Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 111
PHÁP HỘI QUẢNG BÁC TIÊN NHƠN
THỨ
BỐN MƯƠI CHÍN
Như
vậy tôi nghe, một lúc Phật ở
tại thành Vô Cấu Chiến trên bờ sông Hằng, có vô lượng chúng Tỳ Kheo như
các Tôn giả A Nan, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Bạc Câu La, Ly Bà Đa, A Nhã Kiều Trần Như
v.v... Các Tôn giả nầy
việc được làm đã xong, rời các trần nhiễm, phiền não đã hết, chẳng còn thối chuyển. Các Tôn giả luôn tọa thiền tụng niệm kinh hành không tạm lười nghỉ, hoặc như
bầy nai đi đứng yên lặng, hoặc ở
trong rừng thường nhập thiền định. Các Tôn giả nầy
an trụ nơi giáo pháp sáng suốt của đức Như
Lai, điều phục sáu căn được vô sở úy.
Bấy giờ rừng
Ta La nhánh lá rậm rợp, hoa thơm
trải đất. Những chim câu chỉ la, chim ca lăng tần già, nga vương,
bầy ong bay đậu kêu hót hòa nhã có thể làm cho các chúng sanh rời lìa hôn trầm giải đãi.
Lúc đó đức Như
Lai bảo các Tỳ Kheo : “ Nầy chư
Tỳ kheo ! Các thầy phải siêng thật hành việc được làm, lấy giới luật oai nghi để tự
ấp che”.
Liền lúc ấy phương
Tây bỗng nhiên chói sáng như
ánh sáng mặt trời.
Vì chưa
ly dục nên Tôn giả A Nan bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Ánh sáng nầy là tướng gì ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Đây là pháp tử của
Hắc Hương
bực tối thắng thượng ngũ thông tiên, tên là Quảng Bác. Tiên nhơn
nầy tiết thực xấu gầy thân thể không nhuần sáng cùng chung với năm trăm người đồng hành như
là tiên Bất Bạch, tiên Thiên Nhơn,
tiên Chiêm Ba Dã Na, tiên đơn Trà Dã Na, tiên Ca Ma Dã Na,
tiên Mê Khư Na Tư, tiên Nghi Vị, tiên Độ La v.v... trước sau vây quanh sẽ đến
chỗ ta”.
Bấy giờ, Quảng Bác tiên nhơn
từ xa thấy đức Thế Tôn thân tâm tịch tĩnh ở tại
rừng rậm được chư
Tỳ Kheo hầu hạ, liền tự nghĩ rằng : Lạ thay bực tôn quí Nhứt thiết trí thân tướng đầy đủ, bỏ ngôi vua Chuyển Luân cùng các quan và sáu vạn cung nữ, như
bỏ món ăn độc, mà tu khổ hạnh
nơi núi rừng, lìa những dục lạc, tiếng đồn khắp nơi
thiệt chẳng hư
dối.
Trong
chúng ấy có một tiên nhơn
tên Na Thích Đà từ xa nhìn đức Thế Tôn sanh lòng vui mừng liền nói kệ rằng
:
Nhìn kia
hoa xanh dưới
rừng cây
Như
khối vàng tía là người nào
Bửu châu Di Lâu chiếu sáng ngời
Cũng như
trăng thu không mây khuất.
Các tiên
đều vui sướng chắp tay cung kính đi lần đến chỗ đức
Phật.
Đức Thế Tôn bảo chư
Tỳ Kheo : “ Các thầy xem kia các tiên trong châu
Diêm Phù, tóc xỏa tung lên, ở rừng
hoang, thoa tro, tịch cốc, hoặc một tháng hoặc nửa tháng nhịn ăn gầy xấu, mặc da nai vỏ cây, tóc móng không cạo không cắt, ngồi xổm trên đất trống, nhan sắc như
khói than ong đen, chú thuật cúng thờ lửa
cho là cát tường,
ở ngoài trống hay dưới cây, hoặc té từ gộp
đá cao, hoặc nhảy xuống vực sâu, dùng lửa đốt thân hay phơi
nắng cho phỏng đau, ỷ thị dòng họ lìa xa trí huệ vô thượng.
Các thầy Tỳ kheo nên biết các tiên nhơn
nầy kiến thức chằng thanh tịnh mê say ba cõi luân hồi sanh tử chẳng ra khỏi được”.
Các Tỳ
kheo nghe đức Phật Thế Tôn dạy bảo như
vậy rồi liền đồng thanh bạch rằng : “Nay chúng tôi nương
đức Như
Lai mà siêng tu phạm hạnh, với ba cõi sẽ được ra khỏi hẳn”.
Quảng Bác tiên nhơn
cùng các tiên lần đến chỗ đức
Phật, thấy các A La Hán oai đức tôn nghiêm liền có lòng e sợ. Họ khom mình ngó xuống đều tự cột
tóc xõa, thân đeo dây trắng. Dung nhan họ đen tối, hai mắt xanh vàng, đầu tóc khô khan thân hình xấu xí, tay cầm ba khúc cây to, hoặc đi trên hư
không, hoặc đàm luận sách thế tục.
Quảng Bác tiên nhơn
đến trước đức Phật thưa
rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nay chúng hội nầy xin đức Phật biết cho’’.
Đức Phật phán dạy : “Nầy Quảng Bác ! Ta đã biết rõ sự thọ sanh trong các cõi hữu lậu và tự tánh”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Đây là tiên nhơn
nào được
chư tiên bao quanh, trí sáng lời
hay, đầu tóc tung lên”.
Đức Phật dạy : “Nầy A Nan ! Đây là Quảng Bác tiên nhơn,
người
sáng tác sách Vi Đà phụng trì tu tập theo Xa yết La Giáo làm ra các thứ văn tự thế tục’’.
Chư
A La Hán cùng bảo nhau : « Tiên nhơn
nầy có sở đắc
gì mà khổ hạnh
như vậy nhưng
vẫn không giải thoát được sanh tử”.
Các A La
Hán lại tự nghĩ rằng các tiên nhơn
nầy nay đến chỗ đức
Phật sẽ thưa
hỏi điều gì, hỏi nhơn
duyên hay hỏi vô ngã ?
Quảng Bác tiên nhơn
chắp tay hướng về đức
Phật bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật xuất hiện khó, pháp hội Thánh chúng cũng khó. Nay tôi
có chút ít điều nghi muốn hỏi, xin đức Phật thương
dạy cho”.
Đức Phật bảo : “ Nầy Đại Tiên ! Cho ông hỏi, ta sẽ giải bày’’.
Quảng Bác tiên nhơn
hỏi : “ Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là bố thí ? Gì là nghĩa bố thí ? Thế nào là thí chủ ? Thí chủ có nghĩa là gì ? Thế nào là người bố thí chẳng gọi là thí chủ ? Thế nào là thí chủ chẳng gọi là người bố thí ? Bố thí thế nào để được phước báu nơi
người
thọ lãnh ? Thế nào bố thí rồi, hoặc hiện đời hoặc đời sau phước bố thí đi theo làm chứa làm nhóm ?
Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Phật nhập diệt, cúng dường tháp miếu thì ai là người nhận thọ để
được
phước
báu ? ».
Đức Phật bảo : « Nầy Đại Tiên ! Những điều ông hỏi rất là hi hữu, đó là ông muốn giác ngộ hàng mới phát tâm ».
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất ở
trong đại chúng, tóc bạc mặt nhăn, lấy tay mặt đỡ lông mày nhìn hồi lâu rồi nói rằng : « Xưa
kia tôi từng nghe người đời khen ngợi Quảng Bác tiên nhơn,
sao hôm nay chẳng biết hỏi han như
trẻ nít. Sao không hỏi những nghĩa thâm diệu về nhơn
duyên vô ngã, mà lại hỏi quả báo của sự bố
thí ».
Tôn giả A Nan đến lạy chơn
đức Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tiên nhơn
ấy ham thích nơi
bố thí, tôi xin được giải nói nghĩa bố thí cho ông ấy ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy A Nan ! Nếu hỏi nơi
đức Như
Lai mà hàng Thanh Văn giải đáp thì chẳng phải là lời dạy của Như
Lai ».
Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay tiên nhơn
nầy có điều nghi ngờ ấy,
tôi xin giải đáp ».
Đức Phật phán dạy : « Không được, trong hàng Thanh Văn ông là bực thượng thủ nhứt, nếu ở
trước
ta mà ông giải đáp sẽ khiến các chúng sanh phải sa đọa ác thú, vì họ sẽ
hủy báng rằng đức Như
Lai chẳng phải bực có trí huệ quyết định, hoặc cho rằng đức Như
Lai giác ngộ trọn vẹn rồi mà còn có ngã mạn’’.
Chư
Tỳ Kheo nghe đức Phật nói như
vậy rồi đều sanh lòng tin thanh tịnh bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Quảng Bác tiên nhơn
có chỗ nghi hỏi, xin đức Phật giải đáp cho ».
Đức Phật hỏi Quảng Bác tiên nhơn
: « Đại tiên nay lắng nghe quả báo của bố thí và nghiệp nhơn
sai khác.
Nếu người thọ có thể khiến thí chủ sanh được quả báo đó là nghĩa của bố thí. Nếu có chúng sanh nào tâm thanh tịnh đem của cải mình giao cho người chấp sự đem ra bố thí, người chủ của
cãi gọi là thí chủ, còn người chấp sự gọi
là người
bố thí.Nếu có người tâm thanh tịnh tự đem của cải ra bố thí, người nầy gọi là thí chủ mà cũng gọi là người bố thí.
Lại nầy Đại tiên ! Có ba mươi
hai hạng bố thí chẳng thanh tịnh, nay ông nên lắng nghe :
Nếu có người thấy biết điên đảo mà bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Bố thí vì báo ơn,
bố thí chẳng có lòng thương,
bố thí vì sắc dục, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí trong lửa, bố thí trong nước cũng chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc đe dọa mà bố thí, bố thí cho năm nhà, đem món độc bố thí, đem dao gậy binh khí bố thí, giết hại mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc để nhiếp phục người mà bố thí, vì khen ngợi mà bố thí, vì xướng kỹ mà bố thí, vì xem tướng mà bố thí, cầu trang sức đẹp mà bố thí, vì kết bằng hữu mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc chim thú vào nhà ăn mà chủ nhà không vui lòng thì chẳng gọi là tịnh thí. Vì học nghề mà bố thí, vì bịnh mà bố thí cho thầy thuốc, trước đánh mắng sau đem của cải bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Bố thí mà nghi ngờ được báo hay không được báo thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí rồi mà trong lòng bực bội hối tiếc thì chẳng gọi là tịnh thí. Bố thí mà nói ngưởi thọ lãnh sau sẽ làm trâu ngựa súc vật cho tôi thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí mà nói phước báu đây tôi tự thọ lấy
thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc người trẻ mạnh
không lòng tin thanh tịnh, lúc sau bị bịnh
khổ, hoặc sắp phải chết, thân thể đau khổ tay chưn
rời rã, sứ Diêm La Vương
đùa cợt trước mặt, quyến thuộc nhìn ngó khóc than, bấy giờ mới
bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí mà nghĩ rằng khiến các thành ấp khác biết tôi bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc có lòng ganh ghét ngạo nghễ mà bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Ham mộ nhà giàu sang vì cầu hôn nhơn
nên đem vàng bạc lụa là bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc cầu con trai con gái và các duyên tạp khác mà bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc suy nghĩ nay tôi bố thí đời sau sẽ được phước báu thì chẳng gọi là tịnh thí. Thấy người nghèo củng chẳng thương
xót, trái lại đem tiền của bố thí người giàu sang thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc tham hoa quả mà bố thí cho thì chẳng gọi là tịnh thí.
Nầy Đại Tiên ! Ba mươi
hai loại bố thí ái nhiễm ấy,
dường
như có người đem hạt giống tốt gieo trồng trên ruộng hoang xấu, nương
nơi đất gặp mưa
ướt
chắc chắn sẽ nẩy
mầm lên cây, nhưng
thu hoạch ít về bông trái ».
Quảng Bác tiên nhơn
lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là bố thí cho người trì giới người phá giới mà chẳng hư
mất ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Tiên ! Nếu có người tịnh tín nhân quả phát lòng vui mừng vì các chúng sanh mà bố thí không hề hối
tiếc cũng chẳng phân biệt là trì giới hay phá giới.
Lại nữa nầy Đại Tiên ! Có năm loại bố thí gọi là bố thí lớn. Đó là bố thí đúng lúc, bố thí cho người hành đạo, người bịnh và người khán bịnh, người giảng thuyết chánh pháp, người đến nước khác.
Còn có
năm loại, đó là bố thí chánh pháp, bố thí món ăn, chỗ ở,
đèn sáng, hương hoa ».
Quảng Bác tiên nhơn
lại thưa
: « Bạch đức Thế Tôn ! Những gì là thanh tịnh ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Đại Tiên ! Nếu người phát lòng tin vì các chúng sanh
có lòng thương xót hồi hướng vô thượng Bồ đề
khắp thanh tịnh giải thoát thì được gọi là thanh tịnh.
Còn có
năm loại bố thí vô thượng, đó là bố thí nơi
đức Như
Lai, nơi chúng Tăng, nơi người thuyết chánh pháp, nơi
cha, nơi mẹ. Bố thí năm nơi
ấy đều gọi là bố thí vô thượng.
Còn có
các loại bố thí gọi là bố thí lớn, đó là bố thí cho quốc vương
mất ngôi, người bị quan quyền bức bách không nơi
nương cậy, người bị bịnh
tật đau khổ, đều gọi là bố thí lớn.
Nếu gặp người bị tội
sắp hành hình và người bị nạn
nguy đến tánh mạng mà chịu bỏ mạng
mình để cứu
mạng sống cho kia, đều gọi là bố thí lớn.
Hoặc nơi
người
tật bịnh mà bố thí thuốc men thì cũng gọi là bố thí lớn.
Hoặc nơi
chúng Tăng đủ giới mà bố thí đúng lúc cũng gọi là bố thí lớn.
Hoặc bố thí cho người cầu trí huệ cũng gọi là bố thí lớn.
Hoặc bố thí cho súc sanh, chim thú, các
loài ếch nhái cũng gọi là bố thí lớn.
Hoặc bố thí cho kẻ thiếu kém khiến cho họ được no đủ cũng gọi là bố thí lớn.
Hoặc khuyên người khác bố thí thanh tịnh cùng tùy hỉ cũng gọi là bố thí lớn.
Lại nầy Đại Tiên ! Trước đây ông có hỏi sau khi đức Phật diệt độ, gieo trồng thế nào mà được phước báu ?
Nầy Đại Tiên ! Chư
Phật Như
Lai đều là pháp thân mà chẳng phải sắc thân, hoặc Phật ở
tại thế gian hay sau khi diệt độ, nếu có người cúng dường thì phước báu không khác.
Như
Chuyển Luân Vương
truyền lịnh khắp cõi nước chẳng cho giết hại các chúng sanh chẳng cho vọng ngữ. Người trong nước hoặc chưa
được
thấy vua cũng chưa
từng hầu gần, họ chỉ nghe lịnh vua truyền mà tuân hành, nhà vua đối với những người nầy ắt
có lòng vui mừng nên được sanh lên cõi trời. Còn những kẻ trái lịnh vua truyền thì đọa vào ác thú.
Nầy Đại Tiên ! Có người dầu thấy thân ta mà họ chẳng giữ giới của ta dạy thì có lợi ích gì. Như
Đề Bà Đạt Đa dầu gặp được Phật mà ông ấy vẫn phải đọa địa ngục.
Trong đời sau, có người siêng thật hành đúng giáo pháp của Phật, người nầy rất hi hữu như
đã được
thấy Phật không khác.
Nầy Đại Tiên ! Như
ông đã hỏi phước đức nhơn
duyên theo thí chủ làm chứa làm nhóm thế nào ?
Nầy Đại Tiên ! Như
bó lau sậy vì đốt cháy mà có lửa sáng, ngọn lửa sáng ấy không thể nói là chứa nhóm trong bó lau sậy. Cũng vậy, thí chủ chứa họp phước đức như
bóng theo hình, không thể thấy được.
Như
trái nho, cây mía lúc chưa ép thì không thấy được nước mật của nó, nhưng
nước
mật của nó không phải có ở nơi khác. Cũng vậy, quả báo phước đức chẳng thấy ở
trong thân trong tay trong tâm của thí chủ, nhưng
nó không rời lìa thí chủ.
Như
hột ni câu luật đà lúc chưa
già chín thì không thấy có mộng mầm.
Như
người
buôn mang hàng đến bán nơi
ấp thành lớn được lời lãi nhiều, phước đức của thí chủ cũng vậy.
Như
bầy ong lấy mật hoa, như
mây trùm trên không, nào có thấy có chứa có nhóm, mà lúc kết quả thì thành mật ngon, mưa
nhuần phước đức quả báo của thí chủ cũng vậy ».
Quảng Bác bạch Phật : « Nghĩa sai biệt của sự bố
thí tôi đã được
nghe đức Thế Tôn giải.
Bạch đức Thế Tôn ! Ở trong thân người, thần thức mến luyến như
thế nào ? ».
Đức Phật dạy : « Nầy Đại Tiên ! Như
Quốc Vương
ở trong thành lớn sợ có quân địch đến, nên lo đào hào đắp lũy tích tụ lương thực nuôi dạy quân tướng, dựng bày cờ xí tập luyện voi ngựa, dàn quân bày trận truyền lịnh dự bị
chiến đấu, mặc giáp dày cầm dao bén nghiêm hờ. Ví phước Quốc Vương
hết nên thế giặc mạnh sẽ bị
bại vong. Cũng vậy, thần thức ở
trong thân người thấy sáu căn bị vô thường xâm hại, nên khởi tín tâm phát chánh niệm hành chánh pháp điều luyện ý tưởng tuyên cáo rằng : nay có quân mạnh vô thường đến hại phải gấp mặc giáp bố thí, cầm gươm
trí huệ, mang cung tàm quý dựng lũy cấm giới phòng ngăn. Quân mạnh vô thường lần lần bức bách sáu căn, thần thức ấy
phải bỏ thân, như
Quốc Vương
hết phước phải bỏ thành đến ở
thành khác ».
Quảng Bác bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Làm thế nào biết là thành phước đức là thành chẳng phải phước đức mà tôi phải bỏ đi ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Như
có người
đi thuyền lớn tốt để qua đại hải, dầu gặp cuồng phong sóng to, cá kình hung dữ nhưng
nhờ thuyền vững nên đến được bờ kia. Đã an ổn rồi, người ấy
tế tự
đi nhiễu thuyền ba vòng cung kính xướng rằng : Lành thay tôi nhờ thuyền nầy mà vượt được đại hải.
Nầy Đại Tiên ! Cũng vậy, người có phước đức sau khi mạng chung tự suy nghĩ rằng : nay tôi được sanh lên cõi trời, thân người trước kia thiệt là chẳng uổng, nhờ thân người ấy
mà tôi được
khỏi đọa vào ác thú, lành thay thân trước rất đáng kính yêu.
Nầy Đại Tiên ! Như
người
đi thuyền xấu hư
để qua biển lớn, ở giữa biển bị chìm bị lật,
người
ấy giận ghét nguyền rủa thuyền xấu. Cũng vậy, người tạo nghiệp ác không phước đức sau khi chết phải đọa ác thú, giận ghét mắng nhiếc thân trước, uổng công nuôi nấng nay phải khổ thế nầy,
như đội cỏ dơ khô, như
tằm làm kén tự vấn
lấy thân tự chuốc lấy họa.
Nầy Đại Tiên ! Người tạo phước đức ở
thân kế sau, thần thức ở
thai mẹ vừa
được
bảy ngày liền có thể nghĩ biết tôi từ nơi kia sanh vào đây. Vì có thiện nghiệp nên lòng vui mừng hay làm cho mẹ hiện ra ba tướng lành : mặt mẹ luôn vui vẻ tươi đẹp, chưn
phải giẫm đất mạnh vững hơn
trước,
tay thường
xoa hông phải, thích mặc y phục sạch sẽ thêm vẻ xinh đẹp.
Thần thức người gây nghiệp ác cũng ở trong thai bảy ngày tự nhớ nghĩ tôi từ nơi kia đã từng tạo tội ác, nghĩ rồi sanh lòng sầu não hay làm cho mẹ có các hiện tượng xấu, như
thân thể hôi dơ
gầy gò vàng bủng, như
thường
buồn bực choáng váng ói mửa, tai họa cả nhà hoạn nạn bức khổ, như
lúc sanh nở hoặc mẹ chết hoặc con yểu ».
Quảng Bác lại bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Lúc thần thức mới nhập thai nếu có trí huệ thì nghĩ nhớ biết những gì ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Thần thức ấy
lúc mới nhập thai thấy châu Diêm Phù có nhiều cung điện ao hồ vườn tược rừng cây nơi
nơi xinh đẹp, thân tộc tụ họp
rất là vui vẻ. Nếu có trí huệ cõi trời thì tùy niệm nhớ biết vô lượng trăm ngàn đời trước. Chỗ đó tôi sanh ra, người ấy
là mẹ cả
trăm lần sanh tôi, cả trăm đời nuôi nấng tôi, nghĩ như
vậy rồi sanh lòng nhàm lìa, khổ thay, chết đi sống lại ở
thế gian nầy như
vậy đã đủ rồi,
các cõi cực nhọc luôn được vĩnh viễn thoát khỏi ».
Quảng Bác hỏi đức Phật : « Thần thức ấy
có quan niệm nhàm lìa mong thoát ly như
vậy, há lại chẳng ra khỏi vòng sanh tử ư ? ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Không thể được Thần thức ấy
không có tướng
xuất ly mà được giải thoát thì không bao giờ có. Dầu thần thức ấy
ở trong sanh tử có quan niệm nhàm chán mong xa lìa ; nhưng
nó vẫn thọ sanh. Nếu không như
vậy thí lẽ ra người tạo phước đức cùng kẻ tạo
ác, tất cả đều
hướng
đến quả Niết bàn.
Nầy Đại Tiên ! Như
lời ông nói về thần thức suy nghĩ nhớ biết đó, là thức hiện hành chớ chẳng phải trí hiện hành. Thức thì hay phân biệt, trí thì hay biết rõ. Thức cùng trí hòa hiệp nhau thì mới có khả năng như
lời ông nói.
Muốn tuyên lại nghĩa nầy đức Phật nói kệ rằng
:
Hay ngừa các tội ác
Hoặc chứa nhiều phiền não
Biết là trí không trí
Là huệ hay ngu si
Thấy kiêu mạn vô minh
Thấy biết tất cả đó
Không bao
giờ rời
trí
Do trí
nên biết rõ
Thức trí chẳng rời nhau
Phật thường nói hòa họp
Một bánh chẳng thành xe
Hai bánh
cũng chẳng thành
Cũng chẳng ngoài bánh xe
Cần có người và trâu
Gồm đủ căm và trục
Cũng đủ hai càng gọng
Vòng ách
và dây cương
Mới được gọi là xe
Thân thể cũng như
vậy
Các giới hòa hợp sanh
Các căn đều đầy đủ
Do thức hay kéo dắt
Lóng đốt dính liền nhau
Gân mạch luôn khắp đủ
Sọ đầu
trùm da tóc
Ruột phổi và tim gan
Tì vị hòa hợp nhau
Xây dựng nên thân giả
Vua thức ở
trong đó
Ngự trị điều khiển thân
Rõ biết các thể tánh
Gọi là thức trí chung
Nầy Đại Tiên ! Thức ấy
vi tế không thể do hình sắc thấy được, không có các căn chẳng lìa các căn. Nếu có người khiếp nhược hoặc hoảng sợ hoặc suy tưởng ngẫm nghĩ, đều là thức hiện hành chẳng phải tác dụng của trí ».
Quảng Bác bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào quan sát chúng sanh từ loài địa ngục sanh nơi
loài người,
nhẫn đến loài trời đến sanh loài người ? Có những nghiệp nhơn
sai khác gì mà sanh loài trời, loài muông thú, loài ngạ quỉ và sanh loài địa ngục ? ».
Đức Phật phán : « Nầy Tiên Nhơn
! Bổn tánh của chúng sanh chết đây sanh kia chỉ có Phật là thấy rõ, chẳng phải hàng ngũ thông tiên nhơn
biết được, cũng chẳng phải hàng Người, hàng Trời, Phạm Vương,
Ma Vương hoặc bực Thanh Văn, Duyên Giác biết được.
Nầy Đại Tiên ! Nếu người nào lúc ở nơi pháp của Phật lìa được tham sân si phân biệt chứng sơ
quả, cảnh giới của người nầy còn chẳng phải hàng Đế Thích, hàng Trời Na La Diên cùng hàng ngũ thông
tiên nhơn như các ông biết rõ được ».
Nghe đức Phật nói lời nầy, Quảng Bác tiên nhơn
tự nghĩ rằng Thánh Trí biết rõ nghiệp báo trong vòng luân hồi thiệt ta chưa
từng có.
Quảng Bác lạy chưn
đúc Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi già suy quên lãng
chẳng thể đến
được
đạo quả, không có khả năng đảm nhiệm gánh nặng Bồ đề,
kể từ
nay tôi và chúng đệ tử
của tôi và hàng quyến thuộc quy y Phật Pháp Tăng. Ngưỡng mong đức Thế Tôn chỉ dạy
cho được
lợi ích vui mừng, do mặt nhựt thánh trí thường ở thế gian trừ bỏ
mê mờ phiền não. Lành thay đức Thế Tôn ! Xin đức Phật diễn nói về tất
cả chúng sanh sanh về cõi trời ».
Đức Phật phán dạy : « Đại Tiên lắng nghe ! Nay ta sẽ nói về việc ấy.
Nếu có chúng sanh nào bền vững trọn nên công hạnh bố thí tràn hoa thơm
xinh, người
ấy ắt
sanh về cõi Trời Trì Man. Lúc lâm chung, thân thể người nầy phát ra mùi thơm
vi diệu và cảm hiện hoa tươi,
lại tự thấy các thứ hoa nhiều màu rải trên thân mình, hoặc lại có thấy đền đài cung điện treo nhiều linh, lục lạc, châu báu, trang sức với các thứ hoa đẹp, trăm ngàn Thiên nữ ở
trong ấy. Sau khi chết, người ấy
thấy cha và mẹ Trời Trì Man hòa hiệp như
người
Diêm Phù Đề, do ái phong thổi người ấy
vào thai tạng. Bấy giờ mẹ
Trời Trì Man ấy mang thai bảy ngày, ở dưới nách phải sanh ra con trai. Vừa sanh xong, trước ngực con trai ấy có hoa duyệt ý cõi trời tự nhiên kết thành tràng đủ bảy
màu, đó là những màu trắng đen, vàng, đỏ, xanh biếc, hồng và đồng đỏ. Tràng hoa ấy có ánh sáng chói lòa, mùi thơm
của hoa do gió đưa
lan khắp một do tuần, vì thế nên trời ấy
gọi là Trời Trì Man. Trong cung có cây, nước mật nó thơm
ngon như chất cam lộ. Trái cây trong vườn đủ tám mùi vị phẩm cao. Trời ấy
toàn ăn thứ trái đó, không vật thực nào khác. Lúc cảm thấy đói, trái chín tự hiện ra trên cây. Mặt đất không có gai góc sạn sỏi, toàn là cỏ mềm
hoa tươi trải khắp sạch sẽ. Hoặc có cung điện như
khối hoa trắng, hoặc có cung điện vàng ròng dựng lên. Thiên nữ xinh đẹp cùng đùa vui dưới mái hiên. Trời Trì Man thọ hai trăm năm cõi trời. Lúc trời ấy
sắp mạng chung hiện ra hai hiện tượng : cây trong vườn nhà lá thì héo úa cành thì rũ
xuống bông hoa mất mùi thơm,
tràng hoa trên thân bỗng nhiên héo vàng gió mát biến thành gió nóng độc, muốn bỏ cung điện nguy nga mà đi. Bấy giờ các Thiên nữ thấy hiện tượng xấu nầy, cùng nhau vây quanh trời ấy
mà kêu khóc rằng : khổ thay cho vô thường không chút xót thương
nơi người mà chúng tôi yêu quí bắt lấy chẳng cho tự do, giây lát đây sẽ bỏ
lìa chúng tôi. Lúc ấy Thiên Tử Trì Man đó lần bị bịnh
nhiệt tăng cả thân hiện ánh lửa, dầu vậy nhưng
nội tâm không cảm thấy nóng bức mà vẫn khoái lạc, rời cõi trời sanh vào nhơn
gian. Ở trong thai thần thức ấy
có thể làm cho mẹ thích tràng hoa thơm
và các thứ trái ngọt, thường chiêm bao thấy thành ấp chợ búa trang nghiêm đông đúc, khắp nơi
giăng rũ chuỗi hoa. Khi đã sanh ra, thân hình
sáng đẹp ưa thích y phục sạch sẽ và tràng hoa xinh tươi,
thích đến thân thuộc bạn bè, say mê dục lạc mến yêu nữ sắc,
những món y phục quí vườn hoa bông trái không gì chẳng ham, thấy người giàu sang lại càng vui mừng.
Lại nầy Đại Tiên ! Người xu hướng về Trời Tứ Thiên Vương
thì như sau đây : Nếu có người thấy kẻ nghèo cùng người bịnh tật, bố thí cho ăn uống y phục, thuốc men, hoặc đào ao giếng để bố
thí. Lúc lâm chung, thân người ấy
không ốm gầy không thay đổi sắc, mình không hôi dơ,
tiếng không khàn tắt, không đái dầm ỉa
són, các căn không hư tổn
có thể thấy tự mình ở trong chúng trời. Sau khi mạng chung thi thể màu hoa sen hồng, miệng thoảng mùi thơm,
lại còn có gió mát thổi hoa thơm
phất trên thi thể. Lúc ấy thần thức thấy Trời Tứ Thiên Vương
cha mẹ vui vầy giao du say đắm tình ái, thiên phụ dùng bàn tay phải xoa lưng
thiên mẫu, liền thọ thai vào nơi
vế mẹ,
sau bảy ngày thì sanh thân trời đầy đủ các thứ trang sức.
Nầy Đại Tiên ! Địa xứ của
Trời Tứ Thiên Vương
ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, hoàng kim, bạch ngân, lưu
ly, pha lê xen lẫn trang sức, trong cung điện Trời Tứ Thiên Vương
có hàng trăm ngàn Thiên nữ, trăm ngàn thứ bông trái lớn như
hình tượng
người
đầy trong các khu vườn, ánh sáng ma ni trời thường chiếu sáng cõi ấy, cành nhánh rừng cây rũ y phục kiếp ba và lụa hàng vi diệu. Những cây ấy đều bóng nhuần ai xem cũng thích, nơi
các đền điện treo đầy nhạc cụ, tiếng tiêu tiếng sáo tự nhiên phát ra. Các thiên đồng tử chỉ có một việc là vò vắt món ăn. Cơm
ấy thơm
ngon, màu như hoa sen hồng, vị hơn chất cam lộ, bát đĩa đựng toàn bằng hai chất : hoàng kim và bạch ngân, tùy ý thích ưa
món ăn đẹp thơm
ngon ngọt tự nhiên hiện ra trong ấy, Còn có rượu trời tên là hoa tửu thơm
lạnh đặc biệt, nếu có ai ngửi cũng tự nhiên say. Mỗi Thiên Tử Trời Tứ Thiên Vương
đều có tẩm điện riêng tên là Sơ
Thu, có cả ngàn cây sa lan kê hiệp trùm che kín phía trên. Khắp nơi
thòng rũ những dây hoa vàng bạc châu báu, còn có các loại giường ghế màn thảm sáng đẹp mịn nhuyễn, có sáu vạn Thiên nữ dung nhan xinh đẹp y phục sáng bóng tiếng nói lảnh lót âm vận hiệp với Thiên nhạc, các Thiên nữ nầy
được
các nhạc thần chỉ dạy
nên lúc ca lúc vũ khi nói cười khi đi đứng có thể làm cho người thấy phải luyến ái. Trước cung điện có dựng cột phướn trang nghiêm vớI những vàng bạc gấm lụa, treo phan báu phất phơ
theo gió.
Cõi ấy có bốn Thiên Vương
là Trì Quốc Thiên Vương,
Tăng Trưởng
Thiên Vương, Quảng Mục Thiên Vương
và Đa Văn Thiên Vương. Bốn Thiên Vương
ở cõi trời ấy
thường
tụ họp
các Thiên Tử yến
ẩm vui vầy. Các Thiên Tử cõi trời Tứ Thiên Vương
thọ năm trăm tuổi, tính theo năm cõi trời, không có ai yểu giữa chừng.
Nầy Đại Tiên ! Lúc Thiên Tử cõi trời Tứ Thiên Vương
mãn tuổi thọ sắp
chết thì có ba hiện tượng : một là mất ánh sáng nơi
thân, hai là tràng hoa đeo không còn mùi thơm, ba là chẳng thích nghe các Thiên nữ hòa tấu kỹ nhạc, cũng không thích dạo chơi
trong vườn
hoa, trên thân thì y phục dơ
bẩn, tràng hoa héo úa, mồ hôi rịn chảy, hai mắt khô rát nhìn lại các món thường ngày thích ngắm nhìn càng thêm mê muội, như
cá dưới
nước
bắt để trên đất nắng mùa hạ, bị nóng bức quá nên lăn lộn trên đất. Các Thiên nữ thấy Thiên Tử ấy
sầu khổ như
vậy cùng đến vây quanh đồng nhau than khóc : khổ thay, khổ thay ! Người mà chúng ta mến yêu sao lại đến thế nầy,
trước
kia vui sướng
nay thành sầu khổ, ngày nay sao đành bỏ ta cùng những chỗ vui chơi.
Các Thiên
nữ nói kệ than rằng :
Mọi món vật trang nghiêm
Chỗ của
Ngài vui chơi
Cung
thành phước
đức lớn
Lâu đài
khắp bốn mặt
Thìên nữ thường đông đúc
Vườn rừng luôn sum suê
Sao Ngài
đành vứt bỏ
Khổ thay cho vô thường.
Các Thiên
nữ nói kệ xong nhìn nhau nghẹn ngào, tay mặt cầm hoa tươi
rải lên mình Thiên Tử ấy
mà nói rằng : Ngài có đủ phước sẽ sanh nhơn
gian, nơi ấy là phước địa phải có lòng tin gieo lấy giống lành.
Bấy giờ Thiên Tử ấy
thấy các Thiên nữ đều
xa bỏ mình nên lòng càng thêm bức rứt, thân tâm nóng bức như
nhiễu giọt dầu lên sắt nóng đỏ vụt
tự tiêu diệt còn thừa chút khói tro lại bị gió nghiệp thổi tan, như
lân hư trần chia làm ngàn ức phần không còn thấy được. Thần thức của Thiên Tử ấy
từ cõi trời giáng xuống nhơn
gian thấy cha mẹ hòa hiệp sanh lòng vui thích liền nhập vào thai tạng. Vừa có thai mẹ liền có những hiện tượng : ăn uống thêm nhiều chẳng ăn món máu thịt, ưa
mặc y phục bông hoa và thích nơi
tụ hội
đông người,
đối với hàng thân thuộc bạn bè thì thương
mến hơn
trước.
Dầu bụng mang thai con mà không hề khó chịu, miệng không chảy nước dãi, thân không nặng nhọc. Sau khi sanh ra, đứa trai ấy tướng người đoan nghiêm, mắt nó xanh biếc như
thanh bửu cõi trời, ai thấy nó đều thích. Nghe nói những sự việc Trời Tứ Thiên Vương
ở cõi trên thì nó vui mừng lắm. Nó thường ưa
bố thí, ưa
mặc y phục thơm
tho, tánh ưa thường thường ăn uống, thích ca múa cùng lưu
luyến vườn rừng nữ sắc.
Nầy Đại Tiên ! Nếu có người nào do lòng tin thanh tịnh mà xa rời sự sát hại và trộm cướp, mang món ăn uống đồ dùng tốt, mang những y phục và của tiền châu báu để cúng dường bố thí, thành kính mang hoa hương
cúng dường
tháp Phật, người nầy lúc lâm chung thân không bịnh khổ không dơ
không hôi, chánh niệm không quên, sắc mặt như
màu hoàng kim, sóng mũi chẳng xẹp gãy, tâm không nhiệt não, cổ họng
không bế tắc
cũng không khò khè, chẳng bị gió nghiệp bức bách, tiếng nói chẳng khàn chẳng ngọng, ngủ ăn bình thường.
Đại Tiên nên biết người lành trên đây thì các thứ độc
không hại được, ăn uống tiêu hóa cùng những sự tổn
thương yểu vong cùng tai nạn đều đã xa lìa.
Lúc chết thần thức người nầy vì là thần thức cõi trời nên thấy lầu đài Trời Tam Thập Tam hình tượng cá ma kiệt bằng hoàng kim trang nghiêm các cột cổng nhà, mặt đất là chiên đàn tốt, nước thơm
rưới
lên, đất ấy
mềm dịu sạch sẽ trắng hơn
sương tuyết sạch như
chuổi ngọc. Cây hương
huỳnh đàn đèn đuốc bằng châu báu trời bày hàng xen lẫn. Các Thiên nữ Thiên Tử vui đùa trong các khu vườn.
Thấy cảnh trời trên đây, thần thức sanh lòng vui thích liền nhập vào tay Thiên nữ mẹ
làm thành thai tạng. Lúc ấy bàn tay mẹ do đó mà sanh ra hoa cầm đưa
Thiên phụ coi cùng nhau vui mừng. Thiên mẫu lại lấy hai tay xoa nâng bông hoa ấy, Thiên Tử liền sanh ra. Thiên mẫu nói với Thiên phụ nay tôi sanh ra một Thiên Tử làm cho giống lành càng thêm mạnh. Bèn tụ hội
chư Thiên để làm lễ khánh hạ.
Sau khi
sanh được
bảy ngày, Thiên đồng tử ấy
có đủ tướng người cõi trời Tam Thập Tam, nhớ biết đời trước từ chỗ đó chết sanh đến nơi
đây, người
đó là cha ta, người đó là mẹ ta, ta đã từng làm điều thiện đó, nghĩ nhớ như
vậy rồi sanh lòng vui mừng liền ở
nơi ngũ dục sanh lòng say đắm ưa thích, cung điện vườn rừng cõi trời tự nhiên hiện ra. Cánh tay của Thiên đồng tử ấy
suông như vòi voi, ngực cao đầy như
ngực sư
tử, hai vế tròn trịa như
thân cây chuối, da thịt sáng bóng sạch sẽ không có tàn nhang, không có nốt ruồi đen, không có lông mọc tạp, không có chút hôi dơ,
toàn thân thoảng ra mùi thơm
vi diệu. Tất cả y phục nhẹ kín chuỗi ngọc tràng hoa cõi trời đều chẳng cần tìm nơi
ngoài, nó tự nhiên hiện đủ trên thân. Bấy giờ trong cung điện ấy
không có Thiên Tử, chỉ có những Thiên nữ, họ thấy Thiên đồng tử liền đến vây quanh đồng nói rằng : lành thay Ngài đến đây rất tốt, cung điện nầy thuộc về Ngài, chúng Thiên nữ các em đây trước nay không nơi
nương tựa xin được theo hầu Ngài. Các Thiên nữ nầy
đều hàng thanh niên vú như
bình hoàng kim, gương mặt như
hoa sen hồng. Sáu vạn Thiên nữ như
vậy đưa
Thiên đồng tử vào vườn toàn cây câu tỳ la cõi trời sum sê tươi
tốt, các thứ nhạc trời, tiếng tiêu tiếng sáo, tiếng trống tiếng đờn tự nhiên phát ra, âm thanh vi diệu người nghe khoan khoái. Lại có tòa sư
tử nghiêm sức với các tràng chuỗi ngọc châu lót bằng gấm lụa. Thiên đồng tử thấy những cảnh nghiêm trang xinh đẹp nầy liền lên ngồi trên tòa sư
tử như
vua quán đảnh.
Lúc Thiên
Tử ngồi xong thì các món trân ngoạn tự nhiên phát ra tiếng rằng : người lành nầy từ châu Diêm Phù Đề do làm phước trời nên sanh nơi
đây, mọi người đều nên đến hầu hạ Ngài, đờn hát ca múa làm cho Ngài vui vẻ không chán.
Âm thanh ấy phát ra rồi thì trong vườn rừng cung điện tất cả sáu vạn Thiên nữ tay cấm hoa trời, mình mặc y phục trời, hơi
thơm từ thân Thiên nữ phát ra như
mùi rượu
nho, rượu
mật, rượu họa, ngửi mùi hương
ấy làm cho người phải say mê. Các Thiên nữ đồng
thanh nói : Ngài đã có chứa phước trời, chúng em xin được phụng sự Ngài.
Bấy giờ Thiên Tử cùng hàng Thiên nữ dạo
chơi trong các khu rừng
hoan hỉ, rừng tạp hoa, rừng viêm ngọc, rừng cực quang nghiêm, rừng nhựt cung viên, cũng dạo chơi
nơi các khu vườn tiếng suối reo, vườn tiếng âm nhạc. Các rừng các vườn ấy
mát mẻ xinh tươi,
không có gió xấu, mùi hoa ngào ngạt, chiếu sáng khắp nơi
bằng châu ma ni bửu xanh, có những điểu vương
hót tiếng vi diệu, lông chim ấy chiếu rực như
khối châu báu, mỏ chim bằng phệ lưu ly cõi trời, các chim bay liệng đầy khắp vườn rừng.
Nầy Đại Tiên ! Cõi trời Tam Thập Tam có ao nước đủ tám công đức theo tháng mà đầy vơi.
Nước
ao không hề bẩn,
luôn trong sạch mát mẻ. Trong ao có những cây hoa thơm
bá diệp. Bờ ao có cây ngay hàng, đầy những hoa đẹp. Những ao nước nầy là nơi
mà các Thiên nữ thường đến tắm rửa vui đùa.
Đến giờ ăn thì những bát đĩa bằng châu báu tự nhiên xuất hiện tùy theo ý muốn, các món ăn màu sắc đẹp thơm
như hoa câu ma, trắng hơn
ngọc tuyết, có tên là thiên cam lộ. Món ăn ấy đủ mùi thơm
ngon cũng dễ tiêu hóa, không hề có vị cay chua đắng chát .
Nầy Đại Tiên ! Có hạng trời báo chằng được thuần nên dầu là đồng trong một bát ăn mà hoặc tự cảm
thấy màu xanh màu đỏ, hoặc thấy cả màu vàng màu đen hoặc nhiều màu lẫn lộn. Thân hình trời thì không khác nhau mà món ăn
có sai khác. Nên biết những hạng trời nầy đời trước ở
nhơn gian dầu là bố thí, nhưng
sau khi bố thí rồi lại ăn năn có lòng hối tiếc nên cảm báo như
vậy.
Nầy Đại Tiên ! Cõi trời Tam Thập Tam lại còn có những khu vườn tên là hiệp hôn, cây trái trong đó luôn sum
sê. Nơi ấy là chỗ ở
của các hàng ly dục tịch tĩnh. Những Thiên Tử cùng Thiên nữ mà vào vườn ấy
đều chẳng phải vì thích ưa
dục lạc.
Nầy Đại Tiên ! Đệ tử
của ta bực Thanh Văn cao nhứt là Kiều Phạn Bát Đề hiện tại ở
tại vườn hiệp hôn ấy, Kiều Phạn Bát Đề là con trai dòng Bà La Môn thanh
tịnh, trụ trong thiền định từ bi, dùng từ tam muội mở mắt
từ bi, mỗi lần nhập định là bảy ngày làm hạn mới hiện có hơi
thở ra thở vào. Lúc ông ấy nhập định theo ý muốn có gió mát thổi đến. Giả sử
có kiếp hỏa đốt cháy đại địa thành một khối lửa lớn, nhưng
với thân nhập thiền định của ông ấy chẳng thể làm tổn hại được phần nhỏ như
hột cải. Thân thể nhập thiền định của Kiều Phạn Bát Đề thường vững vàng như
tòa núi Di Lâu.
Nan Đà
Long Vương và Bạt Nan Đà Long Vương
có oai lực lớn phun hơi
rất mãnh liệt có thể làm cho núi Di Lâu lay động khua ra tiếng, nước bốn đại hải biến làm vị mặn.
Giả sử
hai Long Vương nầy dùng hết thế lực
mình có cũng không thể làm nhiễu loạn được Kiều Phạn Bát Đề lúc ông nầy nhập thiền định.
Nầy Đại Tiên ! Kiều Phạn Bát Đề, đệ tử
của ta, ở rừng
hiệp hôn, các Thiên nữ dầu
say ái dục mà khi thấy Tôn giả nầy
liền sanh lòng thanh tịnh, đem hoa mạn đà la và những hoa sen đến cúng dường chắp tay cung kính. Các Thiên Tử trời Tam Thập Tam cũng đến vây quanh mang thiên cam lộ đến
dâng cúng. Tôn giả Kiều Phạn Bát Đề ở
rừng hiệp hôn nói những khế kinh, như
trường
hàng, kệ, trùng tụng, vị tằng
hữu, vô vấn tự thuyết, bổn sanh, bổn sự, nhơn
duyên, luận nghị, phương
quảng, thí dụ và thọ ký, Hàng Thiên Tử và Thiên nữ ấy
nghe Tôn giả thuyết pháp không ai là chẳng ân cần cung kính tôn trọng.
Còn nữa, nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam có nhà tụ hội.
Nhà ấy có bốn vạn tám ngàn cột, toàn làm bằng những hoàng kim bạch ngân, ngọc xa cừ, ngọc mã não cùng với lõi cây chiên đàn, treo linh
thòng lạc vang ra tiếng vi diệu. Trải khắp thiên y, dựng những tràng phan, tiếng nhạc như
tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng không hầu, tiếng đờn cầm đờn sắc, tiếng loa tiếng trống, tiếng chiêng tiếng phèn la, các âm thanh vi diệu tự nhiên phát ra làm vui đẹp người nghe. Các Thiên Tử, Thiên nữ yêu kính nhau vui mừng gặp gỡ thường tụ họp
nơi hội đường ấy. Trong hội đường dùng châu ma ni bửu để trang sức, mặt đất lót bằng lưu
ly trong sáng nhuần bóng sạch sẽ trơn
láng như gương, những hương
xoa hương bột cùng các thứ hoa đẹp rải khắp mọi nơi,
ở trong ấy không có ai hôn mê ngủ gật,
cũng không có ý tưởng biếng lười, gió nhẹ thơm
mát phảng phất khắp nơi.
Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam ấy khắp nơi
đều có lâu các bằng châu báu gỗ quý chiên đàn giăng màn lưới báu, treo nhiều chuỗi ngọc châu trải khắp hoa thơm.Có
trăm ngàn Thiên nữ dầu
say mê ái dục mà không hề tật
đố, không ghen hờn không cãi không giành, thường hòa thuận nhau. Thiên nữ ấy
diện mạo xinh đẹp như
trăng tròn sáng, tràng hoa và châu báu nghiêm sức
trên đầu trên thân, giọng nói thanh tịnh tiếng ca vi diệu qua lại không ngớt.
Lại nầy Đại Tiên ! Hội đường của trời Tam Thập Tam ngay ngắn rộng rãi. Hiên đài rộng cao mát như
bóng mây. Bốn phía hội đường còn có vườn đều rộng trăm do tuần, trong vườn nhiều hoa sen tươi
màu hoàng kim, trong hoa vang ra tiếng
ca vi diệu làm người nghe đếu vui đẹp. Ngoài vườn có lùm rừng toàn những cây cõi trời như
những cây câu ca na đà, những cây ba lợi dã đa, những cây câu tỳ đà la.
Nầy Đại Tiên ! Hội đường thiện pháp ấy, tất cả những vật trang sức trân ngoạn đều là những khối hoàng kim bạch ngân, những khối ngọc lưu
ly, ngọc pha lê, ngọc xa cừ, ngọc mã não và ngọc xích chơn
châu. Đền đài cũng là khối bảy thứ báu ấy. Kho tàng thì đầy những trân kỳ bửu vật.
Các cung
điện đến số trăm ngàn.Vườn tược rừng cây trang sức châu báu liên tiếp xa gần.
Cõi ấy thường nghe sự an vui không hề có sầu khổ bịnh
tật cũng không có họa hoạn.
Các Thiên
Tử và Thiên nữ trời Tam Thập Tam vui chơi
nơi các khu vườn rùng ấy xong thì họp nhau tại hội đường thiện pháp ấy để cùng hưởng vui sướng.
Lại nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam còn có cung điện riêng tên là Thiện Kiến.Hội đường Thiện Kiến nầy sáng như
giữa ban ngày, sạch trong dường gương
sáng, vòng quanh bốn phía nhà dùng dây châu báu
giăng treo trang sức.
Trong hội trường nầy có một ngàn Thiên nữ, trên mão trang sức bằng những hoa thất bửu, chuỗi châu ngọc chiếu rực rỡ, the chỉ hoàng kim bao trùm.
Đền Thiện Kiến ấy
có sáu vạn cột, trính kèo chói sáng lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp những trân kỳ xen lẫn để trang sức. Sơn
phết thì màu đỏ thắm, rải đất thì dùng nước chiên đàn nước trầm hương
cùng hương tô hiệp mùi thơm
ngào ngạt.
Nơi
ấy voi ngựa xe cộ qua lại tung bay bụi hoàng kim làm cho nơi
nơi thành màu hoàng kim.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn
tay cầm chày kim cương,
có trăm ngàn Thiên nữ theo hầu, đến vào đền báu ấy cùng thưởng ngoạn vui chơi.
Nầy Đại Tiên ! Phải biết trong cõi trời Tam Thập Tam có Thiên Vương
tên Nhơn Đà La, có sức dũng kiện địch nổi chín ngàn voi lớn. Thiên Vương
ấy cánh tay thòng xuống đẹp như
vòi voi trời, thân thể như
vàng hoàng kim sạch bóng. Gân thịt kín đáo rắn dẻo, xương
cốt và mạch máu không lộ bày, ngực tròn như
ngực sư
tử chúa, bụng chẳng vun cao, eo lưng
bó nhỏ. Trên đầu trang sức với những châu báu ngọc quý xỏ bằng
chỉ hoàng kim lòng thòng chiếu sáng. Y phục thì dài nhuyễn nhẹ, tiếng nói trong trẻo, từ lâu đã thông thuộc và soạn tác những sách luận, khi ăn thì thuần là món thiên cam lộ, khi đi thì ngồi voi y bạt la.
Nầy Đại Tiên ! Sắc thân đẹp mạnh của Thiên Vương
Nhơn Đà La ấy chẳng phải là xương
thịt thường, mà thuần là hoa báu hợp thành, giọng nói trong tốt, hơi
người
thoát ra mùi thơm kỳ lạ. Giả sử
như voi say cuồng ngửi được hơi
thơm nơi thân Thiên Vương
ấy thoảng ra thì nó tự điều thiện. Thiên Vương
ấy hình mạo đoan nghiêm như
thân Phật, màu sắc cùng ánh sáng ấy có thể làm cho khối hoàng kim để gần
phải mất cả màu sáng ».
Quảng Bác nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Như
Lai hôm nay khen ngợi Thiên Đế thật là hi hữu ».
Đức Phật nói : « Nầy Đại Tiên ! Thân của Thiên Đế ấy
là thân vô thường, là thân hạ liệt nào đáng ngợi khen. Thân ấy như
món kết bằng cỏ bở,
như hoa nhờ kéo hớt, như
hình tranh của họa sĩ, cũng như
tượng
gỗ của
thợ điêu khắc, lại cũng như
kết hoa làm tràng nào còn được lâu.
Nầy Đại Tiên ! Đệ tử
có thần thông của Phật như
ông A Na Luật, chỉ cứ
noi thân do cha mẹ sanh ra, lấy sức mạnh nơi
mỗi lóng đốt so với Thiên Đế còn hơn
gấp bội phần ».
Bấy giờ Tôn giả A Na Luật hiện đang ngồi trong pháp hội nghe lời đức Phật phán như
vậy thì tự nghĩ rằng nay đức Thế Tôn có ý giác ngộ tôi. Nghĩ xong, Tôn giả liền nhập tam muội, thân Ngài chiếu sáng như
hoàng kim cõi trời, đội mão thù thắng ánh sáng châu ngọc rực rỡ, mặt Ngài nhuần bóng hơn
thoa đề hồ,
cặp mắt xanh biếc như
ngọc phệ lưu ly. Cánh tay trang sức với châu ma ni châu mã não và châu
nhựt quang. Ánh sáng và hơi
thơm nơi thân Ngài chiếu lan khắp nơi.
Quảng Bác Tiên nhơn
thấy thân tướng nầy lòng rất kinh ngạc liền đứng dậy chắp tay cung kính chiêm ngưỡng cho là ít có, to tiếng xướng lên rằng : « Lạ thay, lành thay ! Tôi được thân người thiệt là chẳng uổng. Nay gặp đức Thế Tôn phát huy tụ hội
xưa chưa từng thấy mà nay được nghe thấy ».
Đức Phật phán hỏi : « Nầy Đại Tiên ! Thân Thiên Đế ấy
cùng thân của A Na Luật so sánh nhau hơn
kém thế nào ? ».
Quảng Bác nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Đem so với thân của Tôn giả A Na Luật đây thì thân Thiên Đế ấy
không bằng một phần trăm cũng không bằng một phần ngàn ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Với thân thể nầy
chẳng đủ cho là hi hữu. Vì người đã có phước đức thì tùy ý mình muốn đều được thành tựu thân thể theo sở nguyện cả ».
Lúc bấy giờ chúng hội sanh lòng hi hữu vui mừng bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Xin Phật vì chúng tôi mà lại giảng nói về cõi trời ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam ấy, Thiên Đế có bà phu nhơn
tên là Xá Chi. Bà ấy ở
vườn
hoan hỉ có trăm ngàn Thiên nữ hầu
hạ. Bà phu nhơn
ấy dung nhan đẹp lạ như
bông hoa nở, má như
cánh sen hồng, mặt như
màu hoàng kim. Bà ấy mặc y phục mịn nhuyễn tươi
sáng, hoa báu vi diệu trời trang sức trên đầu, thòng những chuỗi châu báu những bội ngọc quý khi lúc lay động khua vang tiếng vi diệu. Trán bà ấy rộng bằng ngay thẳng rũ the lượt hoàng kim, cặp mắt dài nhọn như
hoa sắp nở, thân hình bà ấy chẳng mập chẳng ốm chẳng cao chẳng thấp, thể chất thơm
sạch không có dơ
xấu. Thường có gió đưa
hoa đẹp đến kết thành lọng che. Đối với Thiên Đế, bà ấy một lòng chơn
thành vững chắc không hề hờn
giận tranh cãi. Bà ấy cũng không có sự lo về thai nghén.
Đại Tiên nên biết bà phu nhơn
Xá Chi ấy say mê ân ái nặng hơn
các Thiên nử khác, bà ấy chí ý kiêu căng còn hơn
núi Di Lâu, núi Mạn Đà rậm rạp khó ngước nhìn. Dầu vậy, mà bà phu nhơn
ấy hay phát huy chủng tánh Phật.
Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam không có những khổ nạn
xen tạp, chỉ thuần vui sướng chơi
đùa trong các cung điện vườn rừng .
Nầy Đại Tiên ! Thọ mạng
của trời Tam Thập Tam là một ngàn tuổi tính theo năm của trời ấy.
Lúc người
trời ấy
sắp lâm chung có năm hiện tượng xấu.
Nơi
ao hồ trong mát làm người tắm vui thích, gió nhẹ thổi các hoa đẹp thơm
tươi sáng lung lay tỏa
hương thơm, mà nay đối với vị trời ấy
lúc sắp sửa tắm rửa liền biến thành mỡ nhớt. Vị trời ấy
thấy vậy kinh sợ nhảy lên khỏi nước dơ
chạy vào rừng, các Thiên nữ theo hầu thấy Thiên Tử ấy
hoảng sợ như
vậy cũng cùng nhau chạy đuổi theo. Vị trời ấy
dừng ở dưới cội cây buồn rầu nghẹn ngào. Chúng Thiên nữ đồng
tiếng nói sao Ngài lại vội rời bỏ chúng em mà đứng một mình ở đây ?
Vị Thiên Tử ấy
tiếng nói càng lúc càng thảm thiết bảo các Thiên nữ rằng
: « Từ nào đến giờ chưa
tửng có chất nhờn dơ
hiện ra trên thân ta. Vừa nói lời trên xong thì hai nách vị trời ấy
bỗng nhiên chảy mồ hôi. Chúng Thiên nữ thấy hiện tượng xấu dơ
ấy liền dang ra xa. Đây là tướng suy xấu thứ nhất.
Vị Thiên Tử nầy
thấy chúng Thiên nữ lánh xa mình thì rầu rĩ buồn khổ trong lòng thêm nhiệt não. Tràng hoa trên đầu bỗng nhiên úa héo, y phục trời đang mặc cũng thình lình dơ
bẩn, không còn thích những trân ngoạn giường ghế báu quý trước. Các Thiên nữ thấy tướng xấu ấy
biết là hiện tượng sắp chết vì gớm hơi
hôi dơ, nên đều dang ra xa, chỉ có vói nhìn Thiên Tử ấy
phát tiếng kêu khóc luyến tiếc nghẹn ngào than rằng : « Thân trời mịn nhuyễn thơm
lành trước
kia cùng chúng tôi vui chơi yến ẩm
dạo đi trong vườn rừng, cũng cùng chúng tôi tắm lội trong ao hồ mát trong, cũng cùng chúng tôi hội họp nơi
nhà thiện pháp như
nga vương, cũng cùng chúng tôi vui đùa trong vườn hoan hỉ như
chim ca lan, cùng chúng tôi dạo đi trên sông mạn đà như
hương tượng, cùng chúng ở vườn ba gia và vườn câu la như
phong vương, cùng chúng tôi ở
rừng tạp thọ như
mão trời quý đẹp, nay sao lại hiện năm tướng suy sẽ rời
bỏ chúng tôi mà đi. Đây là tướng suy xấu thứ hai hiện ra.
Bấy giờ vị
Thiên Tử ấy
nghe tiếng than khóc của chúng Thiên nữ nên càng thêm tức giận, lòng sanh sợ hãi, bèn bị bịnh
nhiệt thiêu đốt cả thân mình khô héo, đôi mắt kinh hoàng như
nhà đi buôn bị lạc
mất đoàn buôn, như
ghe thuyền hư
bể giữa biển lớn, như
người
đánh mất châu như
ý, như cội cây mục trên gành núi cao bị ngọn gió lớn thổi lay, như
rồng con bị chim kim sí bắt ngậm nơi
miệng. Vị Thiên Tử ấy
sợ hãi hoàng chắp tay vói nói với chúng Thiên nữ rằng
: Các nàng đến đây, xin được tay các nàng xoa bóp cho tôi được sống thêm chốc lát. Dầu nghe vị Thiên Tử ấy
nói như vậy nhưng
chúng Thiên nữ không ai dám đến gần vì gớm mùi hôi dơ,
chỉ có đứng xa nhìn mà kêu khóc. Chúng
Thiên nữ ấy
đều cầm các thứ hoa vói ném mà nói rằng : Phước trời của Ngài đã hết Ngài mau sanh vào Diêm Phù Đề.
Nghe lời nói của chúng Thiên nữ, vị Thiên Tử ấy
biết là họ đã xa bỏ mình nên phát thanh thán oán rằng : Lạ thay tại sao từ lâu trong lâu đài các thứ ngoạn cụ cùng vườn tược nầy, chúng Thiên nữ ấy
cùng tôi sum họp hưởng lạc, mà nay họ lại
đứng dang ra xa bảo vói với tôi là Ngài nên mau sanh vào
Diêm Phù Đề.
Than nói
lời trên rồi, nhìn lại cảnh tượng đang ở và các khu vườn trang nghiêm xinh đẹp mà mình đã từng dạo chơi
hằng ngày, trong lòng luyến ái buồn thương,
vị Thiên Tử ấy
cất tiếng nói lớn rằng : Than ôi nào là hội đường thiện pháp, than ôi nào là vườn hoan hỉ, vườn tạp thọ, vườn hoàng viêm thạch, vườn ba lộ sa, vườn ba lê gia, vườn quan thắng, than ôi nào là sông mạn đà, ao thanh lương,
than ôi nào là cung ngọc đền vàng lầu châu các báu, nay tôi đều không còn thọ hưởng được, từ đây phải đọa lạc. Than nói chưa
xong, lại thấy chúng Thiên nữ kinh hoàng đi qua đi lại, tay thì lau nước mắt sụt sùi than thở lộ
vẻ lo sợ, bèn than rằng : Than ôi nào người thân nào người yêu, tại sao họ thấy tôi sắp chết mà họ không chuyện trò với tôi, tôi đang sắp sửa vĩnh biệt mà họ không chịu tiếp cận tôi để giã biệt, tôi cùng chúng nó sẽ không còn thấy lại nhau. Nay tôi phước trời đã hết nên tự thấy chỗ ở
nầy tối om trống vắng. Than ôi nhạc trời có lẽ không hòa tấu chăng, tại sao tôi không còn nghe. Trong
cõi trời nầy sự vui sướng cao độ nhứt, tất cả hàng Thiên Tử cùng chúng Càn Thát Bà chư
Thần phục vụ tôi, cùng thần tướng sắc đẹp mạnh mẽ cầm
chày kim cương, thần tướng ngàn mắt, than ôi nay tôi không còn được thấy được hưởng. Than ôi cho các thứ hoa trời, nào là hoa ba lợi gia, hoa câu tỳ la ở trên đầu tôi sao nó lại héo úa.
Chúng
Thiên Tử, Thiên nữ thấy vị Thiên Tử ấy
buồn rầu như
vậy thảy đều lo sầu.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn
và Xá Chi phu nhơn cùng trăm ngàn chúng Thiên Tử, Thiên nữ, Thần Càn Thát Bà tấu âm nhạc trời vầy đoàn du hành, thấy vị Thiên Tử ấy
hiện năm tướng suy xấu sắp chết đều sanh lòng thương
xót mà đồng than rằng : Than ôi ! Lạ thay cho vô thường kia không chút tình thương
rất hung bạo độc hại.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn
dùng phạm âm thanh bảo vị Thiên Tử ấy
rằng : Thôi đi Thiên Tử, người chớ quá sầu não, chúng ta rồi đây cũng sẽ như
thế nầy
thôi. Ngươi chớ sanh lòng luyến ái mà phải đọa vào ác thú.
Chúng
Thiên Tử cũng đồng bảo rằng : Ngài nên siêng năng làm đủ các điều thiện sanh vào nhơn
gian, nơi mà tất cả chúng sanh tu tạo nghiệp phước đức.
Vị Thiên Tử ấy
nghe lời khuyên bảo của Thiên Đế và chúng Thiên Tử bèn tự nghĩ rằng nay tôi quyết chắc sẽ đọa
lạc. Nghĩ rồi chắp tay hướng về chúng Thiên Tử mà nói rằng : Các Ngài an ủi tôi cho tôi vui mừng, nhưng
thời gian tôi đọa lạc đã đến.
Nói xong,
vị Thiên Tử ấy
than thở ngắm nhìn, bấy giờ lại
hiện ra thêm hai hiện tượng suy xấu : Một là đôi mắt ngầu đỏ như
xích liên hoa, hai là các món trang sức
trên thân bỗng ẩn mất.
Chúng
Thiên Tử, Thiên nữ thấy hiện tượng nầy đồng đem hoa trời rải lên mình vị Thiên Tử ấy
và cũng tấu thiên nhạc lên.
Vị Thiên Tử ấy
thấy chúng Thiên Tử, Thiên nữ rải
hoa tấu nhạc để tiển đưa
mình liền sanh lòng thích muốn sanh vào Diêm Phù Đề, tự buồn than rơi
lệ từ
giã cõi trời Tam Thập Tam sanh vào Diêm Phù Đề, khi đã nhập thai làm cho mẹ phát hiện các tướng tốt, thường ca múa cười vui, thích dục lạc, luôn vui vẻ, ưa những nơi
vườn
rừng cây hoa quả, ưa mặc các thứ y phục nhiều màu tươi
đẹp, thích thường ăn uống, dầu mang thai mà mẹ vẫn
không hề cảm
thấy khó chịu, chẳng ưa
tà dục, thích tràng hoa đẹp xinh và các thứ hương thơm
lành, lúc ngủ thì chiêm bao thấy cảnh tốt điều lành không bao giờ thấy sự điên đảo.
Nầy Đại Tiên ! Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống Diêm Phù Đề, lúc còn ở thai tạng có thể làm cho mẹ phát sanh những hiện tượng như
vậy.
Đại Tiên nên biết trong thời gian mang thai ấy, mẹ được khỏi tất cả bịnh
hoạn về nội
tạng, sau khi sanh luôn khỏe mạnh.
Khi đã
sanh ra, trẻ đồng
tử ấy
thân thể ngay ngắn, chỉ tay đậm rõ những nét tốt đáng mừng, tay chưn
nhu nhuyến, răng đều kín, eo lưng
đẹp, toàn thân dịu dàng, lòng ưa
những sự công đức lành thù thắng, tánh thích dục lạc tốt, y phục thì thích món nhẹ sạch,
thích dạo chơi
trong vườn
rừng. Thân thể thoát ra hơi
thơm dịu, dòng họ sang quý giàu có lớn đầy đủ vàng ngọc châu báu, thường làm những việc giữ giới hạnh và bố thí cúng dường.
Đại Tiên nên biết nếu vị Thiên Tử ấy
mà lòng dục quá nặng nhiều thì sẽ sanh vào nhà nghèo, nhưng
thân hình vẫn là đoan chánh đầy đủ các căn, không lùn không cao,
không đen không quá trắng, tay chưn
đều ngay ngắn, ai thấy cũng sanh lòng yêu kính. Tánh
người
nầy thích luận nghị, tâm luôn hòa dịu ít giận hờn, ưa
gần vợ người, đối với vợ nhà chẳng có lòng yêu thích, với bạn bè anh chị em cùng quyến thuộc cũng chẳng thương
luyến.
Đại Tiên nên biết, các vị Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống nhơn
gian, có những sự tướng như
vậy ».
Nghe đức Phật phán dạy xong, Quảng Bác tiên nhơn
cùng tất cả chúng tiên đều vui mừng đồng tiếng khen rằng lành thay.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment