Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 114
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI MỐT
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật tại tháp lớn mà từ cổ xưa chư Phật thường an trụ, chư đại Bồ Tát cùng khen ngợi, đất ấy sạch sẽ vi diệu tối thắng, có pháp tọa của chư Phật, hàng Trời, Rồng, Càn Thát Bà v.v... luôn ca tụng. Nơi ấy lại có thể làm tăng trưởng vô lượng thiện căn, thường có ánh sáng vi diệu của chư Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức , là chỗ đầy đủ sở hành của chư Phật.
Đức Như Lai thành đạo Bồ đề rồi chuyển pháp luân vi diệu hàng phục vô lượng vô biên chúng sanh được tự tại nơi tất cả pháp. Đức Thế Tôn ở trong tất cả pháp được trí huệ vô ngại, khéo biết rõ tất cả chúng sanh căn
tánh lợi hay độn, đức Phật đã dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, trang nghiêm biết rõ tất cả pháp.
Có đại Tỳ Kheo Tăng sáu vạn tám ngàn người đều là Phật tử đã dứt phiền não tập khí, khéo hiểu thâm nghĩa, đều là phước điền, hay dứt sanh tử được quả tịnh giới bất sanh bất diệt.
Còn có vô lượng Bồ Tát Tăng đủ trí vô ngại trí thậm thâm trí vô tri,
đại từ đại bi tuôn mưa pháp, hay ban bố tất cả pháp vi cam lộ, đối với tất cả chúng sanh lòng
các Ngài như mặt đất tăng trưởng thành tựu các pháp trợ Bồ đề. Trí huệ các Ngài sáng rỡ hay phá tan tối tăm , đều có thể soi rõ đường thiện ác, có thể làm cho hoa sen
tâm lành của chúng sanh đều nở, hay làm cho căn lành của chúng sanh thành thục, tăng trưởng mầm lành, làm khô lầy phiền não.Các Ngài có đủ cảnh trí huệ bay trong hư không vô ngại như mặt nhựt. Các Ngài khéo có
thể làm cho chúng sanh thêm lành bớt ác như mặt nguyệt. Các Ngài là gốc lành cao vững như núi Tu Di. Lòng các Ngài tịch tĩnh tu hành hạnh thanh tịnh chẳng bị thế luận làm động chuyển, thường an trụ pháp xuất thế vô thượng , thường thấy chư Phật và tất cả Phật độ. Các Ngài chứa tạng pháp lành như biển cả. Các Ngài thành tựu đầy đủ các môn đà la ni, thánh hạnh tịch tĩnh và đại từ bi. Các Ngài trang nghiêm thanh tịnh hai mắt định và huệ. Từ lâu các Ngài đã xa
lìa sự sợ hải pháp thậm thâm. Từ vô lượng kiếp các Ngài tu hạnh Bồ đề, pháp nào chưa được rốt ráo thì trọn chẳng thôi nghỉ ? Các Ngài đã
thành tựu những công đức mà bực Bồ Tát phải có.
Danh hiệu của các Ngài là : Huệ Quang Vô Ngại Nhãn đại Bồ Tát, Kiến Nhứt Thiết Điền
Trang Nghiêm Anh Lạc đại Bồ Tát, Bất Đoạn Như Lai Tánh Xuất Thế Ý Đại Bồ Tát, Vị Chư Chúng Sanh Thị Hiện Tế Hạnh Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Lạc Thuyết Vô Ngại Thần Túc Tràng Danh Xưng đại Bồ Tát, Tịnh Chúng Quang Tự Tại Vương đại Bồ Tát, Thiện Năng Luận Giải Tự Nghĩa Quảng Thuyết Luận Nghị Thần Túc đại Bồ Tát, Vô Lượng Công Đức Trí Huệ Trang Nghiêm Trụ đại Bồ Tát, Chư đại Bồ Tát như vậy thường chung ở với đức Như Lai. Đức Như Lai thường vì chư Bồ Tát nầy mà phân biệt tuyên nói các
pháp môn mà Bồ Tát thật hành.
Lúc bấy giờ đức Như Lai thành Chánh đẳng Chánh giác được mười sáu năm, biết rõ trong đại chúng nhiều người tu phạm hạnh đều đến tập họp có thể thọ trì tạng pháp Bồ Tát.
Bấy giờ đức Như Lai nghĩ rằng : Nay ta nên vì
vô lượng chúng đại Bồ Tát nầy mà tuyên nói các
pháp sở hành của chư Bồ Tát. Ta nên trước thị hiện đạI thần thông lực của chư Phật Như Lai để cho chư đại Bồ Tát biết cảnh giới sâu rộng của chư Phật.
Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Phật Cảnh Thần Thông Thiệt Kiến Chúng Sanh.
Do công đức oai thần lực của Phật, ở chặng giữa hai cõi Dục và cõi Sắc suất hiện phường đình lớn rộng bằng cả Đại Thiên thế giới, từ hai sức định và phước làm thành , nơi đây có thể làm chỗ ở của Phật Như Lai. Đức Phật lại phóng quang minh thanh tịnh lớn chiếu khắp thế giới chư Phật mười phương, Quang minh nầy có thể làm cho chúng sanh
được tâm tri túc còn hơn cả ở cung trời, lại có thể khuyến tấn chư Bồ Tát phóng dật ở mười phương.
Phường đình được hiện ra đây, bốn phía giáp vòng có đại thọ bạch lưu ly, tường vách bằng chơn kim , nhà bằng công đức bửu, rèm rũ bằng ngọc mã não, lan can bằng các thứ châu báu, có lưới kết bằng bạch chơn châu giăng trùm
lên trên, các thứ phan lọng báu để trang nghiêm, các thứ hương thơm rưới rải trên đất, xông đốt gỗ thơm quý. Bao nhiêu những món thượng diệu trang nghiêm của chúng sanh trong mười phương thế giới đều hiện cả trong ấy.
Trong phường đình được hiện ra ấy đặt để vô lượng trăm ngàn vạn ức pháp tọa sư tử, trải nệm êm dịu vô lượng màu sắc đẹp sáng, ai thấy cũng đều sanh lòng vui
thích. Các tứ thiên hạ đều riêng có bốn thềm thang bằng thất bửu, ngang rộng mười do tuần, lúc có người bước đi trên ấy liền phát ra âm thanh
vi diệu. Như tứ thiên hạ, cả Đại Thiên thế giới cũng đều có thềm bực thất bửu như vậy cả.
Bấy giờ đức thế Tôn từ tam muội dậy, cả Đại thiên thế giới chấn động sáu cách, cũng phóng ra ánh sáng lớn tối thắng. Đức thế Tôn cùng các chúng
Thanh Văn, Bồ Tát sau trước vây quanh muốn đến phường đình ấy. Tất cả hàng chư Thiên tôn trọng ngợi khen rải các thứ hoa tròi như hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, cũng xông đốt các thứ hương thơm, rải các thứ bột hương để cúng dường Phật và Thánh chúng. Quang minh của đức Phật phóng ra chấn động cả mười phương, soi sáng khắp mọi nơi vô lượng vô biên thế giới, thị hiện thần thông phước đức của chư Phật.
Lúc bấy giờ, tại núi Kỳ Xà Quật, bỗng nhiên đại chúng chẳng còn hiển hiện, tất cả đều lên thềm bực thất bửu đi trên hư không. Có vô lượng ức Bát Bộ Quỷ Thần, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La già cùng các
chúng Quỷ Thần Vương cũng theo hầu cận đức Phật, đều mang hoa trời hương trời để cúng dường.
Tứ Thiên Vương quỳ dài chấp tay hướng lên đức Phật nói kệ tán thán :
Như Lai quang minh hơn tất cả
Hay phá tối tăm ba ác đạo
Chúng tôi quy y thích y chỉ
Đấng vô thượng tát bà tất đạt
Nói kệ xong, Tứ Thiên Vương cùng chúng trời thần của mình liền đứng hầu sau Phật.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn cùng chư Thiên trời Đao Lợi đem hoa hương cúng dường đức Phật mà nói kệ tán thán :
Như Lai đầy đủ mọi thần thông
Đức đại từ bi không ai hơn
Công đức Phật trang nghiêm mười phương
Chúng tôi kính lạy đấng vô thượng
Nói kệ xong, Thiên Đế cùng chư Thiên trời Đao Lợi liền đến hầu sau đức Phật.
Dạ Ma Thiên Vương cùng chư Thiên trời Dạ Ma đem hương hoa cùng kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật :
Trí huệ vô biên vô chướng ngại
Biết việc ba đời của chúng sanh
Một tâm biết rõ vô lượng tâm
Nay tôi kính lạy đấng vô thượng
Nói kệ xong, Dạ Ma Thiên Vương và chư Thiên Dạ Ma đứng hầu sau Phật.
Đâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Đâu Suất đem hoa hương kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật :
Phật biết các pháp như ảo huyễn
Không thọ không làm không chữ lời
Thương người nên nói chẳng thể nói
Ghi nói vô ngã biết pháp tánh.
Nói kệ xong Đâu Suất Thiên Vương và chư Thiên trời Đâu Suất liền đứng hầu sau đức Phật.
Hóa Lạc thiên Vương cùng chư Thiên trời Hóa Lạc đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường và nói kệ tán thán đức Phật :
Như Lai được đầy đủ thập lực
Biết các pháp giới như hư không
Không tướng vì thương mà hiện tướng
Tâm Phật bình đẳng dạy chúng sanh
Như Lai thường làm việc chư Phật
Vì chúng sanh làm việc thế gian
Khai thị pháp giới vô phân biệt
Nay tôi kính lễ Thiên Nhơn Sư.
Hóa Lạc Thiên Vương và chư Thiên trời Hóa Lạc nói kệ xong liền đến hầu sau đức Phật.Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại đem hương hoa kỹ nhạc trời cúng dường đức Phật và nói kệ tán thán :
Giới hạnh thanh tịnh trụ tịch tĩnh
Thành tựu tam muội tối vô thượng
Trí Phật vô biên vô chướng ngại
Tôi lạy bực cứu cánh giải thoát
Đại từ đại bi lời vi diệu
Hay biết đúng thiệt đạo phi đạo
Dũng kiện tinh tiến lực vô thượng
Chúng tôi kính lạy đấng vô động
Phật đã thành tựu ba giải thoát
Không ai khen hết công đức Phật
Quạ hay dầu chẳng đồng KIM SÍ
Cũng tùy sức mình mà bay liệng
Nay tôi như quạ tùy sức khen
Xin Phật xót thương nhận lời mọn
Không gieo không gặt không kết quả
Chẳng khen đức Phật không giải thoát
Từ bi làm cộng trí huệ lá
Chánh định cánh tua giải thoát nở
Ong chúa Bồ Tát hút cam lồ
Nay tôi lạy Phật hoa sen pháp
Đại bi trí huệ quang minh đủ
Hay phá vô minh của chúng sanh
Giới hạnh thanh tịnh người thích xem
Nay tôi kính lạy Phật pháp nguyệt
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Ngợi khen chê mắng lòng không hai
Hay sạch cấu nhơ vô lượng chúng
Nay tôi kính lạy sông Phật pháp.
Nói kệ xong, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương cùng chư Thiên trời Tha Hóa Tự Tại liền đứng hầu sau đức Phật.
Chúng chư Thiên cúng dường nói kệ tán thán xong, đức Thế Tôn liền thị hiện vô lượng thần thông đạo lực lần lẩn đến phường đình thất bửu. Như người tứ thiên hạ thấy đức Phật đi lên , khắp cả Đại Thiên thế giới cũng đồng thấy như vậy. Vào phường đình rồi đức Phật lên ngự tòa sư tử thất bửu, hàng Thanh Văn
và chư Bồ Tát cũng lên ngồi tòa báu.
Lúc bấy giờ đức thế Tôn nhập tam muội. Tam muội ấy có tên là Vô ngại giải thoát. Khắp thân đức Phật tất cả lỗ lông đều phóng vô lượng ánh sáng lớn chiếu suốt mười phương vô lượng thế giới. Loài chúng sanh trong các địa ngục nhờ ánh sáng soi đến đều được dứt khổ. Các chúng sanh
khác thì trừ lòng tham gian giận thù mê si, mỗi mỗi sanh lòng thương coi nhau như cha với con.
Do công đức của Phật nên trong ánh sáng ấy nói lên lời kệ để khuyến hóa các Bồ Tát phóng dật :
Như Lai tinh tiến vô lượng biên
Quá vô lượng kiếp thường tinh tiến
Ai hay khen Phật quang minh đức
Chỉ có chư Phật ở mười phương
Vì khuyên mười phương chư Bồ Tát
Ưa thích phóng dật chẳng tu thiền
Thích Ca Như Lai phóng quang nầy
Với chư Bồ Tát về đây họp
Thành tựu đầy đủ Phật thập lực
Phá được ma vương các thế giới
Thế giới chẳng nhơ dường hoa sen
Quang minh Phật phóng vô biên lượng
Như Lai chuyển pháp vô thượng nầy
Chư Thiên cùng người không làm được
Vì các chúng sanh chuyển pháp luân
Như xưa pháp luân chư Phật chuyển
Hôm nay Như Lai họp đại hội
Khó thấy dường như hoa ưu đàm
Nếu ai lòng tin được thành tựu
Đều vì nghe pháp đến chỗ Phật.
Lời kệ tụng trong quang minh của Phật phóng ra vang rộng khắp mười phương khuyên bảo các Bồ Tát làm chấn động tất cả thế giới đại địa, làm cho chúng sanh tất cả đều được an vui, hay sạch tất cả phiền não của chúng sanh, hay
phá si tối của tất cả chúng sanh, hay khuất tất cả cung điện của thiên ma. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương rồi trở về nhập vào đỉnh đầu của đức Phật.
Bấy giờ phương Đông có thế giới tên Vô Lượng Công Đức Bửu Tụ Thần Thông, Phật hiệu Tịnh Đại Bửu Hoa Quang Vương, nơi ấy có Bồ Tát hiệu Pháp Tự Tại Công Đức Hoa. Được quang minh chiếu đến, Bồ Tát nầy liền cùng hằng hà sa số đại Bồ Tát đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn, đầu mặt lạy chưn Phật Thích Ca Mâu Ni,
đi nhiễu Phật một vạn vòng rồi đem hoa hương vi diệu cúng dường ở trước Phật nói kệ tán thán :
Tất cả công đức đều rốt ráo
Thường được mười phương Phật ngợi khen
Danh hiẹu vô ngại khắp mười phương
Đại từ đại bi Thích Ca Phật
Như Lai pháp giới vô sai biệt
Vì kẻ căn độn nói sai biệt
Tuyên nói một pháp thành vô lượng
Như nhà ảo thuật bày sự ảo
Chư Bồ Tát nói kệ khen Phật xong cúi lạy chưn Phật rồi dùng sức thần thông của mình ở phía Đông của đức Phật hóa ra các tòa báu theo thứ tự mà ngồi.
Phương Nam có thế giới tên là Phật Quang, Phật hiệu là Vô Lượng Công Đức Bửu. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu Bửu Trượng. Bồ Tát nầy được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni
Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng rồi dâng cúng hương hoa vi diệu, ở trước đức Phật nói kệ khen ngợi :
Đại từ mây pháp tuôn mưa pháp
Thường nói vô thường không vô ngã
Dùng nước bát chánh dứt lửa kiết
Tăng trưởng căn lành cho
chúng sanh
Phật quang hay phá tối vô minh
Khuyên dạy chư Bồ Tát phóng dật
Hay đốt giống ái trong tam giới
Hay dạy chơn thiệt đạo phi đạo.
Nói kệ và đảnh lễ Phật xong, chư Bồ Tát nầy dùng thần lực của mình hóa ra tòa
báu ở phía Nam của đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây có thế giới tên là Quang
Minh, Phật hiệu Phổ Quang. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Xưng Lực Vương được quang minh chiếu đến liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường, ở trước đức Phật nói kệ khen rằng :
Phát nguyện lành trong vô lượng kiếp
Do đây được thân vô lậu tịnh
Công hạnh của Phật như hư không
Âm thanh vô ngại khắp mười phương
Như Lai tiếng phạn như sấm vang
Tiếng nầy vô nghiệp cũng vô nhơn
Không nghe không nhận không chúng sanh
Đại bi cớ chi vang tiếng nói
Chư đại Bồ Tát nầy nói kệ và đảnh lễ chưn đức Phật xong, dùng thần lực của mình ở phía Tây đức Phật hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Bắc có thế giới tên Bửu Trang Nghiêm, Phật hiệu là Vô Lượng Công Đức Trang Nghiêm. Cõi ấy có Bồ Tát hiệu là Đại Hải Trí. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Hải Trí liền cùng mười hằng hà sa số đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, dâng cúng hoa hương rồi nói kệ khen ngợi :
Như Lai vô thượng ánh sáng vàng
Hay phá tối tất cả thế gian
Nếu có chúng sanh gặp sáng nầy
Phiền não liền trừ được an lạc
Dầu ai thân cao quá Đại Thiên
Thần thông đạo lực vô biên tế
Cũng chẳng thấy được đảnh tướng Phật
Nhiều kiếp Thế Tôn tu hạnh gì.
Nói kệ khen xong, chư Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Đông Nam có thế giới tên Vô Ưu Phật hiệu là Năng Hoại Nhứt Thiết Ám. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Thắng Quang. Được quang minh chiếu đến , dại Bồ Tát Vô Thắng Quang liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đinh báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dâng cúng hoa hương rồi nói kệ ngợi khen :
Vô lượng cõi vào một lỗ lông
Cũng chẳng nhiễu hại các chúng sanh
Cảnh giới của Phật khó biết được
Thần thông đạo lực chẳng nghĩ bàn
Hay làm một thân thành vô lượng
Mà chơn thân Phật không tăng giảm
Dầu vì chúng sanh hiện thần biến
Mà nội tâm Phật thường bình đẳng.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Đông Nam đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây Nam có thế giới tên là Thiện Kiến, Phật hiệu là Tâm Bình Đẳng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Đại Bi Tâm. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Đại Bi Tâm liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi nói kệ khen rngợi :
Trong vô lượng đời gìn cấm giới
Như mao ngưu quý trọng đuôi mình
Thấy ai phạm giới lòng xót thương
Cũng chẳng kiêu mạn tự khen ngợi
Tâm của Phật như núi Tu Di
Mười phương ma tà không động được
Trí Phật rất sâu không thể lường
Khó nghĩ bàn được như biển cả
Phật tự giải thoát tất cả cõi
Cũng khiến chúng sanh được giải thoát
Được quả giải thoát thiệt không khác
Tùy lúc hành đạo có dị biệt.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát lạy chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Nam đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Tây Bắc có thế giới tên là Hoại Ám, Phật hiệu là Thần Thông Vương. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Võng. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Bữu Võng liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật mà nói kệ ngợi khen :
Như Lai Thế Tôn dường ảo huyễn
Mà vì chúng sanh nói sự huyễn
Vì không vật thiệt nên nói huyễn
Không có chúng sanh nói chúng sanh
Như người chiêm bao thấy các cảnh
Thức dậy thiệt ra không cảnh sắc
Vì độ chúng sanh hiện thế gian
Như Lai chơn thiệt không thế gian.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Tây Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Phương Đông Bắc có thế giới tên là Tịnh Trụ, Phật hiệu là Tâm Đồng Hư Không. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Vô Biên Tịnh Ý. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng dùng hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen :
Phật biết các pháp thậm thâm
Thường thích tịnh tĩnh tu vô tưởng
Biết rõ tâm tưởng của chúng sanh
Cũng nói các pháp như hư không
Trụ trong một tâm biết tam thế
Cũng biết rõ rằng các chủng nghiệp
Chẳng sanh tâm tưởng chúng sanh tưởng
Vô lượng đời tu vô tướng tưởng
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phía Đông Bắc đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Hạ phương có thế giới tên là Lạc Quang, Phật hiệu là Bửu Ưu Bát Hoa. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Trang Nghiêm Lạc Thuyết . Được quang minh chiếu đến, dại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu mặt lạy chưn Thích Ca Mâu Ni Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ khen ngợi :
Vô lượng bực trí chơn Phật tử
Số như vi trần trong mười phương
Ở vô lượng kiếp học hỏi Phật
Chẳng hết nghĩa một chữ của Phật
Trí huệ Như Lai rộng vô biên
Công đức tổng trì cũng như vậy
Danh xưng lực thế vô biên tế
Dường như đại hải ở mười phương
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương dưới đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Thượng phương có thế giới tên là Anh Lạc Trang Nghiêm, Phật hiệu là Đại Danh Xưng. Cõi ấy có đại Bồ Tát hiệu là Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương. Được quang minh chiếu đến, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Thông Vương liền cùng mười hằng hà sa số chúng đại Bồ Tát đồng đến Ta Bà thế giới trong phường đình báu lớn đầu lạy chưn đức Thích Ca Mâu Ni
Phật, đi nhiễu bên hữu một vạn vòng, đem hương hoa vi diệu cúng dường rồi ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen :
Thân Phật thân nghiệp vô biên tế
Ý nghiệp khẩu nghiệp cũng vô biên
Chỉ Phật biết được Phật ba nghiệp
Người khác chẳng biết như hư không
Như lai đầy đủ vô sư trí
Vì vậy chúng sanh gọi Đại Sư
Chư Phật pháp giới chẳng nghĩ bàn
Thành đạo chuyển pháp nhập Niết Bàn.
Nói kệ xong, chư đại Bồ Tát đảnh lễ chưn đức Phật rồi dùng thần lực của mình hóa ra tòa báu ở phương trên đức Phật rồi theo thứ tự mà ngồi.
Trong khoảng một niệm thời gian, vô lượng chư đại Bồ Tát ở mười phương thế giới đồng thời vân tập trong phường đình báu lớn .
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn từ tam muội an tường dậy, tiếng dặng hắng của đức Phật vang suốt mười phương, tất cả chúng sanh đều được nghe, nghe rồi đều sanh lòng kính tin Phật Pháp và Tăng Tam bửu.
Thế giới mười phương có bao nhiêu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc là người hoặc hàng phi nhơn nghe tiếng của đức Phật rồi thì thân tâm của họ liền tịch tĩnh. Do sức oai thần công đức của Phật nên họ đều ngó thấy những thềm bực bảy báu, trong khoảng một niệm họ đều được lên thềm báu vào trong phường đình báu lớn theo vị thứ của mình mà ngồi.
Nghe thanh âm của đức Phật, tất cả chư Thiên : Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Phạm Vương Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên,
Quang Âm Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Phước Ái Thiên, Phước Sanh Thiên, Vô Tưởng Thiên, Quảng Quả Thiên, , Vô Phiền Thiên, , Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên, trong thời gian một niệm đồng đến phường đình báu lớn lễ Phật cúng dường hóa ra tòa báu rồi theo thứ tự mà ngồi.
Thấy đại chúng đã tập họp xong, đức Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh
nầy có tên là Thị Bồ Tát Lực, xoay quanh đại chúng Bồ Tát bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu chư Bồ Tát.
Trong đại hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử nhập tam muội tên là Anh Lạc Trang Nghiêm. Do
sức tam muội nầy hóa ra tòa sư tử cao bằng tám vạn ức cây đa la, tòa nầy bảy báu trang nghiêm
trải các thứ danh hoa, hay làm cho người thấy phải ưa thích và thâm tâm đều thanh tinh.
Dùng sức tam muội hóa hiện tòa sư tử như vậy rồi, đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử xuất định an tường đứng dậy đầu mặt lạy chưn đức Phật, cung kính chắp tay ở trước đức Phật nói kệ ngợi khen :
Ánh sáng nhựt nguyệt phá hiện tối
Phật quang hay phá tối ba đời
Như Lai đầy đủ sức thần thông
Sáng hơn tất cả ánh sáng trời
Phật rõ pháp giới không tri giác
Như trăng trong nước không khứ lai
Không sanh không thọ không tác giả
Chơn thiệt biết rõ dạy lại người
Biết trong sắc tâm không sắc tâm
Phương tiện dạy người nói sắc tâm
Thần thông Như Lai dường ảo huyễn
Biết các pháp giới cũng ảo huyễn
Tất cả chúng sanh tâm thường tịnh
Có lúc khách trần phiền não nhiễm
Chư Phật Như Lai được giải thoát
Thị hiện thần thông như huyễn ảo
Hư không không nơi không chỗ ở
Tâm Phật rỗng không cũng như vậy
Vì chúng nên Phật lên tòa ngồi
Nói pháp cam lộ như chư Phật
Tất cả đại chúng không khứ lai
Không có người nói nghe nhận lấy
Các pháp thảy đều như hư không
Nguyện Phật tuyên nói pháp chơn thật
Thế Tôn nhận ngồi tòa tôi hiện
Nguyện vì chúng sanh rống sư tử
Thương người nên phát phạm âm thanh
Đèn sáng trí huệ phá si tối
Đại chúng mười phương đến nghe pháp
Đều đã tập họp phường đình nầy
Nguyện Phật ban cho đại pháp thí
Phá khối nghèo cùng vô lượng đời.
Vì lòng đại bi, đức Thhế Tôn lên ngồi trên tòa sư tử báu của đại Bồ Tát Chư Pháp Tự Tại Công Đức Hoa Tử dâng hiến. Đức Thế Tôn muốn nói pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát. Hành pháp môn nầy sẽ được đầy đủ Phật pháp thập lực, tứ vô sở úy, nhập pháp môn tất cả pháp tự tại đà la ni, nhập pháp môn tứ vô ngại trí, nhập pháp môn đại thần thông bất thối chuyển pháp luân, bất thối trụ xứ nhiếp tất cả thừa, nhiếp tất cả pháp giới chơn thiệt pháp giới, vô phân biệt pháp giới, biết rõ tâm căn của tất cả chúng sanh, nhập pháp giới chơn thiệt kiên cố, hay phá tất cả tứ ma, điều phục tất cả ác kiến phiền não, được bất cộng thiện quyền pbương tiện, được tâm bình đẳng vô nhị, được chỗ mà tất cả chư Phật đồng vào, chỗ không chướng ngại vì nói tất cả pháp chơn thiệt, tất cả pháp phi giác phi phi giác, vì nói mười hai nhơn duyên bình đẳng, vì dầy đủ trí huệ đại trang nghiêm, vì
trang nghiêm thân Phật và âm thanh Phật, vì ý niệm vô tận hiện hành trí huệ, vì diễn nói tứ Thánh đế chơn thiệt hay làm cho hàng
Thanh Văn thân tâm thanh tịnh, hay làm cho hàng Bích Chi Phật phát khởi đại trí, hay làm cho hàng Đại thừa Bồ Tát được tự tại nơi tất cả pháp, vì nói rộng công đức của chư Phât, vì giải nói chỉ dạy tất cả pháp, vì nói công
đức lớn rộng của chư đại Bồ Tát, vì phá rách lưới nghi của chúng sanh, vì dẹp trừ tất cả tà luận, vì tăng trưởng chánh pháp của Như Lai, vì hiển bày thần lực của Phật cho chúng sanh thấy. Vì tất cả nhơn duyên như vậy mà đức Thế Tôn lên ngồi bửu tòa sư tử.
Bấy giờ có đại Bồ Tát hiệu là Bửu Trượng thừa thần lực của đức Phật mà nhập tam muội Phật anh lạc trang nghiêm, do
sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được các thứ anh lạc trang nghiêm.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Xưng Lực Vương nhập liên hoa tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được hoa đẹp cúng dường đức Phật và chư đại Bồ Tát.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Đại Hãi Huệ Trí nhập diệu hương tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được có hương thơm cúng dường Phật và chư đại Bồ Tát.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Bửu Vỏng cũng nhâp quang minh tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng đều được than mình có ánh
sáng đẹp.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Bi Tâm nhập vô thuấn tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn chẳng hề chớp mắt.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Vô Biên Tịnh Ý nhập hỉ lạc tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng vui thích nghe pháp.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Trang Nghiêm Lạc Thuyết nhập tịch tĩnh ý tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng xa lìa ngũ cái.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Nhứt Thiết Pháp Thần Túc Vương nhập bất vong tam muội, do sức tam muội nầy làm cho đại chúng chuyên nhớ Bồ đề chẳng quên mất.
Thừa thần lực của đức Phật, Dũng Kiện đại Bồ Tát nhập vô thắng tam muội, do sức tam muội nầy đều làm cho đại chúng xô dẹp các ma.
Thừa thần lực đức Phật, đại Bồ Tát Phá Ma nhập hoại ma tam muội, do sức tam muội nầy mà một ức vị ma vương trong Đại Thiên thế giới được vời đến tập họp tại phường đình báu lớn, tất cả một ức vị ma vương đầu mặt lạy chưn đức Phật, cung kính chắp tay đồng bạch rằng : « Nguyện đức Như Lai vì các chúng sanh mà khai thị pháp môn cam lộ. Chúng tôi nhơn sức oai thần của đại Bồ Tát Phá Ma nên sẽ được xa lìa tất cả nghiệp ma không còn có
lòng trở ngại đại chúng ».
Đức Phật nói : « Lành thay lành thay ! Các thiện nam tử, nay các ngươi đã lìa được nghiệp ma, do nhơn duyên nầy ở đời vị lai các người cũng lại được lìa tất cả nghiệp ma. Nầy các thiện nam tử ! Ví như trong nhà tối trăm năm, được các đèn sáng thì tất cả tối tăm đều mất. Cũng vậy, từ nhiều kiếp các ngươi bị vô minh làm đen tối, nay thì được phá tan mê lầm mà an trụ trong bửu quang nhựt nguyệt tín giới trí huệ thiền định. Các ngươi hôm nay thỉnh Phật thuyết pháp, do nhơn duyên nầy các ngươi sẽ phá được tối vô minh mà làm đèn sáng trí huệ cho các chúng sanh”.
Bấy giờ trong đại chúng có một đại Bồ Tát hiệu là Pháp Tự Tại Vương bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Cảnh giới của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao ? Vì đức Như Lai có tâm muốn thuyết pháp mà có thể làm cho tất cả đại chúng vân tập vì Bồ đề mà làm đại trang nghiêm đại pháp thần thông, vô lượng thế gian được đại danh xưng thân tâm tịch tĩnh được đại giải thoát và được pháp giới bất khả tư nghị, được mười phương chư Phật ngợi khen, đầy đủ tất cả mười Ba la mật, thành tựu thông đạt thiện quyền phương tiện, hay phá rách lưới nghi của tất cả các ma, hay dứt tất cả tà luận của các chúng sanh, hay khéo phân biệt tất cả pháp giới, đến được đầy đủ trí huệ vô ngại, đầy đủ trí huệ niệm ý hành, đầy đủ sức dũng kiện, đầy đủ bốn trí vô ngại, khéo biết các căn lợi hay độn của các chúng sanh, biết rõ chúng sanh giới mà tùy ý thuyết pháp, thường hay tuyên nói
pháp giới thanh tịnh, khéo hiểu tất cả ngữ ngôn của các phương thế gian, hay được tất cả phạm âm thanh tịnh, thành tựu đầy đủ tâm đại từ bi, các tà thuyết dị kiến không làm lay động được, như núi Kim Cương không gì phá hoại được, trọn đủ ba tướng, dựng nên tràng pháp,
đã qua khỏi sông sâu mười hai nhơn duyên, đã dứt hai biên kiến, hay điều phục đại chúng, trong vô lượng kiếp được khối pháp bất khả tư nghị, hay trị lành các bịnh như đại y vương, làm cho đại chúng nghe pháp
thậm thâm không kinh sợ, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươì vẻ đẹp trang nghiêm thân
đã thành tựu viên mãn ba mươi bảy phẩm trợ pháp Bồ đề và đầy đủ tám giải thoát, thân khẩu và ý đã thuần thiện không còn tạp xen có thể khiến tất cả chúng sanh đều mến thích đến nghe pháp, các
pháp thế gian không ô nhiễm được, thường thọ an lạc, thường trụ pháp giới, ban cho pháp bửu, với pháp không nhàm,
với pháp có không hề nhiễm dính như cánh hoa sen không
thấm nước, sáng hơn tất cả nhựt nguyệt đèn châu, trí sâu hơn biển, nối tánh Tam bửu, điều phục chúng sanh giới, hay khai phát Phật tạng, hộ trì Phật pháp, đầy đủ vô lượng công đức trí huệ. Trong vô lượng kiếp tu tập trang nghiêm vô lượng công đức, thường muốn chứng được nhứt hạnh nhứt tâm nhứt sắc nhứt xứ. Chư Bồ Tát có đủ công đức như vậy nay đều đến tập họp nơi pháp hội nầy. Nguyện đức Như Lai nói pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát để làm lợi ích cho chúng Bồ Tát quá khứ vị lai và hiện tại, để cho hàng sơ phát tâm chẳng thối chuyển, hàng phát tâm lâu thì được tăng trưởng, hàng hành đạo Bồ để thì được ý thanh tịnh, hàng bất thối Bồ Tát thì học pháp Phật, hàng bổ xứ Bồ Tát thì được anh lạc trang nghiêm, hàng tối hậu thân Bồ Tát thì được Vô thượng Bồ đề, chúng sanh định tánh thì thêm lớn nhơn duyên, kẻ chưa định tánh thì làm nhơn duyên kẻ chưa vào Phật pháp thì làm cho họ vào Phật pháp, kẻ vào Phật pháp thì thêm kính Phật pháp, vì người thích ba thừa mà nói nhứt thừa, ban cho thế gian phước lạc trời người.
Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai xuất thế có bao nhiêu sự bất khả tư nghị như vậy?
Bạch đức Thế Tôn ! Nay trong đại chúng nầy, mỗi vị Bồ Tát đều có thể thị hiện các đại thần thông. Vì vậy nên chư Phật và chư Bồ Tát đều chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch đức Thế Tôn ! Tại sao các chúng sanh vô minh ái nặng dầu được thấy đại thần thông của chư Bồ Tát như vậy mà vẫn sanh lòng ty hạ ham pháp Thanh Văn
hay pháp Duyên Giác.
Bạch đức Thế Tôn ! Lúc mới phát tâm Bồ đề, Bồ Tát đã hơn hàng Thanh Văn và
Duyên Giác.
Bạch đức Thế Tôn ! Ví như có người vứt bỏ ngọc lưu ly mà lượm lấy thủy tinh. Cũng vậy, chúng sanh bỏ Đại thừa mà thích thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Nếu có chúng sanh đã phát hay muốn phát tâm Vô thượng Bồ đề thì sẽ được tất cả công đức thần thông như đã nói ở trên”.
Nghe Pháp Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch đức Phật xong, trong pháp
hội có ba mươi ức na do tha trăm
ngàn muôn ức chúng sanh Trời và Người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn đã biết chư Bồ Tát đã vân tập, đức Phật nghĩ rằng hôm nay các thiện nam tử nầy đều muốn được nghe thiệt nghĩa của các pháp, họ đều có thể thọ trì tạng pháp thậm thâm của Phật, họ đều muốn nghe pháp môn vô ngại công hạnh của Bồ Tát.
Nghĩ như vậy, đức Phật liền phóng bạch hào tướng quang giữa hai chặng mày. Quang minh nầy có tên là vô sở úy nhiễu bên hữu quanh chư đại chúng đủ bảy vòng rồi nhập vào đảnh đầu của đại Bồ Tát Đà La Ni Tự Tại Vương.
Thừa thần lực của đức Phật, đại Bồ Tát Đà La Ni Tự Tại Vương hóa ra lọng báu lớn khắp đại Thiên thế giới trang nghiêm với bảy thứ báu. Lọng báu nầy che ngay trên
pháp tòa của đức Phật.
Hóa lọng báu lớn xong, Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi quỳ dài chắp tay cung kính nói kệ tán thán :
Như Lai tự tại tất cả pháp
Phật quang hay phá tối thế gian
Thế Tôn Phật nhãn không chướng ngại
Hay thấy nghĩa chơn thiệt các pháp
Đầy đủ vô lượng các công đức
Không thầy tự ngộ các pháp giới
Như Lai phóng quang vì
chúng sanh
Nhập vào đầu tôi có cớ gì
Trước đây trí biết chưa được tỏ
Mắt đà la ni tôi cũng vậy
Phật quang nay nhập vào thân tôi
Làm tôi biết rõ các pháp giới
Lại thêm thân tâm được thanh tịnh
Thọ vui vô thượng vô biên lượng
Nay tôi đã biết cảnh giới Phật
Cũng được lạc thuyết vô ngại biện
Khó được hầu gần mười phương Phật
Người gặp cũng không thờ làm thầy
Nay vì nương thần lực của Phật
Muốn hỏi chút pháp lợi chúng sanh
Nhơn duyên gì phát Bồ đề tâm
Còn có duyên gì Phật xuất thế
Duyên gì phóng quang chiếu mười phương
Còn duyên gi hiện thần thông lớn
Duyên chi Phật vì chúng thọ ký
Nguyện Phật chỉ dạy cho chúng rõ
Nay đại chúng này bực thắng thượng
Có thể thọ trì Phật pháp giới
Chúng đây không ma không nghiệp ma
Xin Phật khai thị pháp tạng Phật
Trí tôi thiển cận có mé bờ
Đâu có khả năng thưa thỉnh Phật
Nay hỏi Như Lai vô biên trí
Làm sao biết được các phương tiện
Nguyện Phật dạy bảo hảng đệ tử
Tôi học đã được pháp tự tại
Đã có khả năng thuyết đại pháp
Sẽ báo ơn chư Phật mười phương.
Bạch đức Thế Tôn ! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, công hạnh Bồ Tát không có ngằn mé, vì vậy nên nay tôi kính
hỏi đấng Như Lai Vô thượng Pháp Vương đại từ đại bi, để đem lại sự lợi ích cho chúng
sanh về pháp thậm thâm.
Thế nào gọi là Bồ Tát hạnh ? Dùng gì làm anh lạc trang nghiêm mà công hạnh của Bồ Tát được thanh tịnh ? Làm sao có thể phá được tối ngu si ? Làm sao có thể dứt hết lòng nghi lầm ? Bồ Tát vì chúng sanh tu tâm từ bi thế nào ? Bồ Tát ùng hộ chúng sanh thế nào ? Thế nào là Bồ Tát hay tu Bồ Tát nghiệp, thiện nghiệp và bất thối nghiệp ? Nguyện đức Như Lai xót thương tuyên dạy cho. Đại chúng trong pháp hội nầy đều có lợi căn trí huệ có thể hiểu lời Phật. Có thể biết pháp giới, có thể thấu đạt pháp môn vô ngại sở hành của Bồ Tát, có thể phá hoại tất cả ma và nghiệp ma, có thể trừ hết lòng nghi, có thể hiểu cảnh giới thậm thâm của Phật, có thể biết chúng sanh giới và chúng sanh tâm tánh, có thể thấy vô lượng chư Phật thế giới, có thể hộ trì Như Lai vô thượng chánh pháp, có thể được đại tự tại nơi tất cả pháp ».
Đức Thế Tôn khen Đà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng : Lành thay lành
thay ! Thiện nam tử có thể hỏi đức Như Lai về những nghĩa thậm thâm, có thể hay thật hành vô lượng Phật hạnh, ông có thể biết hỏi đức Phật như vậy. Nay ông nên lắng nghe, đức Như Lai sẽ vì ông mà tuyên nói nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ những công hạnh như vậy thì được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có bốn anh lạc trang nghiêm, đó là giới anh lạc trang nghiêm, tam muội anh lạc trang nghiêm, trí huệ anh lạc trang nghiêm và đà la ni anh lạc trang nghiêm.
Giới anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là đối với chúng sanh không có lòng làm tổn hại, nếu Bồ Tát không có tâm ác hại thì tất cả chúng sanh đều vui mừng thích thấy. Còn có hai thứ, đó là đóng bít ác đạo và mở rộng cửa lành. Còn có ba thứ, đó là thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh. Còn có bốn thứ, đó là sở cầu đều được, sở nguyện đầy đủ, sở nguyện thành tựu, chỗ muốn thì đều có thể làm được. Còn có năm thứ, đó là tín, giới, định, niệm và huệ. Còn có sáu thứ, đó là chẳng phá giới, chẳng lậu giới, chẳng tạp giới, chẳng hối giới, tự tại giới, và vô lậu giới. Còn có bảy thứ, đó bảy thanh tịnh : bố thí thanh tịnh, nhẫn nhục thanh tịnh, tinh tiến thanh tịnh, thiền định thanh tịnh, trí huệ thanh tịnh, phương tiện thanh tịnh và thiện phương tiện thanh tịnh. Còn có tám thứ, đó là tám cụ túc : vô tác cụ túc, địa cụ túc, bất vong tâm cụ túc. bất huởn cụ túc, chư căn cụ túc. Phật thế cụ túc, ly nạn cụ túc và thiện hữu cụ túc . Còn có chín
thứ, đó là bất động, bất úy, định trí, tịch tĩnh, chí tâm, thanh lương, kiết huởn, điều tâm và an trụ điều phục địa. Còn có mười thứ, đó là thân thanh tịnh vì có đủ ba mươi hai tướng tốt, khẩu thanh tịnh vì lời nói không hai, ý thanh tịnh vì đã giải thoát, điền thanh tịnh vì làm cho chúng sanh đầy đủ phước đức, tâm thanh tịnh vì điều phục chúng sanh, cõi nước thanh tịnh vì giáo hóa chúng sanh, danh hiệu thanh tịnh vì được công đức Như Lai, huệ thanh tịnh vì có đại thần thông, phương tiện thanh tịnh vì phá các ma chúng, và giới thanh tịnh vì có đủ pháp bất cộng. Nầy thiện nam tử, các sự như vậy gọi là giới anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử ! Tam muội anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là vì chúng sanh mà tu tập từ tâm. Còn có hai thứ, đó là chất trực và nhu nhuyến. Còn có ba thứ, đó là chẳng hư dối, chẳng thô bạo và chẳng tà siểm. Còn có bốn thứ, đó là chẳng tham ái, chẳng sân hận, chẳng bố úy và chẳng si mê. Còn có
năm thứ, đó là xa lìa năm cái chướng tam muội. Còn có sáu thứ, đó là tu tập lục niệm tam muội. Còn có bảy thứ, đó là tu tập thất giác chi tam muội. Còn có tám thứ, đó là tu tập bát chánh đạo tam muội. Còn có chín thứ, đó là Bồ Tát tu tập tâm Bồ dề và tâm đại từ bi ở nơi tất cả chúng sanh mà tu tập niệm tâm xa lìa tất cả pháp ác dục có giác có quán tịch tĩnh hỉ lạc được Sơ thiền , xa lìa giác quán nội tâm được hỷ lạc chí tâm tư duy vô giác vô quán định sanh hỷ lạc được đệ Nhị thiền, lìa hỷ tu xả đầy đủ niệm tâm không có phóng dật thân thọ an lạc được đệ Tam thiền, xa lìa khổ lạc diệt trừ tâm ưu hỷ, chẳng phải khổ chẳng phải lạc tu tập xả niệm tịch tĩnh, niệm dược đệ Tứ thiền, xa lìa sắc tướng tu tập vô lượng không tưóng, xa lía không tướng tu vô lượng Thức tướng, xa lìa thức tướng tu Vô sở hữu tướng, xa lìa vô sở hữu tướng tu Phi tưởng phi phi tưởng tướng và mặc dầu chưa thành tựu trí thiện quyền phương tiện, mà dùng sức tam muội giáo hóa chúng sanh. Còn có mười thứ, đó là quán pháp
không có sai lầm, thành tựu đầy đủ xa ma tha, tinh tiến không ngừng nghỉ, khéo biết rõ thời tiết, chí tâm thọ trì pháp lành, tâm tịch tĩnh, quán thân vô tướng, thường quán pháp giới và tâm được tự tại và chứng được Thánh tánh. Đây gọi là tam muội anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử ! Trí huệ anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là tâm không còn nghi. Còn có hai thứ, đó là xa lìa tâm
nghi và xa lìa tâm sân. Còn có ba thứ, đó là xa lìa vô minh, phá vỏ vô minh và làm ánh sáng lớn. Còn có bốn thứ, đó là biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu hành đạo phẩm. Còn có năm thứ, đó là giới tụ thanh tịnh, định tụ thanh tịnh, huệ tụ thanh tịnh, giải thoát tụ thanh tịnh và giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh. Còn có sáu thứ, đó là thanh tịnh bố thí Ba la mật có ba : một là nội thanh tịnh quán pháp như huyễn, hai là chúng
sanh thanh tịnh quán pháp như mộng và ba là Bồ đề thanh tịnh chẳng cầu quả báo. Thanh tịnh giới Ba la mật có ba : một là quán thân như bóng, hai là quán khẩu nhu vang và ba là
quán tâm như huyễn. Thanh tịnh nhẫn Ba la mật có ba : một là nghe chê chẳng sân, hai là nghe
khen chẳng mừng và ba là lúc bị chặt chém giết hại thường có thể quán pháp giới. Thanh tịnh tinh tiến Ba la mật có ba : một là chẳng tưởng, hai là vững chắc và ba là chẳng thấy pháp có tướng. Thanh tịnh thiền Ba la mật có ba : một là chẳng trụ trước các pháp, hai là tâm chẳng thối chuyển, ba là duyên cảnh thanh tịnh. Thanh tịnh phương tiện Ba la mật có ba : một là nhiếp lấy chúng sanh để cho được giải thoát, hai là thanh tịnh đà la ni để thọ trì chánh pháp và ba là sở nguyên thanh tịnh để tịnh Phật quốc độ. Còn có bảy thứ trí huệ anh lạc trang nghiêm, đó là tu Tứ niệm xứ chẳng lấy chẳng chấp, tu Tứ chánh cần chẳng xuất chẳng diệt, tu Tứ thần túc thân tâm thanh tịnh, tu Ngũ căn biết căn không có căn, tu Ngũ lực hay phá phiền não, tu Bồ đề phần biết pháp giới chơn thiệt và tu tập Thánh đạo không có khứ lai. Còn có tám thứ, đó là tu tam muội chánh định để được rốt ráo thanh tịnh, tu tri để phá si ám, tu trí biết ngũ ấm để biết pháp tu, tu trí biết thập bát giới để hiểu pháp giới đồng hư không, tu trí biết thập nhị nhập để biết pháp tánh bình đẳng, tu trí biết Mười hai nhơn duyên để quán vô ngã và
không có ngã sở, tu trí biết tứ Thánh đế để phá bốn điên đảo kiến và tu trí phân biệt biết pháp giới để biết chơn thiệt vậy. Còn có chín thứ, đó là quán vô thường, quán vô thường khổ, quán khổ vô ngã, quán ăn bất tịnh, quán thế gian không gì đáng
vui thích, quán trong vòng sanh tử có nhiều lỗi họa, quán giải thoát, quán lìa tham và quán tận diệt vậy. Còn có mười thứ, đó là quán các
pháp như ảo huyễn, quán các pháp như mộng, quán các pháp như dương diệm, quán các pháp như âm vang, quán các
pháp như thân cây chuối, quán các pháp như mặt trăng trong nước, quán các pháp như bóng, quán pháp giới không có tăng giảm, quán các pháp không
có đi hay ở và quán các pháp vô vi không có sanh diệt vậy. Đây là huệ anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử ! Đà la ni anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là chẳng mất niệm tâm. Còn có hai thứ , đó là trước thì ghi nhận và sau thì rốt ráo có thể giữ vững. Còn có ba thứ, đó là biết nghĩa, biết chữ và biết nói. Còn có bốn thứ, đó là nói lời chơn chánh, nói lời rõ ràng, nói lời vô ngại và nói lời không lầm lỗi. Còn có năm thứ đó là ngũ y chỉ : y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi chữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa mà chẳng y chỉ nơi kinh bất liễu nghĩa, y chỉ nơi chánh pháp mà chẳng y chỉ nơi người và y chỉ xuất thế chẳng y chi thế tục. Còn có sáu thứ, đó là đúng như lời nói chơn chánh mà làm, lời nói ra đều thành thiệt, phát ngôn được người thích nghe, lời nói đầy ý xót thương, lời nói sanh pháp lành và lời nói hạp thời tiết. Còn có bảy thứ, đó là lời nói lợi ích, lời nói trang nghiêm, lời nói vô ngại, lời nói không trệ, lời nói không có hai, lời nói đã có biết trước và lời nói rõ ràng rành
rẽ. Còn có tám thứ, đó là biết lời nói của các địa phương, biết lời nói của các quỷ thần, biết lời nói của chư Thiên, biết lời nói của các loài Rồng, biết lời nói của Thần Càn Thát Bà, biết lời nói của hàng A Tu La, biết lời nói của hàng Kim sí điểu và biết lời nói của các loài súc sanh. Còn có chín thứ, đó là lời nói không e sợ, lời nói không rụt rè, lời nói không vấp váp, biết lời nói giải thoát, biết lời nói đúng pháp, biết lời nói rộng rãi, biết lời nói theo thứ tự, biết lời nói thuyết vô thường và lời nói không cùng tận. Còn có mười thứ, đó là lời nói phá lưới nghi, lời nói khai thị về pháp giới, lời nói khai thị về pháp môn, lời nói mở mang trí huệ, lời nói phá mê tối, lời nói hiểu mỗi mỗì chữ, lời nói khen ngợi Phật, lời nói quở trách phiền não, lời nói phân biệt căn tánh lợi hay độn và lời nói vi diệu khai thị công đức của đức Phật. Đây là đà la ni anh lạc trang nghiêm vậy ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy nên nói tụng rằng :
Bốn anh lạc trang nghiêm
Hay trang nghiêm Đại thừa
Là giới định trí huệ
Và đà la ni vô thượng
Làm cho ba nghiệp tịnh
Mọi người đều mến thích
Dứt hẳn ba ác đạo
Gọi là giới anh lạc
Được đầy đủ sở nguyện
Được thân người thân trời
Hay tu tập tinh tiến
Gọi là giới anh lạc
Hay tu định vô thượng
Được hai thứ giải thoát
Thấy Niết bàn vô thượng
Gọi là giới anh lạc
Giới chẳng phá chẳng lậu
Vô thượng giới chẳng tạp
Hay được đại tự tại
Giới anh lạc trang nghiêm
Giới tịnh hay tịnh thí
Giới tịnh hay tịnh nhẫn
Giới tịnh ngũ độ tịnh
Giới anh lạc trang nghiêm
Tịnh giới tịnh ba cõi
Giới tịnh bất phóng dật
Vô úy tâm chẳng hối
Gọi là giới anh lạc
Giới định được Thánh tánh
Cũng làm thân tâm tịnh
Nhập được vô biên định
Gọi là giới anh lạc
Chẳng kính sợ chẳng động
Chắc được cõi thanh tịnh
Hay dứt dây phiền não
Gọi là giới anh lạc
Hay điều người khó điều
Hay được danh tiếng lớn
Trang nghiêm tâm tự tại
Gọi là giới anh lạc
Hay làm đúng như lời
Hay sạch miệng bốn nghiệp
Xa lìa các phiền não
Giới anh lạc trang nghiêm
Hay thanh tịnh Phật độ
Hay điều phục chúng sanh
Hay tu đại từ bi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Chẳng làm các nghiệp ác
Tu các hạnh Bồ Tát
Được thập lực vô úy
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay nghiêm đại Niết bàn
Hay được đại nhơn quả
Từ tâm khắp chúng sanh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay lìa lòng tham dối
Tu tập bốn nhiếp pháp
Dứt ái sân bố si
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay phá năm cái chướng
Tu tập đại niệm tâm
Trợ đạo chẳng phóng dật
Gọi anh lạc trang nghiêm
Đầy đủ hai phước trí
Đúng pháp tu duy nghĩa
Lạc hỷ trụ tịch tĩnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Với pháp không có nghi
Cũng không tâm si loạn
Chơn thìệt hiểu tứ đế
Gọi anh lạc trang nghiêm
Trì giới tâm không chấp
Cũng chẳng lòng kiêu mạn
Chẳng thấy giới người giữ
Gọi anh lạc trang nghiêm
Vô thượng huệ tịnh định
Chẳng biết hai tịnh huệ
Hay rõ biết ba cõi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ý tịnh chẳng kiêu mạn
Thấy bất tịnh chẳng khinh
Biết pháp bất khả thuyết
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm trí
Trí cũng trang nghiêm huệ
Tự tha Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết pháp như mộng huyễn
Chẳng nói pháp không có
Khéo tùy thuận thế gian
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm giới
Giới hay trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Thấy pháp như thủy nguyệt
Cũng như nắng lúc nóng
Thuyết pháp xem như vang
Như thành Càn Thát Bà
Phi pháp chẳng làm pháp
Gọi là huệ anh lạc
Huệ hay trang nghiêm nhẫn
Nhẫn cũng trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Pháp giới chẳng tăng giảm
Biết rồi điều chúng sanh
Chí tâm quán pháp thân
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm cần
Tinh tiến trang nghiêm huệ
Tâm định chẳng hối động
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm định
Định cũng trang nghiêm huệ
Hay thuyết thậm thâm pháp
Được vô thắng thần thông
Hay biết các phương tiện
Được vô thượng tổng trì
Pháp độ chúng sanh tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết các căn lợi độn
Phá phiền não các ma
Thân tâm được tự tại
Gọi anh lạc trang nghiêm
Đạo không có khứ lai
Cũng không người khứ lai
Chẳng quá khứ vị lai
Chẳng hiện tại người tu
Chẳng phân biệt pháp giới
Hay tịnh tất cánh định
Biết các ấm nhập giới
Gọi tên huệ anh lạc
Ấm nhập giới như không
Không ngã không ngã sở
Sanh diệt do mười hai
Gọi là huệ anh lạc
Biết thiệt đệ nhứt nghĩa
Cũng biết ấm nhập giới
Với pháp chẳng tranh luận
Biết tam thế vô ngại
Phân biệt ba khối chúng
Vì họ nói ba thừa
Dùng Tam bửu giáo hóa
Tu ba vô tưóng định
Vô tướng biết nhứt tướng
Chẳng huyễn biết như huyễn
Vô thuyết hay diễn thuyết
Thuyết không nơi bất không
Các pháp phi thường biến
Chẳng hủy hoại pháp giới
Vì nhơn duyên hòa hiệp
Lưu bố trong pháp giới
Đây gọi là chơn trí
Chẳng phân biệt pháp giới
Biết rõ động bất động
Biết rõ cạn và sâu
Biết rõ thường vô thường
Gọi là đại tịnh trí
Thường chẳng mất tịnh tâm
Biết rõ nơi pháp giới
Biết chữ cũng biết nghĩa
Nơi thế đế không tối
Nghe rồi hay thọ trì
Hiểu rõ tiếng mọi loài
Hay phá các tà đạo
Tu tập trí vô thượng
Y tứ y vô thượng
Là tổng trì anh lạc
Phật nói tràng công đức
Trang nghiêm Bồ đề tâm
Trong chúng vô úy thuyết
Hiểu rõ thiên thần ngữ
Hay phá các lưới nghi
Hay khai các pháp giới
Hay khen ngôi Tam bửu
Khuyên người đồng cúng dường
Kề cận Phật và Tăng
Tu tập trí vô thượng
Phật nói bốn anh lạc
Trang nghiêm Phật Bồ Tát
Nếu người chí tâm tin
Liền được anh lạc nầy.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment