Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Bát-Nhã Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
QUYỂN 10
PHẨM BỬU PHÁP ĐẠI MINH
THỨ BA MƯƠI HAI
Đức Phật nói với Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy rồi thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, chẳng rời tâm nhứt thiết trí, lúc lâm trận, do tụng Bát nhã ba la mật nên vào trong quân trận trọn chẳng mất mạng, đao tên không hại. Tại sao vậy? Thiện nam, thiện nữ nầy mãi mãi thật hành sáu ba la mật, tự trừ đao tên dâm dục của mình, cũng trừ đao tên dâm dục của người khác, tự trừ đao tên sân khuể của mình, cũng trừ đao tên sân khuể của mình, cũng trừ đao tên sân khuể của người khác, tự trừ đao tên ngu si của mình, cũng trừ đao tên ngu si của người khác, tự trừ đao tên tà kiến của mình, cũng trừ đao tên tà kiến của người, tự trừ đao tên triền cấu, cũng trừ đao tên triền cấu của người, tự trừ đao tên kiết sử, cũng trừ đao tên kiết sử của người.
Nầy Kiều Thi Ca! Do nhơn duyên nầy, nên thiện nam, thiện nữ nầy chẳng bị đao tên làm hại.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, chẳng rời tâm nhứt thiết trí, tất cả những độc, cổ độc, hầm lửa, nước sâu, dao chém đều không làm hại được.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật nầy là đại minh cchú, là vô thượng chú.
Nếu thiện nam, thiện nữ học đại minh chú nầy thời chẳng tự não hại lấy thân mình, cũng chẳng não hại người khác, cũng chẳng não hại cả mình lẫn người.
Tại sao vậy? Vì thiện nam, thiện nữ nầy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy có chúng sanh, nhẫn đến tri giả, kiến giả đều bất khả đắc. Chẳng thấy có sắc, nhẫn đến chẳng thấy có nhứt thiết chủng trí.
Vì chẳng thấy có, nên chẳng tự não hại thân mình, chẳng não hại người khác, cũng chẳng não hại lẫn mình cả người.
Vì học đại minh chú nầy nên được Vô thượng Bồ đề, quán tâm của tất cả chúng sanh mà tùy ý thuyết pháp.
Tại sao vậy? Vì quá khứ chư Phật học đại minh chú nầy đã được Vô thượng Bồ đề, vị lai chư Phật học đại minh chú nầy sẽ được Vô thượng Bồ đề, hiện tại chư Phật học đại minh chú nầy được Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có người chỉ biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật nầy mà thờ nơi nhà, chớ không thọ trì, không đọc tụng, chẳng giảng thuyết, chẳng chánh ức niệm, tất cả hành Nhơn, Phi Nhơn không thể phá hoại chỗ đó được.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật nầy được tất cả chư Thiên Vương, chư Phạm Vương cùng chư Thiên trong Đại Thiên thế giới và trong vô số vô lượng thế giới mười phương đồng ủng hộ.
Chỗ thờ Bát nhã ba la mật nầy, chư Thiên đều đến cúng dường, kính trọng, lễ lại rồi đi.
Chỉ có biên chép Bát nhã ba la mật để thờ tại nhà, mà thiện nam, thiện nữ ấy còn được công đức hiện đời như vậy.
Ví như hoặc có người hoặc có súc vật đến dưới cây bồ đề, thời hàng Nhơn, Phi Nhơn mang ác ý đến không làm hại được.
Tại sao vậy? Vì chỗ cây bồ đề nầy là nơi mà quá khứ chư Phật được Vô thượng Bồ đề, vị lai chư Phật và hiện tại chư Phật cũng ở nơi đó mà được Vô thượng Bồ đề. Khi được thành Phật rồi, đều bố thí sự không kinh sợ cho tất cả chúng sanh, làm cho vô lượng vô số chúng sanh được phước lạc trong Người trên Trời, cũng làm cho vô lượng vô số chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn đến quả Vô thượng Bồ đề.
Do oai lực của Bát nhã ba la mật, nên chỗ ấy được sự cung kính, lễ bái, cúng dường”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép cúng dường Bát nhã ba la mật, hoặc có thiện nam, thiện nữ sau khi đức Phật nhập diệt xây tháp cúng dường Xá Lợi, hai người nầy ai được phước nhiều?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại Ngài, tùy ý Ngài đáp.
Do học đạo gì mà Phật được Vô thượng Bồ đề thân tướng hảo nầy?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do học trong Bát nhã ba la mật mà đức Phật được Vô thượng Bồ đề cùng thân tướng hảo trang nghiêm”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Nầy Kiều Thi Ca! Đức Phật từ trong Bát nhã ba la mật mà học được nhứt thiết chủng trí.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng phải do thân tướng hảo mà gọi là Phật. Chính là do được nhứt thiết chủng trí nên gọi là Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Nhứt thiết chủng trí của Phật sanh từ trong Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Thân của Phật đây là chỗ sở y của nhứt thiết chủng trí. Nhơn nơi thân nầy mà Phật được nhứt thiết chủng trí. Nên nghĩ rằng thân của đức Phật đây là chỗ sở y của nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên sau khi Phật nhập Niết Bàn, Xá Lợi sẽ được cúng dường.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, thời tức là cúng dường nhứt thiết chủng trí.
Do cớ nầy nên thiện nam, thiện nữ nên biên chép Bát nhã ba la mật nầy, rồi hoặc thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm, kính trọng, cúng dường, tán thán.
Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, nếu có thiện nam, thiện nữ xây tháp cúng dường Xá Lợi, kính lễ, tán thán.
Lại có thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ trì Bát nhã ba la mật nầy mà kính thọ, cúng dường, tán thán, thời được phước rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh nội không đến vô pháp hữu pháp không, xuất sanh tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, xuất sanh tất cả tam muội, tất cả thiền định, tất cả đà la ni. Thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ đều xuất phát từ trong Bát nhã ba la mật nầy. Bồ Tát thành tựu tất cả công hạnh cũng từ trong Bát nhã ba la mật nầy. Tất cả phước quả của loài Người cùng cõi Trời đến Sắc Cứu Cánh Thiên đều từ Bát nhã ba la mật nấy sanh. Những Thánh quả từ Tu Đà Hoàn đến chư Phật và nhứt thiết chủng trí của chư Phật đều từ trong Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người Diêm Phù Đề chẳng cúng dường, tán thán Bát nhã ba la
mật, phải chăng vì họ chẳng biết cúng dường thời được nhiều lợi ích?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Đề, đối với Phật, Pháp và Tăng có bao nhiêu người có lòng tin bất hoại? Có bao nhiêu người không nghi? Có bao nhiêu người quyết liễu?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đối với Phật, Pháp và Tăng, trong Diêm
Phù Đề ít người có lòng tin bất hoại, cũng ít người không nghi và quyết liễu”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Đề, có bao nhiêu người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, tám bội xả, chín thứ đệ định, bốn trí vô ngại, sáu thần thông?
Trong Diêm Phù Đề có bao nhiêu người dứt ba kiết sử, được đạo Tu Đà Hoàn? Bao nhiêu người dứt ba kiết sử cũng mõng tham, sân, si, được đạo Tư Đà Hàm? Bao nhiêu người dứt năm hạ phần kiết, được đạo A Na Hàm? Bao nhiêu người dứt năm hạ phần kiết, được đạo A La Hán? Bao nhiêu người cầu đạo Bích Chi Phật? Bao nhiêu người phát tâm Vô thượng Bồ đề?”
Thiên Đế thưa: “Trong Diêm Phù Đề, ít người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Trong Diêm Phù Đề ít người đối với Phật, Pháp Tăng có lòng tin bất hoại, không nghi và quyết liễu. Cũng ít người được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhẫn đến ít người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trong những người phát tâm nầy lại ít người thật hành Bồ Tát hạnh.
Tại sao vậy? Vì những chúng sanh trong Diêm Phù Đề, đời trước của họ chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng cúng dường Tỳ Kheo Tăng, chẳng bố thí, chẳng trì giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng tin tấn, chẳng thiền định, chẳng trí tuệ, chẳng nghe nội không đến vô pháp hữu pháp không, chẳng nghe, chẳng tu tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, chẳng nghe, chẳng tu những môn tam muội, những môn đà la ni, cũng chẳng tu nhứt thiết chủng trí.
Do cớ trên đây nên ít chúng sanh tin bất hoại nơi Tam Bảo, nhẫn đến ít người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Trong những người phát tâm lại ít người thật hành Bồ Tát đạo.
Trong những người thật hành Bồ Tát đạo lại ít người được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật nhãn thấy trong những thế giới phương Đông có vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, thật hành Bồ Tát đạo, nhưng vì xa lìa sức phương tiện Bát nhã ba la mật nên có rất ít người được an trụ bực bất thối chuyển, còn phần nhiều thời sa vào hàng Thanh Văn,
Bích Chi Phật. Trong chín phương kia cũng như vậy.
Vì thế nên thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu Vô thượng Bồ đề phải nghe Bát nhã ba la mật và phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm. Xong rồi lại phải biên chép, cung kính, tôn trọng, tán thán và cúng dường Bát nhã ba la mật.
Những thiện pháp khác vào trong Bát nhã ba la mật cũng phải nghe, thọ trì nhẫn đến cúng dường. Những gì là thiện pháp khác? Chính là Đàn
na ba la mật đến Thiền na ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, những tam muội môn, đàn la ni môn, tứ niệm xứ đến bất cộng pháp, đại từ đại bi.
Vô lượng thiện pháp như vậy đều vào trong Bát nhã ba la mật cũng phải nghe, thọ trì nhẫn đến chánh ức niệm và tán thán, cúng dường.
Thiện nam, thiện nữ phải nghĩ rằng lúc làm Bồ Tát, đức Phật học và thật hành Bát nhã ba la mật cùng vô lượng thiện pháp cũng như vậy.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật cùng vô lượng thiện pháp là chỗ tôn quý của tôi, là pháp ấn của chư Phật, cũng là pháp ấn của Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Chư Phật do học Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí mà được đến bỉ ngạn.
Chư Bích Chi
Phật và Thanh Văn cũng học Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết trí mà đến bỉ ngạn.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên thiện nam, thiện nữ, lúc Phật còn tại thế hoặc sau khi Phật nhập Niết Bàn, phải y chỉ Bát nhã ba la mật, Thiền na ba la mật, Nhẫn nhục ba la mật, Thi na ba la mật, Đàn na ba la mật, nhẫn đến phải y chỉ nhứt thiết chủng trí.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí là chỗ mà chư Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật và tất cả thế gian, Trời, Người, A tu la đều đáng y chỉ nơi đó.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu thiện nam, thiện nữ, vì cúng dường Phật mà xây tháp bảy báu cao một do tuần, dùng hoa hương, an lạc, phan cái, kỹ nhạc cõi Trời để cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Do nhơn duyên nầy, thiện nam, thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế nói: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều!”
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn không bằng phước của thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy và biên chép, thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm, chẳng rời tâm tát bà nhã, cùng cung
kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng luận một tháp bảy báu. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, vì cúng dường Phật nên thiện nam, thiện nữ xây tháp bảy báu khắp Diêm Phù Đề cũng đều cao một do tuần, dùng hoa hương, anh lạc, phan cái, kỹ nhạc cõi Trời để cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Thiện nam, thiện nữ ấy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Phước của thiện nam, thiện nữ ấy rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nhẫn đến cúng dường, kính trọng, tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Chẳng luận xây tháp khắp một Diêm Phù Đề. Sau khi Phật nhập Niết Bàn, thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp bốn châu thiên hạ.
Thiện nam, thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam, thiện nữ biên chép đến cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu khắp bốn châu thiên hạ.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp Tiểu Thiên thế giới. Thiện nam, thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam, thiện nữ biên chép đến cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu khắp Tiểu Thiên thế giới.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp Trung Thiên thế giới. Thiện nam, thiện nữ nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chưa nhiều bằng phước của thiện nam, thiện nữ cúng dường Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu đầy Trung Thiên thế giới.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, thiện nam, thiện nữ vì cúng dường Phật nên xây tháp bảy báu đều cao một do tuần khắp Đại Thiên thế giới, rồi cúng dường trọn đời. Thiện nam, thiện nữ nầy phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nhưng vẫn chẳng bằng phước của thiện nam, thiện nữ biên chép Bát nhã ba la mật nầy, rồi thọ trì, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường.
Nầy Kiều Thi Ca! Lại chẳng luận xây tháp bảy báu đầy Đại Thiên thế giới.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, vì cúng dường Phật nên mỗi mỗi chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều xây tháp bảy báu và đều cúng dường trọn đời, vẫn chẳng bằng phước của thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm, chẳng rời tâm nhứt thiết trí, và cũng cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường”.
Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng như vậy, nếu có ai cúng dường, tôn trọng, tán thán Bát nhã ba la
mật nầy, thời là cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương, vì cúng dường đức Phật nên xây tháp bảy báu cao một do tuần, rồi cúng dường bửu tháp, hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
Bạch đức Thế Tôn! Những người cúng dường như vậy, có được phước nhiều chăng?”
Đức Phật nói: “Rất nhiều”.
Thiên Đế thưa: “Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép Bát nhã ba la mật nầy nhẫn đến chánh ức niệm, cung kính, tôn trọng, tán thán và cúng dường thời được phước lại nhiều lới hơn. Tại sao vậy? Vì tất cả pháp lành đều nhập vào trong Bát nhã ba la mật. Như là những pháp lành thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, tứ đế, sáu thần thông, tám bội xả, chín thứ đề định, sáu ba la mật, mười tám không, những tam muội môn, những đà la ni môn, mười trí lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại trí, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng, nhứt thiết trí, đạo chủng trí, nhứt thiết chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Đây gọi là pháp ấn của tất cả chư Phật. Trong pháp nầy, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật và tam thế chư Phật do học pháp nầy mà được đến bỉ ngạn”.
PHẨM THUẬT HÀNH
THỨ BA MƯƠI BA
Bấy giời đức Phật bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ biên chép Bát nhã ba la mật nầy, và học tập, thọ trì, đọc tụng, thân cận, giảng thuyết, chánh ức niệm, lại thêm dùng hoa hương, chuỗi ngọc, phan cái, kỹ nhạc cúng dường, sẽ được vô số vô lượng bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng vô biên phước đức.
Tại sao vậy?
Vì nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí của chư Phật đều từ trong Bát nhã ba la mật nầy sanh.
Vì Thiền na ba la mật đến Đàn na ba la mật của chư Bồ Tát đều từ trong Bát Nhã mà sanh.
Vì nội không đến vô pháp hữu pháp không đều từ trong Bát nhã ba la mật mà sanh.
Vì tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng và ngũ nhãn của Phật đều từ trong Bát nhã ba la mật mà sanh.
Vì thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, đạo chủng trí, nhứt thiết chủng trí, tất cả Phật pháp, Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật thừa đều trong Bát nhã ba la mật mà sanh.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên phước đức biên chép đến cúng dường Bát nhã ba la mật nầy hơn phước đức cúng dường bửu tháp trước kia, trăm ngàn muôn phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến toán số thí dụ đều chẳng bằng được.
Tại sao vậy?
Vì nếu Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời Phật bảo, Pháp bảo và Tỳ Kheo Tăng bảo trọn chẳng đoạn tuyệt.
Vì nếu Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, lục ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, nhứt thiết trí, nhứt thiết chủng trí đều hiện ra nơi đời.
Vì nếu Bát nhã ba la mật tồn tại thế gian, thời có những đại tộc, trưởng giả, cư sĩ, trời Tứ Thiên Vương đến trời Sắc Cứu Cánh, quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, đạo Bích Chi Phật, đạo Bồ Tát, đạo Phật vô thượng, chuyển pháp luân, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ”.
PHẨM KHUYẾN TRÌ
THỨ BA MƯƠI BỐN
Bấy giờ cả Đại Thiên thế giới có bao nhiêu hàng Tứ Thiên Vương đến Sắc Cứu Cánh Thiên bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn và chư Thiên rằng: “Các Ngài phải thọ, phải trì, phải thân cận, phải đọc tụng, phải giảng thuyết, phải chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy?
Vì thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, thời tất cả pháp lành tu tập sẽ được đầy đủ. Hàng Thiên chúng thêm đông, hàng A tu la giảm bớt.
Vì thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, thời Phật chủng chẳng dứt, Pháp chủng chẳng dứt, Tăng chủng chẳng dứt.
Vì Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng chẳng dứt, nên có lục ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng xuất hiện nơi đời, nên có quả Tu Đà Hoàn đến Phật quả xuất hiện nơi đời”.
Đức Phật bảo Thiên Đế: “Nầy Kiều Thi Ca! Ngài nên thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy?
Nếu A tu la sanh tâm muốn chiến đấu với chư Thiên cõi Đao Lợi, Ngài nên tụng niệm Bát nhã ba la mật, tâm ác của A tu la liền tiêu diệt, chẳng còn muốn đấu chiến.
Nếu có Thiên Tử hay Thiên Nữ hiện năm tướng chết và sẽ sa vào loài chẳng vừa ý, Ngài nên ở trước mặt họ mà đọc tụng Bát nhã ba la mật. Nhờ nghe Bát nhã ba la mật, các Thiên Tử, Thiên Nữ ấy tăng trưởng công đức nên được sanh trở lại bổn xứ. Vì nghe Bát nhã ba la mật thời được lợi ích lớn.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ hay là Thiên Tử, Thiên Nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy, vì được công đức nên lần lần sẽ được Vô thượng Chánh giác.
Tại sao vậy?
Vì quá khứ chư Phật và hàng đệ tử đều học Bát nhã ba la mật nầy mà được Vô thượng Bồ đề, nhập vô dư Niết Bàn.
Vị lai và hiện tại chư Phật cùng hàng đệ tử cũng đều học Bát nhã ba la mật nầy mà được Vô thượng Bồ đề, nhập vô dư y Niết Bàn.
Nầy Kiều Thi Ca! Bát nhã ba la mật nầy nhiếp tất cả pháp lành như là pháp Thanh Văn, pháp
Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát và Phật pháp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật là đại minh chú, là vô thượng minh chú, là vô đẳng đẳng minh chú.
Tại sao vậy?
Vì Bát nhã ba la mật nầy hay trừ tất cả pháp bất thiện, hay cho tất cả pháp thiện”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Bát nhã ba la mật là đại minh chú, là vô thượng minh chú, là vô đẳng đẳng minh chú.
Tại sao vậy?
Vì quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đều nhơn minh chú nầy mà được Vô thượng Bồ đề.
Nhơn minh chú
nầy nên thế gian có mười nghiệp đạo lành, có tứ thiền, có vô lượng tâm, tứ vô sắc định, có Đàn na ba la mật đến pháp bất cộng, có pháp tánh, pháp như, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, thiệt tế, có ngũ nhãn, quả Tu Đà Hoàn đến nhứt thiết trí và nhứt thiết chủng trí.
Nầy Kiều Thi Ca! Do nơi đại Bồ Tát nên thế gian xuất hiện thập thiện, tứ thiền nhẫn đến nhứt thiết chủng trí, Tu Đà Hoàn nhẫn đến Phật.
Ví như trăng tròn
chiếu sáng, các tinh tú cũng có thể chiếu sáng.
Tất cả thiện pháp đến nhứt thiết chủng trí tại thế gian, nếu thời kỳ không có Phật xuất thế, thời đều phát sanh từ chư Bồ Tát.
Phương tiện lực của đại Bồ Tát nầy đều sanh từ Bát nhã ba la mật.
Đại Bồ Tát dùng phương tiên lực nầy để thật hành Đàn na ba la mật đến Thiền na ba la mật, để thật hành nội không đến vô pháp hữu pháp không, để thật hành tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, chẳng chứng đặng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng có thể thành tựu chúng sanh, thành tịnh Phật độ, có thể thành tựu thọ mạng, thành tựu quốc độ, thành tựu quyến thuộc Bồ Tát, được nhứt thiết chủng trí. Tất cả như thế đều từ Bát nhã ba la mật phát sanh. Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật, thọ trì, thân cận, nhẫn đến chánh ức niệm thời sẽ được thành tựu công đức đời nầy, đời sau”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ thọ trì nhẫn đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật được công đức đời hiện tại như thế nào?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm thời trọn chẳng bị trúng độc mà chết, đao thương chẳng hại được, nước lửa cũng chẳng chìm đốt được, nhẫn đến bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh chẳng xâm được, trừ nghiệp báo đời trước của người ấy.
Nếu có quan sự phát khởi, thiện nam, thiện nữ nầy đến trước mặt quan không ai khiển trách được. Tại sao vậy? Vì oai lực của Bát nhã ba la mật vậy.
Nếu thiện nam, thiện nữ đọc tụng Bát nhã ba la mật đến trước mặt vua chúa, đại thần, thời vua chúa đại thần đều hoan hỷ đón tiếp, chuyện trò niềm nở. Tại sao vậy? Vì thiện nam, thiện nữ nầy thường có tâm từ bi hỉ xả đối với chúng sanh vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Đó là Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật được công đức trong đời hiện tại.
Những gì là công đức ở đời vị lai?
Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật thời trọn chẳng rời thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ không định, lục ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Người nầy trọn chẳng sa vào ba ác đạo. Thân mạo hoàn cụ. Trọn chẳng sanh vào nhà nghèo hèn hạ tiện. Thường được ba mươi hai tướng. Thường được hóa sanh trong nước hiện có Phật. Trọn chẳng rời lìa Bồ Tát thần thông. Nếu muốn từ một Phật quốc đến một Phật quốc để cúng dường chư Phật và nghe Phật thuyết pháp thời được như ý. Những nước đã được đến, người nầy đều có thể thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, lần lần được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Đó là công đức ở đời sau.
Vì thế nên thiện nam, thiện nữ phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, dùng hoa hương, phan cái, kỹ nhạc cúng dường, thường chẳng rời tâm nhứt thiết trí. Thiện nam, thiện nữ nầy được thành tựu công đức đời nầy, đời sau nhẫn đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
PHẨM KHIỂN TRỪ MA NGOẠI
THỨ BA MƯƠI LĂM
Bấy giờ chư ngoại đạo Phạm chí muốn đến tìm chỗ sở đoản của đức Phật.
Thiên Đế nghĩ rằng như ngoại đạo phạm chí nầy muốn đến tìm chỗ sở đoản của đức Phật, tôi nên tụng niệm Bát nhã ba la mật của đức Phật vừa giáo thọ, tất chư ngoại đạo phạm chí nầy trọn không thể làm trở ngại công việc giảng thuyết Bát nhã ba la mật.
Nghĩ xong, Thiên Đế liền niệm Bát nhã ba la mật.
Lúc đó chư ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh đức Phật rồi đi trở về.
Ngài Xá Lợi Phất tâm niệm cớ chi mà chư ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh đức Phật rồi đi trở về?
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Vì Thích Đề Hoàn Nhơn tụng niệm Bát nhã ba la mật, nên chư ngoại đạo phạm chí ở xa nhiễu quanh đức Phật rồi đi trở về.
Nầy Xá Lợi Phất! Ta chẳng thấy chư ngoại đạo phạm chí ấy có chút thiện tâm, họ mang ý ác đến muốn tìm chỗ sở đoản của đức Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thuyết Bát nhã ba la mật, ta chẳng thấy tất cả thế gian hoặc chư Thiên, chư Ma, chư Phạm, hoặc trong chúng Sa Môn, trong
chúng Đà La Môn, có ai mang ác ý mà có thể đến phá hoại được.
Tại sao vậy? Vì trong Đại Thiên quốc độ nầy, chư Tứ Thiên Vương đến Đại Tự Tại Thiên, chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, chư Bồ Tát và chư Phật đồng thủ hộ Bát nhã ba la mật nầy.
Tại sao vậy? Vì chư Thiên đến chư Phật đều xuất sanh từ trong Bát nhã ba la mật.
Lại nầy Xá Lợi Phất! Trong hằng sa quốc độ mười phương, chư Thiên đến chư Phật cũng đồng thủ hộ Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì chư Thiên đến chư Phật mười phương cũng đều xuất sanh từ trong Bát nhã ba la mật.
Bấy giờ có ác ma nghĩ rằng nay đây Phật cùng tứ chúng hội hợp với chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, trong đó tất có bực đại Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Ta phải đến đó để phá hoại đạo tâm của họ.
Nghĩ xong, ác ma liền hóa hiện bốn bộ binh kéo đến chỗ đức Phật.
Thiên Đế biết là không phải binh chủng của vua Tần Bà La hay vua Ba Tư Nặc, cũng không phải của dòng Thích Ca và dòng Lê
Xa. Đây tất là binh của ác ma hóa hiện. Ác ma nầy mãi tìm dịp hại chúng sanh, ta phải tụng niệm Bát nhã ba la mật.
Thiên Đế liền tụng niệm Bát nhã ba la mật.
Ác ma nghe tiếng tụng niệm, lần lần tan rã trở về.
Chư Thiên cõi
Tứ Vương đến cõi Sắc Cứu Cánh ở cõi nầy và hằng sa cõi ở mười phương đồng hóa hiện những thiên hoa từ trên không rải trên đức Phật và đồng xướng rằng cầu nguyện Bát nhã ba la mật ở lâu nơi Diêm Phù Đề.
Tại sao vậy? Vì người Diêm Phù Đề thọ trì Bát nhã ba la mật thời Bát nhã ba la mật được trụ nơi thế gian. Tùy thời gian Bát nhã ba la mật an trụ, thời ở Diêm Phù Đề Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo cũng an trụ chẳng diệt. Cũng phân biệt biết rõ đạo đại Bồ Tát.
Và lại chỗ nào có thiện nam, thiện nữ biên chép quyển Bát nhã ba la mật, thời chỗ đó tất chói sáng, rời xa sự tối tâm”.
Đức Phật bảo Thiên Đế và tất cả chư Thiên: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca và chư Thiên Tử! Người Diêm Phù Đề thọ trì Bát nhã ba la mật, theo thời gian mà sự thọ trì nầy còn tồn tại, thời cũng là thời gian mà Tam Bảo tồn tại. Nhẫn đến chỗ nào có thiện nam, thiện nữ biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật, thời chỗ ấy tất chói sáng, rời xa sự tối tăm”.
Chư Thiên Tử hóa hiện thiên hoa rải trên đức Phật mà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm thời ma chúa, ma dân không làm hại được.
Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng phải ủng hộ những người nầy, vì chúng tôi xem những người nầy như đức Phật hoặc kế đức Phật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm, phải biết những người nầy đời trước đã làm công đức nhiều ở chỗ đức Phật, đã thân cận cúng dường chư Phật, được bực thiện tri thức hộ niệm.
Bạch đức Thế Tôn! Nhứt thiết trí của chư Phật phải tìm cầu trong Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba la mật cũng phải tìm cầu trong nhứt thiết trí.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật chẳng khác nhứt thiết trí. Nhứt thiết trí chẳng khác Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba la mật cùng nhứt thiết trí chẳng phải hai, chẳng phải khác.
Do đây nên hàng chư Thiên chúng tôi xem những người nầy như đức Phật hoặc kế đức Phật”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy! Nầy Kiều Thi Ca! Nhứt thiết trí của chư Phật tức là Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba la mật tức là nhứt thiết trí.
Tại sao vậy? Nầy Kiều Thi Ca! Nhứt thiết trí của chư Phật đều xuất sanh từ trong Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba la mật chẳng khác nhứt thiết trí. Nhứt thiết trí chẳng khác Bát nhã ba la mật. Bát nhã ba la mật cùng nhứt thiết trí chẳng phải hai, chẳng phải khác”.
PHẨM TÔN ĐẠO
THỨ BA MƯƠI SÁU
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao chẳng ca ngợi Đàn na ba la mật đến mười tám pháp bất cộng mà chỉ ca ngời Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Đối với năm môn ba la mật đến mười tám pháp bất cộng thời Bát nhã ba la mật là tôn đạo của tất cả.
Nầy A Nan! Bố thí mà chẳng hồi hướng nhứt thiết trí thời có được gọi là Đàn na ba la mật chăng? Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ mà chẳng hồi hướng nhứt thiết trí thời có được gọi là thi na ba la mật chăng?”
Ngài A Nan thưa: ‘Bạch đức Thế Tôn! Không”.
Đức Phật nói: “Do đó mà biết rằng Bát nhã ba la mật là tôn đạo đối với năm ba la mật đến mười tám pháp bất cộng, nên phải ca ngợi”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là bố thí đến trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí được thành Đàn na ba la mật đến Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Dùng bố thí không có hai pháp mà hồi hướng nhứt thiết trí, thời gọi là Đàn na ba la mật, vì bất sanh, bất khả đắc nên bố thí, hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là Đàn na ba la mật.
Nhẫn đến dùng trí huệ không có hai pháp hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là Bát nhã ba la mật, vì bất sanh bất khả đắc nên trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí thời gọi là Bát nhã ba la mật”.
Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào dùng pháp không hai mà
bố thí nhẫn đến dùng pháp không hai mà trí huệ hồi hướng nhứt thiết trí, thời gọi là Đàn na ba la mật đến gọi là Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Vì sắc không hai pháp, vì thọ, tưởng, hành, thức không hai pháp, nhẫn đến vì Vô thượng Bồ đề không hai pháp vậy.
Tại sao vậy?
Vì sắc sắc tướng rỗng không. Đàn na ba la mật và sắc không hai, không khác, nhẫn đến Vô thượng Bồ đề và Đàn na ba la mật không hai, không khác. Năm ba la mât kia cũng như vậy.
Vì thế nên, nầy A Nan! Chỉ ca ngời Bát nhã ba la mật là tôn đạo của năm ba la mật đến nhứt thiết chủng trí.
Nầy A Nan! Ví như mặt đất, đem hột giống rải lên trên, đủ nhơn duyên hòa hiệp bèn mọc lên. Các hột giống ấy nương nơi đất mà mọc lên.
Cũng vậy, năm ba la mật nương Bát nhã ba la mật mà sanh. Tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí đều nương Bát nhã ba la mật mà sanh. Thế nên Bát nhã ba la mật là tôn đạo của năm ba la mật đến mười tám pháp bất cộng”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật nói chưa hết công đức của người thọ trì đến chánh ức niệm của Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì người thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật thời thọ lấy đạo Vô thượng của tam thế chư Phật. Vì muốn được nhứt thiết trí phải tìm cầu trong Bát nhã ba la mật. Muốn được Bát nhã ba la mật phải tìm cầu trong nhứt thiết trí.
Bạch đức Thế Tôn! Do thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật mà thế gian xuất hiện thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định nhẫn đến mười tám pháp bất cộng.
Do thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật mà thế gian bèn có những danh nhơn vọng tộc, trời Tứ Vương đến trời Sắc Cứu Cánh.
Do thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật mà thế gian bèn có Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A
Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, đại Bồ Tát.
Do thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật mà có chư Phật, Thế Tôn xuất hiện thế gian”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Người thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, ta chẳng nói họ chỉ được gần ấy công đức.
Nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng rời tâm nhứt thiết trí thời thành tựu vô lượng giới phẩm, thành tựu vô lượng định phẩm, huệ phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát tri kiến phẩm. Phải biết người nầy như Phật.
Tất cả giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát tri kiến phẩm của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật đối với người nầy không bằng một phần trăm ngàn muôn ức, nhẫn đến toán số thí dụ đều không bằng.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ trì quyển kinh Bát nhã ba la mật rồi cúng dường, tôn kính, tôn trọng cũng được công đức trong đời nầy và đời sau”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi phải thường thủ hộ những thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng rời tâm nhứt thiết trí, cúng dường, cung kính, tôn trọng Bát nhã ba la mật”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Lúc thiện nam, thiện nữ muốn đọc tụng, giảng thuyết Bát nhã ba la mật, thời vô lượng trăm ngàn chư Thiên đều đến nghe pháp.
Thiện nam, thiện nữ giảng thuyết pháp Bát nhã ba la mật, thời chư Thiên giúp thêm đởm lực cho những người ấy.
Các pháp sư ấy nếu mỏi mệt, nhờ chư Thiên giúp thêm đởm lực nên lại có thể giảng thuyết nữa.
Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm, cúng dương Bát nhã ba la mật cũng được công đức hiện đời nầy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy ở giữa bốn bộ chúng, lúc giảng thuyết Bát nhã ba la mật, lòng không khiếp nhược. Lúc bị luận nạn cũng không sợ sệt. Tại sao vậy? Vì thiện nam và thiện nữ ấy được sự hộ trì của Bát nhã ba la mật.
Trong Bát nhã ba la mật cũng phân biệt tất cả pháp, hoặc thế gian hay xuất thế gian, hoặc hữu lậu hay vô lậu, hoặc thiện hay bất thiện, hoặc hữu vi hay vô vi, hoặc pháp Thanh Văn hay pháp
Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát hay Phật pháp.
Vì thiện nam, thiện nữ ấy an trụ trong nội không hay vô pháp hữu pháp không, nên chẳng thấy có ai chướng nạn được Bát nhã ba la mật, cũng chẳng thấy người bị luận nạn, cũng chẳng thấy Bát nhã ba la mật.
Thiện nam, thiện nữ ấy được Bát nhã ba la mật ủng hộ, nên không ai nạn hoại được.
Lúc thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, thiện nam, thiện nữ ấy chẳng mất, chẳng kinh, chẳng sợ.
Tại sao vậy? Vì thiện nam, thiện nữ ấy chẳng thấy có pháp mất, chẳng thấy có pháp kinh sợ.
Nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm, cúng dường Bát nhã ba la mật, lại được công đức đời hiện tại nầy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến chánh ức niệm, biên chép, cúng dường quyển kinh Bát nhã ba la mật, người nầy được cha mẹ yêu thương, thân tộc, bạn bè kính mến, được Sa Môn, Bà La Môn kính nể, được chư Phật, chư đại Bồ Tát, chư A La Hán đến chư Tu Đà Hoàn ái kính, tất cả thế gian, chư Thiên, Ma, Phạm, A tu la cũng ái kính người nầy.
Người nầy thật hành Đàn na ba la mật không lúc nào đoạn tuyệt. Thi la ba la mật đến Bát nhã ba la mật cũng như vậy, không lúc nào đoạn tuyệt.
Người nầy tu nội không chẳng dứt, đến tu vô pháp hữu pháp không chẳng dứt, tu niệm xứ đến bất cộng pháp chẳng dứt, tu các môn tam muội chẳng dứt, tu các môn đà la ni chẳng dứt, tu những Bồ Tát thần thông chẳng dứt, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ chẳng dứt, nhẫn đến tu nhứt thiết chủng trí chẳng dứt. Người nầy cũng có thể hàng phục kẻ luận nạn hủy báng.
Nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ thọ trì đến cúng dường Bát nhã ba la mật cũng được công đức đời nầy, đời sau như vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Tại chỗ ở của thiện nam, thiện nữ biên chép quyển kinh, chư Thiên cõi trời Tứ Vương, Đao Lợi nhẫn đến cõi trời Sắc Cứu Cánh, toàn thể chư Thiên trong cõi Đại Thiên nầy và trong thế giới mười phương, những vị đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều đến chỗ ấy để ra mắt quyển Bát nhã ba la mật và thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy rồi trở về.
Ngoài ra những hàng Thiên, Long, Bát bộ trong cõi nầy và trong những thế giới mười phương cũng đều đến chỗ ấy để ra mắt quyển kinh Bát nhã ba la mật và thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy rồi trở về.
Thiện nam, thiện nữ nầy nghĩ rằng chư Thiên cùng Bát bộ thần trong cõi nầy và trong những thế giới mười phương đều ra mắt quyển Bát nhã ba la mật và thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ bái, như thế thời tôi đã ban bố pháp thí rồi.
Nầy Kiều Thi Ca! Chư Thiên trong cõi Đại Thiên cùng chư Thiên trong những thế giới mười phương, từ trời Tứ Vương đến trời Sắc Cứu Cánh, những vị đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, đều ủng hộ các thiện nam, thiện nữ nầy, làm cho những kẻ ác, những việc ác không xâm hại được. Ngoại trừ đời trước của người ấy có trọng tội.
Nầy Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ nầy cũng được công đức đời hiện tại. Những Thiên Tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề đều đến chỗ ở của người nầy.
Tại sao vậy? Vì những Thiên Tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề đều muốn cứu hộ tất cả chúng sanh, chẳng bỏ tất cả chúng sanh, muốn an lạc tất cả chúng sanh vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ nầy làm sao biết được chư Thiên trong thế giới đây cùng chư Thiên trong những thế giới ở mười phương đều ra mắt Bát nhã ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, cúng dường, lễ lạy?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ thấy quang minh thanh tịnh lớn, thời biết chắc là lúc có chư Thiên đến ra mắt Bát nhã ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy.
Lại nếu các thiện nam, thiện nữ nghe mùi hương lạ vi diệu, cũng biết chắc là lúc có chư Thiên đến ra mắt để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường lễ lạy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ công hạnh tịnh khiết, nên chư Thiên đến ra mắt Bát nhã ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường hoan hỉ lễ lạy
Trong chỗ đó nếu có hàng tiểu quỉ liền tức thời đi ra, vì họ chẳng kham nổi oai đức lớn của chư Thiên.
Do hàng Đại Đức chư Thiên đến, nên thiện nam, thiện nữ nầy phát đại tâm. Vì thế nên chỗ nào có Bát nhã ba la mật, thời bốn phía phải sạch sẽ. Phải thắp đèn, đốt hương thơm, rải những hoa đẹp, dầu thơm rưới đất, nghiêm sức với những bảo cái, tràng phan.
Lúc thuyết pháp, các thiện nam, thiện nữ nầy trọn không mõi mệt, tự cảm thấy thân thể thơ thới, tâm thần an vui. Đúng pháp nằm nghĩ, an ổn không ác mộng. Trong giấc mơ thấy Phật ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo. Chúng Tỳ Kheo cung kính vây quanh. Đức Phật vì chư Tăng mà thuyết pháp.
Các thiện nam, thiện nữ nầy nghe và lãnh thọ giáo pháp. Những là lục ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Cũng phân biệt nghĩa của lục ba la mật đến nghĩa của pháp bất cộng.
Trong giấc mơ, các thiện nam, thiện nữ nầy cũng thấy cây bồ đề trang nghiêm rất đẹp. Thấy chư Bồ Tát đến cội cây bồ đề thành Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân. Cũng thấy trăm ngàn muôn Bồ Tát đồng kết tập chánh pháp, luận nghị rằng: Phải cầu nhứt thiết trí như vậy, phải thành tựu chúng sanh như vậy, phải tịnh Phật quốc độ như vậy. Cũng thấy mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật. Cũng nghe danh hiệu của chư Phật ấy ở mười phương nào, nước nào, hiệu là gì, có bao nhiêu Bồ Tát, bao nhiêu Thanh Văn
vây quanh cung kính, đức Phật ấy vì đại chúng mà thuyết pháp. Lại thấy mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật nhập Niết Bàn. Lại thấy vô số trăm ngàn muôn ức tháp thất bảo của chư Phật. Lại thấy cúng dường bảo tháp với những hương hoa nhẫn đến phan lọng, cung kính, tôn trọng, tán thán.
Nầy Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ nầy chiêm bao thấy những cảnh lành như vậy, nên lúc ngủ yên, lúc thức cũng yên. Chư Thiên giúp thêm khí lực, nên người nầy tự cám thấy thân thể nhẹ nhàng, chẳng quá ham những đồ uống ăn, y phục, đồ nằm, thuốc men. Đối với tứ sự cúng dường, lòng người nầy phớt nhẹ. Như Tỳ Kheo tọa thiền, sau khi xuất thiền định, tâm hiệp với thiền định, chẳng ham uống ăn, tâm họ phớt nhẹ.
Tại sao vậy? Vì chư Thiên tự nhiên dùng tinh chất của món ăn để thêm khí lực cho người nầy.
Mười phương chư Phật và hàng Thiên, Long, Quỷ thần, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu na, Khẩn na la, Ma hầu la già cũng giúp thêm khí
lực cho người nầy.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên các thiện nam, thiện nữ muốn được công đức đời hiện tại như vậy, thời phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, cũng chẳng rời tâm nhứt thiết trí.
Nếu không thể thọ trì đến chánh ức niệm, các thiện nam, thiện nữ phải biên chép quyển kinh rồi cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy, rồi thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, biên chép quyển kinh, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc, phan cái thời công đức tứ sự cúng dường mười phương chư Phật và hàng đệ tử, cũng xây tháp bảy báu sau khi chư Phật và đê tử nhập Niết Bàn”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Bát-Nhã
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment