Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Bát-Nhã Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
QUYỂN 17
PHẨM THÀNH BIỆN
THỨ NĂM MƯƠI
Lúc bấy giờ Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật rất sâu nầy vì đại sự mà phát khởi, vì bất khả tư nghì sự, vì bất khả xưng sự, vì bất khả lượng sự, vô đẳng đẳng sự mà phát khởi”.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Đúng như vậy. Bát nhã ba la mật rất sâu nầy vì bất khả tư nghì sự đến vì vô đẳng đẳng sự mà phát khởi,
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba
la mật chứa đựng năm ba la mật, chứa đựng mười tám không, chứa đựng tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, chứa đựng mười trí lực đến nhứt thiết chủng trí.
Ví như nhà vua là bực tôn quý trong nước, bao nhiêu việc nước đều ủy nhiệm cho đại thần, nhà vua vô sự an vui nhàn nhã.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề! Bao nhiêu pháp Thanh
văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát, pháp Phật, tất cả đều ở trong Bát nhã ba la mật, Bát nhã ba la mật hay hoàn thành những sự việc đó.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã ba la mật vì đại sự mà phát khởi nhẫn đến vì vô đẳng đẳng sự mà phát khởi.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã ba la mật chẳng lấy sắc, chẳng dính sắc nên có thể hoàn thành được, chẳng lấy, chẳng dính thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng lấy, chẳng dính nhứt thiết chủng trí nên có thể hoàn thành được, chẳng lấy, chẳng dính quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến chẳng lấy, chẳng dính Vô thượng Bồ đề nên Bát nhã ba la mật nầy có thể hoàn thành tất cả pháp”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! thế nào vì chẳng lấy, chẳng dính, sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến vì chẳng lấy, chẳng dính nhứt thiết chủng trí mà Bát nhã ba la
mật hay hoàn thành tất cả pháp?”
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ý ông nghĩ thế nào? Vả thấy sắc, thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể lấy, có thể dính được chăng? Nhẫn đến thấy nhứt thiết chủng trí có thể lấy, có thể dính được chăng?”
Bạch đức Thế Tôn! Không thể được.
Lành thay! Nầy Tu Bồ Đề! Đức cũng chẳng thấy sắc có thể lấy, có thể dính được nhẫn đến chẳng thấy nhứt thiết chủng trí có thể lấy, có thể dính được. Vì chẳng thấy nên chẳng lấy, vì chẳng lấy nên chẳng dính.
Nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật cũng chẳng thấy pháp của Phật, pháp của Như Lai, pháp của đấng tự nhiên, pháp của bực nhứt thiết trí có thể lấy, có thể dính được. Vì chẳng thấy nên chẳng lấy, vì chẳng lấy nên chẳng dính.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! Chư đại Bồ Tát chẳng nên lấy, chẳng nên dính nơi sắc, nhẫn đến chẳng nên lấy, chẳng nên dính nơi pháp của bực nhứt thiết trí”.
Bấy giờ chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật rất sâu nầy khó thấy, khó hiểu chẳng thể suy nghĩ so sánh để biết được. Bực thiện xảo vi diệu trí huệ tịch diệt mới biết được.
Người tin được Bát nhã ba la mật nầy, phải biết là đại Bồ Tát cúng dường nhiều đức Phật, gieo căn lành nhiều, gần gũi thiện tri thức, nên tin hiểu được Bát nhã ba la mật rất sâu nầy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu trong cõi Đại Thiên có bao nhiêu chúng sanh, tất cả đều làm người tín hành, người pháp hành, làm Bát Nhơn, làm Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, làm Bích Chi Phật hoặc trí hoặc đoạn, đều chẳng bằng được Bồ Tát nầy thật hành Bát nhã ba la mật trong một ngày. Tại sao vậy? Vì người tín hành, pháp hành nhẫn đến Bích Chi Phật hoặc trí hoặc đoạn chính là vô sanh pháp
nhẫn của Bồ Tát”.
Đức Phật bảo chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc: “Đúng như vậy. Nầy chư Thiên Tử! Người tín hành, người pháp hành nhẫn đến Bích Chi Phật chính là vô sanh pháp
nhẫn đến Bích Chi Phật chính là vô sanh pháp
nhẫn của đại Bồ Tát.
Nầy chư Thiên Tử! Nếu thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật sâu xa nầy rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng nhẫn đến chánh ức niệm thì sẽ mau được Niết Bàn hơn thiện nam, thiện nữ vì cầu Thanh văn hay Bích Chi Phật mà lìa bỏ Bát nhã ba la mật, đi thật hành theo kinh khác hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba
la mật sâu xa nầy nói rộng về pháp thượng diệu mà người tín hành, người pháp hành nhẫn đến đại Bồ Tát đều phải nên học. Học xong chứng được Vô thượng Bồ đề”.
Lúc bấy giờ chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đồng phát thanh rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật nầy gọi là Ma ha ba la mật, gọi là bất khả tư nghì, bất khả xưng, bất khả lượng, vô đẳng đẳng ba la mật. Người tín hành, pháp hành nhẫn đến Bích Chi Phật học Bát nhã ba la mật được thành đại Bồ Tát, được thành Vô thượng Bồ đề, Bát nhã ba la mật nầy cũng chẳng tăng, chẳng giảm”.
Bạch xong, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đảnh lễ chưn Phật, nhiều Phật rồi trở về Thiên cung.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà liền tin, liền hiểu. Người nầy từ nơi nào chết rồi sanh nhơn gian đây?”
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Nếu đại Bồ Tát nghe Bát nhã ba la
mật sâu xa nầy liền tin, liền hiểu, chẳng quên, chẳng bỏ, chẳng thắc mắc, chẳng nghi, chẳng ăn năn mà vui mừng ưa nghe, nghe xong ghi nhớ chẳng rời lìa, hoặc lúc đi đứng hoặc lúc nằm ngồi chẳng hề quên sót, thường theo sát Pháp sư.
Như trâu nghé theo sát trâu mẹ, Bồ Tát vì nghe Bát nhã ba
la mật mà thường theo sát Pháp sư, khi được Bát nhã ba la mật miệng tụng, tâm hiểu, chánh kiến thông suốt.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết đại Bồ Tát nầy từ loài người chết mà sanh trở lại trong nhơn gian nầy.
Tại sao vậy? người cầu Phật đạo, đời trước nghe Bát nhã ba la mật rồi biên chép, cung kính,
cúng dường, nên sau khi chết sanh trở lại nhơn gian được nghe Bát nhã ba la mật liền tin, liền hiểu”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Có vị Bồ Tát nào ở phương khác thành tựu công đức trên đây, cúng dường chư Phật rồi bỏ thân mà đến sanh tại nhơn gian nầy, được nghe Bát nhã ba la mật liền tin, liền hiểu, biên chép, đọc tụng, chánh ức niệm chăng?”
Đức Phật phán: “Có. Ở phương khác, Bồ Tát thành tựu công đức trên đây, cúng dường chư Phật, bỏ thân đến sanh tại nhơn gian nầy được nghe Bát nhã ba la mật sâu xa liền tin, liền hiểu, biên chép, thọ trì, đọc tung, chánh ức niệm. Phải biết đó là do công công đức thành tựu ở đời trước nên được như vậy.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Có Bồ Tát ở nơi Di Lặc Bồ Tát được nghe Bát nhã ba la mật sâu xa, do căn lành ấy mà đến tại nhơn gian nầy.
Nầy Tu Bồ Đề! Lại có Bồ Tát đời trước nghe Bát nhã ba la mật mà chẳng thưa hỏi những cớ sự trong đó. Vì không thưa hỏi nên đến sanh tại nhơn gian nghe Bát nhã ba la mật, nghe Bát nhã ba la mật sâu xa nầy lòng họ tiếp tục nghi ngờ, khó tỏ ngộ.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát đời trước hoặc nghe Thiền ba la mật, hoặc nghe Tinh tấn ba la mật, hoặc nghe Nhẫn nhục ba la mật, hoặc nghe Trì giới ba la mật, hoặc nghe Bố thí ba la mật mà không thưa hỏi cớ sự trong đó. Vì đời trước không thưa hỏi nên đến sanh tại nhơn gian nầy, nghe Bát nhã ba la mật sâu xa lòng họ tiếp tục nghi ngờ, khó tỏ ngộ.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu đời trước Bồ Tát hoặc nghe nội không, ngoại không nhẫn đến nghe nhứt thiết chủng trí mà không thưa hỏi cớ sự trong ấy, vì đời trước không thưa hỏi để được hiểu quyết định nên đến sanh tại nhơn nầy, nghe Bát nhã ba la mật sâu xa lòng họ nghi ngờ, khó tỏ ngộ.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Nếu đời trước Bồ Tát nghe Bát nhã ba la
mật sâu xa rồi thưa hỏi sự việc trong ấy mà không thật hành, khi bỏ thân sanh đời sau nghe Bát nhã ba la
mật sâu xa nầy trong khoảng một ngày hoặc hai, ba, bốn, năm ngày, lòng họ vững chắc không ai phá hoại được. Nếu họ xa rời chỗ nghe thì sẽ thối thất. Tại sao vậy? Vì ở đời trước, lúc nghe Bát nhã ba la mật dầu họ có thưa hỏi sự việc trong ấy nhưng họ chẳng thật hành đúng như lời. Người nầy có lúc muốn nghe, tâm chẳng vững chắc, chí chẳng quyết định, như cái lông nhẹ, theo gió mà bay mà bay qua Đông hoặc qua Tây.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết Bồ Tát nầy phát tâm chẳng được lâu, chẳng thường gần gũi thiện tri thức, chẳng cúng dường nhiều Phật, đời trước dầu được nghe mà chẳng biên chép, chẳng đọc tụng, chẳng chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, chẳng học sáu ba la mật, chẳng học nội không, ngoại không nhẫn đến chẳng học nhứt thiết chủng trí. Bồ Tát mới phát tâm Đại thừa, vì ít tin ít thích
nên chẳng đọc tụng, chẳng chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, chẳng thể biên chép được nhẫn đến chánh ức niệm được Bát nhã ba la mật sâu xa nầy.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo mà chẳng biên chép, chẳng thọ trì nhẫn đến chẳng chánh ức niệm Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, cũng chẳng được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, nhẫn đến cũng chẳng được sự gia hộ của nhứt thiết chủng trí. Người nầy cũng chẳng thật hành Bát nhã ba la mật đúng như lời. Người nầy hoặc sa vào bực Thanh văn hoặc Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Người nầy chẳng biên chép nhẫn đến thật hành Bát nhã ba la mật được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa, thế nên họ sẽ sa vào trong hai thừa ấy”.
PHẨM THÍ DỤ
THỨ NĂM MƯƠI MỐT
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ví như thuyền hư chìm giữa biển lớn, nếu người nào trong thuyền chẳng nắm phao, chẳng ôm cây ván hoặc tử thi, phải biết những người ấy không thể vào bờ và sẽ chìm chết. Người nào nắm phao hoặc ôm cây ván, tử thi, phải biết người nầy chẳng bị chìm chết, sẽ được vào đến bờ an ổn tự tại.
Cũng vậy, nầy Tu Bồ Đề! Thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo, nếu chỉ có lòng tin ưa mà chẳng y Bát nhã ba la mật, chẳng biên chép, chẳng thọ trì, chẳng đọc, chẳng tụng, chẳng giảng thuyết, chẳng chánh ức niệm, với năm ba la mật kia nhẫn đến nhứt thiết chủng trí cũng đều chẳng y, chẳng biên chép, đọc tụng, chánh ức niệm, phải biết thiện nam, thiện nữ nầy giữa đường suy hao, chẳng đến được nhứt thiết chủng trí, sẽ chứng lấy bực Thanh văn hoặc Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Nếu thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâm, thâm tâm, có
nguyện, có giải, có xả, có tinh tấn, y Bát nhã ba la mật, biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, người nầy được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa, nhẫn đến được sự gia hộ của nhứt thiết chủng trí. Vì được gia hộ nên người nầy chẳng giữa đường suy hao, vượt khỏi bực Thanh văn, Bích Chi Phật, hay tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh, sẽ chứng Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người dùng cáo bình đất chưa nung chín để múc nước, phải biết không bao lâu cái bình ấy sẽ bể rã, trở về nơi đất.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ dầu có tâm Vô thượng Bồ đề, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâm, thâm tâm, có
nguyện, có giải, có xả, có tinh tấn, mà chẳng được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí, người nầy giữa đường suy hao, sẽ sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người dùng bình đất đã nung chín để múc nước, phải biết cái bình nầy sẽ chứa được mà không rã.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ cầu Vô thượng Bồ đề, có đức tin, đức nhẫn, có tịnh tâm, thâm tâm, có
nguyện, giải, xả, tinh tấn, lại được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật sâu xa nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí, phải biết người nầy chẳng suy hao giữa đường mà vượt khỏi bực Thanh văn, Bích Chi Phật, hay tịnh Phật độ, thành tựu chúng sanh, chứng được Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Ví như thuyền trang bị chưa hoàn thành mà chở tài vật vượt biển khơi, sẽ biết thuyền nầy sẽ hư chìm giữa đường, người một nơi, thuyền và tài vật chìm trôi một ngả. Vì phương tiện không đầy đủ nên lái buôn phải mất tài vật.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ dầu có tâm Bồ đề, có đức tin, có nhẫn, nguyện, tịnh tâm, thâm tâm đến tinh tấn mà không được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy giữa đường suy hao, mất đại trân bảo nhứt thiết chủng trí, sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như người có trí, trang bị thuyền lớn hoàn hảo, sau đó mới hạ thuyền xuống biển chuyên chở tài vật, phải biết thuyền nầy tất không hư giữa đường, sẽ đến được chỗ muốn đến.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, có nhẫn, có tịnh tâm, thâm tâm, có
nguyện, giải, xả, tinh tấn, lại được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật đến nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy sẽ được Vô thượng Bồ đề, không bị suy hao giữa đường, sa vào Thanh văn, Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như có người tuổi già hơn trăm, suy yếu nhiều bịnh. Người già bịnh nầy nằm liệt trên giường không thể dậy đi được, hoặc có dậy đi được cũng không thể bước đi xa một, hai mươi dặm được.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ dầu có tâm Bồ đề có đức tin, nhẫn có tịnh tâm, thâm tâm, có
nguyện, giải, xả, tinh tấn nhưng chẳng được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật gia hộ, nhẫn đến chẳng được phương tiện lực của nhứt thiết chủng trí gia hộ, phải biết người nầy giữa đường sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật.
Như người già hơn trăm tuổi, suy yếu nhiều bịnh muốn đứng dậy bước đi, có hai người khỏe mạnh tận lực kèm dìu hai bên, nhờ đó người già bịnh đi đến được chỗ muốn.
Cũng vậy, thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo, có đức tin, có nhẫn, có tịnh tâm, thâm tâm, có dục, giải, xả, tinh tấn, lại được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí gai hộ, phải biết người nầy giữa không sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật mà đến được chỗ muốn đến, đó là Vô thượng Bồ đề”.
Đến đây đức Phật lại khen Ngài Tu Bồ Đề: “Lành thay, lành thay!
Tu Bồ Đề vì chư Bồ Tát mà thưa hỏi nơi Như Lai sự việc như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! nếu có thiện nam, thiện nữ từ lúc mới phát tâm đến nay dùng tâm ngã ngã sở mà bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Lúc bố thí nhẫn đến trí huệ, người nầy có quan niệm: Tôi là thí chủ, tôi bố thí cho người ấy, tôi bố thí vật ấy, nhẫn đến có quan niệm tôi là người tu trí huệ, tôi tu trí huệ ấy, tôi có trí huệ. Người nầy chẳng biết, thử ngạn, chẳng được sự gia hộ của Bát nhã ba la mật nhẫn đến chẳng được sự gia hộ của nhứt thiết chủng trí. Vì trong Bát nhã ba la mật nhẫn đến trong Đàn na ba la mật không có sự phân biệt như vậy. Xa lìa thử ngạn, bỉ ngạn, đó là tướng của sáu ba la mật. Vì không được gia hộ nên người nầy chẳng đến nhứt thiết chủng trí mà sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào là người cầu Phật đạo mà không có phương tiện?
Người cầu Phật đạo từ lúc sơ phát tâm đến nay không có sức phương tiện trong khi thật hành sáu độ, người nầy quan niệm rằng tôi là thí chủ bố thí cho người và dùng tài vật ấy để bố thí, nhẫn đến quan niệm rằng tôi tu huệ ấy, có huệ ấy, do đó mà có quan niệm tự cao: Nơi bố thí tự cao, trì giới tự cao, nhẫn nhục tự cao, tinh tấn tự cao, thiền định tự cao, trí huệ tự cao. người nầy không biết rằng không phân biệt nhớ tưởng, xa lìa thử ngạn, bỉ ngạn là tướng của sáu ba la mật. Vì không biết thử ngạn, không biết bỉ ngạn nên người nầy không được thủ hộ của Đàn na ba la mật nhẫn đến không được thủ hộ của nhứt thiết chủng trí, do đó không thể đến được nhứt thiết chủng trí mà phải sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi
Phật.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát nếu chẳng được sức phương tiện của Bát nhã ba la mật thủ hộ, tất phải sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi Phật.
Nếu được sự gia hộ của phương tiện lực Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát tất mau được Vô thượng Bồ đề, không bị sa vào bực Thanh văn hay Bích Chi
Phật.
Thế nào là được sự gia hộ?
Nầy Tu Bồ Đề! Từ ban sơ đến nay, Bồ Tát dùng sức phương tiện mà bố thí, không tâm nghĩ có ngã ngã sở nhẫn đến không tâm ngã ngã sở mà tu trí huệ. Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng tôi có bố thí, đó là của tôi bố thí, chẳng vì bố thí mà tự cao, nhẫn đến chẳng vì trí huệ mà tự cao. Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng tôi là thí chủ, tôi bố thí cho người ấy, tôi đem vật ấy để bố thí, nhẫn đến chẳng nghĩ rằng tôi tu trí huệ, tôi có trí huệ ấy. Tại sao vậy? Vì trong Đàn na ba la mật không có sự phân biệt như vậy, xa lìa thử ngạn, bỉ ngạn là tướng của Đàn na ba la mật, nhẫn đến xa lìa thử ngạn, bỉ ngạn là tướng Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba
la mật không sự nhớ nghĩ, phân biệt như vậy.
Bồ Tát nầy biết thử ngạn, biết bỉ ngạn. Bồ Tát nầy được Đàn na ba la mật hộ niệm nhẫn đến được Bát nhã ba la mật hộ niệm, được nội không, ngoại không nhẫn đến được nhứt thiết chủng trí họ niệm. Vì được sự hộ niệm đó nên Bồ Tát nầy chẳng sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật mà được đến bực nhứt thiết chủng trí.
Thế nên, nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát vì được phương tiện lực của Bát nhã ba la mật gia hộ nên chẳng sa vào bực Thanh văn, Bích Chi Phật mà mau được Vô thượng Bồ đề”.
PHẨM THIỆN TRI THỨC
THỨ NĂM MƯƠI HAI
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Hàng tân học Bồ Tát phải học sáu ba la mật như thế nào?”
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Nếu muốn học sáu ba la mật, hàng tân học Bồ Tát phải trước cúng dường gần gũi bực thiện tri thức hay giảng nói Bát nhã ba la mật sâu xa nầy. Thiện tri thức ấy giảng dạy rằng: Nầy thiện nam tử! Có bao nhiêu bố thí đều hồi hướng Bồ đề tất cả, có bao nhiêu trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề tất cả. Ngươi chớ cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Vô thượng Bồ đề, chớ cho sáu ba la mật là Vô thượng Bồ đề, chớ cho nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không là Vô thượng Bồ đề, chớ cho tứ niệm xứ đến bát thánh đạo là Vô thượng Bồ đề, chớ cho mười trí lực đến mười tám pháp bất cộng là Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì chẳng nắm lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì được Vô thượng Bồ đề, chẳng nắm lấy sáu ba la mật nhẫn đến chẳng nắm lấy mười tám pháp bất cộng thì được Vô thượng Bồ đề.
Nầy thiện nam tử! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật sâu xa nầy chớ tham sắc, chớ tham thọ, tưởng, hành, thức, chớ tham sáu ba la mật nhẫn đến chớ tham nhứt thiết chủng trí. Vì sắc chẳng phải cái có thể tham được, nhẫn đến vì nhứt thiết chủng trí chẳng phải có cái để tham được.
Nầy thiện nam tử! Chớ tham quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến chớ tham bực Bồ Tát, chớ tham Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì Vô thượng Bồ đề chẳng phải cái có thể được. Tại sao vậy? Vì pháp tánh không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát hay làm việc khó: ở trong pháp tánh không
mà cầu Vô thượng Bồ đề, mà muốn được Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát hay làm được việc khó: Ở trong pháp tánh không mà cầu Vô thượng Bồ đề, mà muốn được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì muốn an ổn thế gian nên chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn an lạc thế gian, cứu thế gian, làm chỗ về cho thế gian, làm chỗ ý cứ cho thế gian, làm cồn đảo cho thế gian, làm nhà dìu dắt thế gian, làm con đường rốt ráo cho thế gian, làm chỗ đến cho thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì an ổn thế gian, vì an lạc thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề để cứu với lục đạo chúng sanh ra khỏi lo khổ sấu não, đặt lên bờ Niết Bàn vô úy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì cứu thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề cứu khổ sanh tử cho chúng sanh, thuyết pháp cho chúng sanh,
chúng sanh được nghe pháp lần lần do ba thừa mà được độ thoát.
Nầy Tu Bồ Đề! thế nào là vì làm chỗ về cho thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề cứu chúng sanh ra khỏi tướng sanh, già, bịnh, chết, lo buồn sầu não, đặt chúng nơi bờ Niết Bàn vô úy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm chỗ y cứ cho thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề vì chúng sanh mà nói tất cả pháp không chỗ y cứ”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là tất cả pháp không chỗ y cứ?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Sắc chẳng tương tục đó là sắc không sanh, sắc không sanh đó là sắc không diệt, sắc không diệt đó là sắc không chỗ y cứ. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức đến nhứt thiết chủng trí cũng vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! thế nào vì làm con đường rốt ráo cho thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Lúc được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát vì chúng sanh mà nói pháp như vầy: Tướng rốt ráo của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến của nhứt thiết chủng trí chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng phải nhứt thiết chủng trí.
Như tướng rốt ráo, tất cả pháp tướng đều như vậy”.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như tướng rốt ráo, tại sao chư đại Bồ Tát đều phải được Vô thượng Bồ đề. Vì trong tướng rốt ráo của sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến trong tướng rốt ráo của nhứt thiết chủng trí đều không có phân biệt là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có phân biệt là nhứt thiết chủng trí“. Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Trong tướng rốt ráo của sắc, của thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có phân biệt là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến không có phân biệt là nhứt thiết chủng trí.
Tu Bồ Đề! Đây là việc khó của đại Bồ Tát: quán sát tướng tịch diệt của các pháp mà tâm Bồ Tát chẳng mất, chẳng bỏ. Vì đại Bồ Tát nghĩ rằng pháp sâu xa như vậy tôi phải biết như vậy, lúc được Vô thượng Bồ đề sẽ vì chúng sanh mà nói pháp tịch diệt vi diệu như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm cồn đảo cho thế gian mà đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Trong sông trong biển, chỗ đất mà bốn phía đều bị nước cắt đứt thì gọi là cồn đảo. Cũng vậy, sắc trước sau đứt đoạn, thọ, tưởng, hành, thức trước sau đứt đoạn, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí trước sau đứt đoạn. Vì trước sau đứt đoạn nên tất cả pháp đều đứt đoạn.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp trước sau đứt đoạn đó là tịch diệt, đó là diệu bảo, tức là không, là vô sở đắc, nhiễn ái dứt sạch, là ly dục Niết Bàn.
Lúc được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát vì chúng sanh mà
nói pháp tịch diệt vi diệu.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm nhà dìu dắt thế gian mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề? Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề vì chúng sanh mà giảng nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, vì chúng sanh mà giảng nói thập nhị nhập, thập bát giới, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ không định, tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, ngũ thần thông là chẳng sanh, diệt, chẳng cấu, tịnh, giảng nói Tu Đà Hoàn quả nhẫn đến nhứt thiết chủng trí là chẳng sanh, diệt, cấu, tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề! Thế nào vì làm chỗ đến cho chúng sanh mà chư đại Bồ Tát phát tâm Vô thượng Bồ đề! Đại Bồ Tát lúc được Vô thượng Bồ đề vì chúng sanh mà giảng nói sắc đến không, thọ, tưởng, hành, thức đến không nhẫn đến nhứt thiết chủng trí đến không. Vì chúng sanh mà giảng nói sắc chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến, nhẫn đến giảng nói nhứt thiết chủng trí chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Tại sao vậy? Vì tướng không của sắc chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến, vì tướng không của thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến tướng không của nhứt thiết chủng trí chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì tất cả pháp đến không tức là đến mà chẳng có qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong không đều không có đến hay chẳng phải đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến vô tướng. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong vô tướng, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến vô tác. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong vô tác, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến vô khởi, đến bất sanh diệt, đến bất cấu tịnh, đến vô sở hữu. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong vô khởi, trong vô sở hữu, trong bất sanh diệt, bất cấu tịnh, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến mộng, ảo, hưởng, ảnh, hóa. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong mộng, ảo, hưởng, ảnh, hóa, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến vô lượng vô biên. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong vô lượng vô biên, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến chẳng cho, chẳng lấy. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong chẳng cho, chẳng lấy nầy, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến chẳng cao, chẳng hạ. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong chẳng cao, chẳng hạ nầy, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến bất tăng, bất giảm. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong bất tăng, bất giảm nầy, đến và chẳng đến đều không thể được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến bất lai, bất khứ, bất nhập xuất, bất hiệp tán, bất trước đoạn. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong bất lai khứ, nhập xuất, hiệp tán, trước đoạn, đến và chẳng đến đều không có được.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến ngã, đến nhơn, đến chúng sanh, đến thọ giả, đến khởi, đến sử khởi, đến tác, đến sử tác, đến tri giả, đến kiến giả. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì ngã nhẫn đến tri giả, kiến giả đều rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng phải đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến thường, đến lạc, đến ngã, đến tịnh. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì thường, lạc, ngã, tịnh rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì tham, sân, si, mạn, nghi, kiến rốt ráo không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến như, đến pháp tánh, đến thiệt tế, đến bất tư nghì tánh. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong như, trong pháp tánh, thiệt tế, bất tư nghì tánh không có lai, không có khứ.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến bình đẳng, đến bất động tướng. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong bình đẳng, trong tướng bất động không có đến và chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến sắc, đến thọ, tưởng, hành, thức, đến thập nhị nhập, thập bát giới. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhập, giới đều chẳng có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến lục ba la mật nhẫn đến thập bát không, đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì sáu ba la mật nhẫn đến bát thánh đạo đều không có được thì làm sao có đến, chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến mười trí lực nhẫn đến nhứt thiết chủng trí. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong nhứt thiết chủng trí không có đến và chẳng đến.
Tu Bồ Đề! Tất cả pháp đến quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến Vô thượng Bồ đề. Sự đến nầy là chẳng qua đến đâu. Tại sao vậy? Vì trong quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến trong Vô thượng Bồ đề không có đến và chẳng đến”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! ai là người tin hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa nầy?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Có đại Bồ Tát từ trước ở chỗ chư Phật đã tu sáu ba la mật, thiện căn thuần thục, cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật, thường gần gũi thiện tri thức. Những người nầy hay tin hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa”.
Bạch đức Thế Tôn! Người hay tin hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa nầy có tánh gì, tướng gì, mạo gì?
Tánh, tướng, mạo rời lìa tham, sân, si, đại Bồ Tát nầy tin hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa”.
PHẨM XU HƯỚNG NHỨT THIẾT TRÍ
THỨ NĂM MƯƠI BA
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa nầy sẽ đến chỗ nào?”
Đức Phật dạy: “Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát hiểu Bát nhã ba la mật sâu xa nầy sẽ đến nhứt thiết chủng trí”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát hay đến nhứt thiết chủng trí nầy làm chỗ về đến cho tất cả chúng sanh, vì tu Bát
nhã ba la mật vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát nhã ba la mật là tu tất cả pháp.
Bạch đức Thế Tôn! Không chỗ tu là tu Bát nhã ba la
mật. Chẳng thọ tu, hư hoại tu là tu Bát nhã ba la mật”.
- Do pháp gì hư hoại mà Bát nhã ba la mật là hư hoại tu?
- Bạch đức Thế Tôn! Vì sắc hư hoại nên Bát nhã ba la mật là hư hoại tu.
Vì thọ, tưởng, hành, thức hư hoại, vì thập nhị nhập, thập bát giới hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu.
Vì ngã nhẫn đến tri giả, kến giả hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu.
Vì Đàn na ba la mật hoại nhẫn đến Bát nhã ba la mật hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu.
Vì nội không hoại nhẫn đến mười tám pháp bất cộng hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu.
Vì tứ niệm xứ hoại nhẫn đến nhứt thiết chủng trí hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu”.
Đức Phật dạy: “Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc hoại nhẫn đến nhứt thiết chủng trí hoại nên Bát nhã ba la mật là hoại tu.
Lại nầy Tu Bồ Đề! Trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy, bực bất thối địa Bồ Tát phải nghiệm biết.
Nếu ở trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà chẳng trước chấp, phải biết đó là bực bất thối địa Bồ Tát.
Nếu trong Thiền na ba la mật nhẫn đến trong nhứt thiết chủng trí mà chẳng trước chấp, phải biết đó là bực bất thối địa Bồ Tát.
Lúc hành thâm Bát nhã
ba la mật, bực bất thối địa Bồ Tát chẳng lấy lời người khác làm khẩn yếu, cũng chẳng làm theo lời chỉ bảo của người khác.
Bực bất thối địa Bồ Tát chẳng bị tâm dục, tâm sân, tâm si kéo dắt, chẳng bao giờ rời lìa sáu ba la mật.
Lúc nghe nói Bát nhã ba
la mật sâu xa, bực bất thối địa Bồ Tát chẳng kinh sợ, chẳng ăn năn, nghi ngờ mà hoan hỉ ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm và thật hành đúng như lời.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải biết Bồ Tát nầy đời trước đã từng nghe sự việc trong Bát nhã ba la mật sâu xa nầy và đã thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát nầy hiện tại có oai đức lớn, nghe Bát nhã ba la mật sâu xa mà lòng không kinh sợ, ăn năn, nghi ngờ, lại hoan hỉ ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm”.
Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe Bát nhã ba la mật sâu xa nầy mà không kinh sợ, lại ưa nghe nhẫn đến chánh ức niệm thì thật hành Bát nhã ba la mật nầy thế nào?”
Đức Phật dạy: “Tùy thuận tâm nhứt thiết chủng trí, đây là chỗ phải thật hành Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát”.
- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào gọi là tùy thuận tâm nhứt thiết chủng trí mà đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật phải như vậy?
- Nầy Tu Bồ Đề! Lấy không để tùy thuận, lấy vô tướng, vô tác để tùy thuận, lấy vô sở hữu, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh để tùy thuận, đó là đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật sâu xa.
Lấy như mộng, như ảo, diệm. hưởng, hóa để tùy thuận, đó là thật hành Bát nhã ba la mật.
- Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật tuyên dạy lấy không nhẫn đến lấy như mộng, ảo để tùy thuận, người thật hành Bát nhã ba la mật phải như vậy. Đại Bồ Tát nầy hành pháp gì?
- Nầy Tu Bồ Đề! đại Bồ Tát chẳng hành nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng hành nơi nhứt thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì chỗ hành của Bồ Tát nầy không pháp làm, không
pháp hoại, không từ đâu đến cũng chẳng đến đâu, không chỗ trụ, không tính được, không lường được. Nếu là không tính được, không lường được thì pháp ấy là chẳng thể được, chẳng thể dùng sắc để được nhẫn đến chẳng thể dùng nhứt thiết chủng trí để được. Tại sao vậy? Vì sắc tức là Bát nhã ba la mật, Bát nhã ba la mật tức là sắc, nhẫn đến nhứt thiết chủng trí tức là Bát nhã ba la mật, Bát nhã ba la mật tức là nhứt thiết chủng trí.
Nếu sắc tướng như nhẫn đến nhứt thiết chủng trí tướng như thì đều là như duy nhứt, không hai, không
khác.
Sắc tướng như, Bát nhã ba la mật tướng như: như duy nhứt, không hai, không
khác.
Nhẫn đến nhứt thiết chủng trí tướng như, Bát nhã ba la mật tướng như: như duy nhdất, không hai, không
khác”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Bát-Nhã
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment