Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 147
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Lại nầy Tôn giả! Trong vô tận thanh tịnh giới của Bồ Tát không có dựa dính. Đó là phá tất cả tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, dưỡng dục, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, địa, thuỷ, hoả, phong.
Trong tịnh giới ấy không có tướng nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, cũng không có thân tâm vì định hướng của giới ấy hẳn chẳng cùng chung vậy. Vì phân biệt tướng của giới ấy phương tiện duyên của tất cả các pháp vậy. Vì không tướng của giới ấy được vô tướng tế chẳng xen tạp tam giới vậy. Giới ấy bất tác vì Vô sanh nhẫn vậy. Trong tịnh giới ấy không có đã làm sẽ làm đang làm. Tịnh giới ấy quá khứ chẳng diệt vị lai chẳng đến hiện tại chẳng dừng ở.
Lại nầy Tôn giả! Trong tịnh giới ấy tâm tịnh vô cấu, thức chẳng dừng ở và tư duy chẳng thân cận. Tịnh giới ấy chẳng dựa Dục giới, chẳng gần Sắc giới, chẳng ở Vô Sắc giới. Tịnh giới ấy bỏ lìa dục trần trừ sân ngại diệt vô minh chướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn chẳng thường chẳng nghịch nhơn duyên. Tịnh giới ấy không có ngã tướng bỏ ngã sở tướng chẳng ở thân kiến. Tịnh giới ấy chẳng lấy giả danh chẳng ở sắc tướng chẳng tạp danh sắc. Tịnh giới ấy chẳng hệ thuộc nơi nhơn chẳng khởi kiến chấp chẳng ở nghi hối. Tịnh giới ấy không có tham sân
si không tham trước thiện căn. Tịnh giới ấy chẳng não chẳng nhiệt tịch diệt ly tướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn dứt Phật chủng vì cầu chánh pháp vậy, chẳng đoạn dứt pháp chủng vì chẳng phân biệt pháp tánh vậy, chẳng đoạn dứt Tăng chủng vì tu vô vi vậy.
Thưa Tôn giả! Người trì tịnh giới tương tục chẳng đoạn dứt nên vô tận. Tại sao vậy?
Vì phàm phu giới tại thân thọ sanh nên có tận. Trong loài người thập thiện tận nên có tận. Chư Thiên cõi Dục phước báu công đức tận nên có tận. Chư Thiên cõi Sắc các thiền vô lượng tâm tận nên có tận. Chư Thiên cõi Vô Sắc định được nhập tận nên có tận. Ngoại đạo tiên nhơn có những giới cấm thối thất thần thông tận nên có tận. Tất cả Thanh Văn học vô học giới nhập Niết bàn tế tận nên có tận. Bích Chi Phật giới không có tâm đại bi tận nên có tận.
Bồ Tát tịnh giới không có tận. Tại sao? Trong tịnh giới ấy xuất sanh tất cả giới, như giống vô tận nên quả cũng vô tận. Vì Bồ Tát chủng ấy chẳng thể cùng tận nên Như Lai giới cấm cũng chẳng thể cùng tận. Vì vậy nên tịnh giới được chư Đại Sĩ thọ trì đều chẳng thể cùng tận được.
Đây gọi là đại Bồ Tát tu trì tịnh giới mà chẳng cùng tận được”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát: “Lành thay lành thay, Đại Sĩ đã nói tốt về Thi la Ba la mật chẳng thể cùng tận được của đại Bồ Tát. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Sằn đề Ba la mật chẳng thể cùng tận được của chư đại Bồ Tát”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ ba mươi hai sự tu hành nhẫn nhục cũng chẳng thể cùng tận được.
Những gì là ba mươi hai sự?
Vì đoạn dứt các kiết sử nên biết là nhẫn. Vì chẳng sanh hại nên biết là nhẫn. Vì không có triền phược nên biết là nhẫn. Vì không có não
nên biết là nhẫn. Vì không có trùm che nên biết là nhẫn. Vì không có sân nên biết là nhẫn. Vì không có tức giận tranh cãi nên biết là nhẫn. Vì không có đấu tụng nên biết là nhẫn. Vì nơi các trần giới tâm không có sai
khác nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ mình và người nên biết là nhẫn. Vì thuận tâm Bồ đề nên biết là nhẫn. Vì khéo tư duy nên biết là nhẫn. Vì không có hai tưởng nên biết là nhẫn. Vì biết nghiệp báo nên biết là nhẫn. Vì trang nghiêm
thân nên biết là nhẫn. Vì miệng nói lời thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm vững chắc nên biết là nhẫn. Vì ngôn ngữ tự tại nên biết là nhẫn. Vì nhớ biết nên biết là nhẫn. Vì khéo phân biệt tâm nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ tâm người nên biết là nhẫn. Vì tu Phạm Thế hạnh nên biết là nhẫn. Vì thọ báo nhơn thiên nên biết là nhẫn. Vì thân tướng thù thắng nên biết là nhẫn. Vì đủ phạm âm vi diệu nên biết là nhẫn. Vì trừ các lỗi tội nên biết là nhẫn. Vì dứt các cấu uế nên biết là nhẫn. Vì dứt tất cả bất thiện căn nên biết là nhẫn. Vì giết các giặc kiết sử nên biết là nhẫn. Vì nơi sự não hại chúng sanh đều được siêu việt nên biết là nhẫn. Vì đầy đủ tất cả Phật pháp nên biết là nhẫn.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành ba mươi hai sự nhẫn nhục mà chẳng thể cùng tận được.
Thưa Tôn giả! Thế nào là nhẫn? Nếu bị người mắng nín lặng thọ chẳng báo, vì khéo biết âm thanh như tiếng vang vậy. Bị người quở trách nín lặng thọ đó vì khéo biết thân tướng như ảnh tượng vậy. Bị người giận lòng chẳng hờn vì khéo biết tâm tướng như ảo huyễn vậy. Bị giận tức chẳng báo vì tâm không tức vậy. Nghe được xưng danh tâm không ái trước vì chẳng tự cao vậy. Nghe chẳng xưng danh tâm cũng
không ngại vì công đức đầy đủ vậy. Nếu gặp vinh lợi tâm chẳng vui mừng vì khéo tự điều phục vậy. Nếu gặp suy hao tâm không quái ngại vì tâm tịch diệt vậy. Được người khen tâm chăng kinh động vì khéo biết phân biệt vậy. Bị người chê tâm không rút
mất vì tâm quảng đại vậy. Bị người khi dễ tâm không hạ vì khéo an trụ vậy. Được tôn trọng tâm không cao vì chẳng khuynh động vậy. Gặp sự vui tâm chẳng hoan dật vì biết pháp hữu vi là tướng vô thường vậy. Nếu gặp sự khổ tâm không chán mỏi vì chúng sanh vậy. Thế pháp chẳng nhiễm vì chẳng y chỉ vậy. Nhẫn thọ các khổ thấy kẻ bị nguy bức đem thân thay họ. Nhẫn chịu tay chưn bị chặt gãy vì đầy đủ giác chi vậy. Các khổ hại thân đều có thể nhẫn thọ vì đầy đủ tướng thân Phật vậy. Nhẫn tội lỗi của người vì khéo làm nghiệp lực vậy. Thị hiện đốt nóng tu các khổ hạnh vì hàng phục ngoại đạo vậy. Thị hiện vào ngũ đạo vì vượt quá Thích, Phạm, Tứ Vương và chư Thiên vậy.
Đây gọi là Bồ Tát nhẫn nhục vậy.
Lại cứu cánh nhẫn ấy không có tranh tụng. Tại sao? Nếu thấy người mắng mà ta hay nhẫn, là thấy có hai tướng, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu nói ai mắng ta, nhẫn nhục như vậy là pháp công đức, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Hoặc là mắng nhãn ư, mắng nhĩ ư, mắng tỷ ư, mắng thiệt ư, mắng thân ư, mắng ý ư? Nhẫn như vậy là quán tướng lục nhập chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu không người mắng, nhẫn nhục như vậy là quán vô ngã,
chẳng phải cứu cánh.Nếu biết giả danh, nhẫn như vậy là quán tướng mắng chẳng phải cứu cánh nhẫn. Người và ta đều là vô thường, nhẫn như vậy là quán vô thường, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ điên đảo ta chẳng điên đảo, nhẫn như vậy là quán cao hạ, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ chẳng siêng tu ta
siêng tu, nhẫn như vậy là quán siêng lười, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ ở ác đạo ta ở thiện đạo, nhẫn như vậy là quán thiện ác, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn vô thường chẳng nhẫn có thường, ta hay nhẫn khổ chẳng thọ các lạc, ta nhẫn vô ngã chẳng nhẫn hữu ngã, ta nhẫn bất tịnh chẳng nhẫn có tịnh, nhẫn như vậy là quán có đối đãi, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn nơi rỗng không chẳng nhẫn các kiến, ta nhẫn vô tướng chẳng nhẫn các giác quán, ta nhẫn vô nguyện chẳng nhẫn nơi nguyện, ta nhẫn vô tác chẳng nhẫn có tác, ta nhẫn kiết sử hết chẳng nhẫn kiết sử còn, ta nhẫn pháp thiện chẳng nhẫn pháp bất thiện, ta nhẫn xuất thế chẳng nhẫn tại thế, ta nhẫn vô tranh chẳng nhẫn có tranh, ta nhẫn vô lậu chẳng nhẫn có lậu, ta nhẫn bạch pháp chẳng nhẫn hắc pháp, ta nhẫn tịch diệt chẳng nhẫn sanh tử, nhẫn như vậy là quán tương đối, chẳng phải cứu cánh nhẫn.
Thế nào gọi là cứu cánh nhẫn?
Nếu nhập không tịch chẳng cùng các kiến chấp hoà hiệp, chẳng dựa lấy không, các kiến ấy cũng là rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tướng chẳng cùng các giác
hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô tướng, các giác ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô nguyện, chẳng cùng nguyện hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô nguyện, các nguyện ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tác chẳng cùng các tác hoà hiệp, chẳng dựa nơi vô tác, các tác ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập tận kiết chẳng cùng các kiết hoà hiệp, chẳng dựa nơi tận kiết, các kiết ấy cũng đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập nên thiện chẳng cùng bất thiện hoà hiệp, chẳng dựa nơi thiện, các bất thiện cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập xuất thế chẳng cùng thế hoà hiệp, chẳng dựa xuất thế, các thế ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tranh chẳng cùng tranh hoà hiệp, chẳng dựa vô tranh các tranh ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô lậu chẳng cùng lậu hoà hiệp, chẳng dựa vô lậu các lậu ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập bạch pháp chẳng cùng hắc pháp hoà hiệp, chẳng dựa bạch pháp các hắc pháp đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập tịch diệt chẳng cùng sanh tử hoà hiệp, chẳng dựa tịch diệt sanh tử cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu tánh chẳng tự sanh chẳng cùng tha sanh chẳng hoà hiệp sanh, cũng không có xuất, chẳng thể phá hoại, chẳng thể phá hoại ấy là chẳng thể tận, Nhẫn như vậy là cứu cánh nhẫn.
Không có tác không có chẳng tác, không chỗ dựa lấy, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không có tu trị, không có phát tiến, trọn chẳng tạo sanh, nếu vô sanh ấy là chẳng thể tận, nhẫn như vậy là Vô sanh nhẫn, Vô sanh nhẫn ấy là vô xuất nhẫn, vô xuất nhẫn ấy là cứu cánh nhẫn.
Bồ Tát tu hành cứu cánh nhẫn như vậy được thọ ký nhẫn.
Đây gọi là Bồ Tát hành nhẫn vô tận vậy”.
Lúc nói pháp ấy, tất cả đại chúng khen Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Lành thay lành thay! Vô Tận Ý nói các nhẫn rất hay!”.
Đại chúng nói lời khen ngợi xong liền mưa các thứ hoa ít có và hương bột, hương xoa, vô số y phục đẹp, tràng phan, lọng báu để dâng cúng dường Vô Tận Ý đại Bồ Tát.
Trăm ngàn kỹ nhạc ở trên không tự nhiên phát thanh, nói rằng: “Nếu có các chúng sanh muốn được Như Lai thậm thâm nhẫn ấy, nghe lời nói ấy chẳng nên kinh sợ”.
Lúc bấy giờ các hương hoa, tạp y, phan lọng đầy khắp cả tam Thiên Đại Thiên thế giới.
Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Các vật hoa hương ngươi được cúng dường ấy, người tự tìm khí cụ đựng lấy trừ sạch hết đi”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Vâng, bạch đức Thế Tôn! Nay tôi sẽ dùng thần thông chính thân mình làm đồ đựng”.
Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát sắc thân tam muội, nhập tam muội rồi bao nhiêu vật cúng dường đều nhập hết vào trong rún,
thân thể như cũ chẳng tăng chẳng giảm.
Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Đại Trang Nghiêm hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội Ngài nhập ấy tên là gì mà Ngài nhập rồi tất cả món vật cúng dường đều nhập vào thân, thân
Ngài như cũ không có tăng
giảm?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy tên là Nhứt thiết sắc thân tam muội”.
Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy chừng còn có thế lực khác chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế lực tam muội ấy có thể làm cho thân thể thọ nhận hết cả tam thiên Đại Thiên thế giới có bao nhiêu những sắc tướng, thân thể như cũ cũng không có tăng giảm”.
Trong đại chúng có hàng nhơn thiên suy nghĩ rằng: Chừng có thể thấy được thế lực của tam muội ấy chăng?
Đức Phật biết tâm niệm của đại chúng bèn bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Ông nên thị hiện thần lực của tam muội ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát từ lâu đã thông đạt tam muội ấy, vì vậy nên có thể đem tất cả đại chúng, chư Bồ Tát từ mười phương đến hội cùng Phật và Thánh Tăng đều nạp vào trong thân
mình. Thân ấy lúc bấy giờ dường như thế giới Đại Bửu Trang Nghiêm thọ tất cả các sự trang nghiêm của đại Bồ Tát. Đại chúng đều tự thấy thân mình ở trong thân của Vô Tận Ý Bồ Tát.
Vô Tận Ý Bồ Tát thị hiện đại thần thông như vậy rồi đại chúng đều huờn lại như cũ.
Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Từ trước tới nay tôi chưa từng được thấy nghe thần thông biến hoá của tam muội ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Giả sử trọn cả tam thiên Đại Thiên thế giới nhập cả vào thân tôi còn không có tăng giảm huống là chỉ có nơi đại hội nầy”.
Lúc nói vô tận nhẫn nhục và thị hiện thần thông biến hoá ấy, có bảy mươi sáu na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói rất tốt về Nhẫn nhục Ba la mật chẳng thể tận rồi, duy nguyện Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật vô tận của Bồ Tát được”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ tám sự hành tinh tiến chẳng thể tận.
Những gì là tám sự?
Phát đại trang nghiêm không có tận. Tích tập dũng tiến không có tận. Tu hành các thiện pháp không có tận. Giáo hoá chúng sanh không có tận. Trợ đạo công đức không có tận. Trợ vô thượng trí không có tận. Trợ vô thượng huệ không có tận. Họp trợ Phật pháp mà chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm vô tận?
Bồ Tát nơi các sanh tử tâm không mỏi mệt, chẳng tính kiếp số sẽ thành Phật đạo, còn bao nhiêu kiếp mà làm trang
nghiêm, còn bao nhiêu kiếp chẳng làm trang nghiêm. Bồ Tát trang nghiêm trải qua kiếp số chẳng thể kể tính.
Như từ ngày hôm nay đến sanh tử vốn là một ngày một đêm. Ba mười ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Ở trăm ngàn muôn năm ấy một lần phát đạo tâm, một lần thấy Phật. Phát tâm và thấy Phật như vậy số đến bằng số cát sông Hằng. Ở bên ngần ấy số chư Phật như vậy mới biết được tâm hành của một chúng sanh. Như vậy cho đến biết khắp tâm sở hành của tất cả chúng sanh mà vẫn chẳng thối thất trang nghiêm.
Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.
Trải qua số lần thấy Phật phát tâm như vậy, lúc biết tâm sở hành của chúng sanh kia thường tu đầy đủ Đàn Ba la mật, Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tý lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật, cũng tu đầy đủ pháp trợ Bồ đề, đầy đủ tu tướng hảo Thập lực, Vô uý, pháp Bất cộng, tu đầy đủ tất cả Phật pháp.
Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.
Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, nên biết Bồ Tát ấy tinh tiến chẳng giải đãi.
Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm vô tận.
Thế nào là Bồ Tát dũng tiến vô tận?
Giả sử cả tam thiên Đại Thiên thế giới có lửa mạnh đầy trong ấy, phải đi ngang qua lửa mạnh ấy để thấy Phật, hoặc vì nghe pháp giáo hoá chúng sanh đặt để chúng sanh nơi thiện pháp cũng phải đi ngang qua lửa mạnh ấy, Bồ Tát vẫn làm không thối thất.
Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.
Duyên cớ gì mà gọi là dũng tiến?
Vì thường vì kẻ khác vậy, vì tịnh kẻ khác vậy, vì điều phục kẻ khác vậy, vì diệt tận cho kẻ khác vậy, mà thường chẳng giải đãi chậm trễ vẫn vững chắc chẳng thối thất, tâm luôn ở trong đại bi thường siêng cần tinh tiến mà vì chúng sanh
nên gọi là dũng tiến.
Mỗi bước đi Bồ Tát luôn chế ngự tâm mình đều hướng đến Bồ đề, thường quán sát chúng
sanh để hoá độ, dầu quán sát như vậy mà chẳng hề khởi phiền não.
Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập vô tận?
Như tất cả thiện tâm đã được phát khởi thường nguyện Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát tu tập vô tận. Tại sao vậy? Vì đem các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề không có cùng tận vậy.
Thưa Tôn giả! Ví như trời mưa một giọt nước rơi vào trong đại hải, giọt nước mưa ấy dầu nhỏ mà trọn không hề diệt tận. Bồ Tát thiện căn nguyện hướng Bồ đề không có diệt tận cũng như vậy.
Tu tập thiện căn ấy, đó là chánh hồi hướng tu tập thiện căn, vì thủ hộ chúng sanh tu tập thiện căn, vì tuỳ theo
chỗ cần dùng của chúng sanh mà tu tập thiện căn, vì muốn thành tựu Nhứt thiết trí mà tu tập thiện căn.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành tập họp vô tận vậy.
Thế nào là Bồ Tát giáo hoá vô tận?
Tánh của chúng sanh chẳng thể kể đếm, Bồ Tát ở trong đó chẳng nên kể đếm.
Nếu có Bồ Tát trong một ngày giáo hoá tất cả chúng sanh đầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới, tính số như vậy nhẫn đến vô lượng bất khả tư nghị bất khả xưng số kiếp giáo hoá chúng sanh, dầu có giáo hoá chúng sanh bất khả xưng kế bất khả tư nghị như vậy, mà ở nơi phần chúng sanh còn chưa giáo hoá được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến toán số thí dụ chúng sanh được biết. Tại sao? Vì tánh
chúng sanh ấy vô lượng vô biên bất khả xưng kế bất khả tư nghì vậy.
Nếu Bồ Tát nghe lời ấy mà chẳng kinh, chẳng bố, chẳng uý, nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát giáo hoá vô tận.
Thế nào là Bồ Tát trợ đạo vô tận?
Bồ Tát tu hành trợ đạo công đức vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Tại sao? Vì tất cả chúng sanh có bao nhiêu công đức hoặc từ quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, cùng tất cả Thanh Văn. Duyên Giác có bao nhiêu công đức, tập họp tất cả công đức phàm thánh ấy lại mới là thành tựu công đức của một lỗ lông nơi thân Phật Thế Tôn. Công đức của mỗi mỗi lỗ lông như vậy nhẫn đến tất cả lỗ lông tập họp lại mới thành công đức của một tuỳ hình hảo của thân Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tuỳ hình hảo như vậy nhẫn đến tất cả tuỳ hình hảo tập họp lại mới thành công đức của một tướng đại nhơn của Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tướng như vậy nhẫn đến ba mươi tướng, tập họp công đức trăm lần ba mươi tướng như vậy mới thành công đức bạch hào giữa chặn hai chưn mày của Như Lai. Tập họp công đức của trăm ngàn bạch hào như vậy mới thành công đức vô kiến đảnh tướng của Như Lai.
Đây gọi là Bồ Tát trợ đạo công đức vô tận.
Thế nào là Bồ Tát trợ trí vô tận?
Trợ trí được Bồ Tát tu tập vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn số. Tại sao? Như trí của tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới bằng trí được thành của một vị Tín thành. Trí tín thành như vậy so với trí được thành tựu của một vị Pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được bực Pháp hành, so với trí được thành tựu của một vị Bát nhơn thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều là bực bát nhơn, so với trí được thành tựu của một vì Tu Đà Hoàn,
thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tu Đà Hoàn,
so với trí được thành tựu của một vị Tư Đà Hàm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tư Đà Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A Na Hàm thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A Na Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A La Hán thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A La Hán , so với trí được thành tựu của một vị Duyên Giác thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Duyên Giác, so với trí được thành tựu của một vị Bồ Tát trăm kiếp, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát trăm kiếp, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát đắc nhẫn, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Bồ Tát đắc nhẫn, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bất thối, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát bất thối, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bổ xứ, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của một bổ xứ Bồ Tát, so với trí thị xứ phi xứ của một Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ.
Tóm lại, Như Lai Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp cũng như vậy.
Nếu Bồ Tát được nghe lời ấy mà chẳng kinh chẳng bố, chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận.
Thế nào là Bồ Tát trợ huệ vô tận?
Tất cả chúng sanh có những tâm hành chẳng thể cùng tận, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên đếm tính.
Như quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh có những tâm hành, nếu có một người trong một niệm đủ những tâm hành của tam thế chúng sanh như vậy, mỗi mỗi niệm cũng đều có đủ những tâm hành như vậy. Như một người có đủ tâm hành như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những tham dục sân khuể ngu si và các phiền não, nếu có một người trong một niệm có đủ những phiền não như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ phiền não như vậy. Như một người có đủ phiền não như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng
sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những kiết sử, nếu có một người trong một niệm có đủ những kiết sử như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ kiết sử như vậy. Như một người có đủ những kiết sử như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng
sanh đều cũng như vậy.
Bồ Tát ở trong ấy sanh huệ quang minh. Một niệm huệ quang không có các trần lao che mờ đều chiếu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh những phiền não cảnh sở duyên của các tâm hành những sanh trụ dị diệt đều không sót thừa. Bồ Tát nầy ở nơi tất cả tam thế chúng sanh phiền não tương ưng không gì chẳng biết rõ hết.
Ví như hư không kia không gì chẳng trùm chứa, cũng vậy, Bồ Tát huệ quang không chỗ nào chẳng chiếu rõ.
Nếu Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát trợ huệ vô tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập trợ Phật pháp vô tận?
Bồ Tát sở hành tu tập trợ Phật pháp vô lượng vô biên, ở trong đó Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Từ lúc sơ phát tâm đến khi ngồi đạo tràng Bồ đề, thời gian chặng giữa tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tu hành đầy đủ các pháp trợ đạo. Tất cả phát tâm tu hành tất cả thiện căn như vậy bất khả xưng kế thảy đều trợ Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát tu hành trợ Phật pháp mà không có
tận.
Đây gọi là Bồ Tát tám sự tu hành tinh tiến vô tận vậy.
Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát tinh tiến cũng chẳng thể tận. Hoặc thân thiện nghiệp, hoặc khẩu thiện, nghiệp hoặc ý thiện nghiệp thường siêng chẳng giải đãi. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tu hành tinh tiến thường tương ưng với thân khẩu ý. Dầu thân khẩu tinh tiến mà đều do nơi tâm, tâm là tăng thượng.
Thế nào là Bồ Tát tâm tinh tiến?
Đó là tâm thuỷ và tâm chung.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì là sơ phát tâm vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là Bồ đề tâm tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm thuỷ?
Vì ở nơi chúng sanh khởi đại bi vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là không có ngã nhơn vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì nhiếp chúng sanh vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì chẳng lấy các pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì chẳng nhàm sanh tử vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có tam giới vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì xả thí sở hữu vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có khinh khi vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì thọ trì giới vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì chẳng trì giới vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu hành nhẫn nhục vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có giận tranh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành các thiện pháp vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì riêng một chẳng xen tạp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu tập chánh định vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì tâm thanh tịnh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì đa văn không nhàm vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì thiện tư duy vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tập thưa hỏi thâm nghĩa vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì pháp không có ngôn thuyết vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì cầu trí huệ vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đoạn dứt hí luận vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là tu bốn phạm hạnh vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì xả bỏ chơn trí vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì đủ ngũ thông vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đủ lậu tận vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành niệm xứ vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì niệm không có tư duy vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành chánh cần vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì lìa thiện và bất thiện vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành như ý phần vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đủ báo đắc vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát phương tiện các căn vậy.
Thế nào là tâm chung? Là quán các căn pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là tập họp các lực vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì trí chẳng hư hoại vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát trợ Bồ đề phần vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết phân biệt phương tiện các giác phần vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu trợ đạo pháp vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là không có tiến thu vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm chung? Là tâm vĩnh viễn tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát khởi huệ vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hiểu biết nhơn vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết nhơn vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là từ người mà nghe vậy.
Thế nào là tâm chung? Là ở trong các pháp không có phóng dật vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát nghiêm sức vậy.
Thế nào là tâm chung? Là biết thân tánh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là trang nghiêm khẩu vậy.
Thế nào là tâm chung? Là thánh nín lặng vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hành ba môn giải thoát vậy.
Thế nào là tâm chung? Là không có sở tác vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hàng phục tứ ma vậy.
Thế nào là tâm chung? Là xả bỏ kiết tập vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là biết phương tiện vậy.
Thế nào là tâm chung? Là trọn vẹn huệ vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết phát vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết độ vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết thế tục vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết chơn đế vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tâm tinh tiến vậy. Tâm ấy đầy đủ tinh tiến vô tận nên nói thuỷ chung.
Bồ Tát đầy đủ những tướng tạo tác như vậy, mà tâm chưa từng có trụ trước nơi tác nghiệp. Bồ Tát nầy ở nơi các nghiệp tướng biết mà cố ý làm.
Thế nào là Bồ Tát biết mà cố ý làm?
Vì các thiện căn vậy, vì các chúng sanh tu nơi đại bi nên chẳng lìa bỏ hữu vi vậy, vì chư Phật chơn diệu trí nên chẳng theo sanh tử vậy.
Đây gọi là đại Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật mà chẳng thể tận vậy”.
Lúc nói pháp ấy, có bảy mươi na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật chẳng thể tận rất tốt. Duy nguyện Ngài nói về Thiền Ba la mật mà chẳng thể tận, như chư đại Bồ Tát đã được Thiền Ba la mật vô tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nếu chư đại Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với Thanh Văn và Bích
Chi Phật.
Những gì là mười sáu sự?
Bồ Tát tu chánh định không có ngô ngã, vì đầy đủ Như Lai các thiền định vậy.
Bồ Tát tu chánh định chẳng tham chẳng trước, vì chẳng cầu mình vui vậy.
Bồ Tát tu chánh định hành nơi đại bi, vì đoạn dứt phiền não kiết tập cho chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định tăng ích các thiền quán, vì thấy lỗi hoạ của Dục giới vậy.
Bồ Tát tu chánh định đủ các nghiệp dụng thần thông, vì biết tâm hành các chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định tâm thường nhu nhuyến vì được tự tại ở trong chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định khéo biết nhập xuất nơi các thiền tam muội vì hơn Sắc giới và Vô Sắc giới vậy.
Bồ Tát tu chánh định tâm thương tịch diệt vì hơn các thiền tam muội của hàng Nhị thừa vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định trọn không còn có phát khởi, vì cứu cánh đã làm rồi vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định không có suy hao, vì khéo đoạn trừ diệt các tập khí vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định thường nhập trí huệ, vì siêu quá thế gian mà đến bỉ ngạn vậy.
Bồ Tát tu chánh định để biết tâm hành chúng sanh, vì độ chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định chẳng đoạn dứt giống Tam bửu, vì được vô tận các thiền định vậy.
Bồ Tát tu chánh định không có thối thất, vì tâm thường định không có các sai
lầm vậy.
Bồ Tát tu chánh định mà được tự tại, vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.
Bồ Tát tu chánh định nội thiện tư duy, vì dứt hơi thở vào ra mà được thắng trí vậy.
Đây là Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với hàng Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Thế nào là Bồ Tát tu chánh định ?
Vì đủ các thần thông trí huệ vậy.
Thế nào là thông và thế nào là trí?
Nếu thấy các sắc tướng đây gọi là thông. Nếu biết tất cả sắc tận pháp tánh mà chẳng chứng tận đây gọi là trí.
Nếu nghe âm thanh đây gọi là thông. Hiểu rõ tam thế tất cả âm thanh không có tướng ngôn từ đây gọi là trí.
Nếu biết tất cả chúng sanh tâm hành đây gọi là thông. Nếu biết tất cả tâm hành thảy đều diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt đây gọi là trí.
Nếu nhớ quá khứ đây gọi là thông. Nếu biết tam thế không có chướng ngại đây gọi là trí.
Nếu hay đến khắp thế giới chư Phật đây gọi là thông. Nếu biết thế giới chư Phật đồng với tướng hư không đây gọi là trí.
Nếu cầu các pháp không phá hư tướng đây gọi là thông.
Nếu chẳng thấy có pháp đây gọi là trí.
Nếu chẳng hoại thế gian đây gọi là thông. Nếu chẳng tạp hành đây gọi là trí.
Nếu quá Phạm, Thích, Hộ Thế Tứ Vương đây gọi là thông. Quá trí
của hàng học và vô học Nhị thừa đây gọi là trí.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định thông trí sai biệt.
Bồ Tát vì biết tất cả chúng sanh phiền não loạn tâm nên tu tập các pháp thiền định trợ thành tâm an trụ.
Thưa Tôn giả! Các chúng sanh
phiền não loạn tâm như vậy, ở trong ấy Bồ Tát khéo tu tập trợ thành thiền định là cho thiền định ấy trụ nơi tâm bình đẳng. Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định.
Nếu trụ trong trí chúng sanh bình đẳng, đây gọi là định.
Tâm hành bình đẳng, tánh tướng bình đẳng, tất cánh bình đẳng, tu hành bình đẳng, đây gọi là định.
Trụ nơi thí giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và các pháp v.v…,
đây gọi là định.
Như định bình đẳng thì chúng sanh
bình đẳng. Như chúng sanh bình đẳng thì các pháp
bình đẳng. Nhập vào các bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Định bình đẳng như vậy thì bình đẳng với không. Bình đẳng với không thì chúng
sanh bình đẳng, chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Như không bình đẳng thì vô tướng bình đẳng. Vô tướng bình đẳng thì vô nguyện bình đẳng. Vô nguyện bình đẳng thì vô tác bình
đẳng. Vô tác bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Vì tự tâm bình đẳng nên tha tâm cũng bình đẳng. Đây gọi là định.
Tất cả bình đẳng ấy, đó là lợi suy địa thuỷ hoả phong. Được tâm bình đẳng ấy thì tâm như hư không không có cao
hạ, thường trụ bất động, oai nghi được làm thường định chẳng chuyển. Bổn tánh vốn tự như vậy chẳng cất chẳng cao, tự tại vô uý nín lặng không nói năng, biết nghĩa, biết pháp, biết thời, biết phi thời, tuỳ sở hành thế gian mà chẳng xen tạp thế gian, bỏ tám pháp thế gian diết tất cả kiết sử, xa lìa ồn náo thích ở một mình. Bồ Tát tu hành các pháp như vậy, nơi các thiền định tâm an trụ lìa rời sở tác thế gian. Bồ Tát nầy dùng phương tiện huệ nhập Thiền Ba la mật.
Lúc nhập thiền định sanh tâm đại bi vì các chúng sanh, đây gọi là phương tiện. Tâm ấy tịch diệt hẳn đây gọi là huệ.
Lúc nhập niệm Phật đây gọi là phương tiện. Chẳng y chỉ thiền định đây gọi là huệ.
Lúc nhập nhiếp thủ tất cả thiện pháp đây gọi là phương tiện. Chẳng phân biệt pháp tánh đây gọi là huệ.
Lúc nhập xu hướng trang nghiêm
thân Phật đây gọi là phương tiện. Nơi Phật pháp thân chẳng sanh phân biệt đây gọi là huệ.
Lúc nhập nhớ âm thanh của Phật như phạm âm đây gọi là phương tiện. Ở trong pháp tánh không có tướng ngôn thuyết đây gọi là huệ.
Lúc nhập thọ trì tâm như kim cương đây gọi là phương tiện. Tư duy các pháp bổn tánh vốn tự chẳng loạn động đây gọi là huệ.
Lúc nhập chẳng xả bỏ bổn sở thệ nguyện độ các chúng sanh đây gọi là phương tiện. Nơi tất cả pháp tư duy vô ngã đây gọi là huệ.
Lúc nhập tư duy tất cả thiện căn đây gọi là phương tiện. Tư duy thiện căn tánh vô sở trụ đây gọi là huệ.
Lúc nhập quán khắp thế giới chư Phật đây gọi là phương tiện. Thấy thế giới chư Phật đồng với hư không đây gọi là huệ.
Lúc nhập trang nghiêm Bồ đề đạo tràng đây gọi là phương tiện. Quán chỗ trang nghiêm đồng với tịch diệt đây gọi là huệ.
Lúc nhập muốn chuyển vô thượng pháp luân đây gọi là phương tiện. Tư duy pháp luân
không có chuyển không có chẳng chuyển đây gọi là huệ.
Lúc nhập một bề tu trợ giác phần đây gọi là phương tiện. Vì biết các tâm nhiệt não của chúng sanh, nên
tu tập Như Lai thiền định, biết tất cả pháp tương ưng chẳng tương ưng, có tướng không tướng tất cả tương tục, tuỳ thuận Bồ Tát quyết định tư duy, đây gọi là huệ.
Đây gọi là Bồ Tát nhập thiền định phương tiện huệ vậy.
Bồ Tát Thiền định Ba la mật phương tiện và trí huệ hai sự chung hành được Phật pháp khí, tất cả các ma chẳng phá hoại được”.
Lúc nói pháp ấy, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Nhựt đăng tam muội.
Duyên cớ gì mà gọi là Nhựt đăng tam muội?
Ví như mặt nhựt mọc các ánh sáng của đèn lửa, mặt nguyệt, tinh tú đều không còn hiện.
Bồ Tát Đại Sĩ được định nầy rồi, thì trước kia tất cả những trí hữu học vô học Nhị thừa và các chúng sanh khác có bao nhiêu trí đều chẳng còn hiện, đây gọi là Nhựt đăng tam muội.
Bồ Tát an trụ nơi Thiền Ba la mật thì ở nơi vô lượng các thiền tam muội mà được tự tại. Nay ở trong đây nên một phần ít trong số vô lượng tam muội ấy. Những là Điện đăng tam muội, Tịnh tam muội, Nguỵêt quang tam muội, Tịnh trang nghiêm tam
muội, Nhựt quang tam muội, Bất khả tư nghị tam muội, Dũng xuất tam muội, Chiếu minh tam muội, Vố cấu quang minh tam muội, Công đức quang minh tam muội, Nhứt thiết pháp trung đắc tự tại tam muội, Các đạo tam muội, Vô ưu tam muội, Kiên xưng tam muội, Dũng xuất như tu di sơn đẳng tam muội, Pháp chiếu tam muội, Pháp kiện tam muội, Pháp tôn tam muội, Tự tại tri nhứt thiết pháp tam muội, Trụ pháp tụ tam muội, Tổng trì pháp tịnh tam muội, Tuỳ tri tha tâm
hành tam muội, Pháp trang anh lạc tam muội, Thiêu nhứt thiết phiền não tam muội, Phá tứ ma lực tam muội, Thập lực thanh dũng kiện tam muội, Vô ngại đoạn ngại tam muội, Thủ đăng tam muội, Thí đắc danh văn tam muội, Trì địa tam muội, Trụ vô ngã như tu di sơn tam muội, Trí diệm tam muội, Sanh huệ tam muội, Tu thiền tam muội, Vô lượng tự tại tam muội, Tâm điều phục vô ngã vô ngã sở thành tựu tam muội, Thuỷ nguyệt tam muội, Nhựt thanh tam muội, Vô hữu cao hạ như Phật tam muội, Ly tướng tam muội, Như thiện điều tượng sư tử du hý tam muội, Niệm Phật tam muội, Niệm pháp đắc trí vô ngại tự tại tam muội, Vô thối bất thối tam muội, Bất thuấn tam muội, Thắng tịnh quang vô ngã tam muội, Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô nguyện tam muội, Trụ tâm bình đẳng tam muội, Kim cương tam muội, Tăng thượng tam muội, Vô năng thắng tam muội, Triền tam muội, Tịnh thanh tam muội, Thiện phân biệt tam muội, Ly phiền não tam muội, Quảng đại như hư không tam muội, Nhập chư công đức tam muội, Niệm ý tiến giác tam muội, Dũng huệ tam muội, Biện vô tận tam muội, Ngữ vô tận tam muội, Tổng trì tam muội, Bất vong tam muội, Thiện tác tam muội, Quán nhứt thiết thế tam muội, Thiện tri sở lạc tam muội, Sanh dũng dước tam muội, Dũng từ tâm tịnh tam muội, Đại bi căn bổn tam muội, Nhập hỷ tam muội, Xả ly tam triền tam muội, Trí cự tam muội, Trí hải tam muội, Bất ba đảng tam muội, Nhứt thiết tâm hỉ tam muội, Điều phục tam muội, Giải thoát trí tam muội, Dĩ tự tại tam muội, Pháp tràng kim cương tràng tam muội, Liên hoa tam muội, Liên hoa tăng thượng tam muội, Ly thế pháp tam muội, Bất động tam muội, Huệ tăng thượng tam muội, Chư Phật sở niệm thủ lăng nghiêm tam muội, Vô tranh tam muội, Hoả tam muội, Hoả minh tam muội, Giải thoát thắng trí tam muội, Trang nghiêm Phật thân tam muội, Biến chiếu tam muội, Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm
hoan hỷ tam muội, Thuận trợ đạo tam muội, Trang nghiêm chư Ba la mật tam muội, Bửu man tam muội, Giữ chư giác hoa tam muội, Giữ giải thoát quả tam muội, Cam lộ tam muội, Tốc tật như phong tam muội, Bửu tế tam muội, Giá hải đào tam muội, Sơn tướng bác tam muội, Quảng đại thần túc tam muội, Kiến vô lượng chư Phật tam muội, Văn trì tam muội, Bất loạn tam muội, Nhứt niệm tri vô lượng công đức hải tịnh tam muội. Bất khả kế na do tha tam muội như vậy lúc nhập Thiền Ba la mật đều được thanh tịnh.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định mà chẳng thể tận”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bồ Tát Vô Tận Ý rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói về Bồ Tát Thiền Ba la mật. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Bát Nhã Ba la
mật, như chư Bồ Tát đã được Bát Nhã Ba la mật vô tận.
Bạch Đại Sĩ! Bát Nhã Ba la mật, hành thế nào và nhập thế nào?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bát Nhã Ba la mật như nghe rồi tu hành khéo nhập tư duy”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế nào là như nghe tu hành?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nghe ấy đủ tám mươi hành.
Những gì là tám mươi hành?
Muốn tu hành, thuận tâm hành, cứu cánh tâm hành, thường phát khởi hành, thân cận thiện hữu hành, không có
kiêu mạn hành, chẳng phóng dật hành, cung kính hành, tuỳ thuận giáo hành, theo thiện ngữ hành, hằng đến chỗ pháp sư hành, chí tâm nghe
pháp hành, thiện tư duy hành, chẳng loạn tâm hành, tinh tiến tâm hành, sanh bửu tưởng hành, khởi được tưởng hành, trừ các bịnh hành, niệm khí hành, tiến giác hành, ý hỷ hành, nhập giác hành, nghe không nhàm hành, tăng trưởng xả hành, điều trí hành, thân cận đa văn hành, phát hoan hỷ hành, thân nhẹ vui hành, tâm nhu hoà hành, nghe không mỏi mệt hành, nghe nghĩa
hành, nghe pháp hành, nghe oai nghi hành, nghe người nói hành, nghe chỗ chưa nghe hành, nghe
các thần thông hành, chẳng cầu các thừa khác hành, nghe các Ba la mật hành, nghe Bồ Tát tạng hành, nghe các nhiếp pháp hành, nghe phương tiện hành, nghe bốn phạm hành, nghe niệm chánh trí hành,
nghe sanh phương tiện hành, nghe vô
sanh phương tiện hành, nghe bất tịnh hành, tư duy từ hành, quán nhơn duyên hành, quán
vô thường hành, quán khổ hành, quán vô ngã
hành, quán tịch diệt hành, quán không hành, quán vô tướng hành, quán vô nguyện hành, quán vô tác hành, tác thiện hành, trì chơn thiệt hành, chẳng mất hành, chỗ ở tốt xấu phòng hộ tâm hành, siêng
tinh tiến không giải đãi hành, thiện phân biệt các pháp hành, biết các phiền não chẳng phải bạn bè hành, thủ hộ các thiện pháp bạn bè mình hành, hàng phục phiền não chẳng phải bạn bè hành, thân cận chánh pháp tài hành, dứt các nghèo cùng hành, được người trí khen hành, mừng vui lợi căn hành, được các thánh vui
hành, khiến kẻ chẳng phải thánh sanh hoan hỷ hành, quán các chơn đế hành, quán các ấm lỗi hoạ hành, tư lương hữu vi nhiều lỗi hoạ hành, tư duy nghĩa hành, chẳng làm tất cả ác hành, tự lợi lợi tha hành, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp hành, tiến tăng thượng hành, được tất cả Phật pháp hành.
Đây gọi là Bồ Tát như chỗ được nghe đủ tám mươi hành.
Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát hành Bát Nhã
Ba la mật đủ ba mươi hai sự khéo thiện nhập tư duy.
Những gì là ba mươi hai sự?
Thiện nhập thọ trì định, thiện nhập phân biệt huệ, thiện nhập tâm nhu hoà, thiện nhập thân độc hành, thiện nhập mười hai duyên, thiện nhập chẳng đoạn dứt, thiện nhập bất thường, thiện nhập nhơn duyên sanh pháp,
thiện nhập không chúng sanh không thọ mạng không nhơn, thiện nhập không có chỗ lai khứ an trụ, thiện nhập không có tác mà
chẳng dứt nhơn quả, thiện nhập rỗng không mà chẳng giải đãi, thiện nhập vô tướng mà chẳng phế, thiện nhập vô nguyện mà chẳng xả, thiện nhập chẳng chứng không vô tướng vô nguyện, thiện nhập sanh các thiền định tam muội, thiện nhập chẳng theo thiền định thọ sanh, thiện nhập sanh các thông
trí, thiện nhập chẳng chứng vô lậu pháp, thiện nhập nội quán pháp, thiện nhập chứng quyết định, thiện nhập tư lương hữu vi pháp lỗi hoạ, thiện nhập chẳng thảm trước hữu vi pháp, thiện nhập quán tất cả chúng sanh vô ngã
mà chẳng xả bỏ đại bi, thiện nhập tất cả thú những nơi bố uý, thiện nhập đầu thọ sanh các thú chẳng phải do nghiệp mà cố ý thọ sanh, thiện nhập ly dục, thiện nhập chẳng chứng pháp ly dục, thiện nhập xả bỏ lạc dục đã được, thiện nhập chẳng xả bỏ pháp lạc, thiện nhập xả bỏ tất cả hí luận giác quán, thiện nhập chẳng xả bỏ các giác quán phương tiện.
Đây gọi là đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đủ ba mươi hai sự thiện nhập tư duy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment