Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 94
PHÁP HỘI VÔ CẤU THÍ BỒ TÁT ỨNG HIỆN
THỨ BA MƯƠI BA
PHẨM BỒ TÁT HẠNH
Đức Thế Tôn khen rằng : « Lành thay lành thay Vô Cấu Thí ! Vì nhiều an lạc lợi ích chúng sanh và vì thương xót Trời Người thế gian mà ngươi hỏi đức Như Lai bao nhiêu hạnh của đại Bồ Tát như vậy. Lắng nghe lắng nghe khéo suy
nghĩ ta sẽ vì ngươi mà nói ».
Vô Cấu Thí cùng đại chúng đồng xướng thiện tại nguyện ưa thích được nghe.
Đức Thế Tôn phán dạy : « Nầy Vô Cấu Thí ! Bồ Tát thành tựu bốn pháp hay phá các ma : với lợi dưỡng của người chẳng sanh lòng ganh ghét, bỏ lìa lưỡng thiệt, khuyên nhiều chúng sanh tu căn
lành, với tất cả chúng sanh phát lòng từ bi ». Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Chẳng sanh lòng ganh ghét
Lìa bỏ lời lưỡng thiệt
Hay dạy nhiều chúng sanh
Trồng gốc cây pháp lành
Hay tu tâm từ rộng
Khắp đều cả mười phương
Khéo làm bốn điều nầy
Dẹp được các ma oán
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay phóng quang minh đến vô lượng cõi Phật : Hay cúng thí
đèn sáng, lúc pháp sắp diệt hay hộ trì chánh pháp, vì chúng sanh phóng dật và sa chỗ nạn mà thuyết pháp, hay đem anh
lạc bửu sức cúng Tháp miếu Phật ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu hay thí đèn sáng
Trong mạt pháp hộ pháp
Khai thị nạn phóng dật
Bửu sức cúng tháp Phật
Do đây mà Bồ Tát
Hay phóng tịnh quang minh
Đến vô lượng cõi Phật
Chiếu soi không bờ mé
Nhờ quang minh được vui
Đều phát tâm vô thượng
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay chấn động vô lượng vô biên thế giới : như sở thuyết thật hành , được thâm pháp nhẫn kiên trì thiện pháp, dạy vô lượng chúng sanh hành Vô thượng Bồ đề ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như sở thuyết tu hành
Khéo hiểu thâm pháp nhẫn
Muốn được pháp bạch tịnh
Kiên trì pháp diệu hạnh
Hay dạy vô lượng chúng
Phát tâm đại Bồ đề
Thật hành bốn pháp nầy
Hay chấn động thế giới
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được đà la ni : hay
thí cho các thứ cần dùng tịnh diệu, trang sức các thể nữ ai cần thì thí cho, thường dùng các thứ pháp tán thán chư Như Lai, thân cận người nhiều tu tập Bát Nhã Ba la mật ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Làm các thứ bố thí
Hay được đà la ni
Trang nghiêm thể nữ đẹp
Tùy ý người cần dùng
Thảy đều cấp đầy đủ
Thường ca ngợi Như Lai
Tu những thiệt trí huệ
Được Thế Tôn hứa khả
Do nơi bốn điều nầy
Hay được đà la ni
Trong trăm ngàn ức kiếp
Nghe pháp trọn chẳng quên
Mười phương Phật thuyết pháp
Hay ghi nhớ thọ trì
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được tam muội : nhiều chán sợ sanh tử, thường ưa chỗ nhàn tĩnh, thường siêng tinh tiến, khéo thành tựu được các việc làm »
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Bỏ rời các loài sanh
Đi riêng như kỳ lân
Thiện nam tử siêng làm
Thành tựn các công việc
Trí giả hay thành tựu
Bốn pháp thắng diệu nầy
Thân cận nơi Bồ đề
Cầu được pháp tối thắng
Người có tâm tịch tĩnh
Hay được các tam muội
Giác ngộ thắng Bồ đề
Chỗ đi của chư Phật.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được thần túc : vì thân nhẹ nhàng, vì tâm nhẹ nhàng, vì không y
chỉ trong tất cả pháp, vì tiếp thọ bốn giới làm không giới ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Thân nhẹ tâm càng nhẹ
Trí giả chẳng trước pháp
Tiếp thọ bốn giới nầy
Cùng không giới bằng đồng
Người đủ bốn pháp nầy
Hay được thừa thần thông
Một niệm đến ức cõi
Cúng dường vô lượng Phật
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay thành tựu đoan chánh đẹp lạ : trừ bỏ tham dục chẳng sân hận, ưa làm sạch tháp miếu Phật dùng đồ thơm đẹp để cúng dường, trụ oai nghi trì giới thường vui vẻ hỏi thăm, chẳng chê người thuyết pháp hằng tưởng như Thế Tôn ».
Đức thế Tôn nói kệ rằng :
« Chẳng sân hại người khác
Bỏ lìa hạnh tham dục
Quét rửa tháp miếu Phật
Cung kính dâng thơm đẹp
Thường chấp trì tịnh giới
Pháp ý hỏi thăm trước
Với pháp sư kính trọng
Có ý tưởng như Phật
Hành bốn điều lành nầy
Thì gọi người dũng kiện
Đoan chánh xinh đẹp nhất
Ai thấy cũng đều khen.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được hóa sanh : khắc chạm hoa sen đặt tượng Phật ngồi lên, dùng các hoa sen xanh vàng đỏ trắng và những hoa thơm đẹp khác đầy bụm tay rải lên Phật và tháp miếu, chí nguyện lợi ích vô lượng chúng sanh hằng hòa thuận kính yêu chẳng chê người dở, mình gieo trồng căn lành để lợi ích an lạc nhiều chúng sanh thoát sanh tử khổ não vì nguyện thành Vô thượng Bồ đề vậy ».
Đức thế Tôn nói kệ rằng :
« Khắc hoa đặt tượng Phật
Các thứ hoa cúng dường
Lợi ích chẳng hại người
Được hóa sanh cõi Phật
Hằng phát hoằng thệ nguyện
Độ mười phương chúng sanh
Dùng bốn diệu hạnh nây
Hằng sanh Phật tịnh độ
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được giàu có lớn : chẳng nghịch ý người xin, nơi đồ vật thí cho chẳng luyến tiếc, hằng cầu nguyện chúng sanh được nhiều của báu, bỏ rời kiến chấp thuận nơi chánh tín ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Bố thí chẳng trái nghịch
Nơi của không luyến tiếc
Tin hiểu các Phật pháp
Đời đời được của báu
Tin hiểu không nịnh ganh
Chẳng rêu rao lỗi người
Chuyên lòng một niềm tin
Do đây được của báu
.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hay được trí huệ : ở trong pháp khác chẳng ganh ghét, nói
pháp trừ lỗi khiến không nghi hối, với người siêng tinh tiến khuyên họ chẳng thôi bỏ, tự mình thường thích nhiều tu pháp không ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Chẳng ghét chánh pháp khác
Dạy người trừ nghi hối
Thường dìu dắt chúng sanh
Tu không hạnh của Phật
Trí giả thích pháp nầy
Được trí huệ danh xứng
Khéo hiểu lời Phật nói
Mau thành Lưỡng Túc Tôn.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì ghi nhớ túc mạng : học vấn tụng tập có người quên sót thì làm
cho họ nhớ biết, người quên thì nói lại cho họ, hằng phát lời thích ý hay cho
người ưa nghe, thường hành pháp thí chẳng để thôi bỏ vì thoát sanh tử xu hướng Niết bàn vậy, nguyện như Thiện Tài nhập thiền phương tiện ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Người quên khiến nhiớ biết
Hằng nói lời thích ý
Thuyết pháp chẳng mỏi mệt
Thường tu các chánh định
Do nơi bốn pháp nầy
Đều được túc mạng trí
Nhớ được vô lượng kiếp
Mau ngộ chỗ Phật đi.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì thường gặp chư Phật : thà bỏ thân mạng chứ chẳng hủy báng chánh pháp, thà bỏ thân mạng chớ chẳng hủy báng Bồ Tát, thà bỏ thân mạng chớ chẳng thân cận ác tri thức, nhớ tưởng chư Phật không hề chán đủ ».
« Chẳng hủy báng Bồ đề
Cũng chẳng hủy Bồ Tát
Thường rời xa ác hữu
Niệm Phật luôn chẳng chán
Đại Đức hành hạnh nầy
Thường được gặp chư Phật
Lúc chưa được thành Phật
Hằng cùng chư Phật hội.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thân ba mươi hai tướng : mang các trân
bửu dâng tháp miếu Phật, dùng các thứ dầu thơm xoa nền tòa tháp Phật và dùng vòng hoa
đẹp nghiêm sức tháp miếu, dùng các thứ kỹ nhạc để cúng dường, thường hầu cận Hiền Thánh không hề rời xa ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Mang báu vật cúng tháp
Dầu thơm thoa nền đài
Hoa đẹp các kỹ nhạc
Hầu hạ gần hiền thánh
Được thân tướng đoan nghiêm
Đủ ba mươi hai tốt
Do đây được các tướng
Để trang nghiêm thân Phật.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được tám mươi tùy hình hảo :cổi y thắng diệu để trải pháp tọa cung cấp hầu hạ tất cả trọn không nhàm mỏi, đến chỗ thuyết pháp không có lòng tranh luận hơn người, cung kính đại chúng chỉ tưởng như Phật, khuyên nhiều chúng sanh phát tâm Bồ để ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Diệu y phục trải tọa
Cúng dường không chán mỏi
Chẳng tranh luận pháp sư
Khuyên chúng phát đạo tâm
Làm được các điều này
Mau thành tùy hình hảo
Bồ Tát thành hạnh nầy
Đủ tám mươi vẻ đẹp.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được giỏi ứng biện : thọ trì thân cận Bồ Tát pháp tạng, ngày đêm sáu thời tụng Tam Âm kinh, chư Phật Bồ đề vô sanh vô diệt đời khó tin mà có thể thọ trì đọc tụng, rộng vì người giảng nói khiến họ vui thích chẳng tiếc thân mạng ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Hộ trì Bồ Tát tạng
Dũng mãnh tụng Tam Âm
Vô sanh đời khó tin
Phương tiện nói khiến mừng
Chẳng mến tiếc thân mạng
Trì chánh pháp của Phật
Không nghi lự mà làm
Tối thượng thắng Bồ đề
Tu pháp thậm thâm nầy
Thì hay được ứng biện
Ví như vòng hoa đẹp
Trời Người đều ưa nhìn.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp thì được thanh tịnh độ : vì chẳng tật đố, vì tâm bình đẳng, vì hộ trì Bồ đề hạnh , vì chẳng thân cận bốn bộ chúng ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Chẳng ganh với người khác
Thấy người lợi vui mừng
Tâm bình đẳng hành từ
Hóa chúng không nhiễm trước
Hành bốn vô lượng nầy
Người trí khéo thủ hộ
Được tịnh độ không khó
Mau thành Vô thượng đạo.
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì được thanh tịnh chúng : chẳng hy vọng đồ chúng của người, kẻ chẳng hòa thuận thì nhiếp khiến hòa giải, với người học vấn tụng tập thì cung câp đồ dùng, rời bỏ lưỡng thiệt.
Đức Thế Tôn nói kệ :
Trọn chẳng mong chúng người
Kẻ ly làm cho hiệp
Cấp người học thiếu thốn
Chẳng chia lìa chúng sanh
Làm được bốn hạnh nầy
Thì được thanh tụng chúng
Vì thanh chúng nên làm
Cực khổ cũng chẳng bỏ
Nầy Vô Cấu Thí ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì nguyện muốn sanh Phật độ nào liền tùy nguyện vãng sanh : đối với lợi dưỡng danh dự của người chẳng sanh lòng ganh ghét, chuyên tâm tu tập sáu Ba la mật, với tất cả Bồ Tát tưởng như Phật, từ sơ phát tâm nhẫn đến ngồi đạo tràng thường dùng tâm bình đẳng quan sát trọn chẳng vì lợi dưỡng danh dự mà siểm khúc dối khen tặng ».
Đức thế Tôn nói kệ rằng :
« Chẳng ganh danh lợi người
Cầu thanh tịnh lục độ
Xem Bồ Tát như Phật
Trọn chẳng nịnh cầu danh
Bồ Tát hành điều nầy
Hay thấy mười phương cõi
Tùy tâm mình sở nguyện
Liền được sanh Tịnh độ » .
Bấy giờ Vô Cấu thí bạch đức Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Như hạnh Bồ Tát đã được nói, tôi sẽ phụng hành. Trong những hạnh Bồ Tát đã được đức Thế Tôn dạy, nếu có một hạnh không làm thì tức là khi dối chư Phật thuyết pháp ở mười phương ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo Vô Cấu Thí rằng : « Cô dám ở trước đức Phật mà sư tử hống như vậy há chẳng biết rằng hạnh Bồ Tát khó làm được ư ! Và trọn chẳng do từ nữ thân mà được Vô thượng Bồ đề ».
Vô Cấu Thí nói : « Nay tôi ở trước đức Phật phát nguyện thành thiệt rằng : Nếu đời vị lai tôi sẽ được thành Phật Như Lai Đẳng Chánh Giác đủ mười đức hiệu thì nguyện khiến cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, không làm não loạn các chúng sanh. Như các hạnh Bồ Tát đã được đức Thế Tôn dạy tôi trọn đời thật hành, nguyện khiến hư không mưa các hoa trời, trăm ngàn kỹ nhạc chẳng đánh mà tự kêu và xin khiến nữ thân tôi đây biến thành đồng tử mười sáu tuổi ».
Vô Cấu Thí phát nguyện thành thiệt xong tức thì cõi Đại thiên chấn động sáu cách, hư không mưa hoa trời, trăm ngàn nhạc trời tự kêu và Vô Cấu Thí biến thành đồng tử mười sáu tuổi.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên trịch y vai bên hữu, gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng : « Nay tôi quy mạng chư Phật chư bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng.
Bạch đức Thế Tôn ! Cô gái nầy mà có sức oai đức thần túc lớn như vậy, hay phát đại nguyện, đã phát nguyện rồi tùy nguyện đều thành ».
Đức Phật dạy : « Đúng như vậy.Nầy Đại Mục Kiền Liên ! Chư Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng được Trời Người lễ kính như tháp miếu Phật, là phước điền vô thượng của Thanh Văn và Bích Chi Phật ».
Liền đó đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Theo thường pháp lúc chư Phật mỉm cười thì có ánh sáng nhiều màu xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê từ miệng đức Phật phóng ra chiếu suốt vô lượng vô biên thế giới làm cho ánh sáng
của cung điện thiên ma và nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất. Đức Phật nhiếp ánh sáng ấy về nhập vào đảnh đức Phật.
Tôn giả A Nan chỉnh y phục lại trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng lên Phật nói kệ hỏi rằng :
« Thiên Long phạm âm sư tử hống
Tiếng ca lăng tần tiếng sấm nổ
Trừ tham sân si sanh vui đẹp
Nguyện đấng thập lực nói duyên cười
Chấn động sáu cách không não loạn
Mưa hoa trời đẹp vui lòng chúng
Thế Tôn xô dẹp các ngoại đạo
Dường như sư tử phục dã can
Ngưỡng mong Thế Tôn vì tôi nói
Nhơn duyên vì đâu Phật mỉm cười
Ắnh sáng nhựt nguyệt châu vạn ức
Ánh sáng Thiên Long cùng Phạm Vương
Thích Ca miệng phóng tịnh quang minh
Trùm các quang minh Phật quang hơn
Bạch hào chặng mày như ngọc trắng
Viên mãn mềm mịn dường y trời
Bạch hào phóng quang chiếu vô lượng
Xin nói cớ chi phóng quang nầy
Thế Tôn răng trắng sạch không nhơ
Vuông bằng khít đều như ngọc tuyết
Miệng Phật phóng ra sáng nhiều màu
Xanh vàng đỏ trắng tía pha lê
Giả sử thế giới nhựt nguyệt hoại
Đất đầy hư không chẳng chỗ trống
Tánh nước biến được làm thành lửa
Tánh lửa cũng biến được thành nước
Biển cả làm cho đều khô cạn
Thiệt ngữ của Phật trọn chẳng hai
Tất cả chúng sanh trong mười phương
Giả sử đồng thời thành Duyên Giác
Mỗi mỗi Duyên Giác họp lời hỏi
Trăm ngàn vạn thứ trải ức kiếp
Đồng tập họp nhau trước Thế Tôn
Đều dùng dị âm đồng thời hỏi
Như Lai liền dùng nhứt âm đáp
Đều đứt hết tất cả chỗ nghi
Thành tựu trí huệ đến bờ kia
Tất cả trí huệ được trang nghiêm
Đấng Tối Thắng đủ băm hai tướng
Đấng oai đức xin giải đáp
Thế Tôn cớ chi hiện mỉm cười
Thọ ký Bồ đề cho ai đây
Chư Thiên người đời đều muốn nghe
Mong được Như Lai tuyên dạy rõ ».
Đức Phật phán : « Nầy A Nan ! Ông có thấy Vô Cấu Thí nầy phát nguyện thành thiệt chấn động cõi Đại thiên chăng ?
- Bạch đức thế Tôn ! Đã thấy.
- Nầy A Nan ! Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy từ lúc phát tâm đến nay đã tám vạn a tăng kỳ kiếp tu hạnh Vô thượng Bồ đề. Vô cấu Thí Bồ Tát nầy tu hạnh Bồ Tát đến sáu mươi kiếp rồi sau đó Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử mới phát tâm Bồ đề. Nầy A Nan ! Như Văn Thù Sư Lợi v.v…Tám vạn bốn ngàn Đại Bồ Tát có bao nhiêu công đức trang nghiêm Phật độ. Vô Cấu Thí Bồ Tát cũng đồng như vậy không khác ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Vô Cấu Thí Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Từ lâu Ngài đã phát tâm Bồ đề sao Ngài không chuyển thân nữ nhơn ? ».
Vô Cấu Thí Bồ Tát bảo Tôn giả Đại Mục Kiền Liên : « Đức Thế Tôn thọ ký Tôn giả là thần túc đệ nhứt sao Tôn giả chẳng chuyển nam thân ? ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên liền yên lặng.
Vô Cấu Thí Bồ Tát nói : « Nầy Tôn giả ! Cũng chẳng do nữ thân được Vô thượng Bồ đề, cũng chẳng do nam thân được Vô thượng Bồ đề. Tại sao ? Vì Bồ đề vô sanh nên không có được vậy ».
PHẨM THỌ KÝ
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn !Thật chưa từng có, Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy hiểu pháp thậm thâm, dùng sức thệ nguyện làm thành các sở nguyện ».
Đức Phật bảo : « Đúng như lời Văn Thù Sư Lợi nói. Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy đã từng ở chỗsáu mươi ức chư Phật mà tu không tam muội, ở chỗ tám mươi ức chư Phật mà tu vô sanh pháp nhẫn, ở chỗ ba mươi ức chư Phật mà hỏi pháp thậm thâm, đã từng đem y phục ẩm thực cúng dường tám mươi ức chư Phật và hỏi về phân biệt biện ấn tam muội nầy.
Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn vì Bồ đề đem đồ trân bửu đầy trong hằng hà sa thế giới bố thí chẳng bằng thọ trì kinh nầy đọc tụng thông thuộc rộng nói cho người nhẫn đến biên chép được công đức tối thượng tối thắng, huống là tu hành đúng
như lời. Tại sao ?Vì hay thọ trì hạnh Bồ đề của chư Bồ Tát vậy ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Pháp Vương Tử bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Nên gọi tên kinh nầy là gì và thọ trì thế nào ? ».Đức Phật dạy : « Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nên gọi là kinh Phân BiệtThuyết Ứng Biện, cũng gọi là kinh Thuyết Tam Muội Môn. Nên phụng trì như vầy ».
Lúc đức Phật nói kinh nầy, tám vạn ức chúng sanh chư Thiên và người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề quyết định chẳng thối chuyển.
Bấy giờ Biện Nghiêm Bồ Tát bạch đức Phật : « Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy thời gian nào sẽ thành Vô thượng Bồ đề ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Biện Nghiêm ! Vô Cấu Thí Bồ Tát nầy quá số kiếp cúng dường quá số chư Phật xong sẽ được thành Phật hiệu Vô Cấu Quang Tướng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác đủ mười đức hiệu, thế giới hiệu Vô Lượng Đức Trang Nghiêm, thuần Đại thừa Bồ Tát không có hàng Nhị thừa Thanh Văn Bích Chi Phật, cõi ấy nghiêm sức vi diệu hơn các cõi trời ».
Vô Cấu Thí Bồ Tát nghe đức Phật thọ ký, tâm thanh tịnh hớn hở vọt lên hư không cao hằng tám mươi ức cây đa la, phong quang minh lớn chiếu trăm ngàn ức thế giới chư Phật. Ngay trên đảnh đức Thế Tôn hóa làm tám vạn bốn ngàn các thứ lọng báu trang nghiêm
đẹp lạ bằng thiên bửu. Liền ở trong hư không dùng sức vô lượng thần túc cúng dường lễ bái vô lượng chư Phật mười phương rồi trở về chỗ đức Phật đứng tại một phía.
Bấy giờ Bà La Môn Phạm Thiên và năm trăm Bà La Môn nghe đức Phật thọ ký vô thượng Bồ đề cho Vô Cấu Thí Bồ Tát và thấy sức vô lượng thần túc, đều hớn hở vui mừng đồng thanh nói kệ ca ngợi đức Phật :
« Người hay cung kính Phật
Được lợi ích đệ nhứt
Phát tâm cầu Bồ đề
Là Phật trí đệ nhứt
Xưa chúng tôi tạo ác
Nay sanh nhà tà kiến
Thấy Phật và chúng Tăng
Miệng phát ra lời ác
Nay tôi thành tâm hối
Tội ác khẩu đã phạm
Thấy chư Phật tử hiền
Cho là điềm chẳng tốt
Nếu chẳng thấy Như Lai
Tối tôn trong trời người
Thì uổng thọ thân người
Uổng ăn uống để sống
Tôi và Vô Cấu Thí
Xuất thành đi tế tự
Vô Cấu thấy Phật tử
Kính trọng và tán thán
Chúng tôi thấy tán thán
Liền quở chỗ được khen
Chúng tôi liển hỏi có
Đã từng thấy Phật chưa
Cô ấy đáp chúng tôi
Sơ sanh được bảy ngày
Nghe chư Thiên khen Phật
Cô ca ngợi Như Lai
Chơn thiệt không sai khác
Chúng tôi nghe khen xong
Liền phát tâm tối thắng
Cầu Bồ đề Vô thượng
Vì tôi nghe hiệu Phật
Được tỏ ngộ túc nghiệp
Liền đến lạy Thế Tôn
Để cầu pháp tối thắng
Thấy Phật kính lạy rồi
Nghe pháp tối vô thượng
Thấy đấnh Thiên Nhơn Tôn
Cầu thoát ly khổ tế
Pháp được đức Phật nói
Chơn thiệt hay độ đời
Chúng tôi học pháp ấy
Để được pháp vô thượng
Nghe công hạnh Bồ Tát
Để được chư Phật pháp
Chúng tôi cũng nên tập
Để được thành Phật đạo
Nói pháp môn xuất yếu
Hạnh của Bồ Tát làm
Tôi cũng hướng môn ấy
Được thế gian kính lễ
Phật biết kia thành tâm
Vui vẻ mà mỉm cười
A Nan liền bạch Phật
Xin nói duyên cớ cười ».
Đức Phật nói kệ bảo A Nan :
Năm trăm Bà La Môn
Cùng phạm chí Phạm Thiên
Đồng chung trong một kiếp
Kế nhau thành Chánh giác
Từng ở đời quá khứ
Cúng đủ năm trăm Phật
Từ nay do tu hành
Sẽ thấy ức số Phật
Trong tám mươi ức kiếp
Trọn chẳng sa nạn xứ
Ở trong mỗi mỗi kiếp
Sẽ thấy ức số Phật
Rồi sau đó sẽ thành
Đấng Tối Thắng Lưỡng Túc
Đều sẽ đồng một hiệu
Phạm Quang Minh Như Lai
Thọ mạng cũng đều đồng
Đủ tám mươi ức năm
Cõi nước đều đồng bằng
Đều tám mươi ức Tăng
Hóa độ vô lượng chúng
Lợi ích chúng sanh rồi
Sẽ nhập đại Niết bàn
Chứng tịch tĩnh diệt độ ».
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Cấu Thí đại Bồ Tát và chư đại chúng, phạm chí Phạm Thiên năm trăm đại sĩ, vua Ba Tu Nặc, chư đại Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ Nhơn và Phi Nhơn, nghe lời đức Phật dạy đều rát vui mửng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI CÔNG ĐỨC BỬU HOA PHU BỒ TÁT
THƯ BA MƯƠI BỐN
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá tại nui Kỳ Xá Quật cùng chúng đại tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, lại có vô lượng chúng đại Bồ Tát.
Bấy giờ trong pháp hội có Bồ Tát Khai Phu C ông Đức Bửu Hoa đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà bch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có điều muốn bạch hỏi nơi đức Thế Tôn, mong thương xót cho phép ».
Đức Phật phán : « Nầy thiện nam tử ! cho phép ông hỏi tôi sẽ giải nói cho ».
Công Đức Hoa Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Trong thập phương thế giới vả có chư Phật Như Lai hiện tại nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì danh hiệu mau được Vô thượng Bồ đề chăng ? ».
Đức Phật phán : « Lành thay lành thay, nầy Công Đức Hoa ! Ông có thể vì an lạc cợi ích cho Trời Người thế gian và chúng sanh
đời vị lai mà bạch hỏi Như Lai sự nghĩa như vậy ! Lắng nghe, lắng nghe khéo suy nghĩ ta sẽ nói cho ».
Công Đức Hoa Bồ Tát bạch rằng : « Vâng ! Bạch đức Thế Tôn, tôi xin ưa thích muốn nghe ».
Đức Phật phán : « Nầy Công Đức Hoa ! Phương Đông có thế giới tên Nhứt Thiết Pháp Công Đức Trang Nghiêm, kiếp tên Phổ Tập Nhứt Thiết Lợi Ích, hiện có Phật hiệu Vô Lượng Công Đức Bửu Trang Nghiêm Oai Đức Vương Như Lai thọ mạng vô số, chúng hội vô lượng vô biên đều là chư đại Bồ Tát thanh tịnh. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh hiệu đức Phật ấy liền có thể diệt trừ sáu mươi ngàn kiếp tội sanh tử chuyển thân được đà la ni tên Nhạo thuyết vô ngại, lúc người nầy thuyết pháp thường được mười câu chi thế giới chư Phật Thế Tôn ban cho biện tài khiến được vô úy ».
Đức Thê Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh hiệu Phật ấy
Sẽ được các công đức như vậy
Cũng hay thành tựu thắng pháp khác
Mau chứng Vô thượng Phật Bồ đề.
Lại nầy Công Đức Hoă Phương Nam có thế giới tên Công Đức Bửu Trang Nghiêm, kiếp ten Quảng Đại Công Đức hiện có Phật hiệu Công Đức Bửu Thắng Trang Ngiêm Oai
Đức Vương Như Lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trìdanh hiệu đức Phật ấy chuyển thân sẽ được tam muội tên Nhựt luân quang minh biến chiéu, tùy nguyện vãng sanh nơi các cõi Phật, cũng sẽ nhiếp họ Phật độ vô lượng công đức trang nghiêm, sanh về cõi kia rồi đủ ba mưoi tướng được biện tài vô ngại, chuyển hân sẽ được Vô thượng Bồ đề ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Chuyển thân sẽ được nan tư định
Dùng ba mươi tướng trang nghiêm
Một đời sẽ chứng quả Bồ đề.
Lại nầy Công Đức Hoă Phương Tây có thế giới tên Lý Nhứt Thiết Ưu Ám, tên Bá Triền. Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh hiệu ấy
Nước lửa dao độc không hại được
Chuyển thân sẽ thọ báo hóa sanh
Thành tựu Bá Triền đà la ni ».
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương Bác có thế giới tên Lý Trần Ám, kiếp tên Trì Đại Danh Xưng, hiện có Phật hiệu Tích Tập Vô Lượng Biện Tài Trí Huệ Như Lai, nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh hiệu Phật ấy thì là phụng sự sáu mươi câu chi na do tha Phật, được đà la ni tên Biến nhất thiết xứ, đà la ni tên Vô tận tạng, nhẫn đến lúc chưa thành Vô thượng Bồ đề trọn không sa vào ba ác đạo thường được vãng sanh cõi nước chư Phật tu Bồ Tát hạnh độ thoát vô lượng chúng sanh ác đạo, sẽ được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề ».
Đức thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Sẽ được công đức vô biên lượng
Quyết định sẽ được đà la ni
Thành tựu quả Bồ đề Vô thượng.
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương Đôn Nam có Công
Đức Thắng Diệu Trang Nghiêm, kiếp tên Xuất Sanh Công Đức, hiện có Phật hiệu Thiên Văn Lôi Hống Thanh Vương Như Lai, nếu có thện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh Phật ấy thì chuyển thân sẽ được Phật tứ vô úy tứ thần túc đại từ đại bi thập bát bất cộng pháp, chỗ có quốc độ công đức trang nghiêm như thế giới cực lạc phương Tây. Nếu có nữ nhơn hay thọ trì thì chuyển thân sẽ được thân trượng phu ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Được công đức thắng bất tư nghị
Họ thường được thấy vô lượng Phật
Nữ nhơn sẽ chuyển thân trượng phu.
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương Tây Nam có thế giới tên Vô Lượng Trang Nghiêm, kiếp tên Năng Sanh Diệu Pháp, hiện có Phật hiệuTối Thượng Diệu Sắc Thù Thắng Quang Minh Như Lai. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơntịnh tín thọ trì danh Phật ấy thì là phụng sự chín mươi câu chi chư Phật Như Lai được tam muội tên Độ Thoát nhứt thiết chúng sanh. Tại sao tên là Độ thoát nhứt thiết chúng sanh ? Lúc
thiện nam tử thiện nữ nhơn y tam muội nầy mà thuyết pháp thì có thể làm cho chúng sanh
trong cõi Đại thiên được giải thoát sanh cõi trời trong người đều được an lạc quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề dường như chúng sanh trong
cõi của Duyệt Ý Như Lai thường thọ hưởng an lạc ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Sanh ra thường có đại oai đức
Các căn sắc lực liền thù thắng
Trí huệ vô biên vô sở trước.
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương Tây Bắc có thế giới Ly Cấu, kiếp tên Quảng Tộc, hiện có Phật hiệu Chủng Chủng Thắng Quang Minh Oai Đức Vương Như Lai. Nếu có thiện nam tử thiẹn nữ nhơn tịnh tín tho trì danh Phật ấy thì chuyển thân được vô lượng biện tài trang nghiêm đà la ni, hay thọ trì pháp được nói của tam mươi câu chi đức Phật, được quốc độ của đức trang nghiêm như Cực Lạc thế giới ở phương Tây vậy ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh hiệu Phật
Quốc độ như cõi Vô Lượng Thọ
Thành tựu pháp trí rấyt thậm thâm
Một đời sẽ chứng Phật Bồ đề.
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương Đông Bắc có thế giới tên Vô Ưu , kiếp tên Biện Tài Trang Nghiêm, hiện có Phật hiệuVô Số Kiếp Tịch Tập Bồ đề Như Lai. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh Phật ấy thì là cúng dường tám mươi câu chi Phật Thế Tôn, chuyển thân đầy đủ sáu mươi thứ ngôn âm biện tài.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Trí huệ vô biên đến bờ kia
Như cúng sáu mươi câu chi Phật
Chuyển thân sẽ chứng diệu biện tài.
Lại nầy Công Đức Hoa ! Phương trên có thế giới tên Vô Lượng Công Đức Trang Nghiêm Oai Đức, kiếp tên Vô Lượng Hống thanh, hiện có Phật hiệu Hư Không Hống Thanh Tịnh Diệu Trang Nghiêm Quang Minh Chiếu Như Lai.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh Phật ấy thì nơi sanh ra là chủng tộc tôn quí, thông huệ giỏi thông đạt văn từ thế tục, phát ngôn được người tín thọ, trong các địa đầy đủ thanh tịnh giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, co túc mạng trí được ngũ thần thông cũng sẽ được Phật thập bát bất cộng pháp mau thành Vô thượng Bồ đề ».
Đức thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Sanh ra chưa hề rời chư Phật
Có đủ tám thứ phạm âm thanh
Mau chứng quả Bồ đề Vô thượng.
Lại nầy Công Đức Hoa! Phương dưới có thế giới tên Chủng Chủng Âm Thanh, kiếp tên Tích Tập Trí Huệ, hiện có Phật hiệu Nhứt Thiết Pháp Môn Thần Biến Oai Đức Quang Minh Chiếu Diệu Như Lai. nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn tịnh tín thọ trì danh Phật ấy thì chuyển thân sẽ được đà la ni tên
Thành tựu chánh giác sẽ có thể thọ trì pháp được nói của chín mươi câu chi đức Phật Như Lai, một đời sẽ được Vô thượng Bồ đề ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
« Nếu người thọ trì danh Phật ấy
Được thành Chánh giác
đà la ni
Hay trì chánh pháp vô lượng Phật
Một đời chứng được đại Bồ đề ».
Bấy giờ Khai Phu Công Đức Bửu Hoa Bồ Tát và Nhứt Thiết Công Đức Biện Tài Âm Bồ Tát được môn đà la ni, tám
vạn câu chi Bồ Tát đều hướng Vô thượng Bồ đề được bất thối chuyển, ba na do tha chư Thiên va Người phát tâm Vô thượng bồ đề.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Công Đức Hoa Bồ Tát và đại chúng cùng tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La, Càn
Thát Bà v.v… nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment