Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Bát-Nhã Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
QUYỂN 11
PHẨM XÁ LỢI
THỨ BA MƯƠI BẢY
Đức Phật nói với Thiên Đế Thích: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu đem Xá lợi của Phật đầy cả Diêm Phù Đề làm một phần, lại có người chép quyển kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần nầy Ngài lấy phần nào?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi dành lấy quyển kinh Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Đối với Xá lợi của đức Phật, chẳng phải tôi chẳng cung kính tôn trọng, nhưng vì Xá lợi nầy xuất sanh từ Bát nhã ba la mật do Bát nhã ba la mật huân tu, nên Xá lợi nầy mới được cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên Đế: “Bát nhã ba la mật nầy chẳng thể lấy được, nó không sắc, không hình, không đối, một tướng duy nhất, tức là vô tướng, sao Ngài lại muốn lấy?
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật nầy chẳng do lấy mà có, chẳng do bỏ mà có, chẳng do tăng giảm tụ tán tổn ích cấu tịnh mà có.
Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho Phật pháp, chẳng bỏ phàm phu pháp, cũng chẳng cho Bích Chi Phật pháp, A La Hán pháp, hữu học pháp, chẳng bỏ phàm phu pháp, chẳng cho tánh vô vi, chẳng bỏ tánh hữu vi, chẳng cho nội không đến vô pháp hữu pháp không, chẳng cho tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí, cũng chẳng bỏ phàm phu pháp”.
Thiên Đế nói: “Đúng như vậy, thưa Ngài Xá Lợi Phất! Nếu có người biết Bát nhã ba la mật nầy chẳng cho Phật pháp cũng chẳng bỏ phàm phu pháp, nhẫn đền chẳng cho nhứt thiết chủng trí pháp cũng chẳng bỏ phàm phu pháp. Đại Bồ Tát nầy có thể thật hành Bát nhã ba la mật, có thể tu Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật chẳng hiện hành hai pháp vậy. Pháp chẳng hai là Bát nhã ba la mật. Pháp chẳng hai là Thiền na đến Đàn na ba la mật”.
Đức Phật khen: “Lành thay, lành thay! Nầy Kiếu Thi Ca! Đúng như lời Ngài đã nói. Vì Bát nhã
ba la mật chẳng hiện hành hai pháp. Pháp chẳng hai là Bát nhã ba la mật, nhẫn đến là Đàn na ba la mật.
Nầy Kiếu Thi Ca! Nếu có người muốn được pháp tánh hai tướng, thời là muốn được Bát nhã ba la mật hai tướng.
Tại sao vậy? Vì pháp tánh và Bát nhã ba la mật không hai không khác, nhẫn đến Đàn na ba la mật cũng vậy.
Nếu có người muốn được thiệt tế bất tư nghì tánh hai tướng, thời là muốn được Bát nhã ba la mật hai tướng.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật và thiệt tế bất tư nghì tánh không hai không
khác vậy. Nhẫn đến Đàn na ba la mật cũng như vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả thế gian, loài người cùng chư thiên, A tu la đều phải kính lạy, cúng dường Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì từ trong Bát nhã ba la mật mà đại Bồ Tát học được Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường ngồi tại Thiện Pháp Đường.
Những lúc tôi không ngồi tại Thiện Pháp Đường, các Thiên Tử đến cúng dường tôi, hướng vế phía tòa tôi ngồi kính lễ đi nhiễu rồi trở về. Các Thiên Tử nầy nghĩ rằng vì Thiên Đế thường ngồi tại tòa nầy thuyết pháp cho chư Thiên cõi Trời Đao Lợi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Cũng vậy, chỗ nào biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật nầy, chỗ nào thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy, hàng Trời, Rồng, Bát bộ đều đến kính lễ Bát nhã ba la mật, cúng dường xong rồi đi.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh chư Phật, và xuất sanh tất cả những đồ cần thiết thích ý của tất cả chúng sanh.
Xá lợi của Phật cũng là chỗ làm nhơn duyên cho nhứt thiết chủng trí.
Do cớ trên đây nên, bạch đức Thế Tôn! Trong hai phần, tôi lấy phần Bát nhã ba la mật.
Lại kính bạch đức Thế Tôn! Lúc thọ trì, đọc tụng Bát nhã ba la mật, nếu tâm tôi nhập vào trong pháp, thời lúc ấy tôi chẳng thấy tướng bố úy.
Tại sao vậy? Vì Bát nhã ba la mật nầy không tướng mạo, không ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Không tướng mạo, không ngôn thuyết là Bát nhã ba la mật, nhẫn đến là nhứt thiết chủng trí.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bát nhã ba la mật sẽ là có tướng mà chẳng phải là vô tướng, thời chư Phật lẽ ra chẳng nên biết tất cả pháp không tướng mạo, không ngôn thuyết mà chứng được Vô thượng Bồ đề, rồi lại vì hàng đệ tử giảng nói các pháp cũng không
tướng mạo, không ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Bởi Bát nhã ba la mật đích thiệt là khộng tướng mạo, không ngôn thuyết mà chứng được Vô thượng Bồ đề, rồi vì hàng đệ tử giảng nói các pháp cũng không tướng mạo, không ngôn thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Vì thế nên tất cả thế gian, loài ngưới, chư Thiên, A Tu La đều phải tôn trọng, tán thán, cung kính,
cúng dường Bát nhã ba la mật nầy với những hương hoa, anh lạc, nhẫn đến các thứ phan lọng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nào thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật, và biên chép, cúng dường với những hoa hương, anh lạc, phan lọng, thời chẳng bị sa vào các loài Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, cũng như sa vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhẫn đến khi thành Vô thượng Bồ đề thường thấy chư Phật, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường chư Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Xá lợi của Phật đầy cả cõi Đại thiên đem làm một phần, chép quyển kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần nầy, tôi vẫn chọn lấy Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy sanh Xá lợi của chư Phật. Thế nên Xá lợi được cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán.
Thiện nam, thiện nữ do cung kính, cúng dường Xá lợi nên được hưởng phước lạc trên cõi Trời, trong loài người, thường chẳng sa vào ba ác đạo, theo sở nguyện lần lần do pháp Tam thừa mà nhập Niết Bàn.
Vì thế nên, bạch đức Thế Tôn! Nếu người được thấy hiện tại Phật, nếu được thấy quyển kinh Bát nhã ba la mật, cũng đồng không khác. Vì Bát nhã ba la mật với Phật với Phật không hai không khác vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật trụ thế có ba sự thị hiện, nói mười hai bộ kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá.
Có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Bát nhã ba la mật nầy cũng đồng như đức Phật trụ thế không khác.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh ba sự thị hiện và mười hai bộ kinh vậy.
Lại có người thọ trì Bát nhã ba la mật rồi giảng nói cho người khác, cũng đồng như trên không khác.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật xuất sanh chư Phật, cũng xuất sanh mười hai bộ kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người cúng dường chư Phật trong hằng sa thế giới ở mười phương, cũng cung kính, tôn trọng, tán thán. Lại có người chép quyển kinh Bát nhã ba la mật, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường với những hoa hương, phan lọng. Hai người nầy được phước đồng nhau.
Tại sao vậy? Vì mười phương chư Phật đều xuất sanh từ trong Bát nhã ba la mật vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã ba la mật nầy rồi thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, cũng giảng nói cho người khác, thời chẳng cón sa vào ba ác đạo, cũng chẳng sa vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Tại sao vậy? Vì phải biết người nầy đã an trụ trong bực bất thối chuyển vậy.
Bát nhã ba la mật nầy xa rời tất cả khổ não suy bịnh.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật nầy vẫn thọ trì, đọc tụng, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường, thời rời các sự khủng bố.
Ví như người mang nợ mà gần bên Quốc vương để hầu hạ cung cấp, thời chủ nợ trở lại cung kính, cúng dường người nầy. Người nầy không còn bố úy, vì nương oai lực của Quốc vương vậy.
Cũng vậy, nhờ sự huân tu Bát nhã ba la mật mà các Xá lợi của chư Phật được cúng dường, cung kính. Xá lợi ví như người mang nợ, còn Bát nhã ba la mật ví như Quốc vương. Nhờ nương gần quốc vương mà người mang nợ được cúng dường.
Cũng vậy, Xá lợi nương sự huân tu của Bát nhã ba la mật mà được cúng dường.
Nhứt thiết chủng trí của chư Phật cũng do Bát nhã ba la mật huân tu mà được thành tựu.
Vì những lẽ như trên, nên trong hai phần, tôi lấy phần Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Trong Bát nhã ba la mật xuất sanh Xá lợi và ba mươi hai tướng của chư Phật.
Trong Bát nhã ba la mật cũng xuất sanh mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi của chư Phật.
Trong Bát nhã ba la mật xuất sanh năm ba la mật, cũng làm cho được danh tự Ba la mật.
Trong Bát nhã ba la mật xuất sanh nhứt thiết chủng trí của chư Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Trong đại thiên thế giới, nếu có ai thọ trì, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã ba la mật, chỗ đó tất cả người hoặc quỷ thần không làm hại được, người nầy lần lần được nhập Niết Bàn.
Bát nhã ba la mật có lợi ích lớn như vậy, có thể làm Phật sự trong Đại Thiên thế giới.
Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nào có Bát nhã ba la mật thời chỗ đó chính là có Phật.
Ví như chỗ để vô giá ma ni bửu châu thời hàng Phi nhơn không xâm hại được. Nếu có người bị bịnh nhiệt, hay bịnh hàn, bịnh phong, hoặc bị bệnh tạp nhiệt phong hàn, đem bửu châu nầy cho người bịnh đeo, thời liền được lành mạnh.
Bửu châu nầy lại làm cho chỗ tối thành sáng, lúc nóng bức thành mát mẻ, lúc lạnh lẽo thành ấm áp.
Chỗ nào có bửu châu nầy thời chỗ đó chẳng lạnh, chẳng nóng, thời tiết hòa thích, cũng không có các loài trùng độc.
Có ai bị rắn độc cắn, đem bửu châu đến gần thời nọc được liền tiêu.
Có người nào đau mắt mù lòa, đem bửu châu đến gần thời mắt liền sáng tỏ hết bịnh.
Nếu người bị bịnh phung cùi ghẻ độc, cho đeo bửu châu nầy thời được lành mạnh.
Để bửu châu nầy trong nước, thời nước liền một màu.
Nếu dùng vật màu xanh gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền màu xanh.
Nếu dùng vật màu vàng, đỏ, trắng, hồng hay màu tạp gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền màu ấy.
Nếu đem bửu châu nầy để vào nước đục, thời nước đục liền trong”.
Ngài A Nan hỏi Thiên Đế: “Ma ni bửu châu ấy là vật trên trời hay là vật nhơn gian?”
Thiên Đế nói: “Là bửu châu trên trời. Người Diêm Phù Đề cũng có bửu châu như vậy, nhưng công lực có chỗ chẳng đầy đủ.
Bửu châu ở cõi trời thanh tịnh nhẹ nhàng, tốt đẹp, không thể lấy gì để ví dụ được.
Đem bửu châu nầy đựng vào hộp. Khi đã lấy bửu châu, vì công đức củ bửu châu huân ướp, nên hộp ấy được người quý trọng.
Cũng vậy, bạch đức Thế Tôn! Chỗ nào có người biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật, thời chỗ ấy không có những sự não hại.
Sauk hi đức Phật nhập Niết Bàn, Xá lợi được cúng dường, đều là do lực của Bát nhã ba la mật, công lực của thiền na ba mật, công lực của Thiền na ba la mật đến Đàn na ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, nhứt thiết trí, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, pháp tánh, thiệt tế, bất tư nghì tánh đến nhứt thiết chủng trí.
Thiện nam, thiện nữ nghĩ rằng: Xá lợi của Phật đây là chỗ nhứt thiết chủng trí đại từ đại bi, là chỗ những công đức dứt diệt hẳn tất cả kiết sử và tập khí, do đây nên Xá lợi được cung kính, cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn! Xá lợi là trụ xứ của những công đức bửu ba la mật, là trụ xứ của bất cấu bất tịnh ba la mật, là trụ xứ của bất sanh bất diệt ba la mật, là trụ xứ của bất nhập bất xuất ba la mật, là trụ xứ của bất tăng bất giảm ba la mật, là trụ xứ của bất lai bất khứ bất trụ ba la mật.
Xá lợi của Phật là trụ xứ của các pháp tướng ba la mật. Do các pháp tướng ba la mật huân tu nên Xá lợi được kính trọng, cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng luận Xá lợi đầy cả Đại Thiên thế giới. Giả sử Xá lợi của Phật đầy cả hằng sa thế giới làm một phần. Lại có người chép quyển kinh Bát nhã ba la mật làm một phần. Trong hai phần trên đây, tôi lấy phần Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy xuất sanh Xá lợi của chư Phật. Do Bát nhã ba la mật nầy huân tu nên Xá lợi được cúng dường vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ cúng dường, cung kính, tông trọng, tán thán Xá lợi, được công đức báo vô biên, hưởng thọ phước lạc nhơn gian và trên cõi Trời, nhẫn đến do nhơn duyên phước nầy nên sẽ được tận khổ.
Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giải thuyết, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật nầy, sẽ được đầy đủ Thiền na ba la mật đến Đàn na ba la mật, sẽ được đầy đủ tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà an trụ bực Bồ Tát.
Đã an trụ bực Bồ Tát thì được thần thông Bồ Tát, từ một Phật quốc đến một Phật quốc.
Bồ Tát nầy vì chúng sanh mà thọ thân. Theo chỗ chúng sanh đáng được thành tựu mà Bồ Tát nầy được làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm Sát Đế Lợi, Bà La Môn để cho chúng sanh được thành tựu.
Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải khinh mạn bất kính mà tôi chẳng lấy Xá lợi. Vì thiện nam, thiện nữ cúng dường Bát nhã ba la mật thời chính là cúng dường Xá lợi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Có người muốn thấy pháp thân và sắc thân của chư Phật hiện tại trong vô lượng vô số thế giới ở mười phương, người nầy phải nghe Bát nhã ba la mật và thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, vì người khác diễn thuyết. Thiện nam, thiện nữ nầy sẽ được thấy pháp thân và sắc thân của chư Phật hiện tại trong vô lượng thế giới mười phương.
Thiện nam, thiện nữ thật hành Bát nhã ba la mật cũng phải dùng pháp tướng để tu niệm Phật tam muội.
Thiện nam, thiện nữ muốn thấy hiện tại chư Phật thời phải thọ trì Bát nhã ba la mật nầy nhẫn đến chánh ức niệm.
Bạch đức Thế Tôn! Có hai loại pháp tướng: những pháp tướng hữu vi và những pháp tướng vô vi. Thế nào gọi là những pháp tướng hữu vi? Chính là trí huệ trong nội không nhẫn đến trí huệ trong vô pháp hữu pháp không, trí huệ trong tứ niệm xứ nhẫn đến trí huệ trong mười tám pháp bất cộng, trí huệ trong pháp thiện, trong pháp bất thiện, trí huệ trong pháp hữu lậu, trong pháp vô lậu, trí huệ trong pháp thế gian, trong pháp xuất thế gian. Trên đây gọi là những pháp tướng của pháp hữu vi.
Thế nào gọi là những pháp tướng vô vi? Chính là tự tánh của các pháp, tự tánh nầy không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Thế nào gọi là tự tánh của các pháp? Tánh vô sở hữu của các pháp là tự tánh của các pháp. Đây gọi là những pháp tướng vô vi”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiếu Thi Ca! Chư Phật quá khứ do nơi Bát nhã ba la mật mà được Vô thượng Bồ đề. Hàng đệ tử của chư Phật quá khứ cũng do nơi Bát nhã ba la mật mà đạo Tu Đà Hoàn đến đạo A La Hán, đạo Bích Chi Phật.
Chư Phật vị lai và hiện tại cùng hàng đệ tử cũng như vậy.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nói rộng nghĩa Tam thừa. Vì là pháp vô tướng vậy. Vì là pháp vô sanh, vô diệt vậy. Vì là pháp vô cấu, vô tịnh vậy. Vì là pháp vô tác, vô khởi vậy. Ví là pháp bất nhập, bất xuất, bất tăng, bất tổn, bất thủ, bất xả vậy. Bởi là thế tục pháp nên chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật nầy chẳng phải thử bỉ, chẳng phải cao, hạ, chẳng phải đẳng, bất đẳng, chẳng phải tướng, phi tướng, chẳng phải thế gian, xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, vô lậu, chẳng phải hữu vi, vô vi, chẳng phải thiện, bất thiện, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại.
Nầy Kiều Thi Ca! Bát nhã ba la mật chẳng lấy pháp Thanh văn, Bích Chi Phật, cũng chẳng bỏ pháp phàm nhơn”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật biết rõ tâm của tất cả chúng sanh, cũng chẳng được chúng sanh nhẫn đến chẳng được tri giả, kiến giả.
Đại Bồ Tát nầy chẳng được sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng được nhãn đến ý, chẳng được sắc đến pháp, chẳng được nhãn xúc, nhơn duyên, sanh thọ, chẳng được tứ niệm xứ đến pháp bất cộng, chẳng được Vô thượng Bồ đề, chẳng được Phật pháp, chẳng được Phật.
Tại sao vậy?
Bát nhã ba la mật chẳng vì được pháp mà xuất hiện.
Tại sao vậy?
Vì tánh Bát nhã ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Chỗ bất khả đắc của pháp sở dụng cũng bất khả đắc”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Như lời Ngài đã nói, đại Bồ Tát luôn thật hành Bát nhã ba la mật, Vô thượng Bồ đề còn bất khả đắc, huống là Bồ Tát vì Bồ Tát pháp”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát chỉ thật hành Bát nhã ba la mật, mà chẳng thật ba la mật khác ư!”
Đức Phật nói: Nầy Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát thật hành tất cả sáu ba la mật, vì vô sở đắc.
Thật hành Đàn na ba la mật, chẳng thấy người thí, chẳng thấy kẻ thọ, chẳng thấy tài vật.
Thật hành Thi la ba la mật, chẳng thấy giới, chẳng thấy người trì giới, chẳng thấy người phá giới.
Nhẫn đến thật hành Bát nhã ba la mật, chẳng thấy trí huệ, chẳng thấy người trí huệ, chẳng thấy người không trí huệ.
Nầy Kiều Thi Ca! Lúc đại Bồ Tát thật hành bố thí, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho bố thí, nên được đầy đủ Đàn ba la mật.
Lúc đại Bồ Tát thật hành trì giới, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho trì giới, nên được đầy đủ Thi la ba la mật.
Lúc đại Bồ Tát thật hành nhẫn nhục, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho nhẫn nhục, nên được đầy đủ Sằn đề ba la mật.
Lúc đại Bồ Tát thật hành tinh tấn, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho tinh tấn, nên được đầy đủ Tỳ lê gia ba la mật.
Lúc đại Bồ Tát thật hành thiền na, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho thiền na, nên được đầy đủ Thiền na ba la mật.
Lúc đại Bồ Tát quán các pháp, chính Bát nhã ba la mật làm minh đạo cho quán trí, nên được đầy đủ Bát nhã ba la mật.
Bởi tất cả pháp từ sắc đến nhứt thiết chủng trí đều vô sở đắc vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Ví như cây diêm phù đề, những lá, những hoa, những quả, những màu sắc, nhiều thứ sai khác, bóng mát của cây thời không sai khác.
Các ba la mật vào trong Bát nhã ba la mật đến nhứt thiết trí, không sai khác cũng như vậy, vì vô sở đắc vậy”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Bát nhã ba la mật thành tựu đại công đức, thành tựu tất cả công đức, Bát nhã ba la mật thành tựu vô lượng công đức, thành tựu vô biên công đức, thành tựu vô đẳng công đức.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật nầy, rồi cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, lại chính ức niệm đúng như lời kinh Bát nhã ba la mật.
Lại có thiện nam, thiện nữ chép quyển kinh Bát nhã ba la mật nầy rồi đem cho người khác.
Bạch đức Thế Tôn! Hai người trên đây ai được phước nhiều?”
Đức Phật nói: "Nầy Kiều Thi Ca! Nay Phật hỏi lại Ngài, tùy ý Ngài đáp.
Nếu có người cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Xá lợi của chư Phật. Lại có người chia Xá lợi ra như hột cải để cho người khác cúng dường. ai được phước nhiều hơn?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như tôi nghe pháp nghĩa của đức Phật nói: người tự mình cúng dường Xá lợi. Nếu lại có người phân Xá lợi như hột cải để cho người khác cúng dường, người nầy được phước rất nhiều.
Vì thấy phước nầy lợi ích chúng sanh, nên đức Phật nhập kim cang tam muội, làm nát thân kim cang thành hột Xá lợi.
Tại sao vậy? Vì sau khi đức Phật nhập diệt, người cúng dường Xá lợi của đức Phật dầu bằng hột cải, người nầy cũng được phước vô biên nhẫn đến tận khổ”.
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật rồi cúng dường, cung kính. Nếu lại có người biên chép quyển kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác học. Thiện nam, thiện nữ nầy được phước rất nhiều.
Nếu có thiện nam, thiện nữ đúng với nghĩa trong Bát nhã ba la mật mà diễn nói cho người khác được hiểu biết. Công đức của người nầy hơn người trước.
Những theo nghe Bát nhã ba la mật phải xem người nầy như Phật. Cũng xem như người phạm hạnh cao thắng.
Tại sao vậy? Vì phải biết Bát nhã ba la mật tức là Phật. Bát nhã ba la mật chẳng khác Phật. Phật chẳng khác Bát nhã ba la mật.
Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ trong Bát nhã ba la mật mà học được Vô thượng Bồ đề.
Hàng Thanh văn học Bát nhã ba la mật nầy mà được đạo A La Hán.
Người cầu Bích Chi Phật đạo học Bát nhã ba la mật nầy mà được đạo Bích Chi Phật.
Hàng Bồ Tát học Bát nhã ba la mật mà được nhập Bồ Tát vị.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên thiện nam, thiện nữ muốn cung kính, cúng dường chư Phật hiện tại, thời nên cúng dường Bát nhã ba la mật.
Ta thấy sự lợi ích nầy, nên lúc mới thành Vô thượng Bồ đề, ta nghĩ rằng có ai là người đáng được cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, y chỉ?
Nầy Kiều Thi Ca! Trong tất cả thế gian, trong những hàng chư Thiên, Ma Phạm, hoặc Sa Môn, Bà La Môn, ta chẳng thấy ai sánh bằng Phật cả, huống là có người hơn.
Ta lại tự nghĩ rằng pháp của ta được tự làm cho ta thành Phật. Ta cúng dường, cung kính, tánh thán pháp nầy và y chỉ pháp nầy mà an trụ.
Những gì là pháp nầy?
Chính là Bát nhã ba la mật.
Nầy Kiều Thi Ca! Phật còn tự mình cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán và y chỉ Bát nhã ba la mật. Huống là thiện nam, thiện nữ muốn được Vô thượng Bồ đề mà chẳng cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy?
Vì trong Bát nhã ba la mật xuất sanh chư đại Bồ Tát.
Trong chư đại Bồ Tát xuất sanh chư Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Thế nên thiện nam, thiện nữ hoặc cầu Phật đạo, hoặc cầu Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu Thanh văn đạo, thời đều phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã ba la mật với những hoa hương, anh lạc nhẫn đến phan lọng”.
PHẨM PHÁP THÍ
THỨ BA MƯƠI TÁM
(Phần trên)
Đức Phật nói với Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy người một Diên Phù Đề thật hành thập thiện đạo. Người nầy được phước nhiều chăng?”
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Vẫn không bằng phước của người biên chép, thọ trì quyển kinh Bát nhã ba la mật rồi đem cho người khác bảo đọc, tụng giải thuyết.
Tại sao vậy?
Trong Bát nhã ba la mật nói rộng các pháp vô lậu. Các thiện nam, thiện nữ từ trong đây tu học, đã học, sẽ học, hiện đương học, đã được, sẽ được, hiện được nhập trong chánh pháp vị, đã được, sẽ được, hiện được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán. Người cầu Bích Chi Phật đạo cũng vậy.
Chư đại Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ đề đã nhập, sẽ nhập, hiện nhập trong chánh pháp vị, đã được, sẽ được, hiện được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Những gì là pháp vô lậu?
Chính là tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng.
Thiện nam, thiện nữ học pháp nầy, đã được, sẽ được, hiện được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy cho một người quả Tu Đà Hoàn, người nầy được phước nhiều hơn dạy người một Diêm Phù Đề thật hành thập thiện đạo.
Tại sao vậy? Vì dạy người một Diêm Phù Đề thật hành thập thiện đạo, chẳng xa rời hẳn khổ ba ác đạo.
Còn dạy một người cho quả Tu Đà Hoàn thời xa rời hẳn khổ Địa ngục, Ngạ quỷ, Ngạ quỷ, Súc sanh.
Nhẫn đến quả A La Hán và đạo Bích Chi Phật cũng vậy.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ dạy người một Diêm Phù Đề cho được quả Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A
Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật đạo, chẳng bằng dạy một người cho được Vô thượng Bồ đề được phước rất nhiều.
Tại sao vậy?
Do nhơn duyên Bồ Tát mà xuất sanh Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật. Do nhơn duyên Bồ Tát mà xuất sanh chư Phật.
Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên biết rằng thiện nam, thiện nữ chép quyển kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác đọc tụng, giải thuyết được phước rất nhiều.
Tại sao vậy?
Vì trong Bát nhã ba la mật nầy nói rộng các pháp thiện. Học các thiện pháp nầy bèn xuất sanh những đại tộc ở nhơn gian và chư Thiên các cõi trời nhẫn đến Phi Phi Tưởng Thiên.
Học các thiện pháp nầy bèn xuất sanh tứ niệm xứ đến nhứt thiết chủng trí, bèn có Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật, bèn có chư Phật.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Không luận dạy người một Diêm Phù Đề. Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy cả chúng sanh trong bốn thiên hạ thật hành thập thiện đạo, chẳng bằng người chép quyển kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác đọc tụng, giải thuyết, được phước rất nhiều. Những điều khác như trên đã nói.
Không luận bốn thiên hạ. Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy cả chúng sanh trong Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Đại thiên thế giới, nhẫn đến dạy cả chúng sanh trong hằng sa thế giới thật hành thập thiện đạo, chẳng bằng người chép quyển kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác đọc tụng, giải thuyết, được phước rất nhiều. Những điều khác như trên đã nói.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Có người dạy cả chúng sanh trong một Diêm Phù Đề cho họ đứng vững nơi tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, ngũ thần thông. Người nầy được phước nhiều chăng?
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy được phước rất nhiều”.
Đức Phật nói: “Vẫn chẳng bằng thiện nam, thiện nữ chép quyển kinh Bát nhã ba la mật đem cho người khác đọc tụng, giải thuyết, được phước rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã ba la mật nầy nói rộng các thiện pháp. Những điều khác như trên đã nói. Nhẫn đến dạy cả chúng sanh trong hằng sa thế giới ở trong mười phương thật hành thập thiện đạo, so sánh phước đức cũng như vậy.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giài thuyết, chánh ức niệm Bát nhã ba la mật.
Người nầy được phước hơn người dạy cả chúng sanh trong Diêm Phù
Đề thật hành thập thiện đạo cùng an lập nơi tứ thiền đến ngũ thần thông.
Người chánh ức niệm, thọ trì, thân cận nhẫn đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật chẳng do nhị pháp cũng chẳng co bất nhị pháp.
Thọ trì, thân cận nhẫn đến chánh ức niệm Thiền na ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Sằn đề ba la mật, thi la ba la mật, Đàn na ba la mật, chẳng do nhị pháp.
Vì Vô thượng Bồ đề nên chánh ức niệm nội không đến nhứt thiết chủng trí, chẳng do nhị pháp.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ dùng nhiều nhơn duyên vì người khác mà diễn thuyết nghĩa Bát nhã ba la mật, phân biệt, khai thị cho hạ được hiểu biết.
Những gì là nghĩa Bát nhã ba la mật?
Nghĩa Bát nhã ba la mật là:
Chẳng nên dùng nhị tướng để quán, chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng nhập, chẳng xuất, chẳng tăng, chẳng tổn, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thủ, chẳng xả, chẳng trụ, chẳng bất trụ, chẳng phải, chẳng thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, chẳng phải trước, chẳng phải bất trước, chẳng chơn, chẳng phải chẳng chơn, chẳng phải pháp, chẳng phải bất pháp, chẳng phải như, chẳng phải bất như, chẳng phải thiệt tế, chẳng phải chẳng thiệt tế.
Thiện nam, thiện nữ đem nghĩa Bát nhã ba la mật nầy dùng nhiều nhơn duyên diễn thuyết phân biệt, khai thị cho người khác được hiểu biết. Người nầy được phước đức rất nhiều, hơn là tự mình thọ trì, đọc tụng đến chánh ức niệm.
Lại nầy Kiều Thi Ca! thiện nam, thiện nữ tự thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã ba la mật cũng dùnh nhiều nhơn duyên diễn thuyết, phân biệt, khai thị cho người khác được hiểu biết, người nầy được công đức rất nhiều”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ phải diễn thuyết, khai thị, phân biệt nghĩa Bát nhã ba la mật như vậy làmcho được hiểu biết?”
Đức Phật nói: “Đúng như vậy. Nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ diễn thuyết, khai thị, phân biệt nghĩa Bát nhã ba la mật như vậy làm cho người khác được hiểu biết, được vô lượng vô biên phước đức.
Nếu có người cúng dường vô lượng vô số chư Phật mười phương theo chỗ cần dùng mà cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương nhẫn đến phan lọng.
Nếu lại có người dùng nhiều nhơn duyên giảng rộng nghĩa Bát nhã ba la mật, khai thị, phân biệt làm cho người khác được hiểu biết, được công đức rất nhiều.
Tại sao vậy?
Vì quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật học trong Bát nhã ba la mật nầy mà đã được, sẽ được, hiện được Vô thượng Bồ đề.
Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ trong vô lượng vô biên vô số kiếp thật hành Đàn na ba la mật, chẳng bằng thiện nam, thiện nữ diễn nói nghĩa Bát nhã ba la mật, khai thị, phân biệt cho người khác được hiểu, phước đức rất nhiều.
Tại sao vậy? Vì vô sở đắc vậy.
Thế nào gọi là hữu sở đắc?
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát dùng hữu sở đắc mà bố thí. Lúc bố thì, quan niệm tôi cho, người nhận, của vật để cho. Đây gọi là được Đàn na mà chẳng được ba la mật.
Lúc trì giới, quan niệm tôi trì giới, đây là giới. Đó gọi là được Thi la mà chẳng được ba la mật.
Lúc nhẫn nhục, quan niệm tôi nhẫn nhục, vì người ấy mà nhẫn nhục. Đây gọi là được Sằn đề mà chẳng được ba la mật.
Lúc tinh tấn, quan niệm tôi tinh tấn, vì sự đó mà siêng năng tinh tấn. Đây gọi là được Tỳ lê gia mà chẳng được ba la mật.
Lúc tu thiền, quan niệm tôi tu thiền, chỗ tu là thiền. Đây gọi là Thiền na mà chẳng được ba la mật.
Lúc tu huệ, quan niệm tôi tu huệ, chỗ tu là huệ. Đây gọi là được Bát nhã mà chẳng được ba la mật.
Thiện nam, thiện nữ thật hành như vậy thời chẳng được đầy đủ Đàn na ba la mật, nhẫn đến chẳng được đầy đủ Bát nhã ba la mật”.
Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu thế nào được đầy đủ Đàn na ba la mật, nhẫn đến đầy đủ Bát nhã ba la mật?”
Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Lúc bố thí, đại Bồ Tát chẳng thấy người cho, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy của vật đem cho. Người nầy được đầy đủ Đàn na ba la mật.
Nhẫn đến lúc tu huệ, đại Bồ Tát chẳng thấy huệ, chẳng thấy huệ bị tu tập. Người nầy được đầy đủ Bát nhã ba la mật.
Thiện nam, thiện nữ thật hành Bát nhã ba la mật như vậy, nên vì người khác mà diễn thuyết nghĩa Bát nhã ba la mật, khai thị, phân biệt cho họ được hiểu biết. Năm ba la mật kia cũng như vậy.
Tại sao vậy?
Vì đời vị lai có người muốn nói Bát nhã ba la mật mà nói tương tợ Bát nhã ba la mật.
Có thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì nghe tương tợ Bát nhã ba la mật nầy mà thất chánh đạo.
Thế nên đại Bồ Tát phải vì người nầy mà diễn nói đủ nghĩa Bát nhã ba la mật, khai thị, phân biệt cho họ hiểu biết”.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Bát-Nhã
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment