Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 116
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI MỐT
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai khéo biết những nghiệp được có của các chúng sanh hiện tại và các chúng sanh vị lai, biết rõ nghiệp, biết rõ báo, biết rõ nhơn, biết rõ xứ. Nếu nghiệp quá khứ là nhơn bất thiện thì đức Như Lai biết rõ là đời vị lai được quả bất thiện. Nếu nghiệp vị lai có nhơn duyên thối chuyển thì Như Lai biết rõ là nhơn thối chuyển. Nếu nghiệp vị lai hay làm tăng
trưởng pháp thì đức Như Lai biết rõ do nhơn duyên nầy hay làm tăng trưởng pháp. Nếu nghiệp hiện tại hoặc tiến hoặc thối thì đức Như Lai biết rõ do nhơn duyên nầy nên có tiến có thối. Nếu có nghiệp được làm là nhơn Thanh Văn là nhơn Duyên Giác, là nhơn Bồ Tát, là nhơn Như Lai, thì đức Như Lai đều biết rõ do nhơn duyên nầy mà thành là nhơn Thanh Văn, là nhơn Duyên Giác, là nhơn Bồ Tát, là nhơn Như Lai. Đây gọi là nghiệp thứ hai của đức Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai chứng được trí Vô thượng
Nên biết rõ được nghiệp nhơn quả
Biết nhiếp tam thế chẳng tam thế
Biết được tam thế nghiệp chúng sanh
Khéo biết chúng sanh nhơn an lạc
Phật cũng biết rõ nhơn khổ não
Phật phá tà kiến không nhơn quả
Do đây tu tập nghiệp thứ hai
Thông đạt nhơn hai pháp tiến thối
Nghiệp quả thiện ác cũng như vậy
Như Lai tri kiến không chướng ngại
Như xem trái cây trong
bàn tay
Biết tướng chơn thiệt thượng trung hạ
Sở nhơn ba thừa cũng như vậy
Như Lai biết rõ nghiệp chúng sanh
Cũng biết các nghiệp quả thiện ác
Chúng sanh nghiệp quả thuộc tam thế
Biết rõ chẳng sai gọi Chánh Giác.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn biết rõ các loại dục giải của chúng sanh : hoặc là tham dục, hoặc là sân hận, hoặc là ngu si, đời hiện tại tham dục khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại sân hận khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại ngu si khởi đời vị lai tham dục sân hận ngu si. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh hiện tại trụ ở thiện dục vị lai ác dục, hiện tại trụ ác dục vị lai thiện dục. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh
đời hiện tại trụ hạ dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ trung dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện tại trụ thượng dục đời vị lai hạ trung thượng phần. Đức Như Lai biết rõ chúng sanh tà
tụ có thể làm chánh tụ, chúng sanh bất định tụ an trụ ở chánh định tụ. Đức Như Lai biết rõ chúng sanh cõi
Dục có dục giải cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Đức Như Lai biết rõ người Thanh Văn có dục giải Duyên Giác có dục giải Phật. Vì đức Như Lai chơn thiệt thông đạt biết rõ nên vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ ba của Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Dục giải của chúng sanh có nhiều loại
Ý đó có nhiều chẳng phải một
Phật chơn thiệt biết rõ các dục
Nên hay tùy ý diễn nói pháp
Tánh tham dục sân hận ngu si
Theo tướng biết rõ không sai lầm
Hạ trung thượng phẩm cũng biết rõ
Thiện ác nghiệp nhơn quả chơn thiệt
Thông đạt ba tụ chẳng nhứt định
Tất cả ba thừa cũng bất định
Biết tam thế chẳng nhiếp tam thế
Lực thứ ba vì chúng sanh nói.
Lại nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai biết rõ vô lượng thế giới, hoặc tu thiện hạnh, hoặc hành ác pháp, hoặc hành vô ngại hạnh, thế nào gọi là biết, vì là nội không ngoại không và nội ngoại không vậy.
Lại nữa, Đức Như Lai biết rõ nhãn, biết rõ sắc và biết rõ nhãn thức, thế nào mà biết, vì là như hư không vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, thế nào mà biết, vì như giác quán vậy.
Lại nữa đức Như Lai biết rõ nơi hành giới, thế nào mà biết, vì như tánh của hành vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ phiền não giới, thế nào mà biết, vì là tánh khách
trần vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới chẳng nhiễm ô, thế nào mà biết, vì tánh của các pháp bổn thanh tịnh vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới sanh tử, thế nào mà biết, vì vô minh nhơn duyên vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới Niết bàn, thế nào mà biết, vì là chơn thiệt tư duy vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ các giới : thế trụ, thế ái, thế sân, thế si, thế thanh tịnh, thế thanh tịnh tâm.
Vì biết rõ các giới nên có thể như thiệt thuyết pháp, đây gọi là nghiệp thứ tư của đức Như Lai”.
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Phật là sư tử Vương trong đời
Hay chơn thiệt biết chúng sanh giới
Như Lai trí huệ không bờ mé
Nên biết thế gian không bờ mé
Biết hạnh thiện ác hạnh giải thoát
Cũng biết nhãn sắc và nhãn thức
Thông đạt tất cả vô lượng pháp
Tánh nó bổn lai thường thanh tịnh
Nội ngoại chơn thiệt vô sở hữu
Ngũ ấm lục nhập thập bát giới
Thân khẩu ý nghiệp và tứ đại
Các pháp như vậy đều không thiệt
Biết rõ chúng sanh giới như vậy
Tất cả đều đồng cảnh hư không
Tam giới tánh tướng không chơn thiệt
Các phiền não giới cũng không chơn
Phiền não tánh tướng không bền vững
Vô lậu giải thoát cũng như vậy
Như Lai dầu biết chơn thiệt giới
Trọn chẳng vì biết mà kiêu mạn
Hư không vô lượng vô biên tế
Tất cả chúng sanh giới cũng vậy
Như Lai trí huệ vô biên tế
Xa lìa ba tướng của hữu vi
Trí Phật vô thượng rất sâu diệu
Tất cả chúng sanh chẳng biết được
Như Lai vì thương xót chúng sanh
Tuyên nói lực thứ tư như vậy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai biết rõ tất cả chúng sanh các căn
lợi độn. Thế nào mà biết ? Như Lai biết rõ là thượng trung hay hạ, biết là tăng, biết là giảm, cũng biết tham dục có một ức thứ, sân hận và ngu si cũng đều có một ức thứ, biết là tham dục nặng, biết là tham dục nhẹ, biết là ngu si nặng, biết là ngu si nhẹ, biết một loại căn hay tăng thêm sanh tử biết một loại căn hay giảm bớt sanh tử; biết thiện căn biết căn bất thiện biết căn chẳng thiện chẳng bất thiện, biết căn giải thoát biết căn sáu tình thức, biết căn nam, căn nữ, căn mạng, căn khổ, căn lạc, căn ưu, căn hỉ, căn xả, căn tín, căn tiến, căn niệm, căn định, căn huệ, căn vị tri dục tri, căn tri, căn
dĩ tri. Biết rõ nhơn nhãn căn, nhơn nhĩ căn, nhơn tỷ căn, nhơn thiệt căn, nhơn thân căn, nhơn ý căn. Biết rõ nhơn nhĩ căn làm duyên
nhãn căn, nhơn tỷ căn làm duyên thiệt căn, nhơn ý căn làm duyên thân căn, biết rõ giới trang nghiêm thì
có thể tu hạnh bố thí, biết rõ thí trang nghiêm thì có thể tu giới trang nghiêm. Đức Như Lai biết rõ ai có thể nói được thí, ai có thể nói được giới, ai có thể nói được nhẫn, ai có thể nói được tinh tiến, ai có thể nói được thiền, ai có thể nói được huệ, ai có thể nói được tứ niệm xứ, ai có thể nói được tứ chánh cần, ai có thể nói được tứ thần túc, ai có thể nói được ngũ căn, ai có thể nói được ngũ lực, ai có thể nói được thất giác chi, ai có
thể nói được bát chánh đạo phần, ai có thể vì chúng sanh nói
Thanh Văn thừa, ai có thể vì chúng sanh nói Duyên Giác thừa, ai có thể vì chúng sanh nói vô thượng Phật thừa. Đức Như Lai biết rõ căn Duyên Giác học Thanh Văn thừa, căn Chánh Giác học Thanh Văn thừa học Bích Chi Phật thừa, biết người hạ căn có thể tu thượng căn, biết người thượng căn tu hạ căn. Đức Như Lai biết rõ các chúng sanh
mà căn chưa có thể điều phục được thì sanh xả tâm, biết chúng sanh tâm có thể điều phục được thì vì hạng nầy mà nói chánh
pháp. Đức Như Lai biết rõ căn thục mà chẳng thục, căn chẳng thục mà thục, căn chẳng thục chẳng thục, căn thục có thục. Đức Như Lai biết rõ căn sanh tử, căn giải thoát, căn trang nghiêm, căn cụ túc. Tất cả căn tánh nhơn duyên quả báo Phật đều biết rõ thấy rõ, đây gọi là nghiệp thứ năm của chư Phật Như Lai”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Như Lai biết căn đã rốt ráo
Nên biết trình độ các chúng sanh
Cũng biết rõ căn hạ trung thượng
Gồm đến các nghiệp cũng biết rõ
Biết rõ phiền não căn nặng nhẹ
Các căn khó điều hay dễ điều
Biết căn sanh tử căn giải thoát
Biết rõ nhãn căn đến ý căn
Biết căn hành xứ và diệt xứ
Biết rõ các căn ba thừa
Chuyển được hay chẳng chuyển được
Căn chúng sanh thục hay chẳng thục
Theo đúng căn cơ mà thuyết pháp
Khéo lời trách dịu để điều phục
Biết kẻ chẳng thể dạy bảo được
Vì hạng nầy mà tu tâm xả
Như Lai khéo biết các phương tiện
Để phá phiền não trang nghiêm trí
Vì phá phiền não của chúng sanh
Nên nói lực thứ năm của Phật.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chơn thiệt biết chí xứ đạo. Biết thế nào ?
Đức Như Lai biết là chánh định tụ, biết là tà định tụ, biết là bất định tụ, biết nghiệp nhơn lực và quả báo lực, biết nhơn duyên phước đức đời quá khứ, biết nhơn duyên trang
nghiêm đời hiện tại, biết khó điều hay dễ điều, biết nói lược mà giải rộng, biết nói rộng mà lược giải, biết là chúng sanh có thể được giải thoát, biết là chúng sanh chẳng được giải thoát, biết là người bất định gặp thiện tri thức thì trụ ở chánh định tụ, nếu chẳng được thiện tri thức thì không giải thoát, biết rồi đức Như Lai theo đúng ý
nguyện mà vì người đó thuyết pháp, người ấy nghe rồi nhiếp niệm tư duy chứng được thiện quả. Đức Như Lai xuất thế chỉ vì hạng bất định tụ mà trọn chẳng vì hạng tà định thuyết pháp, tại sao, vì họ chẳng phải là pháp khí họ chẳng thể được chơn giải thoát, vì vậy mà ở nơi hạng nầy đức Như Lai tu tập tâm xả. Đại Bồ Tát biết thiệt rõ rồi siêng tu trang
nghiêm để phá chúng sanh tà định như vậy, do đây mà Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Như Lai khéo biết tham có ba loại : một là vì do thấy đẹp sạch, hai là vì nhơn duyên nhận thọ, ba là vì nhơn duyên trước. Biết sân cũng có ba loại, đó là nhơn duyên sân, nhơn duyên thọ và nhơn duyên trước. Biết si cũng có ba loại, đó là nhơn duyên vô minh, nhơn duyên ngã kiến và nhơn duyên lưới si mê.
Lại nữa, đức Như Lai biết các chúng sanh khổ trì được thông, khổ tốc được thông. Biết người khổ trì có thể được lạc tốc, biết người lạc tốc có thể được khổ trì, biết người lạc trì có thể được lạc tốc, biết là người có tu lực, biết là người có trí lực. Lại biết có đạo có đủ tu lực mà chẳng đủ trí lực, có đủ trí lực mà chẳng đủ tu lực; có đủ tu lực và có đủ trí lực, chẳng có đủ tu lực và chẳng có đủ trí lực. Lại biết có đạo có thể tâm thanh tịnh mà chẳng thể trang nghiêm, có
thể trang nghiêm mà không thể tâm thanh tịnh, có thể tâm thanh tịnh và có thể trang nghiêm, không thể tâm thanh tịnh và không thể trang nghiêm. Lại biết có đạo có thể thanh tịnh thân mà chẳng thể thanh tịnh khẩu ý, có thể thanh tịnh khẩu ý mà chẳng thể thanh tịnh thân, có thể thanh tịnh cả thân khẩu ý, chẳng thể thanh tịnh cả thân khẩu ý. Đây gọi là lực thứ sáu của Như Lai”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ đạo chỗ đến
Cũng biết nhơn duyên các chúng
sanh
Cũng hay biết rõ định bất định
Thông đạt rõ ràng điều chẳng điều
Chẳng vì tà định mà nói pháp
Cũng chẳng điều phục căn chưa thục
Biết rõ tham sân si ba loại
Cũng biết các kiết tướng khinh trọng
Biết rõ bốn đạo chuyển chẳng chuyển
Vì thế Phật biết đạo rốt ráo
Chơn thiệt biết tu lực trí lực
Hạ trung thượng lực biết rõ
Biết thân khẩu ý tịnh chẳng tịnh
Tâm tịnh trang nghiêm cũng biết rõ
Chúng sanh các căn phiền não giới
Như Lai biết rồi vì họ phá
Vì chúng sanh vô minh tối kia
Nói nghiệp thứ sáu của Như Lai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai biết thiền giải thoát, tam muội phiền não giải thoát, biết thế nào ?
Đức Như Lai biết các chúng sanh do
nhơn duyên mà thích
sanh tử, biết các chúng sanh do nhơn duyên mà ưa Niết bàn. Thế nào gọi là nhơn và thế nào gọi là duyên ?
Nếu các chúng sanh tư duy bất thiện đây gọi là sanh tử nhơn duyên. Do bất thiện tư duy mà sanh trưởng vô minh, vì vậy bất thiện là nhơn và vô minh là
duyên. Do vô minh mà sanh hành, vì vậy vô minh là nhơn và hành là duyên.
Do hành mà sanh thức, vì vậy hành là nhơn và thức là duyên. Do thức mà sanh danh sắc, vì vậy thức là nhơn và danh sắc là duyên. Do danh sắc mà sanh lục nhập, vì vậy danh sắc là nhơn và lục nhập là duyên. Do lục nhập mà sanh xúc, vì vậy lục nhập là nhơn và xúc là duyên. Do xúc mà sanh thọ, vi vậy xúc là nhơn thọ là duyên. Do thọ sanh ái, vì vậy thọ là nhơn và ái là duyên.
Do ái sanh thủ, vì vậy ái là nhơn và thủ là duyên. Do thủ sanh hữu, vì vậy thủ là nhơn và hữu là duyên. Do hữu sanh sanh, vì vậy hữu là nhơn mà sanh là duyên.
Do sanh thì có các khổ lão tử v.v ...vì vậy sanh là nhơn và lão tử là duyên. Phiền não là nhơn và các nghiệp là duyên. Các kiến chấp là nhơn và ái kiết là duyên. Phiền não là nhơn và ngũ cái là duyên. Như vậy gọi là nhơn và gọi là duyên. Các
chúng sanh do những nhơn và duyên nầy mà tham ưa sanh tử.
Do nhơn duyên gì mà ưa thích Niết bàn ?
Có hai nhơn và hai duyên làm
cho chúng sanh ưa thích Niết bàn. Những gì là hai ?
Một là vui mừng nghe chánh pháp, hai là thích chánh tư duy.
Một là xa ma tha, hai là tỳ bà xá na.
Một là trí bất khứ, hai là trí bất lai.
Một là quán sanh tử, hai là quán Niết bàn.
Một là thọ trì đúng pháp, hai là được chứng nhập.
Một là tu giải thoát môn, hai là được quả giải thoát.
Một là tận trí, hai là vô sanh trí
Một là tứ đế trí, hai là quán thập nhị nhơn duyên.
Trên đây gọi là nhơn và gọi là duyên, mà các
chúng sanh do các nhơn duyên nầy ưa thích Niết bàn.
Đức Như Lai biết rõ các loại thiền tam muội giải thoát. Đã biết rõ rồi lìa bỏ các pháp dục ác bất thiện có giác quán ly
sanh hỉ lạc nhâp vào sơ thiền, nhập sơ thiền xuất diệt tận định, nhập diệt tận định xuất sơ thiền, nhẫn đến bát giải thoát cũng nhập xuất như vậy. Tất cả chúng sanh đều chẳng thể biết được chỗ nhập chỗ xuất của Như Lai. Đức Như Lai biết rõ trụ định bình đẳng, cho đến thượng và hạ. Các chúng sanh bảo rằng đức Phật nhập một tam muội, mà thiệt thì đức Phật nhập tất cả tam muội. Các chúng sanh thấy đức Phật khởi tất cả định, mà thiệt thì đức Phật nhập một chánh định. Tam muội của đức Như Lai không có thứ đệ, mà chẳng phải là chẳng chánh định. Tất cả hàng Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát đều chẳng biết được.
Đức Như Lai lại biết rõ nhơn duyên thuyết pháp gì được Thanh Văn tam muộì, nhơn duyên thuyết pháp gì được Duyên Giác tam muội, nhơn duyên thuyết pháp gì được Bồ Tát tam muội, biết rõ rồi đức Như Lai tùy ý vì họ mà thuyết pháp. Đây gọi là nghiệp thứ bảy của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ nhơn sanh tử
Cũng thông đạt nhơn duyên giải thoát
Biết rõ rồi vì đại chúng nói
Phá hoại nhơn bất thiện sanh tử
Bất thiện tư duy vô minh nhơn
Vô minh nhơn duyên lớn sanh tử
Phiền não nhơn duyên thọ nghiệp quả
Các kiết nhơn duyên tăng ái kiết
Nếu được gần kề thiện tri thức
Chí tâm nghe nhận pháp vô thượng
Quán sát nội ngoại không tam muội
Có thể vượt khỏi biển sanh tử
Tu tập vô thượng định và huệ
Quán pháp bình đẳng không khứ lai
Nếu hay quán thấy không sanh diệt
Thì được mắt tịch tĩnh sáng suốt
Tu tập vô thượng giải thoát môn
Có đủ tận trí vô sanh trí
Đã tự mình được trí vô ngại
Lại hay vì chúng sanh thuyết pháp
Nhập sơ thiền xuất diệt tận định
Nhập diệt tận định tùy ý xuất
Như Lai tam muội không thứ đệ
Nên gọi Như Lai thường ở định
Các chánh định được Như Lai nhập
Cùng các pháp giới không sai khác
Nhị thừa chẳng biết chỗ Phật trụ
Bồ Tát chẳng biết chỗ Phật thâm định
Chúng sanh thường ở vô minh tối
Chẳng biết chỗ nhập xuất của Phật
Vô thượng Thế Tôn thương chúng sanh
Vì họ mà nói nghiệp thứ bảy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai biết rõ những nghiệp đời quá khứ của mình, một đời hai đời đến vô lượng đời, một thời gian tam tai đến vô lượng thời gian tam tai, một kiếp đến vô lượng kiếp. Đức Như Lai nhớ rõ sanh ra danh
tánh, ăn uống, hình sắc, dung mạo, khổ vui, thọ mạng cõi nầy chết sanh đến cõi kia. Đức Như Lai cũng nhớ biết rõ đời trước của người khác như nhớ biết rõ của mình vậy.
Đức Như Lai biết rõ nghiệp nhơn của các chúng sanh, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi kia, các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi nầy.
Đức Như Lai biết tâm và nhơn duyên tâm của các chúng sanh, tâm nầy diệt rồi thứ đệ sanh tâm.
Các sự như vậy, tất cả chúng sanh đều không thể biết rõ được.
Trí túc mạng của đức Phật biết rõ sự việc thỉ chung của tất cả tam thế. Túc mạng trí nầy chẳng thể suy lường được.
Đức Như Lai khuyên các
chúng sanh : Nay ngươi nên nhớ biết sự việc thiện ác đã trải qua trong đời quá khứ. Do Phật lực nên chúng sanh nhớ biết được vô lượng thiện căn đã được vun trồng từ đời trước, hoặc ở bên Phật mà vun trồng, hoặc ở bên Bồ Tát hay ở bên Thanh Văn và
Duyên Giác mà vun trồng. Chúng sanh ấy đã nhớ biết rồi, đức Như Lai tùy ý thuyết pháp cho họ chẳng thối chuyển. Đây gọi là nghiệp thứ tám của đức Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai nhớ biết vô lượng đời
Hoặc tự hoặc tha nghiệp thiện ác
Thấy rõ việc trong vô lượng kiếp
Như thấy rõ trái trong bàn
tay
Dòng họ tên hiệu đều biết rõ
Hình sắc sanh tử cũng biết rõ
Biết rõ thọ mạng và chỗ ở
Nghiệp nhơn thìện ác cũng biết rõ
Biết tâm thứ đệ của chúng sanh
Biết chỗ sở nhơn tâm sanh diệt
Biết khắp đời trong vô lượng kiếp
Cũng chẳng cùng tận trí vô ngại
Phật trí vô lượng chẳng kể được
Nhị thừa chẳng biết cảnh giới Phật
Vì cho chúng sanh nhớ quá khứ
Nên Phật tuyên nói nghiệp thứ tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai thiên nhãn
thanh tịnh vi diệu thấy rõ các chúng sanh sanh tử đọa lạc, hoặc kẻ thọ thân lành hoặc kẻ thọ thân ác, hoặc sanh cõi lành hoặc sanh cõi ác. Đức Như Lai cũng biết thấy rõ các nghiệp nhơn của chúng sanh. Biết chúng sanh nầy thân khẩu ý ác, chê bai thánh nhơn thêm lớn tà kiến, do nghiệp ác nên khi bỏ thân nầy phải đọa địa ngục. Biết các chúng sanh nầy thân khẩu ý lành, tôn kính
thánh nhơn thêm lớn chánh kiến, do nghiệp lành nên bỏ thân nầy được sanh cõi lành.
Thiên nhãh của Như Lai thấy khắp mười phương thế giới không có ngằn mé như hư không, không có hạn lượng như pháp giới. Thấy rõ các chúng sanh
lúc sanh lúc chết, thấy rõ các thế giới lúc thành lúc hoại. Cũng biết các chúng sanh phát tâm Bồ đề lúc sanh lúc chết. Cũng thấy tất cả chư Phật mới thành Chánh giác
chuyển pháp luân nhập Niết bàn. Cũng thấy các bực Thanh Văn lúc chứng được giải thoát, được giải thoát rồi nhập Niết bàn. Thấy hàng Duyên Giác dùng sức thần thông để báo ơn tín thí của các chúng sanh.
Các sự việc như vậy tất cả hàng ngũ thông
Thanh Văn Duyên Giác và Bồ Tát đều không thấy biết được. Thiên nhãn của đức Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy. Do thiên nhãn ấy nhìn xem các chúng sanh ai đáng được Phật hóa độ, ai nên được Thanh Văn hoặc Duyên Giác hóa độ. Nếu là người đáng từ nơi Phật mà được độ thì đức Như Lai vì người ấy mà thị hiện thân Phật, các chúng sanh khác đều không ai thấy. Đây gọi là nghiệp thứ chín của đức Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng
Tu nghiệp lành trong vô lượng kiếp
Phật được tịnh thiện nhãn như vậy
Thấy được mười phương các chúng sanh
Thành tựu được sắc thân thiện ác
Thầy các chúng sanh thượng trung hạ
Cũng thấy thọ thân cõi thiện ác
Biết được nghiệp lành thân khẩu ý
Nghiệp nhơn cảm được các quả báo
Cũng biết Thanh Văn Bích Chi Phật
Các bực Bồ Tát cảnh giới lành
Thấy mười phương Phật phá ma quân
Chuyển chánh pháp luân nhập Niết bàn
Thấy các Thanh Văn được giải thoát
Giáo hóa chúng sanh rồi diệt độ
Thấy Bích Chi Phật hiện thần thông
Để đền ơn đức của thí chủ
Chơn thiện pháp của Như Lai nói
Nghe rồi hay qua biển sanh tử
Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác
Chẳng biết được chỗ thấy của Phật
Như lai thấy rõ các vi trần
Cũng thấy rõ vô biên thế giới
Như Lai giáo hóa các
chúng sanh
Vì vậy nên nói nghiệp thú chín.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai Thế Tôn biết các lậu tận rốt ráo giải thoát, sanh tử ta đã hết, phạm hạnh ta đã lập, việc làm đã xong không
còn thân đời sau. Trí lậu tận của Phật thanh tịnh vi diệu. Nói là thanh tịnh là không có các tập khí. Trí Thanh Văn hữu biên hữu lượng, tại sao, vì có tập khí vậy. Trí Bích Chi Phật cũng có biên có lượng, tại sao, vì không có đại bi vậy.
Trí lậu tận của Phật vô lượng vô biên, tại sao, vì biết tất cả hành vậy, vì thành tựu Nhứt thiết trí vậy, vì dứt hẳn tất cả tập khí vậy, đã nhiếp lấy đại từ đại bi, trang nghiêm
tứ vô sở úy, nơi tất cả pháp không có tập khí duyên lấy tướng dạng, tất cả thế gian chẳng thế hơn được, đi đứng ngồi nằm không có lỗi lầm.
Như hư không thanh tịnh trong sáng chẳng xen tạp khói mây. Trí lậu tận của đức Phật cũng vậy, chẳng xen tạp tất cả phiền não tập khí. Đức Như Lai thành tựu thanh tịnh đầy đủ trí lậu tận ấy, có thể vì chúng sanh mở bày tuyên nói cho
họ nghe rồi dứt các phiền não, chư Bồ Tát nghe rồi phát đại trang nghiêm để dứt các phiền não . Đây gọi là nghiệp thứ mười của đức Phật Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Phật lậu tận trí không có biên
Thanh tịnh chẵng tạp phiền não tập
Nhị thừa còn tập khí phiền não
Nên trí lậu tận chẳng thanh tịnh
Như Lai đầy đủ đại từ bi
Vì vậy trí Phật không ngằn mé
Đầy đủ thành tựu tất cả hạnh
Nên biết chỗ lậu hạnh chúng sanh
Phật diễn nói vô thường vô ngã
Cho chúng biết rỗng không không vui
Tu thiện tư duy được tịnh nhãn
Biết không chúng sanh không tướng nhơn
Đại bi thương xót các chúng
sanh
Đầy đủ thập lực tứ vô úy
Trí vô ngại vì dứt phiền não
Vì vậy tuyên nói nghiệp thứ mười .
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai đầy đủ bốn vô sở úy mà thành Như Lai nghiệp.
Đức Như Lai biết rõ tất cả pháp, hoặc có Trời, hoặc có Người, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn nào mà có thể đúng thiệt nói rằng Như Lai chẳng biết pháp chẳng rõ pháp, thì
không bao giờ có. Tại sao vậy, vì Như Lai Thế Tôn hiệu là bực Biến Chánh Giác, biết rõ pháp bình đẳng, hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp thánh nhơn, hoặc pháp Thanh Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Phật, hoặc pháp hữu học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, các pháp như vậy đều bình đẳng biết rõ nên hiệu là đấng Biến Chánh Giác. Nói
bình đẳng là thấy rỗng không bình đẳng vì pháp chơn thiệt vậy, là vô tướng bình đẳng vì hoại các tướng vậy, là vô nguyện bình đẳng vì chẳng trụ trước ba cõi vậy, là bất sanh bình đẳng vì tánh vô sanh vậy là vô hành bình đẳng vì tánh vô hành vậy, là vô xuất bình đẳng vì tánh vô xuất vậy, là vô chí xứ bình đẳng vì tánh vô chí xứ vậy, là chơn thiệt bình đẳng vì tánh không có
tam thế vậy, trí giải thoát bình đẳng vì tánh không có vô minh vậy, là Niết bàn bình đẳng vì tánh không có sanh tử vậy. Thấy tất cả pháp như vậy thảy đều bình đẳng nên đức Như Lai hiệu là bực Biến Chánh Giác.
Thấy rõ như vậy rồi dùng đại từ bi đức Như Lai vì các chúng sanh mà tuyên dương thuyết pháp.
Hoặc có kẻ chẳng phải Thế Tôn mà tưởng là Thế Tôn, chẳng phải Chánh Giác mà tưởng là Chánh Giác, chẳng phải lậu tận mà tưởng là lậu tận. Đức Như Lai có đủ bốn vô sở úy có thể phá hoại các ác tưởng như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười một của Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Phật biết tất cả pháp bình đẳng
Nên được hiệu là Nhứt Thiết Trí
Phàm thánh Bồ Tát và Phật hạnh
Thế gian xuất thế nghiệp thiện ác
Không vô tướng nguyện vô sanh diệt
Tất cả thấy rõ chơn thiệt ấy
Như Lai thấy rõ pháp bình đẳng
Vì chúng nói nghiệp thứ mười một.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chơn thiệt dứt hết hẳn các lậu phiền não tập khí nên xướng lên rằng : Phật hết các lậu. Chẳng có hoặc là Trời, là Người, là Ma, là Phạm, hoặc là Sa Môn, là Bà La Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng Phật chưa hết lậu.
Thế nào gọi là đức Như Lai lậu tận ?
Đức Phật ở nơi dục lậu, tâm được giải thoát ở nơi hữu lậu, nơi vô minh lậu, nơi tất cả tập khí, nơi tất cả kiến lậu, tâm được giải thoát. Vì vậy đức Như Lai hiệu là bực lậu tận.
Trong đệ nhứt nghĩa, chơn trí của thánh nhơn, không có giác, không có đoạn, không có chứng, không có tu, vì
lưu bố thế tục mà gọi là tận lậu. Tại sao, vì tận là vô sanh vô diệt vô tận không có thể tuyên nói được. Vì chẳng nói được nên gọi là vô vi. Luận về vô vi thì không có
tướng sanh trụ diệt. Đức Phật hoặc xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tánh luôn thường trụ. Đức Như Lai chẳng thấy có ngã và ngã đoạn dứt, vì đại từ bi mà đức Như Lai vì chúng sanh nói ngã đoạn dứt. Đây gọi là nghiệp thứ mười hai của Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai dứt hẳn các lậu kiết
Cũng dứt vô biên các tập khí
Vì vậy thế pháp chẳng nhiễm được
Như sen ở nước nước không thấm
Đấng Đại Bi Pháp Vương trong đời
Vì chúng sanh mà lưu bố nói
Chơn thiệt biết rõ không sanh diệt
Vô ngã ngã sở cũng biết thiệt
Tất cả các pháp không tăng giảm
Theo tánh tướng nó nói chơn thiệt
Như Lai được sức đại tự tại
Vì chúng nối nghiệp thứ mười hai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chơn thiệt nói pháp ngăn chướng đạo. Chẳng có hoặc Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc Sa Môn Bà La Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng pháp ấy chẳng thể ngăn chướng được đạo.
Thế nào gọi là ngăn ? Thế nào là chẳng ngăn ?
Có một pháp hay ngăn đạo đó là phóng dật. Còn có hai pháp đó là vô tàm và vô quý. Còn có ba pháp đó là
thân, khẩu, ý, ác. Còn có bốn pháp đó là tham dục, sân hận, kinh bố và ngu si. Còn có năm pháp đó là sát sanh, trộm cướp, tà dâm dục, vọng ngữ, và uống rượu. Còn có sáu pháp
đó là chẳng kính trọng Phật, Pháp, Tăng, giới, tam muội và bất phóng dật. Còn có bảy pháp đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, tà mạn, tà ngữ, tà mạng và tà niệm. Còn có tám pháp, đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng tà phương tiện, tà niệm và tà định. Còn có chín pháp, đó là có người muốn làm các điều ác hiện tại làm, làm rồi đổ cho người thân mình, có người đem điều lành muốn đang đã làm đổ cho kẻ oán mình, có người đem điều ác muốn đang đã làm đổ cho thân mình, đây gọi là chín pháp. Còn có mười pháp, đó là thập ác : sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, vô nghĩa ngữ, tham ganh, sân hại và tà kiến.
Nếu có Tỳ kheo khởi ác tư duy, do đây mà chẳng biết là có nhiều các lỗi lầm. Do chẳng biết mà sanh tâm điên
đảo. Do tâm điên đảo mà thêm lớn ngũ cái. Do lớn ngũ cái làm cho các phiền não ngăn chướng pháp lành. Do
phiền não mà thân khẩu ý tạo gây các điều ác. Đức Như Lai như thìệt biết các pháp như vậy hay ngăn chướng nơi đạo. Đã tự biết rõ rồi vì chúng sanh mà
diễn nói để phá hoại các pháp ngăn đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười ba của Như Lai ».
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Nếu ai quen hành theo phóng dật
Thì thiệt chẳng thể được giải thoát
Thân khẩu ý tạo các ác nghiệp
Vô tâm vô quí các phiền não
Gần gũi ác pháp thì ngăn đạo
Biết rõ đối trị chẳng đối trị
Để phá phiền não nên diễn nói
Nghiệp thứ mười ba của Như Lai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chơn thiệt nói thánh đạo rốt ráo.
Nếu có chúng sanh gần kề chánh niệm thì chắc được giải thoát. Chẳng có ai hoặc là Trời, Người, Ma, Phạm , hoặc là Sa Môn, Bà La Môn, Bà La Mộn nào mà có thể chơn thiệt nói rằng người tu tập thánh đạo chẳng được rốt ráo vô thượng giải thoát.
Những gì là chơn thiệt thánh đạo ?
Có một thứ đó nhứt thừa. Còn có hai thứ, đó là xa ma tha và tỳ bà xá na. Còn có ba thứ, đó là không tam
muội, vô tướng tam muội và vô nguyện tam muội. Còn có bốn thứ, đó là tứ niệm xứ. Còn có năm thứ, đó là ngũ căn.
Còn có sáu thứ, đó là lục niệm xứ. Còn có bảy thứ, đó là thất giác chi. Còn có tám thứ, đó là bát chánh đạo phần. Còn có chín thứ, đó là sơ thiền đến diệt tận định. Còn có mười thứ, đó là thập thiện. Đây gọi là rốt ráo chơn thiệt thánh đạo.
Lại rốt ráo thánh đạo là không có thể làm tăng giảm lấy bỏ, không có nắm không có buông, chẳng phải chánh chẳng phải tà, chẳng phải một chẳng phải hai, đây gọi là thánh đạo rốt ráo chơn thiệt vậy. Vì thương xót các chúng sanh mà đức Như Lai tuyên nói thánh đạo như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười bốn của đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ pháp tịch tĩnh
Ai tu tập thì được giải thoát
Như Lai không thấy không ai dạy
Tự nhiên mà được vị cam lộ
Ai tu ba mươi bảy trợ đạo
Phiền não kiết dứt được giải thoát
Tư duy biết rõ pháp chơn thiệt
Chẳng trụ pháp tánh chơn giải thoát
Như Lai thấy pháp như hư không
Như huyễn như hóa như dương diệm
Đấng đủ thập lực vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp thứ mười bốn
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Thân nghiệp Như Lai không có lầm lỗi. Hoặc kẻ ngu hoặc người trí không ai có thể chơn thiệt nói Phật có lỗi lầm. Tại sao, đức Như Lai hoặc đi hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đắp y, hoặc cầm bát, hoặc thọ ăn uống, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nói, hoặc nhập xuất thành ấp thôn lạc nhà cửa, bàn chưn Phật không đạp đất, thường bước đi trên hoa sen
ngàn cánh. Nếu có chúng sanh nào gặp chạm bóng thân Phật thì trong bảy ngày an vui không nghĩ tưởng đến ăn uống, khi bỏ thân sanh về cõi lành. Y phục của Như Lai mặc lìa cách thân Phât bốn tấc, sức gió mạnh bạo không làm động được. Đức Như Lai dầu có những sự việc hành động nói năng như vậy, mà nội tâm Phật chưa lúc nào chẳng định. Vì vậy mà thân Như Lai không có lỗi lầm.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai khẩu nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì đức Như Lai luôn là thời ngữ, chơn thiệt, ngữ chánh ngữ, kỳ ngữ, nghĩa ngữ, thanh tịnh ngữ, vi diệu ngữ, vô dị ngữ, nhất âm ngữ, lời nói chẳng nhiều, lời hiểu tất cả, lời đúng như làm. Vì vậy nên Như Lai khẩu không có lỗi lầm.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai ý nghiệp cũng không có lỗi lầm. Tại sao, vì đức Như Lai thường làm tất cả Phật sự luôn mà nội tâm Phật không hề có kiêu mạn. Đức Như Lai chẳng nhọc suy nghĩ mà biết rõ cùng tận hết tất cả pháp, nên gọi là Phật vô ngại trí. Vì vậy mà Như Lai ý nghiệp không có lỗi lầm. Vì thương xót chúng sanh nên đức Như Lai tuyên nói thân khẩu ý Phật không có lỗi lầm như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười lăm của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thân khẩu ý Như Lai tịch tĩnh
Vì vậy nên không có lỗi lầm
Thiệt chẳng nói được mà tuyên nói
Nghiệp chẳng phải nghiệp nói là nghiệp.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chẳng sanh việc tranh cãi với hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn. Tại sao, vì Như Lai rốt ráo lìa thương và giận vậy. Do đây nên tất cả thế gian cúng dường cung kính, tâm
Phật chẳng cao ngạo cũng chẳng vui mừng. Tất cả thế gian khinh mạn chê bai, tâm Phật không có xúc động.Phàm việc được Phật làm thì không có
sự nào là chẳng thành tựu. Phật hoàn toàn không có tạo tác nghiệp bất thiện. Đức Như Lai thiệt không có sự tranh luận với tất cả thế gian, cũng luôn an
trụ vô tránh tam muội. Đức Như Lai không có ngã
không có ngã sở hữu, vì phá sự thị phi tranh tụng của chúng sanh mà nói nghiệp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười sáu của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai tu tập vô tránh định
Nên tâm Phật không giận không mừng
Như Lai vì dứt các phiền não
Nên tuyên nói nghiệp thứ mười sáu.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Tâm Như Lai không có quên
lầm, với bát giải thoát không có mất niệm tâm. Như Lai thường quán ý hành của tất cả chúng sanh, quán rồi lại hay tùy nghi thuyết pháp. Với bốn vô ngại cũng không thất niệm. Ở trong tam thế nhớ biết không quên. Đã tự mình chẳng mất tâm nhớ biết lại vì chúng sanh mà tuyên nói pháp nhớ biết nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười bảy của Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Như Lai tu tập bát giải thoát
Nên với các pháp chẳng thất niệm
Biết tâm chúng sanh tùy nghi nói
Cho chúng được niệm nói nghiệp nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai chơn thiệt không có tâm bất định. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói, hoặc nín, thướng biết nghĩa thâm diệu của các pháp. Tất cả thế gian hoặc có người nhập định hoặc chẳng nhập định, không ai có thể biết được tâm Như Lai, chỉ trừ chư Phật gia đạo lực cho họ. Vì muốn cho vô lượng tất cả chúng sanh thường tại chánh định nên nói nghiệp Phật như vậy. Đây gọi là nghiệp thứ mười tám của đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Như Lai chánh giác thường tại định
Việc được Phât làm không
tán loạn
Thường nhập tam muội không ai biết
Vì vậy tuyên nói nghiệp mười tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai chơn thiệt không có các loại suy tưởng. Đó là không có
phân biệt là phước điền là chẳng phải phước điền, cũng không có phân biệt là chúng sanh là pháp là chánh giác là pháp giới, không có phân biệt là trì giới là phá giới, cũng không có
phân biệt là oán là thân, là thọ nhận là chẳng thọ nhận, cũng không có tưởng phân biệt là chánh kiến là tà kiên. Vì vậy mà đức Như Lai không có các ý tưởng. Muốn phá các thứ tưởng phân biệt như vậy của các chúng sanh mà đức Như Lai tuyên nói nghiệp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ mười chín của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai dứt hẳn tất cả tưởng
Do đây biết rõ các pháp giới
Vì phá chúng sanh ngần ấy tưởng
Nói nghiệp thứ mười chín của Phật.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai theo trí mà
tâm xả. Không có chẳng biết mà xả, tại sao, vì tu thân vì tu giới vì tu định vì tu huệ vì dứt nghi vậy.
Tâm xả của Như Lai ra khỏi các thế gian, tức là thánh xả, là rốt ráo xả, là chuyển thanh tịnh phạm luân xả, là hai mươi tám đại bi xả, là lợi ích chúng sanh xả, là đối trị xả. Các đức xả như vậy không có tăng
không có giảm, chẳng cao chẳng thấp, chẳng xen tạp phiền não, chẳng một chẳng hai, chẳng quán thời tiết, chẳng có đối không có ngại, chẳng dừng chẳng động, chẳng ẩn chẳng hiển, là chơn thiệt bất hư vậy.
Đức Như Lai thành tựu đức đại xả như vậy mà có thể vì các chúng sanh tuyên nói. Đây gọi là nghiệp thứ hia mươi của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai tu thân giới tâm huệ
Từ trí huệ mà tu tâm xả
Với các chúng sanh không thương giận
Chẵng động chẳng dừng chon thiệt xả
Đấng Vô thượng đại từ đại bi
Có đủ đức đại xả như vậy
Trí vô ngại điều phục chúng sanh
Nói nghiệp thứ hai mươi thanh tịnh.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Nghiệp thích muốn của đức Như Lai không có tăng
không có giảm. Những gì gọi là thích muốn ? Đó là thích muốn các pháp lành, những là đại từ đại bi thuyết pháp độ người an trụ tịch tĩnh khuyên dạy các Bồ Tát học đạo Bồ đề làm cho giống tam thừa nối nhau không dứt. Tất cả các thích muốn như vậy chẳng theo tâm thích muốn sanh, mà theo trí huệ sanh. Vì muốn cho tất cả chúng sanh có đủ Vô thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp nầy. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi mốt của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Đức muốn của Phật không tăng giảm
Do đại từ bi nên thuyết pháp
Chẳng dứt tam thừa vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp Phật như vậy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Đức Như Lai tinh tiến không có thôi nghỉ. Thế nào là chẳng thôi nghỉ ? Đó là điều phục chúng sanh thuyết pháp giáo hóa. Giả sử có một người có thể trong thời gian vô lượng kiếp ở bên Phật nghe pháp đức Như Lai sẽ vì người nầy thuyết pháp không thôi
nghỉ. Nếu có một Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp Như Lai cũng nghe mãi không có lòng nhác lười thôi bỏ. Nếu quá vô lượng hằng hà sa thế giới có một chúng sanh đáng được độ. Như Lai cần phải theo chẳng rời bỏ chẳng ăn chẳng nghỉ, chẳng hề sanh tâm mõi mệt hối hận thối chuyển, Phật thường khuyên bảo chúng sanh cho họ siêng năng tinh tiến. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi hai của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Đấng có đức tinh tiến Vô thượng
Ở trong đại chúng khen tinh tiến
Tinh tiến thuyết pháp không thôi nghỉ
Là nghiệp Phật thứ hai mươi hai.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai niệm tâm không có tăng
không có giảm. Tại sao, lúc mới được Vô thượng Bồ đề, Như Lai quán khắp tâm tất cả chúng sanh quá khứ vị lai hiện tại, sau đó lúc thuyết pháp chẳng mất niệm trước, nhớ rõ ba tụ trước và ba loại căn tánh, phàm
lúc Như Lai thuyết pháp không lúc
nào chẳng niệm. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi ba của Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai lúc mới được Bồ đề
Quán khắp chúng sanh tâm đúng thiệt
Phàm lúc thuyết pháp chẳng thất niệm
Phật nói nghiệp thứ hai mươi ba.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai tam muội với tất cả pháp bình đẳng không có giảm, vì vậy nên chư Phật tất cả bình đẳng, nơi tất cả một ức loại tham dục sân hận ngu si và một ức loại không tham sân
si, tâm Phật bình đẳng không có sai biệt. Với tất cả loại hữu vi vô vi sanh tử Niết bàn cũng như vậy.
Như Lai tam muội bình đẳng như vậy chẳng rời nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý tứ đại tam giới, chẳng phải đây chẳng phải kia, cũng chẳng phải tất cả, chẳng phải tăng chẳng phải giảm. Vì làm cho chúng sanh được tam muội như vậy nên Như Lai tuyên nói
chánh pháp. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bốn của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai quán khắp tất cả pháp
Tâm Phật thường định không tán loạn
Chẳng bị nhiếp thuộc bởi tam giới
Sáu căn tứ đại cũng như vậy
Tất cả các pháp vô sai biệt
Bình đẳng quán sát thiện bất thiện
Vi muốn chúng sanh được định nầy
Nên nói nghiệp Phật thứ hai bốn.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ thường không giảm ít. Dùng trí lực nầy biết tất cả pháp hay tùy ý thích của chúng sanh mà thuyết pháp. Như Lai được trí vô ngại biết tất cả nghĩa, biết tất cả chữ, biết tất cả câu, trong vô lượng kiếp diễn nói một câu pháp ra vô lượng nghĩa dứt tất cả nghi. Như Lai nói pháp tam
thừa đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đây gọi là vô lượng vô biên trí huệ. Vì cho chúng sanh
được trí huệ như vậy mà đức Như Lai diễn nói chánh pháp.
Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi lăm của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Phật trí huệ vô ngại vô biên
Hay nói vô ngại vô biên pháp
Diễn một chữ làm vô lượng câu
Diễn một câu làm vô lượng nghĩa
Nói tám vạn bốn ngàn pháp môn
Cũng nói số khối pháp như vậy
Làm cho chúng được trí vô ngại
Nên Phật nói nghiệp hai mươi lăm.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai giải thoát không có giảm ít. Hàng Thanh
Văn do nghe pháp nơi người khác mà được giải thoát. Hàng Duyên
Giác từ nhơn duyên mà được giải thoát. Chư Phật Như Lai không có thấy tự nhiên giác ngộ dứt hẳn phiền não và tập khí. Với quá khứ chẳng xét, với vị lai chẳng dính, với hiện tại chẳng trụ, cũng chẳng tham trước hai pháp nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp . Như Lai biết rõ tâm tánh thanh
tịnh nên xướng lên rằng, trong một niệm Như Lai được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì muốn chúng sanh trong một niệm được Vô thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp.
Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi sáu của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thanh Văn do nghe được giải thoát
Duyên Giác nhơn duyên được tỏ ngộ
Như Lai giải thoát không sở nhơn
Chẳng trước tam thế tâm tánh tịnh
Phật diễn thuyết pháp vì giải thoát
Quán các chúng sanh Vô thượng đạo
Đại từ đại bi vì chúng nói
Nghiệp Như Lai thứ hai mươi sáu.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai thân nghiệp tùy trí huệ hành, luôn bao
quanh bởi trí huệ, do thân nghiệp nầy mà Như Lai lúc thuyết pháp, lúc nín lặng, lúc đi đứng ngồi nằm, lúc uống ăn, lúc đi ra
thành ấp tụ lạc, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp, chúng sanh thấy hay nghe đều được điều phục, vì vậy mà tất cả thân nghiệp Như Lai tủy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi bảy của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thân nghiệp Như Lai vì chúng sanh
Nên hiện những tướng tốt vi diệu
Phàm có cử động lợi chúng sanh
Phật vì đại chúng nói nghiệp nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai khẩu nghiệp tùy trí huệ hành, tại sao, vì thanh tịnh thuyết pháp vậy, vì không có thất thoát vậy, vì là lời chơn chánh, lời dễ hiểu, lời dễ biết, lời chẳng cao chẳng hạ, lời chẳng cong vạy, lời chẳng thô, lời chẳng ác, lời chẳng mờ tối, lời dịu dàng, lời chẳng khinh, lời chẳng mau, lời chẳng e sợ, lời chẳng phải chẳng hiểu nghĩa, lời chẳng phải tiếng ác, lời chẳng chậm, lời cam lộ, lời khả ái, lời có thứ đệ, lời trang nghiêm, lời cung kính, lời thích nghe, lời chẳng tham, lời chẳng nhơ, lời thanh tịnh, lời rốt ráo, lời chẳng lừa dối, lời chẳng si mê, lời vô ngại, lời rộng rãi, lời chơn thiệt, lời chẳng tạo tác, lời vô tận, lời an lạc, lời tịch tĩnh, lời tham tịch tĩnh, lời sân tịch tĩnh, lời si tịch tĩnh, lời phá ma, lời phá tà luận, tiếng phạm âm, tiếng ca lăng tần già, tiếng Đế Thích, tiếng hải triều, tiếng câu luân xà, tiếng khổng tước mùa thu, tiếng câu chỉ la, tiếng chim mạng mạng, tiếng nga vương, tiếng lộc vương, tiếng đờn, tiếng trống, tiếng ốc, tiếng nhạc, tiếng người thích nghe , tiếng nhĩ căn thích, lời tăng pháp lành, lời câu nghĩa vô tận, lời hiệp chữ câu nghĩa, lời đúng thời, lời lược gọn, lời tri túc, lời điều các căn, lời bố thí trang nghiêm,
lời giới luật thanh tịnh, lời cùng chung với đức nhẫn nhục, lời tinh tiến thần thông, lời lìa xa dục giới, lời đầy đủ trí huệ, lời từ, lời bi, lời hỉ, lời xả, lời nói pháp Tam thừa, lời chẳng dứt tam bửu, lời giải thích ba tụ, lời giải thích tam thế, lời giải thích ba giải thoát, lời phân biệt tứ đế, lời tu tập, lời tán thán, lời Phật, lời thánh, lời vô biên, lời vô hành. Nầy thiện nam tử ! Như Lai thành tựu những lời nói như vậy, nên khẩu nghiệp Như Lai là tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi tám của đức Như Lai.
Đức Như Lai nói kệ rằng :
Lời nói của Phật như tịnh châu
Thành tựu vô lượng các công đức
Tiếng Phật khắp cùng mười phương cõi
Nhứt âm hay làm mọi loài hiểu
Phàm lời diễn nói chẳng tác niệm
Lại chẳng xem cảnh giới chúng tâm
Như Lai âm thanh như tiếng vang
Không nói không nghe cũng như vậy
Đại từ đại bi lời thanh tịnh
Vì chúng giải thích các loại pháp
Muốn cho chúng sanh được như Phật
Nên nói khẩu nghiệp hai mươi tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai ý nghiệp tùy trí nghiệp hành. Tại sao, đức Như Lai biết rõ tâm ý thức của tất cả chúng sanh, cũng chẳng theo ý theo duyên theo tham sân si, xa lìa dối lầm, xa lìa ngã ngã sở vô minh tối tăm, bình đẳng thanh tịnh không có biên tế như hu không, đây là Như Lai ý nghiệp tùy trí huệ hành. Đây gọi là nghiệp thứ hai mươi chín của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Tâm Như Lai chẳng thể lường được
Như dùng sợi lông cất núi lớn
Thường quán chúng sanh
tâm duyên cảnh
Xa lìa các ma lìa phiền não
Như Lai Pháp Vương nói nghiệp lành
Để phá chúng sanh các nghiệp ác
Vì tịnh chúng sanh thân khẩu ý
Nghiệp hai mươi chín nay đã nói.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời quá khứ, trí ấy không có ngại cũng không có chướng. Trí ấy thế nào ? Trí ấy biết vô lượng vô số chư Phật quá khứ cùng với các thế giới của chư Phật ấy, những là cỏ cây và số lượng chúng sanh, tâm cảnh của họ, các loại âm thanh ngôn ngữ của họ, cũng biết chư Phật quá khứ ấy nói những pháp gì, có bao
nhiêu chúng sanh chứng được Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát thừa, biết rõ chư Phật quá khứ ấy thọ mạng dài ngắn, số đại chúng nhiều ít, các thứ danh tự, sự ăn uống ngồi nằm, biết rõ chúng sanh ấy những là căn giới ý giới pháp giới tâm giới hành giới, tâm họ thứ đệ sanh diệt xuất hiện ẩn mất. Tất cả đều biết rõ như thiệt cho đến biết rõ số lượng, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Phật trí vô ngại cũng vô chướng
Nên biết rõ được vô lượng cõi
Biết rõ tất cả các Phật sự
Chúng sanh các căn và pháp giới
Như Lai Pháp Vương biết quá khứ
Như xem trái cây trong
bàn tay
Vì muốn chúng sanh được trí ấy
Phật nói nghiệp thứ ba mươi nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời vị lai, trí ấy vô ngại cũng vô chướng .
Trí ấy biết thế nào ? Trí ấy biết tất cả thế giới thuở vị lai, hoặc thành hoặc hoại, mấy kiếp hỏa tai, mấy kiếp thủy tai, mấy kiếp phong tai, bao nhiêu Phật thế giới, bao nhiêu Phật xuất thế, trong thế giới có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu Thanh Văn, bao nhiêu Duyên Giác, bao nhiêu Bồ Tát, cũng biết sự ăn uống hành động đi đứng ngồi nằm của chư Phật ấy, bao nhiêu chúng sanh chứng Thanh Văn giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Duyên Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng Chánh Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh tu tập các phẩm trợ đạo, tử bi hỉ xả, cũng biết rõ các chúng sanh
thuở vị lai ấy bao nhiêu thứ đệ tâm sanh, tâm diệt. Tất cả sự việc như vậy đều biệt rõ chơn thiệt chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Đây gọi là nghiệp thứ ba mươi mốt của đức Như Lai.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ đời vị lai
Sự sanh diệt của tất cả pháp
Biết các thế giới và chư Phật
Chúng sanh tâm thứ đệ sanh diệt
Lưu chuyển các đạo chứng tam thừa
Y báo chánh báo biết chơn thiệt
Vì muốn đại chúng được trí nầy
Phật nói nghiệp thứ ba mươi mốt.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment