đây gọi là đại Bồ Tát cứu cánh vô tận”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng còn có pháp vô tận nữa chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Có. Bồ Tát tu hành Đàn Ba
la mật chẳng thể cùng tận. Tại sao, vì đại Bồ Tát hành bố thí vô lượng, với kẻ cần ăn thì cho ăn vì
đầy đủ mạng biện sắc lực lạc, kẻ cần uống cho uống vì trừ khát ái vậy, kẻ cần mặc cho y phục vì thanh tịnh sắc ấm không có hổ thẹn vậy, kẻ cần xe cho xe vì được tất cả món vật vui thích thần thông vậy, kẻ cần đèn cho đèn vì đủ Phật nhãn thanh tịnh vậy, kẻ cần âm nhạc cho âm nhạc vì đầy đủ thiên nhĩ thanh tịnh vậy, kẻ cần hương cho hương thơm vì thân phát xuất đủ hơi hương vi diệu vậy, kẻ cần tràng hoa cho tràng hoa vì đầy đủ đà la ni thất giác hoa vậy, kẻ cần hương xoa hương bột đều cho đủ đó vì có đủ giới định huệ ướp thân vậy, kẻ cần các thứ mùi vị đều theo ý muốn mà cho đó vì tướng vị cam lộ thành tựu vậy, kẻ cần y chỉ thì cho y chỉ vì có thể vì chúng sanh đầy đủ cứu hộ làm nơi quy y vậy, kẻ cần nệm trải lót đều cho đủ đó vì đầy đủ cứu cánh dứt trừ ấm cái thành tựu Phạm Thiên, Hiền Thánh chư Phật những giường ghế vi diệu vậy, kẻ cần toà ngồi cho toà ngồi vì đầy đủ tam thiên Đại Thiên thế giới dùng làm đạo tràng chỗ kim cương toà đều thành tựu vậy, kẻ cần những món cần dùng đều cho đủ cả vì thành tựu những thứ cần cho Bồ đề vậy, theo bịnh cho thuốc được không già chết vì cam lộ pháp dược đều thành tựu vậy, kẻ cần bốc sứ đều cấp cho vì tự tại trí huệ được đầy đủ vậy, nếu dùng kim ngân thất bửu thí cho vì đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn vậy, hay đem các thứ anh lạc thí cho vì đầy đủ tám mươi tuỳ hình hảo vậy, hay đem các thứ xe cộ voi ngựa thí cho vì đầy đủ Đại thừa vậy, nếu đem vườn rừng bố thí là vì đầy đủ các thiền chi vậy, nếu đem vợ con bố thí là vì đầy đủ pháp ái vô thượng đạo vậy, nếu đem kho tàng thóc
gạo của cải bố thí là vì đầy đủ các kho báu thiện pháp vậy, nếu đem Diêm Phù Đề hoặc cả tứ thiên hạ bố thí là vì đầy đủ Pháp Vương được tự tại vậy, nếu đem các vật thích dùng để bố thí là vì đầy đủ vô lượng pháp lạc vui thích vậy, nếu đem chưn cẳng bố thí là vì đầy đủ thành tựu chưn pháp tiến đến đạo tràng vậy, nếu bố thí cánh tay là vì
đầy đủ tay pháp vỗ về chúng sanh khiến được an vui vậy, nếu đem tai mũi bố thí là vì đầy đủ các căn thông lợi vậy, nếu bố thí tròng mắt là vì muốn đầy đủ pháp nhãn vô ngại vậy, nếu bố thí đầu là vì ở trong tam giới đầy đủ tất cả trí huệ thù thắng vậy. Nếu đem máu thịt bố thí là đem vật chẳng bền chắc đổi vật bền chắc vậy, nếu đem tuỷ não bố thí là vì được thân kim cương bất hoại vậy.
Bồ Tát chẳng hành tà mạng cầu có tài vật rồi đem bố thí, chẳng bức ép chúng sanh cưỡng cầu tài vật để bố thí cho kẻ khác, không khủng bố thí cho, không tủi hổ bố thí cho, không lẫn tiếc thí cho, đúng như chỗ đã hứa lúc cho không bớt giảm, không có chẳng thương mà thí cho, cứu cánh thường thí cho, không có chẳng cứu cánh thí cho, không có dua gièm bố thí, không có gian
trá bố thí, chẳng nghi nghiệp báo bố thí, không có tà mạng bố thí, không có ngu si bố thí, không có chẳng tin bố thí, không có chẳng hiểu bố thí, không có mỏi nhàm bố thí khó, không có dựa nương bố thí, không có lựa chọn bố thí, không có hiện dị tướng bố thí, chẳng câu người thọ nhận bố thí, không có
chúng sanh kẻ chẳng kham nhận trì giới phạm giới không có tăng giảm bố thí, nơi người thọ nhận không có mong báo đáp bố thí, chẳng cầu danh bố thí, chẳng chê khen bố thí, không có kiêu mạn chẳng kiêu mạn bố thí, không có nhiệt não bố thí, tâm chẳng hối tiếc bố thí, chẳng tự khen bố thí, không có tạp uế bố thí, chẳng mong nghiệp báo bố thí, không định xứ bố thí, không có giận hờn ái nhiễm bố thí, có kẻ đến xin chẳng não hại bố thí, không khinh khi bố thí, không nhăn mặt bố thí, chẳng ném quăng bố thí, không có chẳng cố ý bố thí, không có tay chẳng trao bố thí, không có chẳng thường bố thí, không có đoạn tuỵêt bố thí, không có ganh
ghét kiêu mạn bố thí, không có chừng hạn bố thí, đúng như chỗ đã hứa không có thay đổi bố thí, không có kham
nhiệm chẳng kham nhiệm bố thí, không có chẳng phải phước điền bố thí, chẳng khinh ít bố thí, chẳng khen nhiều bố thí, chẳng tiêu hao bố thí, chẳng cầu đời sau bố thí, chẳng cầu quả báo Phạm, Thích, Tứ Vương, Chuyển Luân Vương bố thí, chẳng nguyện Thanh Văn, Duyên
Giác thừa bố thí, chẳng cầu Vương tử được tự tại bố thí, chẳng vì một đời bố thí, chẳng nhàm đủ bố thí, không có chẳng hồi hướng Nhứt thiết trí bố thí, không có bất tịnh bố thí, không có đao
độc bố thí, không có não hại chúng sanh bố thí.
Bồ Tát hành bố thí chẳng bị người trí khinh cười, tại sao, vì quán không tịch hành bố thí vì vậy nên vô tận, không làm có công ơn bố thí nên vô tận, ra khỏi tướng tam hữu bố thí nên vô tận, chẳng lấy chỗ nơi nên vô tận, vì quả giải thoát là bố thí vô tận, vì phục chúng ma là bố thí vô tận, vì dứt kiết ái là bố thí vô tận, vì tăng thượng bố thí nên vô tận, khéo phân biệt bố thí nên vô tận, trợ Bồ đề bố thí nên vô tận, chánh hồi hướng bố thí nên vô tận, trang nghiêm đạo tràng giải thoát quả bố thí nên vô tận, thí ấy vô biên nên vô tận, thí ấy không hư hoại nên vô tận, thí ấy chẳng đoạn dứt nên vô tận, thí ấy quảng đại nên vô tận, thí ấy vô trụ nên vô tận, thí ấy vô phục nên vô tận, vô đẳng đẳng bố thí nên vô tận, thí ấy tiến đến Nhứt thiết chủng trí nên vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành bố thí mà chẳng thể cùng tận được”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Lành thay lành thay, bạch Đại Sĩ! Vâng, Ngài nói rất tốt về đại Bồ Tát hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận.
Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Thi Ba la mật như Bồ Tát Thi Ba la mật chẳng thể cùng tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát giới tụ sáu mươi bảy sự thanh tịnh tu trị cũng chẳng thể cùng tận.
Những gì là sáu mươi bảy sự?
Với các chúng sanh chẳng khởi não hại. Nơi tài vật của kẻ khác chẳng trộm cắp. Nơi phụ nữ người chẳng sanh lòng tà. Nơi các chúng sanh chẳng khi dối phỉnh gạt. Chẳng hề lưỡng thiệt vì nơi quyến thuộc mình biết an đủ vậy. Không có ác khẩu vì nhịn thô uế vậy. Không có ỷ ngữ vì khéo nói vậy. Nơi sự vui của người chẳng tham ganh vậy. Không hề giận tức vì nhịn lời mắng nhiếc vậy. Chánh kiến chẳng tà vì coi rẻ đạo khác vậy. Thâm tín nơi Phật vì tâm chẳng trược vậy. Thâm tín nơi Pháp vì khéo quán pháp vậy. Kính tín nơi Tăng vì tôn trọng Thánh chúng vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì chí niệm Phật vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tư duy Pháp vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tôn kính Tăng
vậy. Kiên trì cấm giới tất cả không phạm vì nhẫn đến điều cấm giới nhỏ cũng không buông bỏ vậy. Thọ trì giới chẳng kém khuyết vì chẳng y theo các thừa khác vậy. Thọ trì giới chẳng xuyên tạc vì lìa sanh xứ ác vậy. Trì giới chẳng hoang vì chẳng tạp các kiết sử vậy. Trì giới chẳng ô nhiễm vì chuyên tăng trưởng bạch pháp vậy. Trì giới thuần thiện vì chánh niệm biết rõ vậy. Trì giới chẳng quở trách vì tất cả giới chẳng tản mất vậy. Trì giới lành chắc vì phòng hộ các căn vậy. Trì giới danh tiếng tốt vì được Phật hộ niệm vậy. Trì giới tri túc vì không có chẳng nhàm chán vậy. Trì giới thiểu dục vì chẳng tham lẫn vậy. Trì giới tánh thanh tịnh vì thân tâm tịch diệt vậy. Trì giới a lan nhã vì lìa ồn náo vậy. Trì thánh chủng giới vì chẳng cầu ý khác vậy. Trì oai nghi giới vì tất cả thiện căn được tự tại vậy. Trì như thuyết giới vì nhơn thiên hoan hỷ vậy. Trì từ tâm giới vì thủ hộ chúng sanh vậy. Trì bi tâm giới vì hay nhẫn các sự khổ vậy. Trì hỷ tâm giới vì tâm chẳng giải đãi vậy. Trì xả tâm giới vì lìa tham ái
sân khuể vậy. Trì tự tỉnh giới vì khéo phân biệt vậy. Trì giới chẳng tìm kém dở của người vì thủ hộ tâm người vậy. Trì giới khéo nhiếp thủ vì khéo thủ hộ vậy. Trì giới ban cho vì giáo hoá chúng sanh vậy. Trì nhẫn nhục giới vì tâm không giận ngại vậy. Trì tinh tiến giới vì tâm không thối huờn vậy. Trì thiền định giới vì tăng trưởng thiền chi vậy. Trì trí huệ giới vì đa văn thiện căn chẳng nhàm đủ vậy. Trì đa văn giới vì học rộng vững chắc vậy. Trì giới thân cận thiện tri thức vì trợ thành Bồ đề vậy. Trì xa lìa ác tri thức giới vì xa lìa ác đạo vậy. Trì giới chẳng tiếc thân vì quán tưởng vô thường vậy. Trì giới chẳng tiếc mạng vì siêng hành thiện căn vậy. Trì giới chẳng hối tiếc vì tâm thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng tà mạng vì tâm hành thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng nhiệt não vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng đốt cháy vì tu thiện nghiệp vậy. Trì giới chẳng kiêu mạn vì tâm thấp chẳng kiêu vậy. Trì giới chẳng điệu cử vì xa lìa các dục vậy. Trì giới chẳng tự cao vì tâm bằng thẳng vậy. Trì giới nhu hoà vì tâm không chống đối vậy. Trì giới điều phục vì không não hại vậy. Trì giới tịch diệt vì tâm không cấu uế vậy. Trì giới thuận theo lời vì như thuyết hành vậy. Trì giới giáo hoá chúng
sanh vì chẳng rời nhiếp pháp vậy. Trì giới hộ chánh pháp vì chẳng trái như thiệt vậy. Trì như nguyện thành tựu giới vì các chúng sanh tâm bình đẳng vậy. Trì giới thân cận Phật vì nguyện cầu Như Lai vô thượng giới vậy. Trì giới nhập Phật tam muội vì đầy đủ các Phật pháp vậy.
Đây gọi là Bồ Tát sáu mươi bảy sự tịnh giới tụ mà chẳng thể cùng tận được.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment