ĐƯỜNG
VỀ CỰC LẠC
Hòa
Thượng THÍCH TRÍ TỊNH
CHƯƠNG THỨ BẢY
LIÊN TÔNG CHƯ TỔ
Trong
chương này, lược thuật tiểu sử cùng lời dạy của chư vị Tổ
sư chánh truyền giữ gìn và rộng truyền Pháp môn Tịnh
độ của Đức Bổn Sư nơi miền Đông châu Á này. Bắt đầu từ Tổ Huệ
Viễn đến Tổ Triệt Ngộ lưu truyền cộng là 11 vị. Trước Tổ Huệ
Viễn, Pháp môn Tịnh độ đã lưu truyền phương Đông này rồi
và cũng đã có nhiều người thực hành, nhưng sự tổ chức cho có hệ thống và chấn
chỉnh cho có quy củ, thời Tổ Huệ Viễn là sơ thỉ. Vì thế nên
ngài là Sơ Tổ của tông Tịnh độ ở miền Đông.
Sau
Tổ Triệt Ngộ, tất cũng còn nhiều vị Tổ kế truyền, vì Tổ thị tịch năm
Gia Khánh thứ 15 triều Thanh, từ ấy đến nay tính thời
gian cũng hơn thế kỷ; vả lại vào thời Dân Quốc, pháp môn này rất phổ
cập và hàng tứ chúng được thành công có đủ chứng
nghiệm không thể kể xiết (Xem tập Tứ chúng vãng sanh, tức là tập
sau của bộ này). Nhưng vì tài liệu kê cứu chỉ được đến Tổ Triệt
Ngộ thôi, nên đành tạm ngưng nơi đệ thập nhứt Tổ.
SƠ TỔ
HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ
Huệ Viễn Đại sư họ Cổ, người Nhạn
Môn. Lúc thơ ấu, bẩm tính ngài rất hiếu học, đã thông Nho điển lại rất giỏi
về học thuyết Lão, Trang.
Bấy giờ, Đạo An Pháp sư lập
chùa Hằng Sơn, vân tập Tăng chúng thuyết pháp. Ngài nghe tiếng mến
đức, bèn đến Hằng Sơn quy y với Pháp sư.
Khi nghe Đạo An Pháp
sư giảng Kinh Bát Nhã, tâm trí ngài mở thông tỏ ngộ diệu
lý. Ngài bèn than rằng: “Nào ngờ Phật thừa thâm diệu! Bấy lâu
nay uổng công ta đeo đuổi theo bã rác Khổng, Mạnh, Lão, Trang!”
Rồi ngài xin xuất gia, pháp hiệu Huệ
Viễn.
Từ đó trở đi, ngài liền đêm
ngày chuyên tâm đọc tụng, tư duy, tu tập. Đạo
An Pháp sư thấy ngài chuyên cần nên khen rằng: “Phật pháp sẽ
được lưu hành ở Trung Đông, tất do nơi Huệ Viễn này vậy”.
Năm Thái Ngươn thứ 6, nhà Tấn, đến Tầm
Dương thấy cảnh núi Lô Sơn rộng rãi tĩnh mịch, phải
nơi hành đạo, ngài bèn lập tịnh xá ở đó, hiệu là Long Tuyền([1]).
Lúc đó, Pháp sư Huệ
Vĩnh bạn đồng sư của ngài, đã lập chùa Tây Lâm ở phía Tây Lô
Sơn mời ngài cùng về Tây Lâm tự.
Được ít lâu, học chúng theo ngài quá
đông, chùa Tây Lâm không đủ chỗ, ý ngài muốn lập cảnh khác ở phía Đông Lô
Sơn. Sơn thần đến xin cúng cây gỗ. Rồi sau một đêm mưa to gió lớn, cây gỗ chồng
chất ngổn ngang. Quan Thứ Sử Hoàn Y phát tâm dựng tòng
lâm cho ngài. Vì Sơn thần dâng gỗ và đối với Tây Lâm tự, nên để hiệu
là “Đông Lâm Thần Vận tự”.
Khi nơi chốn đã yên, ngài liền đốc suất đại
chúng hành đạo, đào ao trồng sen. Trên mặt nước thả bông sen gỗ 12 cánh. Cứ
mỗi giờ là nước ngập một cánh, dùng định giờ hành đạo. Gọi là Liên lậu.
Lần lần những nhà đại trí thức mộ
đạo ở bốn phương, như Giác Hiền, Phật Đà Gia Xá, Lưu
Di Dân, Vương Kiều Chi v.v... nghe tiếng ngài nên đến xin dự chúng tu tập được
123 người, ngài bảo: “Quý vị đến chốn này phải chăng là người quyết
chí nơi Tịnh Độ ư?”. Ngài bèn tạo tượng Di
Đà, Quan Âm, Thế Chí. Lập hội Liên Xã, bảo ông Lưu Di
Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào bia đá. Người dự hội đều tinh
tấn hành đạo, ngày đêm sáu thời không trễ, lần lượt đều chứng Tam
muội, đều được vãng sanh. Lúc lâm chung đều có thoại ứng cả.
Ngài từng có lời phát huy ý
nghĩa Tam muội:
- Gọi Tam muội đó là chi? Tức
là “chuyên tư tịch tưởng” vậy.
“Chuyên tư” thời tâm trụ nơi nhứt. “Tưởng
tịch” thời khí rỗng thần sáng. Khí rỗng thời trí ngộ nơi
lý. Thần sáng thời không chỗ kín nào mà chẳng thấu.
Lại các môn Tam muội rất nhiều,
nhưng dễ được mà công lại cao, thời duy có niệm Phật Tam muội là hơn
hết. Vì cùng nơi huyễn, tột nơi tịch mà tôn hiệu “Như
Lai”. “Thể hiệp”, “Thần biến” không chi sánh bằng. Vì thế nên
người nhập Tam muội này, tâm thần vắng bặt vong sở
tri. Chính nơi cảnh sở duyên đó mà thành trí huệ. Trí
huệ sáng thời chiếu suốt nơi trong mà vạn tượng hiện bày rõ
ràng vậy. Chỗ tai mắt không đến được mà vẫn thấy vẫn nghe. Vẫn thấy vẫn
nghe mà tâm thần vẫn vắng bặt, vắng bặt mà tự nhiên trong
sáng. Do trong sáng nên khi tham cứu bổn tâm, tình trệ liền
dung lãng...
Ngài thấy ở Giang Đông Kinh tạng thiếu
nhiều, nên sai các đệ tử băng núi vượt rừng, đến Tây
Thiên thỉnh Kinh. Các Kinh luật lưu hành từ Lô Sơn gần
đến trăm thứ.
Ngài có trứ tác bộ “Pháp Tánh Luận”
phát minh chỉ thú Niết-bàn thường trụ. Bộ luận này truyền đến
Quan Trung. Pháp sư Cưu Ma La Thập được xem, liền khen rằng:
“Ông Viễn ở biên phương chưa đọc “Đại Niết Bàn Kinh”, mà lời luận lại
hiệp với lý”.
Ngài trụ Lô Sơn hơn 30 năm, mà
trọn không bước chân xuống núi lần nào. Ngày như đêm, ngài chuyên để
tâm nơi Tịnh độ, lặng lòng quán tưởng.
Đã ba phen thấy Phật và Thánh
chúng hiện thân, mà ngài trầm hậu không nói ra.
Năm Nghĩa Hy thứ 12, đêm 30 tháng Bảy,
ngài ngồi nhập định nơi Bát Nhã đài. Lúc vừa xuất định mở
mắt ra, thấy Đức A Di Đà hiện thân nơi hư không với vô
lượng Thánh chúng. Trong viên quang có vô số Hóa Phật. Quan
Thế Âm Bồ Tát hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát hầu bên hữu.
Phật và Bồ Tát đều ngự trên tòa sen báu đẹp sáng. Mười bốn tia
sáng quanh lộn lên xuống như vòi nước, vang ra tiếng diễn nói những pháp:
Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, các môn Ba-la-mật...”
Đức Phật bảo ngài rằng: “Vì bổn
nguyện lực nên nay Ta đến an ủi ông, sau bảy ngày ông sẽ sanh về
nước của Ta”.
Ngài lại thấy những hội hữu
trong Liên Xã đã tịch trước, như các ông Phật Đà Gia
Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v... đều đứng phía sau
Phật. Các ông ấy bước đến trước chắp tay chào ngài mà nói với ngài rằng:
“Đại sư sớm phát tâm về Tịnh độ, sao lại muộn đến ngày nay?”.
Hôm sau, ngài thuật lại với các đệ
tử: Pháp Tịnh, Huệ Bửu v.v... và bảo rằng: “Ta ở Lô Sơn này, trong 11
năm đầu, ba lần thấy Phật và Thánh chúng hiện thân. Nay lại thấy Phật
thọ ký. Chắc chắn ta sẽ được sanh về Tịnh Độ”.
Rồi ngài tự soạn quy chế để
cho đại chúng y theo mà cùng ở cùng tu.
Đến ngày mùng 6 tháng Tám, ngài cáo
biệt đại chúng, rồi đoan tọa mà viên tịch, thọ 83 tuổi.
Trích ở các bộ:
“Đông Lâm truyện”, “Lô Sơn tập”
NHỊ TỔ
THIỆN ĐẠO ĐẠI SƯ
Thiện Đạo Đại sư người
thời nhà Đường. Trong năm Trinh Quán, ngài thấy văn “Tịnh Độ Cửu Phẩm Đạo
Tràng” của Đạo Xước Thiền sư([2]), mừng lắm nói: “Đây mới thiệt
là con đường mau thành Phật. Tu các hạnh môn khác quanh quất khó
thành. Duy pháp môn này chóng thoát sanh tử”.
Từ đó, ngài dốc lòng tinh tấn đêm
ngày lễ tụng. Ít lâu ngài đến Trường An khuyến khích tứ
chúng niệm Phật.
Mỗi khi ngài vào thất quỳ niệm Phật,
nếu chưa thiệt đuối sức thời chưa chịu nghỉ. Lúc ra thời vì chúng mà diễn
nói Pháp môn Tịnh độ.
Cần khổ tự tu và siêng dạy người,
trải ba mươi năm tròn, ngài không ngủ nghỉ.
Ngài lại được giới hạnh tinh
nghiêm, không hề sai phạm, dầu là lỗi nhỏ.
Khi được dâng cúng thực phẩm, món
ngon tốt thời ngài bảo đem dọn cho chúng dùng, còn phần ngài chỉ dùng thứ
xấu dở mà thôi.
Bao nhiêu tài vật của đàn
tín thí cho, ngài dùng tả được hơn mười vạn bổn Kinh Di Đà, họa cảnh
Tịnh Độ được ba trăm bức. Ngoài ra thời dùng vào việc sửa sang
chùa tháp, thắp đèn nối sáng, không để dư một mảy.
Kẻ Tăng người tục đến quy đầu với ngài rất
đông, lấy số vạn mà tính. Mọi người cảm đức giáo hóa của
ngài, nên ai ai cũng đều tinh tấn tu trì cả. Người thời tụng
Kinh Di Đà từ mười vạn biến đến năm chục vạn biến. Kẻ thời mỗi ngày
đêm niệm Phật từ một vạn đến mười vạn câu. Những người hiện tiền chứng Tam
muội, lúc lâm chung được vãng sanh có thoại ứng, đông
không thể kể xiết.
Có người hỏi: “Niệm Phật chắc được vãng
sanh ư?”
Ngài đáp: “Ông gắng niệm Phật thời
sẽ được toại nguyện”.
Đáp xong, ngài tự niệm “A Di
Đà Phật”, liền có một tia sáng từ trong miệng ngài theo tiếng niệm
mà xẹt ra. Ngài niệm mười câu đến trăm câu, cứ mỗi câu là xẹt ra một tia
sáng dài nối tiếp nhau làm sáng rực cả chùa.
Sự thần dị này truyền đến triều đình,
vua Cao Tông phụng một tấm biển đề hiệu chùa là “Quang Minh tự”.
Ngài có bài kệ khuyên đời như
vầy:
Lần
lần tóc bạc da mồi
Thấm
thoát bước đi lụm cụm
Dẫu
rằng: vàng ngọc đầy nhà
Đâu
khỏi: già suy bệnh khổ
Mặc
ông sung sướng đủ điều
Cái
chết nó rồi cũng đến
Duy
có đường tắt tu hành
Chỉ
niệm “A Di Đà Phật”
Có người gạn: “Sao Hòa thượng không
dạy người quán tưởng Phật, mà chỉ bảo người trì
danh hiệu Phật thôi?”.
Ngài đáp: “Chúng sanh nghiệp chướng
nặng nề, tâm thời thô phù mà cảnh Thánh rất tế diệu. Tình thức rộn ràng
khó thành tựu quán trí được. Vì lẽ đó nên Đức Phật xót
thương khuyên người chuyên xưng danh hiệu.
Chính vì xưng danh hiệu là hạnh
dễ làm nên nơi tâm mau được tương tục. Nếu có thể niệm niệm
tương tục mãi đến trọn đời, thời mười người niệm, mười người vãng
sanh, trăm người niệm trăm người vãng sanh.
Tại sao mà được như vậy?
Vì không có tạp duyên nên được chánh
niệm. Vì tương ưng với bổn nguyện của Phật A Di Đà([3]). Vì không trái Kinh giáo.
Vì thuận theo lời Phật dạy.
Nếu bỏ hạnh chuyên niệm Phật, mà tu
nhiều hạnh nghiệp xen tạp khác, thời trăm nghìn người tu khó có được ba bốn người giải
thoát.
Tại sao vậy?
Vì tạp duyên loạn động nên
mất chánh niệm. Vì không tương ưng với bổn nguyện của Phật.
Vì trái với Kinh giáo. Vì không thuận theo lời Phật dạy. Vì
nhiếp niệm không được tương tục. Vì tâm không thường nhớ ơn Phật.
Vì dầu thực hành Phật sự mà thường tương ưng với danh
lợi. Vì thích đeo theo việc tạp làm chướng ngại chánh hạnh vãng
sanh của tự mình và của người.
Ngày gần đây, thấy những
hàng Tăng tục các nơi giải hạnh không đồng nhau: người thường chuyên
tu, kẻ thích tạp hạnh.
Nếu chuyên tâm niệm Phật thời quyết
định mười người vãng sanh cả mười. Còn tạp hạnh mà
không chí tâm, thời ngàn người tu khó được một giải thoát.
Trông mong mọi người nên suy
xét cho chín chắn, đi đứng nằm ngồi, đều nên kềm tâm nhiếp niệm khắn
chặt nơi Phật, ngày đêm chớ để hở, thệ quyết đến hơi thở cuối cùng. Nếu niệm
trước mạng chung, niệm sau liền sanh Cực Lạc. Từ đây vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ kiếp thọ hưởng pháp lạc vô vi nhẫn đến thành
Phật, như thế há lại không đặng sướng thích lắm ư!”
Ngài từng dạy phương pháp trợ chánh
niệm cho người lúc lâm chung:
Phàm người lúc lâm chung muốn
sanh về Tịnh độ, cần nhứt chẳng đặng sợ chết. Nên tự suy
nghĩ như vầy: báo thân này là gốc khổ. Nó là đãy da đựng đầy đồ
nhơ nhớp. Nó là gốc của tất cả sự khổ lụy. Nếu ta rời được đống thịt hôi thúi
này mà siêu sanh Tịnh độ, thọ thân vàng kim cương, hưởng vô lượng sự
vui thanh tịnh, giải thoát hẳn sanh tử luân hồi. Như cởi áo
rách mà đổi lấy trân phục, còn gì thích ý bằng.
Suy nghĩ như thế rồi liền phóng
hạ thân tâm, đừng có quan niệm tham luyến. Vừa mang phải bệnh,
bèn quán vô thường nhứt tâm niệm Phật chờ chết.
Lại cần phải dặn người nhà và
người đến thăm, hễ khi đến gần mình thời vì mình mà niệm Phật.
Nhứt quyết không được nói chuyện đời nọ kia, cùng việc nhà việc cửa. Cũng chẳng cần
cầu chúc an vui, vì đều là sự hư hoa vô ích cả.
Nếu bệnh ngặt sắp chết, quyến thuộc chẳng
được khóc than, không được mắt mũi sụt sùi, làm loạn động tâm thần,
hư mất chánh niệm của người bệnh. Chỉ nên nhắc nhở nhớ Phật, niệm
Phật, tưởng Phật, cùng rập nhau to tiếng niệm Phật, để giúp chánh niệm cho
người bệnh. Như vậy luôn đến lúc người bệnh dứt hơi thở. Nhưng cũng chẳng
nên vội động đến thây, phải luân phiên niệm tụng càng lâu càng tốt.
Lúc bệnh cho đến lúc chết, nếu
được có người hiểu rành Pháp môn Tịnh độ thường đến nhắc nhở chỉ
bảo thời may mắn lắm.
Dùng phương pháp trợ niệm ấy
thời quyết được vãng sanh không còn nghi ngờ gì nữa.
Việc chết là sự rất lớn, cần phải tự
mình gia công, gắng sức mới đặng. Một niệm sai lầm ắt
phải chịu khổ nhiều đời nhiều kiếp, ai thay thế cho mình được! Nên tự
xét lấy! Nên tự nghĩ lấy!
Một hôm, Ngài vội bảo mọi người rằng:
“Thân này đáng nhàøm, ta sắp sửa về Cực Lạc”.
Rồi ngài tự leo lên ngọn cây dương liễu
trước chùa, chắp tay hướng về Tây phương mà nguyện rằng:
“Xin Phật tiếp dẫn tôi, Bồ Tát giúp tôi chẳng mất chánh
niệm được sanh về Cực Lạc”.
Nguyện xong, ngài tự gieo mình xuống.
Thân nhẹ nhàng rơi và tự nhiên ngồi kiết già ngay thẳng trên mặt
đất.
Đại chúng vội chạy đến, thời ngài
đã tịch rồi.
Trích ở những bộ:
“Phật Tổ Thống Kỷ” “Lạc Ban Văn Loại”
Một truyện vãng sanh do sức trợ niệm, chứng thật lời
Tổ.
DƯƠNG LIÊN HÀNG
Trích ở bộ: “Cận Đại Vãng
Sanh Truyện”
Ông Dương Liên Hàng người Triết
Giang. Nhà nghèo, thuở trẻ làm nghề buôn bán.
Năm Dân Quốc thứ 2, ông thường tới
lui nghiên cứu Phật lý với Giác Hàng cư sĩ, dầu văn học của
ông cạn ít, những chỗ giải ngộ thời hơn người.
Tháng Chín năm Quý Hợi, các đạo hữu trong
hội Niệm Phật tại làng đồng nhau làm lễ tuyên thệ “Phát Bồ-đề
tâm”. Ông Liên Hàng liền xin dự hội và đồng tuyên thệ.
Năm Giáp Tý, cuối mùa Xuân,
nhơn bệnh, ông bèn lén phá giới bất sát, từ đó xa lần các đạo hữu.
Đêm tháng Bảy, bệnh ông thêm nặng.
Các đạo hữu đến thăm và có lời răn nhắc ông. Riêng phần ông cũng tự
biết không thể mạnh được, nên ông hết sức ăn năn. Ngày mùng 8 tháng Bảy,
ông gượng bệnh đến trước Phật chí thành phát lộ. Gieo mình sám hối,
thệ chẳng lại dám phạm giới nữa. Từ giờ đó trở đi bỏ hết các việc, dứt
trừ ái dục, chí tâm niệm Phật chờ chết.
Các đạo hữu biết ông công
phu niệm Phật kém, nên đến ngày 11, thỉnh người đến nhà trợ niệm cho
ông. Ngày Rằm, các đạo hữu tự luân phiên đến trợ niệm; cũng
từ ngày Rằm này, tinh thần của ông lần lần thanh sáng, thân thể khỏe
khoắn.
Đến ngày 17, ông bảo mọi người rằng
trong giấc mộng ông thấy quang minh như năm sáu ngọn
đèn điện. Chiều tối, thấy ông vẫn tươi tỉnh như thường, các đạo hữu cho
rằng ông chưa sao. Nên sau một thời to tiếng niệm Phật, các đạo hữu sắp
sửa về nhà nghỉ. Nào ngờ lúc ấy trợ niệm đã đắc lực. Ông
nghe yên lặng, bèn kêu nói: “Tôi còn chưa được đến Tây phương, cần phải nhờ
chư đạo hữu trợ niệm suốt đêm nay”.
Mọi người nghe ông nói có ý lạ, nên
cùng nhau to tiếng niệm Phật. Được nửa giờ, ông bỗng cười và nói rằng:
“Tôi đã đến Cực Lạc. Ôi! Hoa sen đẹp quá! Ôi! Ao báu rộng lớn
quá! Quang minh sáng đẹp quá!”. Rồi ông lại căn dặn mọi người gắng trợ
niệm cho ông. Từ giờ này trở đi, ông nằm yên không cựa động, hai mắt chăm
nhìn tượng Phật cúng trên bàn trước giường nằm. Đến sáng sớm ngày 18,
hai mắt ông mới nhắm lần, hơi thở cũng mãn. Các đạo hữu chỉ
có 4 người, mà trọn đêm trợ niệm không dứt tiếng, niệm đến sau khi
ông hết thở một giờ rưỡi, mới gọi người khác niệm thay và không cho thân
quyến than khóc. Đến mười giờ trưa, mọi người cùng khám thây
ông, tất cả chỗ đều lạnh. Chỉ trên đỉnh đầu còn ấm nóng.
Ông Dương Liên Hàng được vãng
sanh, toàn nhờ sức trợ niệm của các đạo hữu. Năm đó ông được 30
tuổi.
LỜI PHỤ.- Ông Liên Hàng công
phu niệm Phật kém mà lại phá giới “bất sát”, nhờ các đạo
hữu tận lực trợ niệm nên được chánh niệm hiện tiền mà vãng
sanh. Ông vãng sanh có hai điều chứng nghiệm: 1.- Mãi đến dứt thở
mà chánh niệm vẫn vững. 2.- Cả thân đều lạnh, chỉ đỉnh đầu còn nóng.
Phàm người sau khi chết mà đỉnh đầu nóng sau cùng đó là triệu chứng được siêu
phàm nhập Thánh. Người vãng sanh Cực Lạc liền dự hàng
Thánh, trụ bậc “bất thoái chuyển”, thoát hẳn vòng sanh tử luân hồi,
nên đỉnh đầu nóng sau cùng.
Tại sao sự trợ niệm có đại
lực như thế?
Vì mọi người, ngoài xác thân tứ
đại, ai cũng có một thức thần, tức là tánh hiểu biết. Tánh hiểu
biết ấy là công dụng của tự tâm thể (đệ bát thức). Tâm
thể này gồm đủ cả năng lực của mọi công dụng, và nó tùy
theo duyên nhiễm tịnh, thiện ác mà hiện ra thân
và cảnh của tất cả Thánh phàm. Lúc sắp chết, là lúc công dụng hiện
ra, thân hiện tại đây sắp mãn, và cũng là lúc một năng lực khác
sẽ theo trợ duyên để trở nên công dụng kết thành một thân
tương lai.
Nhờ sức trợ niệm mạnh,
nên mặc dầu người sắp chết, sanh bình Thánh nghiệp chưa thành,
mà năng lực siêu phàm sẵn có, nơi tự tâm liền theo
duyên chánh niệm mà thành công dụng kết nên thân cảnh thanh
tịnh: chánh báo và y báo ở Cực Lạc.
Kết quả tốt đẹp này do hai điều:
A.- Trợ duyên. B.- Chánh nhơn.
|
Trợ duyên |
1. Dứt bặt tất cả sự bận lòng
như việc gia đình sự nghiệp, quyến thuộc khóc than v.v... 2. Người trợ niệm phải chí
thành tận tâm đúng pháp. |
|
Chánh nhơn |
1. Người sắp chết phải quên tất cả việc
đời. 2. Phải nhứt tâm tha
thiết nhớ Phật, niệm Phật, như trẻ thơ rớt hố sâu, mong mẹ đến cứu. |
Phần trợ duyên thứ nhứt để giúp
nên chánh nhơn thứ nhứt, vì có dứt tất cả sự bận lòng thời nơi người sắp chết mới
có thể quên tất cả sự đời được.
Phần trợ duyên thứ hai để giúp
nên chánh nhơn thứ hai, vì người trợ niệm có tận thành đúng pháp, thời
nơi người sắp chết mới có thể phát khởi chánh niệm được.
Người sắp chết, nếu được đầy đủ trợ
duyên và chánh nhơn, đây thời quyết định vãng sanh, không luận
là người tu lâu hay kẻ mới quy tín, cũng không luận người lành hay kẻ dữ. Ở tập
sau của bộ này, ta sẽ được thấy nhiều chứng nghiệm nơi lược sử của tứ
chúng vãng sanh.
TAM TỔ
THỪA VIỄN ĐẠI SƯ
Trích ở bộ:
“Liễu Tử Hậu Văn Tập”
Đại sư ban đầu học đạo với
Đường Thiền sư tại Thành Đô, kế theo học với Tân Thiền sư ở Tứ
Xuyên, sau đến Kinh Châu tham học với Chơn Thiền sư ở
Ngọc Tuyền.
Sau khi đã đại ngộ, đạo lực đã
thành, Chơn Thiền sư bảo ngài đến Hoành Sơn ở, để hóa
độ người.
Lúc đầu, ngài đến ở dưới gộp đá phía Tây
Nam của non Hoành. Có ai thí cho cơm cháo thời ăn, hôm nào không thí chủ thời
ngài ăn bùn, không hề đi quyên xin, đến nỗi mình gầy mặt nám, trên thân chỉ một
cái y rách.
Về phần truyền giáo, thời ngài đứng
nơi trung đạo mà dạy người pháp môn chuyên niệm Phật để
mau được thành công.
Ngài viết lời Phật dạy ra nơi
bên đường, bên khe. Khắc giáo pháp lên trên đá, trên vách. Tận tụy
khuyên bảo người không nệ mệt nhọc.
Không bao lâu người tin hướng theo ngài,
lấy số vạn mà kể. Rồi kẻ mang tiền mang gạo, kẻ đốn cây đắn gỗ, mọi người đồng
tâm xây chùa dựng điện. Ngài vẫn thản nhiên, không khước từ, cũng không bảo
làm. Chẳng mấy lúc mà cụm rừng hoang đổi thành cảnh “Di Đà Tự” đồ sộ.
Phần riêng ngài, vẫn y rách cơm thô. Có
ai cúng thí dư ra thời bảo đem cứu giúp kẻ nghèo đói tật nguyền.
Năm Trinh Ngươn thứ 18, nhà Đường, ngày
mười chín tháng Bảy, ngài thị tịch nơi chùa Di Đà, thọ 91 tuổi.
Trước đây có ông Thích Pháp Chiếu ở Lô
Sơn, một hôm nhập định, thần du Cực Lạc. Thấy có ông Tăng đắp
y rách đứng hầu bên Đức Phật. Đức Phật chỉ ông Tăng ấy mà bảo
ông Pháp Chiếu rằng: “Đây là ông Thừa Viễn ở Hoành
Sơn đấy!”.
Sau khi xuất định, ông Pháp
Chiếu đến Hoành Sơn tìm, khi gặp ngài thời rõ ràng là
ông Tăng y rách đã thấy trong định, ông bèn xin theo hầu.
Sau khi ngài tịch, ông Pháp Chiếu đi truyền
giáo các nơi, triều vua Đại Tông nhà Đường phong vị Quốc
sư. Pháp Chiếu thuật đạo hạnh của thầy mình với vua. Nhà
vua liền xoay về phía Hoành Sơn mà đảnh lễ. Rồi nhà vua truyền
chỉ đặt hiệu chỗ ở ngài là “Bác Chu Đạo Tràng”, và truyền ông Liễu Tôn Ngươn soạn
bài văn ký sự khắc vào bia đá dựng bên chùa Di Đà.
TỨ TỔ
PHÁP CHIẾU ĐẠI SƯ
Trích ở những bộ:
“Tống Cao Tăng Truyện”,
“Lạc Ban Văn Loại”
Pháp Chiếu Đại sư ban đầu ngài
ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu chuyên cần tu tập.
Năm Đại Lịch thứ tư nhà Đường, ngài mở đạo
tràng niệm Phật tại chùa Hồ Đông. Ngày khai hội, cảm đến mây
lành giăng che, trong mây hiện cung điện, Đức A Di Đà Phật và Quan
Thế Âm, Đại Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả hư không.
Khắp thành Hoành Châu, nam nữ già trẻ đều đặt bàn thắp
hương đảnh lễ.
Do Phật và Bồ Tát hiện
thân như thế, nên mọi người đều phát tâm tinh tấn hành
đạo. Đạo tràng này, ngài khai được năm hội.
Năm Đại Lịch thứ năm, ngài được gặp Văn
Thù và Phổ Hiền hai vị đại Bồ Tát tại chùa “Đại
Thánh Trúc Lâm tự” ở Ngũ Đài Sơn. Hai vị Bồ Tát khuyên
ngài gắng chuyên chí nơi Pháp môn niệm Phật để giáo hóa mọi
người, đồng thọ ký cho ngài sẽ được vãng sanh Cực Lạc và
mau chứng quả Vô thượng Bồ-đề([4]).
Triều vua Đức Tông, ngài mở đạo
tràng niệm Phật ở Tinh Châu cũng được năm hội.
Mỗi đêm khuya, vua và người trong cung
thường nghe vẳng tiếng niệm Phật rất thanh. Nhà vua bèn sai người
theo tiếng mà tìm và sau khi biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo
tràng tại Tinh Châu. Nhà vua bèn phái sứ giả mang lễ thỉnh ngài
vào triều.
Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng
cung cũng được năm hội. Vì thế nên người đời gọi là “Ngũ Hội Pháp sư”.
Một hôm, đang lúc định tâm niệm
Phật, bỗng có một vị Thánh Tăng hiện đến bảo ngài rằng: “Tòa sen
báu của Pháp sư đã hoàn thành. Ba năm sau thời hoa nở”. Dứt
lời, Thánh Tăng liền ẩn.
Đúng ba năm sau, ngài hội đại
chúng lại mà dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phải gắng
tinh tu”.
Dặn bảo xong, ngài ngồi ngay mà tịch.
NGŨ TỔ
THIẾU KHƯƠNG ĐẠI SƯ
Trích ở những bộ:
“Tống Cao Tăng Truyện”
“Lạc Ban Văn Loại”
Thiếu Khương Đại sư, họ Châu, người
Tiên Đô. Lúc bé, câm từ khi sanh. Năm bảy tuổi, ngài theo mẹ vào chùa Linh
Sơn lễ Phật. Mẹ chỉ Phật mà hỏi đùa: “Con biết ai đó không?”.
Ngài bỗng đáp rằng: “Thích Ca Mâu
Ni Phật”.
Biết là có duyên lành với Phật
pháp, cha mẹ ngài bèn cho ngài xuất gia.
Năm 15 tuổi, ngài thông suốt được
năm bộ Kinh.
Nhà Đường, năm Trinh Nguyên thứ nhứt,
ngài viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ cất Kinh sách
trong điện có ánh sáng xẹt ra, ngài tìm xem, thời ánh sáng ấy phát ra từ tập
văn “Tây phương hóa đạo” của Nhị Tổ Thiện Đạo Đại sư. Ngài vái rằng:
“Nếu tôi có duyên với Tịnh độ, nguyện tập văn này lại phóng
quang minh”. Ngài vừa nguyện dứt lời, tập văn ấy liền chiếu sáng; trong
ánh sáng dạn dạn có Hóa Bồ Tát. Ngài nói: “Kiếp thạch có thể mòn, chớ chí
nguyện tôi quyết không dời đổi”.
Rồi ngài đến Trường An lễ di
tượng của Nhị Tổ Thiện Đạo Đại sư. Khi đương lễ, tượng của Tổ bỗng
bay lên hư không lại có tiếng bảo ngài rằng: “Ông y theo lời
dạy của ta mà phổ độ chúng sanh, ngày sau công đức thành tựu sẽ
sanh về Cực Lạc”.
Ngài đến Giang Lăng, gặp một sư
cụ bảo: “Ông muốn truyền đạo thời nên đến Tân Định, cơ
duyên ở đó”. Dứt lời, sư cụ bỗng biến mất.
Ngài đến Tân Định thấy người xứ ấy chưa
ai biết niệm Phật là gì. Ngài quyên tiền rồi dụ các trẻ nhỏ niệm
Phật. Lúc đầu các trẻ niệm một câu Phật thời ngài thưởng một
tiền. Sau lần lần mười câu thưởng một tiền. Ít lâu không cần thưởng tiền chúng
nó cũng niệm. Trước thời có mặt ngài chúng mới niệm. Sau rồi chỗ nào và
lúc nào chúng nó cũng vẫn niệm. Chúng niệm Phật nơi đường,
chúng niệm Phật trong nhà. Hơn một năm sau, cả xứ Tân Định, mọi
người đều biết niệm Phật, và phàm nam nữ già trẻ hễ thấy
ngài liền niệm “A Di Đà Phật”. Người người tay lần chuỗi miệng lẩm nhẩm,
tiếng niệm Phật vang khắp các nơi.
Ngài bèn lập Tịnh độ đạo tràng
ở Ô Long Sơn, xây đàn tam cấp. Cứ đến ngày trai, các thiện
tín nam nữ đều họp nơi đó để cùng nhau niệm Phật và nghe
pháp. Thường số người họp trên ba nghìn. Ngài ngồi trên tòa cao, to
tiếng xướng hiệu Phật rồi đại chúng đồng hòa theo. Ngài xướng một
câu, thời đại chúng thấy một Đức Phật nhỏ từ trong miệng
ngài mà ra, mười câu là mười Phật, nối liền nhau như xâu chuỗi. Ngài bảo đại
chúng: “Quý vị đã được thấy Phật, chắc sẽ được vãng sanh”. Mọi người đều
mừng lắm.
Năm Trinh Nguyên thứ 21, tháng Mười,
ngài họp hết kẻ Tăng người tục lại rồi dặn rằng: “Với thế giới ác
trược này, mọi người nên nhàm chán; với Cực Lạc Tịnh Độ kia,
nên hết lòng tăng tấn. Giờ này ai thấy được quang
minh của ta, thời thiệt là đệ tử của ta”.
Nói xong, ngài xòe tay phóng ra
vài tia sáng dẹp dài, rồi ngồi yên mà tịch.
Đại chúng xây tháp ngài ở Đài Nham,
hiệu là Đài Nham Pháp sư.
LỤC TỔ
DIÊN THỌ ĐẠI SƯ
Trích ở những bộ:
“Lạc Ban Văn Loại”
“Vạn Thiện Đồng Quy Tập”
Diên Thọ Đại sư, người Tiền Đường,
họ Vương, tự Xung Huyền. Thuở thiếu niên thường trì tụng
Kinh Pháp Hoa, cảm bầy dê quỳ mọp nghe Kinh.
Lớn lên, ngài làm quan coi về việc thuế
vụ cho Văn Mục Vương. Nhiều lần ngài lấy tiền công đến Tây Hồ mua cá trạnh phóng
sanh. Việc lấy tiền công bị phát giác. Hình quan thẩm định tội của
ngài đáng xử tử.
Lúc dẫn ngài đem đi chém, Văn Mục
Vương bí mật sai người theo rình xem gương mặt, nếu có vẻ lo sợ buồn
thảm thời cứ chém, còn nếu ngài vẫn vui vẻ thản nhiên thời phải
đem ngài về trình lại. Thấy từ lúc dẫn đi cho đến lúc sắp sửa chém,
nét mặt của ngài vẫn không có lộ vẻ sợ buồn mà lại có vẻ hân hoan là
khác. Sứ giả liền truyền lịnh của Văn Mục Vương cho quan giám trảm rồi
đem ngài về ra mắt Vương.
Vương hỏi: “Ông không sợ chết chém
ư?”
Ngài đáp: “Tôi tư dụng của công khố một
số tiền lớn, tội đáng chết, nhưng toàn bộ số tiền đó tôi dùng
mua chuộc muôn ức sanh mạng. Tôi tin rằng do công đức phóng
sanh ấy, dầu thân này có chết, tôi sẽ được vãng sanh Cực Lạc Tịnh
Độ. Vì thế nên tôi không lo sợ”.
Văn Mục Vương cảm động bèn ra
lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia, Vương bằng lòng.
Ngài đến Tứ Minh thọ
pháp với Túy Nham Thiền sư. Sau ngài tham học với Thiều Quốc
sư ở Thiên Thai phát minh tâm yếu, được Thiều Quốc
sư ấn khả.
Ngài từng tu “Pháp Hoa sám” ở chùa Quốc
Thanh. Trong lúc thiền quán, thấy đức Quan Thế Âm Bồ Tát rưới
nước cam lộ vào miệng, từ đó ngài đặng biện tài vô ngại.
Ngài dầu tu “Thiền”, song lòng rất mộ “Tịnh”.
Vì muốn có chỗ chuyên chú, ngài bèn đến thiền viện của Trí
Giả Đại sư làm hai lá thăm, một lá đề “Nhứt tâm thiền định”, một lá đề
“Trang nghiêm Tịnh độ”. Rồi ngài chí thành hướng Tam Bảo mà
rút thăm. Luôn bảy lần đều rút nhằm lá “Trang nghiêm Tịnh độ”. Từ đây
ngài nhứt tâm tu tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai, nhà Tống, Trung Ý
Vương thỉnh ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh([5]), tôn hiệu là Trí
Giác Thiền sư. Ngài ở Vĩnh Minh 15 năm, độ được 1.700 vị Tăng.
Mỗi ngày đêm, Đại sư công
khóa 108 việc. Đại sư thường truyền Bồ Tát giới, mua thả
sanh mạng, thí thực quỷ thần, tất cả công đức đều hồi
hướng Tịnh Độ. Ban đêm ngài qua gộp núi khác niệm Phật, lấy số mười vạn
câu làm chừng. Những người ở gần chỗ ngài niệm Phật, có lúc nghe tiếng loa
bối thiên nhạc du dương. Về phần Kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài
tụng được một muôn ba nghìn bộ. Ngài có trứ tác
bộ “Tông Cảnh Lục” 100 quyển, hội chỉ thú đồng dị của ba tông: Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Ngài có viết tập “Vạn Thiện Đồng Quy”,
trong tập này, về đoạn chỉ quy Tịnh độ, lời lẽ thiết yếu, đại lược như
dưới.
Hỏi: Duy tâm Tịnh độ cùng khắp mười
phương, sao lại móng tâm thủ xả, mà cầu thác sanh liên đài,
gửi thân Cực Lạc. Như thế đâu hiệp môn vô sanh, và đã có tâm nhàm uế
thích tịnh thời đâu thành bình đẳng?
Đáp: Sanh về duy tâm Tịnh độ là
phần của bậc liễu đạt tự tâm. Kinh “Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh
Giới” nói: “Tất cả tam thế chư Phật đều duy tâm lượng, đặng tùy
thuận nhẫn, hoặc nhập sơ địa, xả thân tùy thuận nhẫn,
hoặc nhập sơ địa, xả thân mau sanh Cực Lạc quốc độ”.
Do đây mà biết rằng người đạt tự tâm mới sanh duy tâm Tịnh độ, còn
hàng chấp cảnh chỉ cuộc trong cảnh sở duyên. Đã có nhơn quả không sai, mới
rõ ngoài tâm không thật pháp.
Lại môn bình đẳng cũng chỉ
thú vô sanh, dầu tin theo lời Phật, nhưng ngặt vì lực
lượng chưa đủ, quán trí cạn, tâm tưởng thô, trần cảnh mạnh, tập
khí nặng, cần phải sanh Tịnh độ, để được nương nơi
duyên thù thắng, nhẫn lực mới dễ thành, mau viên mãn Bồ
Tát đạo.
Thập Nghi Luận nói: Người trí dầu mạnh
mẽ cầu sanh Tịnh độ, nhưng đạt được lý sanh thể bất khả
đắc, tức là chơn vô sanh. Đây là nghĩa “vì tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Người ngu bị “sanh” nó trói buộc: nghe “sanh” liền cho là “sanh”, nghe “vô
sanh” liền cho là “vô sanh” mà chẳng hiểu lý: “Sanh là vô sanh, vô
sanh là sanh” nên rồi thị phi với nhau. Đây là kẻ tà kiến báng
pháp.
Hỏi: Ngoài tâm không pháp, Phật
không khứ lai, sao lại có việc thấy Phật và Phật đến rước?
Đáp: Duy tâm niệm Phật,
dùng duy tâm quán khắp cả vạn pháp. Đã rõ cảnh là tâm, biết tâm
là Phật, cho nên niệm đâu cũng là Phật cả.
Kinh Bát Chu Tam Muội nói:
“Như người nằm mộng thấy thất bảo, và quyến thuộc vui
vầy. Thức dậy nhớ nghĩ lại, chẳng biết cảnh sang
giàu vừa thấy đó ở đâu. Niệm Phật cũng như vậy”.
Đây là dụ cho “cảnh” do “tâm” làm ra,
chính có mà là không, cho nên không Phật, cũng không lai, khứ. Lại “như huyễn không
thật, thời tâm và Phật đều bặt”. Mà “chẳng phải là không huyễn tướng, thời
tâm và Phật rõ ràng”. “Không” và “có” đã vô ngại, nên chính không khứ lai
nhưng chẳng ngại gì thấy Phật đến. Đương thấy chính là không thấy, thường hiệp
với trung đạo. Vì thế nên Phật thiệt không đến, tâm cũng chẳng đi,
nhưng cảm ứng đạo giao duy tâm tự thấy. Như người gây tội nặng, cảm
tưởng địa ngục. Duy Thức Luận nói:
“Tất cả như người địa ngục đồng
thấy ngục tốt v.v... làm những sự khổ hại cho mình”. Vì lẽ đó, nên đều
là do tâm ác nghiệp của kẻ gây tội hiện ra, trọn không có chó đồng
rắn sắt thiệt ở ngoài tâm. Tất cả sự, tất cả pháp trong đời cũng đều
như thế cả.
Hỏi: Quán Kinh dạy 16 pháp
quán, đều là nhiếp tâm tu định, quán tướng hảo của Phật cho
đặng thấy rõ ràng đều đủ mới bước đến cõi tịnh. Người tán
tâm làm sao vãng sanh được?
Đáp: Cực Lạc chín phẩm có cao
và thấp, nhiếp cả các hạng thượng, trung và hạ, nhưng không ngoài hai tâm này:
A.- “Định tâm”, tu tập định
quán thời Thượng phẩm vãng sanh.
B.- “Chuyên tâm”, chỉ chuyên
niệm danh hiệu cùng thực hành các điều thiện, rồi hồi
hướng phát nguyện thời đặng thành phẩm dưới. Nhưng cần phải trọn
đời chuyên cần. Lúc ngồi nằm đều phải xoay mặt về hướng
Tây. Trong những lúc hành đạo, lễ kính, hồi hướng, phát
nguyện, phải thiết tha cầu khẩn, lòng không xao lãng. Như
đương bị ngục tù, như đương bị giặc bắt, như đương bị trôi, bị cháy, nhứt
tâm cầu Phật cứu, nguyện thoát khỏi biển khổ sanh tử sanh
về Tịnh độ, mau chứng vô sanh độ khắp mọi loài, để nối thạnh
ngôi Tam Bảo, đền đáp bốn ơn. Nếu ai chí thành được như vậy thời
quyết đặng kết quả.
Như hoặc ngôn hạnh không xứng
đáng, tín nguyện yếu kém, tâm không chuyên nhứt, không nối
luôn mà thường có ý xao lãng. Giải đãi như vậy, đến
lúc lâm chung cầu sanh, e rằng nghiệp chướng trở ngăn khó gặp thiện
hữu. Thân bị bức rứt đau khổ khó giữ vững chánh niệm. Vì hiện
tại đây là “nhơn”, lúc lâm chung là “quả”. Nếu lo “nhơn cho
chắc thiệt” thời “quả quyết không hư luống”. Như tiếng hòa
nhã thời vang dịu dàng. Như hình ngay thời bóng thẳng.
Như muốn đến lúc lâm chung thập
niệm thành tựu, thời hiện tại phải lo sắm sửa trước chuyên
tâm niệm Phật, chứa nhóm công đức, hồi hướng cầu vãng
sanh, niệm niệm không quên Phật, không rời Cực Lạc. Như thế
mới chắc chắn mà khỏi lo ngại.
Vả, hai đường “thiện” và “ác”, hai báo
“khổ” và “vui” đều là do ba nghiệp (thân, khẩu, ý) gây nên.
Nếu tâm sân hận, tà dâm: đó là
nghiệp Địa ngục.
Bỏn sẻn tham lam không xả
thí: đó là nghiệp Ngạ quỷ.
Đần độn ngu si: là nghiệp Súc
sanh.
Ngã mạn cống cao: là nghiệp Tu la.
Kiên trì ngũ giới: là nghiệp Người.
Ròng tu thập thiện: là nghiệp Trời.
Chứng ngộ nhơn không: là nghiệp Thanh
Văn.
Thấu rõ duyên sanh vô tánh:
là nghiệp Duyên Giác.
Tu trọn lục độ: là nghiệp Bồ
Tát.
Chơn từ bình đẳng: là nghiệp Phật.
Nếu tâm niệm thanh tịnh thời
đài vàng hoa báu, hóa sanh nơi Tịnh độ. Còn tâm niệm nhơ
đục thời gò nổng hầm hố, thọ thai nơi cõi uế. Đây đều là “quả đẳng luân”, cảm lấy
“duyên tăng thượng”. Cho nên nhơn cùng quả, rời ngoài tâm nguyên, không có
tự thể riêng khác. Muốn đặng quả báo thanh tịnh thời phải thực
hành nhơn hạnh thanh tịnh. Như nước thời tánh chảy xuống, lửa thời
tánh bốc lên, thế tất nhiên như vậy, có gì mà nghi ngờ.
Lại vì người học đạo thời bấy
giờ, phân vân nơi “Thiền” và “Tịnh”, chưa biết nên tu theo môn nào là hơn
và chắc chắn, nên ngài có bốn bài kệ để so sánh sự lợi
sự hại của hai môn:
I. Có Thiền mà không Tịnh độ
Mười tu, chín kẻ dần dà
Ấm cảnh nếu hiện tiền
Thoạt theo nó mà đi.
II. Không Thiền mà có Tịnh độ
Mười người tu, mười vãng sanh
Đặng gần Phật Di Đà
Lo gì không khai ngộ.
III. Có Thiền lại có Tịnh độ
Như cọp mạnh lại thêm sừng
Hiện đời làm thầy người
Đời sau làm Phật, Tổ.
IV. Không Thiền cũng không Tịnh
độ
Giường sắt cột đồng đang chờ
Muôn kiếp cùng nghìn đời
Không chỗ nương tựa được.([6])
Nhà Tống, năm Khai Bửu thứ tám, ngày 26
tháng Hai, sáng sớm dậy, ngài thắp hương lễ Phật. Lễ xong, ngài
nhóm đại chúng lại dặn dò răn dạy, rồi ngồi kiết già trên
pháp tọa mà thị tịch, thọ 72 tuổi.
Ít lúc sau có ông Tăng từ Lâm Xuyên đến
chùa, trọn năm lễ tháp của Đại sư. Người gạn hỏi. Ông Tăng ấy đáp: “Năm
trước tôi có bệnh, thần thức vào u minh, thấy phía bên điện có
thờ tượng một vị Hòa thượng. Minh Vương cung kính lễ lạy.
Tôi hỏi nguyên do, mới biết đó là tượng của Diên Thọ Thiền
sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu, ngài đã vãng sanh Tây
phương Cực Lạc thế giới bậc Thượng thượng phẩm. Minh
Vương trọng đức, nên thờ kính ngài”.
THẤT TỔ
TỈNH THƯỜNG ĐẠI SƯ
Trích ở bộ: “Phật Tổ Thống Kỷ”
Tỉnh Thường Đại sư, người Tiền
Đường, họ Nhan, tự Thứu Vi, xuất gia hồi thuở mới lên bảy.
Trong khoảng niên hiệu Thuần
Hóa nhà Tống, ngài trụ chùa Nam Chiêu Khánh. Vì mộ Tịnh độ đạo tràng
ở Lô Sơn, ngài lập Liên Xã, khắc tượng A Di Đà Phật. Ngài tự
chích lấy máu chép phẩm “Tịnh Hạnh” trong Kinh Hoa Nghiêm. Nhơn đó bèn đổi
tên Liên Xã làm Tịnh Hạnh Xã. Hàng sĩ phu trí thức thời
bấy giờ dự hội được 120 người. Tướng quốc Vương Văn Đán làm hội thủ. Mọi
người đều tự xưng là Tịnh Hạnh đệ tử. Về phần Tỳ
kheo Tăng, Đại sư độ được trên nghìn người.
Năm Thiên Hy thứ 4, ngày mười hai tháng
Giêng, Đại sư đoan tọa niệm Phật, giây lát bỗng nói to rằng: “Phật
đã đến!”. Rồi yên lặng mà tịch, thọ 62 tuổi.
Giờ ngài tịch, cả đại chúng đều
thấy mặt đất biến thành sắc huỳnh kim, rất lâu mới trở lại màu
cũ.
LỜI PHỤ.- Kinh dạy: “Tất cả do tâm tạo”.
“Tâm tịnh thì Phật độ tịnh”. Luận nói “Vạn pháp duy thức biến”.
Vĩnh Minh Đại sư bảo: “Nếu tâm niệm thanh tịnh thời
đài vàng hoa báo hiện”. Tâm niệm của Tịnh Hạnh Đại
sư đã thuần tịnh, đây là “Tịnh nhơn”. Tất hiện thành Phật độ thanh
tịnh, đây là “Tịnh quả”. Vì “Tịnh quả” quá mãnh liệt nên đất uế này bị ảnh
hưởng mà tạm biến ra sắc huỳnh kim, cả đại chúng cũng được nhờ
lây nên tự thấy đất vàng hiện.
Quả vị của Đại sư tất ở bậc Thượng
thượng phẩm!
BÁT TỔ
CHÂU HOẰNG ĐẠI SƯ
Trích ở bộ: “Vân Thê Pháp Vị”
Châu Hoằng Đại sư, người Hàng Châu,
họ Trầm, tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì([7]). Năm 17 tuổi đã được bổ
làm Giáo thọ, có tiếng là người học hạnh gồm đủ. Bên nhà ngụ có
mụ già, mỗi tối niệm Phật vài nghìn câu làm thường khóa. Đại
sư hỏi. Mụ đáp: “Chồng tôi lúc sanh tiền chuyên trì niệm Phật.
Đến ngày lâm chung không bệnh, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi
người mà đi. Do đó, nên tôi biết công đức niệm Phật không
thể nghĩ bàn”.
Từ khi nghe lời mụ già láng giềng
nói, Đại sư để tâm nơi pháp môn Tịnh độ. Ngài viết bốn
chữ lớn “Sanh tử sự đại” treo trước bàn để tự răn nhắc.
Năm 32 tuổi xuất gia, ngài đến học
với Biện Dung Thiền sư, Tiếu Nham Thiền sư, tham cứu câu “Niệm
Phật đó là ai?” được tỉnh ngộ.
Năm Long Khánh thứ năm, nhà Minh, Đại
sư khất thực ở Vân Thê, thấy cảnh núi u nhã bèn cất am ở, trong núi
có nhiều cọp dữ. Đại sư hành Du Già Diệm Khẩu, cọp không
khuấy hại người.
Năm đó trời nắng hạn. Người xứ ấy cầu
Đại sư đảo võ. Ngài nói: “Tôi chỉ biết niệm Phật, không tài nghề gì
khác”. Mọi người cố thỉnh, Đại sư cảm lòng
thành khẩn của dân chúng, bèn tay cầm mõ, đi bộ theo bờ ruộng mà niệm
Phật. Mưa to liền xối xuống. Dân chúng vui mừng kính đức, cùng
nhau hiệp sức cất chùa xây điện. Tăng chúng quy tụ, không mấy
lúc mà thành cảnh tòng lâm lớn.
Đại sư chủ trương Tịnh độ Cực
Lạc bác bỏ cuồng thiền. Ngài trứ tác bộ “Phật Thuyết A Di Đà
Kinh Sớ Sao”, dung hội cả sự lẫn lý, lợi khắp ba căn rất là uyên áo.
Đại sư một mặt chuyên
tu Tịnh độ và giáo hóa người, một mặt thường thực
hành các điều thiện để tư trợ tịnh nghiệp: thẩm định nghi
“Thủy Lục” và văn “Du Già Diệm Khẩu” để cứu khổ u minh, khai
ao phóng sanh, và làm văn giới sát. Năm Vạn Lịch thứ 40, cuối tháng
Sáu, Đại sư đi vào thành từ biệt các đệ tử và những
người cố cựu rằng: “Tôi sắp đi nơi khác”. Rồi ngài trở về đãi trà từ
biệt đại chúng. Mọi người không hiểu là cớ gì.
Chiều mùng một tháng Bảy, Đại
sư vào nhà Tăng nói: “Ngày mai tôi đi”.
Qua chiều hôm sau, Đại sư kêu
mệt rồi vào tư thất đoan tọa nhắm mắt. Tăng chúng và
các đệ tử, các người cố cựu trong thành đều hội đến. Đại sư mở mắt ra
nhìn mà bảo rằng: “Đại chúng phải niệm Phật cho chín chắn, chớ nghi
ngờ cũng đừng phá hoại quy củ của tôi”. Dặn xong, Đại
sư chắp tay hướng về Tây phương, xướng hồng danh của
Phật mà tịch, thọ 81 tuổi.
PHỤ VẤN ĐÁP
Trích: “Vân Thê Pháp Vị”
Ông Tào Lỗ Xuyên hai phen gửi thơ đến
Vân Thê gạn hỏi, Đại sư hai phen phúc đáp. Nay trích vài đoạn đối
đáp có liên quan với tông chỉ Tịnh độ:
Lỗ Xuyên.- Kinh Hoa Nghiêm thuộc Vô
thượng Nhứt thừa Viên giáo, ngài cho Kinh Di Đà cùng đồng
hàng, in tuồng như không được đúng. Và do đây nên có người làm luận,
gác Tịnh độ trên Hoa Nghiêm. Xin ngài, với cơ Tịnh độ dạy Tịnh
độ còn với cơ Hoa Nghiêm dạy Hoa Nghiêm. Như thế Phật
pháp mới được lưu thông, truyền đủ ngũ giáo nhiếp cả ba
căn.
Đại sư.- Hoa Nghiêm đủ vô
lượng môn, cầu sanh Tịnh Độ là một môn trong vô lượng môn, trong
bộ sớ sao, tôi cho rằng “Hoa Nghiêm cực Viên, Kinh Di Đà đặng ít phần
Viên”, chính là tôi nói Kinh Di Đà là quyến thuộc của Hoa
Nghiêm thôi, Hoa Nghiêm như vua, ai dám đem Thượng thơ Bộ trưởng
gác trên Quốc vương? Người nào làm luận ấy? Ông bảo tôi nên tùy cơ, ý đó rất
hay, nhưng có hai nghĩa:
A.- Nghìn cơ đều chiều dạy, đó là việc của Đức
Như Lai xuất thế, sức tôi chưa làm được. Vì thế nên Tổ Tào
Khê chỉ chuyên truyền môn Trực chỉ thiền, chẳng lẽ Tổ không thông
giáo pháp khác. Nhẫn đến Vân Môn, Tào Động v.v... các Tổ đều
lập môn đình riêng, chỗ dạy người đều riêng biệt. Chư Tổ còn như thế,
huống tôi là hạng phàm ư! Nếu vọng bắt chước Phật, e rằng muốn lợi cho người
mà trở thành hại người, chỉ có Phật mới là đấng Pháp Vương, với
tất cả pháp được tự tại. Bình dân muốn mạo hiệu Quốc
vương tất khó khỏi tai vạ.
B.- Giảng Hoa Nghiêm tất gồm Tịnh
độ. Giảng Tịnh độ cũng thông Hoa Nghiêm. Vì thế nên người giảng Hoa
Nghiêm thời cứ tự giảng Hoa Nghiêm, còn người giảng Tịnh độ thời
cũng cứ giảng Tịnh độ, vẫn không có gì trái ngại nhau cả. Vả lại Kinh
Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ Tát chép ra mà ngài vãng sanh Tịnh
độ. Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị Đại
Thánh trong pháp hội Hoa Nghiêm, mà hai ngài đều có lời
nguyện về Cực Lạc và cũng khuyên cả pháp chúng đồng
nguyện. Ông tôn sùng Hoa Nghiêm mà chê Tịnh độ, há lại
không trái với hạnh nguyện của ba vị Hoa Nghiêm đại Bồ
Tát ấy ư! Thiệt tôi không thể hiểu được...
Lỗ Xuyên.- Tề Kỷ Thiền
sư bảo: “Người cầu về Tây phương là bỏ cha trốn chạy, dụng Đông
chạm Tây, lưu lạc xứ người, khổ thay A Di Đà Phật!”. Lời ấy
há không ý nghĩa?
Đại sư.- Ông nên đáp lại với Thiền
sư như vầy: “Chính nay bèn là như con nhớ mẹ trở về gia hương, bỏ
Đông đặng Tây, vui thay A Di Đà Phật!”.
Lỗ Xuyên.- Người đại ngộ nói:
“Nhiều kiếp tu hành khổ sở chẳng bằng trong một niệm chứng Vô
sanh Pháp nhẫn. Một niệm duyên khởi vô sanh vượt hơn bậc quyền học
trong Tam thừa”. Huống là không luận Tam thừa hay Nhứt thừa đều vô
ngã, vô ngã sở. Nay người sanh Tịnh Độ thời mình là năng
sanh, độ là sở sanh, năng sở rõ ràng tất thành diệt. Nếu đợi
“Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” thời thành lâu chậm.
Đại sư.- Ông đã chứng Vô sanh Pháp
nhẫn chưa? Nếu đã chứng thời tất không nên cho rằng: mình là năng
sanh, Tịnh Độ là sở sanh. Vì tâm tức là độ thời ai là năng sanh? Còn
độ chính là tâm thời gì là sở sanh? Vãng sanh mà không thấy năng sanh
sở sanh, dầu sanh mà vẫn vô sanh đây mới là chơn vô sanh. Còn bỏ
sanh mà nói vô sanh thời là đoạn diệt không, chớ chẳng phải
chánh lý vô sanh vậy. Ông đã thấu Thiền tông há chẳng hiểu
rằng: “Từ mê đặng giác ngộ, như nằm mê chợt tỉnh, như hoa
sen nở” ư? Người niệm Phật, có người hiện đời này thấy Phật kiến tánh
đó là hoa nở hiện tiền. Có người sau khi sanh về Cực Lạc mới thấy Phật
kiến tánh, đó là hoa nở về sau. Do công tu có siêng cùng trễ, căn
cơ có lợi cùng độn, nên hoa nở có sớm và muộn. Đâu nên cho là chậm lâu cả.
Lỗ Xuyên.- Vừa rồi có đồ đệ của
ngài từ Vân Thê qua Tô Châu, tôi luận đến thiền cơ thượng thừa thời
ông ta mắt sửng lòng kinh hoặc và không tin mà cười. Đó là lỗi của trò hay là lỗi
nơi thầy ư? Phàm bậc trượng phu khí vũ xung thiên lấy độ
sanh làm phận sự gấp. Ngài đã xuất thế đã khai đường,
đã phu tọa, mà chẳng đủ quyền năng của bậc đại nhơn, chỉ
có cử chỉ của ông lão mụ già ăn chay. Một mai bị người thông
minh gạn hỏi, hay bị nhà trí thức bẻ bác, chừng ấy toan trốn lên
mây ẩn vào núi ư?...
Đại sư.- Ở trước ông dạy tôi với
cơ Hoa Nghiêm thời truyền Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh độ thời
truyền Tịnh độ. Nay sao đối với ông Tăng ở núi hoang nào đó, vốn là kẻ ở
vào hạng độn căn hạp với môn Tịnh độ, mà ông lại đem thiền
cơ thượng thừa gạn ông ta, làm cho ông ta mắt sửng lòng kinh trở
lại cười ông, đó có phải là ông tự phạm vào lỗi “cho thuốc không trúng bệnh”
ư!
Lão Tăng này từ nào chẳng dám tự
xưng xuất thế độ đời, lẽ tất nhiên là chưa đủ quyền năng của
bậc đại nhơn. Ông lại chê người tu Tịnh độ là “ông lão mụ già ăn
chay”. Cổ đức từng nói: như thế chẳng phải là chê hạng ngu
phu ngu phụ mà chính là chê đại Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ, nhẫn đến Thiên Thai, Viễn Công, Thiện Đạo,
Vĩnh Minh v.v... chư đại Tổ sư. Các bậc ấy là ông già ăn
chay cùng là mụ già ăn chay đấy ư? Các ông Lưu Di Dân, Bạch
Thiếu Phó, Liễu Liễu Châu, Tô Trường Công v.v... chư đại cư sĩ ấy là
ông lão mụ già ăn chay đấy ư?
Dầu là ông lão mụ già ăn chay,
nhưng niệm Phật được vãng sanh liền đặng trụ bậc bất
thoái chuyển, liền đặng ngự tòa sen dự hàng Thánh, đâu nên khinh bỉ!
Vả ông lão mụ già chỉ biết ăn chay niệm Phật giữ kỹ
tâm hạnh mà cho là hạng ngu cũng được. Còn như người thông minh trí
thức mà luận suông Bát nhã, ăn cá thịt cho no rồi đi tìm các ông Tăng
để nói thiền nói lý, đó chính là ma vậy. Người ngu quý nơi an phận ngu, chúng
ta thà làm ông lão ăn chay niệm Phật hay là bà
già ăn chay niệm Phật, chớ chẳng nên làm ma
dân cùng ma nữ vậy.
Đến như nếu có kẻ thông
minh hay nhà trí thức nào đến bẻ bác, thời không cần phải lên
mây vào núi, ông lão mụ già ấy cứ đặt giường ngay họng kẻ thông minh, cùng
trải chiếu nơi tròng mắt nhà trí thức đó là xong. Để chi vậy? Để bảo
va tạm bỏ nói lý luận thiền suông mà tự phản chiếu hồi
quang thiệt tu thiệt hành vậy.
LỜI PHỤ.- Trước Bát Tổ, các Tổ sư dầu
hoằng truyền Tịnh độ nhưng một mặt vẫn không bỏ Thiền tông. Chỉ
Bát Tổ là một Thiền sư được chính thức ấn khả nơi Tiếu
Nham Thiền sư, Tổ dòng chính của Lâm Tế tông, trở lại chủ
trương Tịnh độ, mà cực lực bài xích cuồng thiền. Vì thế nên
các nhà thiền học đương thời rất không bằng lòng mới thành có những sự tranh
biện như thế.
CỬU TỔ
TRI HÚC ĐẠI SƯ
Trích ở bộ: “Linh Phong Tông Luận”
Tri Húc Đại sư, người Ngô Huyện, họ
Chung tự Ngẫu Ích.
Thân phụ thọ trì chú Đại
Bi, nằm mộng thấy Quan Thế Âm Bồ Tát trao cho một đứa
trẻ trai, mà sanh ra ngài.
Thuở thiếu niên ngài học Nho,
từng viết sách bác Phật. Sau khi được đọc bộ “Trúc Song Tùy Bút” của Liên
Trì Đại sư, ngài liền đốt quyển sách bác Phật. Năm 20 tuổi, ngài đọc
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phát tâm xuất thế, mỗi ngày niệm
Phật.
Năm Thiên Khải thứ nhứt, tuổi
hai mươi bốn, sau khi nghe một Pháp sư giảng Kinh, ngài sanh
nghi tình, mới dụng tâm tham cứu. Ít lúc sau, được tỏ ngộ, ngài
bèn đóng cửa thất ở Ngô Giang. Xảy mang bệnh nặng, khi ngọa bệnh,
ngài nhứt tâm cầu sanh Tịnh Độ. Bệnh bớt, ngài kết đàn trì
chú vãng sanh.
Ngài làm kệ phát nguyện:
Cúi
lạy A Di Đà
Thần
chú dứt gốc nghiệp
Cùng Quan
Âm, Thế Chí
Hải
chúng Bồ Tát Tăng
Con
mê bổn trí quang
Vọng
đọa luân hồi khổ
Nhiều
kiếp không tạm ngừng
Không
được cứu được nương
Nay
được thân là người
Vẫn
nhằm đời trược loạn
Dầu
lại dự Tăng luân
Mà
chưa nhận pháp lưu
Mục
kích chánh pháp suy
Muốn
chống, sức chưa đủ
Chỉ
vì từ đời trước
Chẳng
tu thắng thiện căn
Nay
tâm con quyết định
Cầu
sanh Cực Lạc quốc
Rồi
ngồi thuyền bổn nguyện
Nếu
con không vãng sanh
Thật
khó toại bổn nguyện
Vì
vậy với Ta Bà
Quyết
định phải thoát lìa
Cũng
như người bị trôi
Trước
cầu mau đến bờ
Sau
rồi tìm phương thế
Ra
vớt người giữa dòng
Nay
con chí thành tâm
Thâm
tâm, hồi hướng tâm
Đốt
cánh tay ba liều
Kết
tịnh đàn một thất
Chuyên trì
chú vãng sanh
Chỉ
trừ giờ ăn ngủ
Đem công
đức tu này
Cầu
quyết sanh Cực Lạc
Nếu
con thoái bổn nguyện
Quên
tưởng về Tây phương
Thì
liền đọa địa ngục
Để
mau biết ăn năn
Thề
chẳng luyến nhơn, thiên
Cùng vô
vi Niết-bàn
Ngưỡng nguyện
Phật oai thần
Lực, vô
úy, bất cộng
Tam
bảo đức vô biên
Gia
bị Tri Húc này
Chiết
phục khiến bất thoái
Nhiếp
thọ cho tăng trưởng.
Về sau, Đại sư rộng truyền
giáo pháp Thiên Thai ở các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành,
Thành Khê, Trường Thủy và Tân An, rồi về dưỡng lão ở Linh Phong.
Đương thời, những nhà tu Thiền
các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh độ là quyền giáo,
phàm gặp người niệm Phật, ắt bảo tham cứu chữ “Thùy (ai)?”.
Riêng mình Đại sư cho rằng: Trì hồng danh chính là
“tâm tông viên đốn”.
Ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền,
gạn: “Thế nào là “hướng thượng nhứt lộ” của môn niệm Phật? Thế nào là rời tứ
cú, tuyệt bách phi? Cực tắc rốt sau cả của người niệm Phật là gì? Gì
là một dùi sau ót của kẻ hào hoa hư ngụy?
Trông mong Hòa thượng dẹp duy
tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà qua một bên. Thân kiến Như
Lai cảnh giới nói mau một phen, để chấn động Đại
thiên thế giới”.
Đại sư đáp: “Hướng thượng nhứt trước”
chẳng phải là Thiền chẳng phải Tịnh. Vừa nói đến tham cứu, đã là quyền tạm
vì kẻ hạ căn rồi. Nếu quả thiệt bậc đại trượng phu tự
nên tin chắc “thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”. Nếu có một niệm
cách với Phật thời chẳng đặng gọi là “niệm Phật Tam muội”. Nếu niệm
niệm không trở cách với Phật, thời cần gì gạn hỏi là “ai?”.
Còn Cực tắc của môn Tịnh độ là: không
có Phật ngoài niệm làm sở niệm của niệm, cũng không có niệm ngoài Phật năng niệm
nơi Phật. Chính lúc hạ thủ, toàn thân lấn vào rời tứ
cú tuyệt bách phi.
Chỉ thấy được quang minh của Đức A
Di Đà Phật, chính là thấy thập phương vô lượng chư Phật. Chỉ
sanh về Cực Lạc Tây phương, chính là sanh khắp vô lượng Tịnh Độ, đây
là “hướng thượng nhứt lộ” của môn niệm Phật.
Nếu bỏ A Di Đà hiện tiền mà
đi nói tự tánh Di Đà, bỏ Tây phương Cực Lạc mà đi
nói duy tâm Tịnh độ, đó là “hào hoa hư ngụy”.
Kinh dạy: “Tam Hiền, Thập Thánh còn
ở quả báo, chỉ một mình Phật là thật ở Tịnh độ”, lời này là “một
dùi sau ót đấy”.
Chỉ tin chắc được môn niệm
Phật này, rồi nương tín khởi nguyện, nương nguyện khởi hạnh, thời niệm
niệm lưu xuất vô lượng Như Lai, ngồi khắp vô lượng thế
giới ở mười phương mà chuyển đại pháp luân, chiếu xưa suốt
nay, chẳng phải là việc ngoài phần mình, há lại chỉ chấn động Đại
thiên thế giới mà
thôi ư?”
Đại sư từng dạy rằng: “Pháp
môn niệm Phật không có gì lạ lùng cả, chỉ tin chắc rồi
cố sức thực hành thôi”.
Phật dạy: “Nếu người nào niệm một Đức
Phật A Di Đà, đây gọi là “Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”. Tổ Thiên
Thai bảo: “Bốn môn Tam muội đồng tên niệm Phật. Niệm
Phật Tam muội là vua trong các môn Tam muội”.
Tổ Vân Thê nói: “Một câu A Di
Đà Phật gồm hết tám giáo, nhiếp cả năm tông”.
Đáng tiếc người thời nay xem niệm
Phật là việc tầm thường cho là công phu của hàng ngu
phu ngu phụ. Do đó mà lòng tin không chắc, không cố sức thực
hành, trọn ngày lơ lơ nên rồi tịnh nghiệp không thành.
Phải biết rằng một niệm hiện tiền đây
vốn tự rời tứ cú tuyệt bách phi, chẳng cần tác ý rời
tuyệt. Chính hiện tiền một câu Phật đương niệm đó cũng vốn siêu tình
ly kiến, nhọc gì nói diệu nói huyền. Chỉ quý là tin cho chắc, giữ cho vững, rồi
niệm đi. Hoặc ngày đêm mười vạn câu, bảy vạn câu, hoặc năm vạn, ba vạn, phải quyết
định chẳng cho thiếu, thề trọn đời không biến đổi. Đúng
như vậy mà không được vãng sanh Tịnh độ thời tam thế
chư Phật là vọng ngữ. Được vãng sanh rồi thời trụ bậc bất
thoái, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.
Rất kỵ này vầy mai khác. Gặp người nghĩa
học thời muốn học văn luận, gặp nhà tu thiền lại mong tham mong
cứu, gặp người trì luật thời mộ khất thực trì bát...
Như vậy thì ắt không rồi việc gì, trong tâm lăng xăng đủ sự.
Chẳng ngờ: niệm A Di Đà Phật đặng thành
thục, thời Tam tạng giáo lý gồm trong đó; một nghìn bảy
trăm công án cơ quan hướng thượng cũng ở trong đó; ba
nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng
không ra ngoài câu Phật.
Người chơn thật niệm Phật: trong
thì quên thân, ngoài quên cảnh, đó là “đại bố thí”; không sanh lòng tham,
sân, si là “đại trì giới”; chẳng chấp thị phi nhơn ngã là “đại nhẫn
nhục”; niệm Phật không gián đoạn là “đại tinh tấn”; vọng
tưởng không móng khởi là “đại thiền định”; không bị sự khác và pháp
khác làm mê lầm là “đại trí huệ”.
Thử kiểm điểm lấy mình, nếu
chưa quên được thân tâm thế giới, còn tham, sân, si, còn thị
phi nhơn ngã, còn gián đoạn, còn vọng tưởng tạp niệm, còn bị
việc khác môn khác lôi kéo, thời chưa phải là “chơn thật niệm Phật”.
Muốn đến cảnh giới nhứt
tâm bất loạn cũng không phải là có phương cách gì khác lạ,
lúc mới tập niệm phải dùng xâu chuỗi ghi số rành rẽ định chắc thời
khóa quyết định không thiếu.
Lâu lâu thuần thục, không niệm mà vẫn
tự niệm, bấy giờ ghi số hay không ghi số, đều đặng. Nếu ban đầu vội
muốn viên dung tự tại, muốn vô tướng, thời ắt niệm lực khó
thành; đây là vì tin không chắc nên thực hành không cố gắng.
Tha hồ cho ai giảng suốt mười hai
phần giáo, Tam tạng Kinh điển, cùng thấu cả nghìn trăm công
án cũng chỉ là việc bên bờ sanh tử mà thôi. Đến phút lâm
chung quyết định dùng không đặng ([8]).
Năm Thuận Trị thứ 11, nhà
Thanh, mùa Đông, Đại sư có bệnh. Ngài dặn các đệ tử: sau
khi trà tỳ, tán xương trộn bột chia thí cho cá chim để kết
duyên Tịnh độ với chúng nó.
Sang năm, ngày 21 tháng Giêng, Đại
sư sáng sớm dậy, khỏe khoắn tươi tỉnh như không bệnh. Đến giờ
ngọ, Đại sư ngồi kiết già trên giường, xoay mặt về hướng
Tây chắp tay mà tịch, thọ 57 tuổi.
Sau khi Đại sư tịch ba năm, các
môn nhơn hội lại định y pháp trà tỳ. Lúc mở nắp khánh, thời thấy toàn
thân của Đại sư vẫn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ mép tai, sắc mặt
như sống.
Đại chúng không nỡ tuân lời của Đại
sư dặn, mới xây tháp thờ ở Linh Phong.
“Dưới
đây là một nhà Sư cận đại sa vào chỗ hại của các Tổ đã răn
dạy, trích ở Ấn Quang Văn Sao”
SƯ NGỘ KHAI
Sư Ngộ Khai, một pháp hữu của Ấn
Quang Đại sư, vốn là người có căn trí, song tánh Sư cao vọng và háo thắng. Ban
sơ, Sư tham cứu Thiền tông, khinh thường Tịnh độ. Ít lúc sau, nhờ
Thông Trí Pháp sư khai thị, Sư lần để tâm nơi Tịnh độ.
Dầu Sư đã có lòng tin Pháp môn Tịnh độ, song hành
trì không chuyên, tâm cao vọng không bớt, Ấn Quang Đại sư từng
khuyên nhắc: nên thấp mình chuyên tu. Nhưng vẫn không thể vãn hồi tâm
chấp định của Sư.
Sau một thời gian đó
đây giảng diễn, Sư mang bệnh bèn trở về Phổ Đà. Vừa về đến núi,
cùng sư huynh là Sư Nguyên Thông chuyện vãn thăm nom. Hàn huyên chưa
dứt, Sư đã mệt mỏi chẳng nói ra lời. Sau giờ ngọ ngày kế
thì Sư mất. Trọn không có chút điềm lành, cũng không một điểm tốt nào đủ chứng
nghiệm là vãng sanh hay giải thoát cả.
Ôi! Câu: “Nghìn người khó có một giải
thoát”, lời của Nhị Tổ và câu: “Chỉ là việc sanh tử, đến lúc lâm
chung trọn dùng không được”, lời của Cửu Tổ, phải chăng là những
nhát búa cho hạng tạp hạnh, phải chăng là những tiếng sấm bên
tai các bậc tài trí!
Mặc Am Đại sư, một đại Thiền
sư và cũng là một đại Giảng sư triều Thanh, lúc lâm
chung hỏi đại chúng rằng: “Thế nào gọi là giải thoát?”. Không ai
đáp được, Đại sư cười bảo: “Chẳng chi bằng bắt chước ông lão mụ
già ăn chay, niệm Phật già dặn là được”.
THẬP TỔ
THIỆT HIỀN ĐẠI SƯ
Trích ở các bộ: “Tư Tề Đại Sư Di Cảo”
“Tăng Tổ Phong Thuật”
Thiệt Hiền Đại sư, người Thường Thục,
triều Thanh, tự Tư Tề hiệu Tỉnh Am.
Đại sư từ bé đã không ăn thịt.
Sau khi xuất gia, ngài tham cứu câu: “Niệm Phật đó là ai?” được tỉnh
ngộ, bèn nói: “Tôi đã tỉnh giấc mơ!”.
Ngài đóng cửa thất ba năm ở
chùa Chơn Tịch ngày thì xem Kinh tạng, đêm lại niệm Phật.
Sau Đại sư đến Mậu Sơn lễ tháp
thờ xá lợi của Phật. Nhằm ngày kỷ niệm Phật nhập Niết-bàn, Đại
sư hội hiệp Tăng tục sắm sửa lễ cúng dường rồi ở trước
Phật, ngài tự đốt ngón tay và phát 48 đại nguyện. Lúc Đại
sư phát nguyện, cảm xá lợi phóng quang.
Đại sư có soạn văn “Phát Bồ-đề tâm”
để khuyến khích tứ chúng. Nhiều người tụng đến văn này mà rơi nước mắt.
Văn rằng:
Trong Kinh dạy: “Yếu môn nhập
đạo, phát tâm làm trước. Yếu vụ tu hành, lập nguyện làm đầu”
Phát tâm thời Phật đạo có
thể thành. Lập nguyện thời chúng sanh có thể độ. Nếu chẳng phát
tâm rộng lớn cũng không lập nguyện kiên cố, thời dầu trải
qua vô lượng kiếp, cũng vẫn y nhiên ở trong vòng luân hồi. Dầu
có tu hành cũng đều luống khổ nhọc thôi.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Quên mất Bồ-đề
tâm mà tu các pháp lành đó gọi là nghiệp ma”.
Quên mất còn là nghiệp ma, huống là
chưa từng phát ư! Do đó mà biết rằng: Phàm muốn học Phật đạo, quyết
phải phát Bồ-đề tâm, không được trì hoãn.
Nhưng tâm nguyện có nhiều tánh
khác nhau, nay tôi vì đạo chúng mà lược giải tám cách: “Tà,
chánh, chơn, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên”.
1.- Trong đời có người tu
hành chẳng tham cứu tự tâm, chỉ biết việc ngoài, hoặc cầu
tài lợi hoặc ưa danh tiếng, hoặc ham vui sướng hiện đời, hoặc
trông quả báo tương lai. Phát tâm như thế gọi là “tà”.
2.- Còn người tu hành mà chẳng cầu
danh lợi, chẳng tham sung sướng, chẳng trông quả báo, chỉ
vì thoát ly sanh tử, chỉ vì thành đạo Bồ-đề, đây gọi
là “chánh”.
3.- Niệm niệm trên cầu Phật
đạo, tâm tâm dưới độ quần sanh, xem Phật đạo dài lâu
mà lòng không khiếp, thấy chúng sanh khó độ mà chí chẳng sờn, như lên
núi quyết đến đỉnh, như trèo tháp quyết đến chót. Phát tâm như đây gọi
là “chơn”.
4.- Có tội không sám hối, có lỗi chẳng
chịu chừa, ngoài thời coi như trong sạch mà trong tâm nhớp nhúa, trước tinh
tấn sau biếng lười, dầu cũng có tâm tốt, nhưng xen lộn danh cùng lợi, dầu
có pháp lành song bị tội nghiệp làm nhiễm ô, đó gọi là “ngụy” (dối).
5.- Chúng sanh giới tận, nguyện
của tôi mới tận, đạo Bồ-đề thành, nguyện của tôi mới thành. Phát
tâm như vậy gọi là “đại”.
6.- Xem tam giới như ngục tù,
coi sanh tử như oan gia, chỉ mong riêng mình mau giải
thoát mà chẳng muốn độ người, đây gọi là “tiểu”.
7.- Nếu có quan niệm rằng chúng
sanh và Phật đạo ở ngoài tự tâm, rồi nguyện độ nguyện
thành, chẳng quên công huân, chẳng dứt tri kiến. Phát
tâm như thế gọi là “thiên” (lệch).
8.- Biết tự tánh là chúng
sanh nên nguyện độ, rõ tự tánh là Phật đạo nên
nguyện thành. Chẳng thấy có một pháp nào ở ngoài tự tâm, rồi dùng tâm rỗng
trống phát nguyện rỗng trống, thực hành hạnh rỗng
rang chứng quả rỗng rang, cũng không còn thấy tướng rỗng rang([9]), đây gọi là “viên”.
Tám cách phát tâm đã rành rẽ,
thời nên tự xét kỹ coi mình phát tâm thuộc tính cách nào:
là tà hay ngụy ư? Là chánh là chơn ư?
Là đại là tiểu ư? Là thiên là viên ư?
Nếu nhận thấy là tà là ngụy là tiểu là thiên,
thời lập tức sửa đổi. Nếu xét
mình là chánh là chơn là đại là viên,
thời bền chắc thêm lên. Được như vậy mới là “chơn chánh phát Bồ-đề tâm”.
Bồ-đề tâm này là vua trong các pháp
lành, nhờ mười nhân duyên mà phát khởi.
1.-
Vì nghĩ đến ơn Phật.- Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật của ta, từ lúc tối sơ phát tâm,
vì chúng ta mà hành Bồ Tát đạo, trong vô lượng kiếp chịu
đủ sự khốn khổ. Như Kinh Pháp Hoa nói: “Khắp cõi Đại
thiên không có chỗ nào chừng bằng hột cải mà chẳng phải là chỗ Đức Phật xả
thân mạng vì chúng sanh”.
Lúc ta tạo nghiệp, Phật xót
thương dạy dỗ, ngặt vì ta quá ngu si không biết nghe
theo. Rồi ta đọa ác đạo, Phật càng xót thương muốn chịu khổ thay
ta, nhưng ta vì nghiệp quá nặng không cứu vớt được.
Ta sanh làm người, Phật tìm
cách cho ta trồng căn lành, kiếp kiếp đời đời lòng Phật theo
dõi ta không lúc nào rời.
Khi Phật xuất thế ta
còn trầm luân, nay đặng làm người Phật đã diệt độ.
Tội chi mà sanh nhằm thời mạt pháp! Phước
gì mà đặng xen dự chúng Tăng! Chướng chi mà chẳng thấy thân vàng! May gì mà đặng
gặp cốt tượng!
Rồi tự nghĩ như vầy: Nếu đời trước
ta không từng trồng căn lành, thời do đâu mà nay được nghe Phật pháp, thời
đâu biết là thường thọ ơn của Phật. Ơn đức ấy, núi cao khó
sánh. Nếu ta không phát tâm hành Bồ Tát đạo, giữ vững Phật
pháp, cứu độ chúng sanh, thời dầu có tan xương nát thịt cũng không đền
đặng.
2.-
Vì nhớ ơn cha mẹ.- Than ôi cha mẹ sanh ta khó
nhọc! Mười tháng mang nặng, ba năm bú mớm, ta mới nên người. Ngỡ là ta nối nắm dòng
họ, thừa tự tổ tiên. Dè đâu ta đã xuất gia lấy danh Thích tử.
Không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân.
Cha mẹ còn, ta không nuôi dưỡng thân
người. Cha mẹ mất, ta không dắt dìu thần thức. Như vậy, với đời
là sự tổn lớn, với đạo lại không thiệt ích. Phải chăng đó là một tội
nặng!
Rồi tự nghĩ như vầy: Từ đây trăm kiếp
nghìn đời ta phải thực hành Phật đạo. Thập phương tam thế ta
luôn cứu khắp chúng sanh. Thế thời chẳng phải chỉ cha mẹ trong đời hiện
tại của riêng ta, mà đa sanh phụ mẫu của ta và của mọi
người đều do ta mà đặng siêu thăng. Như vậy mới đền ơn sanh
thành dưỡng dục được.
3.-
Vì tưởng ơn Sư trưởng.- Không thế gian Sư trưởng thời
ta không biết lễ nghĩa. Không xuất thế Sư trưởng thời ta
không hiểu Phật pháp. Không biết lễ nghĩa thời khác gì cầm
thú. Không hiểu Phật pháp thời nào khác kẻ tục. Nay ta biết chút
ít lễ nghĩa, hiểu đôi phần Phật pháp, ca sa che
vóc, giới phẩm nhuận thân, đây là do Sư trưởng mà đặng.
Rồi tự nghĩ: Nay ta thực
hành Đại thừa, nguyện đem sự lợi ích lớn lại cho tất cả, nối
chí Sư trưởng, mà cũng là thêm lớn công đức của Sư trưởng.
Như thế, mới gọi là biết ơn Sư trưởng.
4.-
Vì nghĩ ơn thí chủ.- Đồ dùng hằng ngày đều không
phải của mình: hai bữa cháo cơm, bốn mùa y áo, thuốc men khi bệnh, giường ghế
khi mỏi... đều của người sắm cho.
Người thời hết sức cày bừa còn
khó đủ ăn, ta thời ngồi an thọ thực vẫn chưa vừa lòng! Người thời dệt may
chẳng nghỉ còn phải thiếu rách, ta thời y áo có thừa mà không biết giữ
gìn! Người thời nhà lá vách phên, bận rộn trọn đời, ta thời đền rộng nóc
cao thong thả mãn năm. Dùng sự khổ nhọc của người để cung cấp sự an
nhàn cho ta, như vậy, nơi lòng chừng có an được chăng? Dùng tài lợi của
người để nuôi thân mình, như vậy có thuận lẽ phải cùng chăng?
Rồi tự nghĩ: Nếu ta không lo song vận bi
trí, gồm tu phước huệ, để đàn tín được nhờ, chúng
sanh được độ, thời tấc vải hột cơm có ngày phải trả, địa ngục ngạ
quỷ có lúc phải sa. Ta phải kiên cố Bồ-đề tâm mới đặng.
5.-
Vì biết ơn chúng sanh.- Ta cùng chúng sanh từ vô thỉ đến
nay làm quyến thuộc lẫn nhau, đây kia đều có ơn nghĩa với
nhau. Nay dầu cách đời đổi thân, hôn mê không nhớ biết, song cứ lý mà
xét thời không thể không đền đáp.
Hiện tại con vật mang lông đội sừng
kia, biết đâu rằng từ trước ta đã từng làm con của nó. Loài giun, dế, bướm, ong
đó, biết đâu rằng là thân sanh đời trước của ta. Đến những ai rên siết trong địa
ngục, kêu gào nơi ngạ quỷ. Ta dầu không thấy không nghe, mà họ tất cầu
cứu tế. Ngoài Kinh thời không đâu bày rõ việc này được, ngoài Phật thời không
ai nói rành việc đó được. Vì thế nên Bồ Tát xem kiến rận đều
là quá khứ phụ mẫu, thú cầm đều là chư Phật vị lai, nên thường
lo cứu độ, luôn nghĩ báo ơn.
6.-
Vì tưởng khổ sanh tử.- Ta cùng mọi người từ nhiều
kiếp đến ngày nay luôn ở trong biển sanh tử: lúc làm trời, lúc làm người,
hoặc cõi này hay thế giới khác, chết đây sanh kia, thoạt lên thoạt xuống. Ngạ
quỷ sớm đi mà chiều lại, địa ngục nay ra mai vào. Đao
sơn kiếm thọ đứt nát thân hình; đồng sôi sắt đỏ cháy rã tâm can;
khóc la trong lửa, rên rỉ trong băng. Muôn lần sống chết nội ngày
đêm, giây lát khổ đau bằng thế kỷ. Đương lúc đó dầu biết khổ nhưng ăn
năn sao kịp, sau khi thoát khỏi liền quên vẫn tạo tội như thường. Tâm
không hằng, như lữ khách ruổi dong, thân không định, dường
như cửa nhà thay đổi. Cát bụi cũng không tính được số thân đã thọ, nước
biển vẫn không nhiều bằng giọt lệ chia ly. Nếu không lời Phật, việc
này ai thấy ai nghe. Nếu chẳng xem Kinh, lý đó đâu hay đâu biết. Nhược bằng đời
này cứ tham ái như cũ, vẫn si mê như trước, e rằng muôn kiếp
nghìn đời lạc lầm mãi mãi. Thân người khó được mà dễ chết mất,
giờ tốt dễ qua mà khó trở lại, chẳng may, sau này phải sa vào ác
đạo lại tự mang lấy khổ, bấy giờ ai thế được cho! Nên ta phải dứt
lòng sanh tử, diệt biển dục tình, độ mình độ người đồng lên
bờ giác, quan hệ tại một đời này, không thể bê trễ được.
7.-
Vì tôn trọng tánh linh.- Tâm tánh của ta
cùng Thích Ca Như Lai không hai không khác. Tại sao Đức Bổn Sư
đã thành Phật sáng suốt tự tại, mà ta vẫn còn là phàm
phu hôn mê điên đảo? Đức Bổn Sư đủ vô lượng thần
thông trí huệ, vô lượng công đức trang nghiêm tự tại giải
thoát, mà ta chỉ có vô lượng nghiệp hệ vô minh, vô lượng phiền
não ô trược sanh tử khổ sở!
Tâm tánh đồng một, mà vì si
mê với ngộ nên khác nhau như trời với vực. Ví như vô giá bửu
châu vùi dưới sình lầy, xem như đất đá. Nay ta phải dùng vô lượng thiện
pháp để đối trị phiền não, tu đức công thành thời
tánh đức mới hiển bày. Như bửu châu được rửa sạch lau khô để trên tràng
cao liền phóng quang chiếu sáng. Như vậy mới là không uổng
công giáo hóa của Phật và chẳng phụ tánh linh của mình.
8.-
Vì sám hối nghiệp chướng.- Kinh nói: “Phạm một tội kiết-la, phải
đọa địa ngục bằng tuổi thọ của Tứ Thiên Vương”.
Tội nhỏ còn bị báo khổ như vậy, huống là
tội trọng ư?
Nay ta mỗi ngày, một cử một động thường
trái giới luật, lúc ăn lúc uống luôn phạm thi-la. Tính kỹ trong một ngày
cũng đã nhiều tội, huống là trọn đời cho đến nhiều kiếp về trước
kể sao cho xiết. Cứ lấy Ngũ giới mà thẩm xét cũng chưa chắc tròn vẹn,
huống là Mười giới, Cụ túc giới, Bồ Tát vô lượng giới
ư!
Nay ta phải hết lòng cầu
ai sám hối, thương mình thương người, thân khẩu tha thiết, nước mắt theo lời
mà tuôn ra mới mong tội được tiêu, khổ được thoát.
9.-
Vì cầu sanh Tịnh độ.- Ở cõi ác trược này tấn tu rất
khó. Vãng sanh Cực Lạc thời thành Phật rất dễ. Vì khó
nên nhiều kiếp chưa nên, vì dễ mà một đời đắc quả. Do cớ ấy, nên từ
xưa chư Thánh chư Hiền đều xu hướng Cực Lạc, muôn Kinh
nghìn Luận đều chỉ quy Tịnh độ. Đời nay tu hành, không
pháp môn nào hơn pháp môn này.
Trong Kinh Di Đà nói:
“Ít thiện căn ít phước đức không vãng sanh được”.
Thế là nhiều thiện căn nhiều phước đức mới được sanh. Nhiều phước
đức không chi bằng chấp trì danh hiệu, nhiều thiện
căn chẳng chi qua phát Bồ-đề tâm. Niệm Phật giây lát
hơn bố thí cả năm, phát Bồ-đề tâm hơn tu hành nhiều
kiếp.
Vả lại, niệm Phật cốt
mong làm Phật, nếu không phát Bồ-đề tâm thời niệm để làm
gì? Còn phát Bồ-đề tâm để được tấn tu, nhưng không sanh Tịnh độ thời
dễ thoái, dễ thất. Nên trong Kinh có lời dụ:
“Bồ Tát sơ phát tâm, với trứng cá
cùng bông yêm la, nhơn nhiều mà quả ít”.
Gieo giống Bồ-đề, vun quén bằng niệm
Phật, thời đạo quả tự nhiên tăng trưởng, rồi nương thuyền đại
nguyện của Phật chắc chắn vãng sanh Tịnh độ. Đã được ở Cực
Lạc tức là trụ bậc bất thoái; từ đây phước trí nhị nghiêm,
nhiệm vận mà tăng trưởng, viên mãn. Vì thế nên ta phải nhứt
tâm cầu sanh Tịnh Độ mới được.
10.-
Vì hộ trì chánh pháp.- Đức Bổn Sư vì ta và tất cả
mà tu Bồ Tát đạo trong vô lượng kiếp, làm những việc khó làm, nhẫn
những điều khó nhẫn. Sau khi nhơn viên quả mãn thành Phật, một
đời tận tụy dìu dắt mọi người, cặn kẽ chỉ dạy muôn loại.
Khi cơ duyên giáo hóa đã xong, Đức Phật nhập Niết-bàn!
Chánh pháp đã qua, tượng
pháp đã hết, nay chỉ còn mạt pháp: có giáo pháp mà không
người đắc pháp. Tà chánh không phân, phải quấy lẫn lộn.
Cùng nhau cạnh tranh nhơn ngã, chẳng vì lợi thời cầu danh, Tam
bảo không còn thiệt nghĩa, suy tàn tồi tệ không nỡ thốt lời.
Nghĩ đến đây khó cầm giọt lụy.
Ta là Phật tử mà không báo được
ơn Phật, trong thời tự mình chẳng được lợi ích, ngoài thời vô
ích với người. Sống không lợi ích cho đương thời, chết vẫn vô
ích nơi tương lai. Suy nghĩ như vậy nên đau lòng xót dạ vội
phát đại tâm, cùng với thiện lữ đồng đến đạo tràng tụng lời sám
hối, lập thành pháp hội. Phát 48 điều nguyện, nguyện quyết độ
sanh, nguyện được thành Phật. Mãn báo thân này thệ về Cực Lạc,
để được lên chín phẩm, để được dự Thánh lưu, để được chứng Vô sanh, để được
trụ bất thoái.
Rồi nương thuyền bổn nguyện trở lại Ta
Bà làm cho Phật nhật trùng huy, pháp luân thường chuyển...
Tám cách và mười duyên đã biết đủ, thời
chỗ phát tâm xu hướng, đã có nẻo có đường. Trông mong đại
chúng lân mẫn lòng chân thành tha thiết của tôi, mà cùng
tôi đồng lập đại nguyện, đồng phát đại tâm. Nếu chưa phát thời nay
phát, nếu phát rồi thời nay tăng trưởng, nếu đã tăng trưởng thời
làm cho tương tục. Chớ thấy khó mà khiếp sợ, chớ thấy dễ mà xem thường.
Chớ dục tốc mà không bền, chớ giải đãi mà không được. Cũng đừng vì dốt
tối mà trọn không phát tâm, cũng đừng vì trí cạn chướng dày mà tự hèn tự bỏ. Ví
như trồng cây, trồng lâu ngày thời rễ cạn lần sâu. Lại như mài dao, mài bền
thời lưỡi lụt lần bén. Đâu có lẽ vì rễ cạn nông mà bỏ khô không trồng, dao lụt
để vậy cho thành đồ vô dụng!
Còn nếu cho tu hành cực khổ,
thời chưa biết rằng biếng lười càng khổ cực hơn. Vì tu hành, dầu tạm thời cần
lao nơi hiện tại, nhưng rồi được vĩnh kiếp an lạc ở
tương lai. Còn biếng lười trộm an nhàn một đời nay, song rồi phải
nhiều đời khổ lụy.
Huống là dùng Tịnh độ làm châu
hàng thời lo gì thoái chuyển, lại đặng Vô sanh làm nhẫn lực thời
sợ gì gian nan.
Chớ nói tâm niệm vô thường rồi
không phát, cũng đừng cho luống nguyện vô ích mà không nguyện.
Phải biết hễ tâm chơn thời quả thiệt,
nguyện lớn thời hạnh sâu. Hư không kia không rộng lớn bằng tự
tâm, kim cương nọ không bền bằng nguyện lực.
Đại chúng nếu không chê bỏ lời
tôi, thời từ nay chúng ta là quyến thuộc Bồ-đề, làm bạn
lành Tịnh độ. Nguyện cùng nhau đồng sanh Cực Lạc đồng hầu Di
Đà, đồng độ chúng sanh đồng thành Chánh giác.
Ít lúc sau, Đại sư trụ chùa
Tiên Lâm ở Hàng Châu.
Năm Ung Chính thứ 7, Đại sư lập Liên
Xã làm văn thệ giữ chúng, lấy trọn đời làm hẹn. Chia ngày đêm
làm 20 phần: 10 trì danh, 9 phần quán tưởng, 1 phần lễ sám.
Có nhà tu thiền đến hỏi về chỉ
thú niệm Phật.
Đại sư khai thị: “Một câu A Di
Đà Phật là đầu tắc công án, không thương lượng gì khác, thắng
liền quyết phán. Như đống lửa lớn, nhảy vào liền cháy. Như gươm Thái A, xuống đến
thì đứt rời. Tám muôn bốn nghìn pháp môn, không ngoài sáu chữ. Một nghìn bảy
trăm công án, một câu đủ đoán. Mặc ai không ưa nghe Phật, ta tự niệm
niệm nhớ Phật. Xin ông bất tất nhiều lời, chỉ nên nhứt tâm bất loạn”.
Năm Ung Chính thứ 11, ngày mùng 8 tháng
Chạp. Đại sư bảo đại chúng rằng: “Tháng Tư sang năm thời ta
đi”. Rồi Đại sư đóng cửa thất mỗi ngày niệm Phật mười
vạn câu.
Sang năm, ngày 12 tháng Tư, Đại
sư nói với các đệ tử rằng: “Từ đầu tháng tới nay, tôi hai lần thấy Cực
Lạc Tam Thánh. Tôi sẽ vãng sanh!”. Rồi Đại sư viết bài kệ để
từ biệt chúng.
Qua ngày kế, Đại
sư không ăn uống, cứ nhắm mắt ngồi ngay thẳng. Đến canh năm, Đại
sư tắm rửa thay y áo. Qua ngày sau tức là ngày 14, gần giờ ngọ, Đại
sư xoay mặt về hướng Tây nhắm mắt yên lặng. Đại
chúng Tăng tục các nơi hội về đông như chợ. Đại sư bỗng mở
mắt nhìn mọi người mà bảo rằng: “Tôi về Cực Lạc không
bao lâu tôi sẽ trở lại. Thoát ly sanh tử là việc lớn, mọi
người nên tự giữ lòng thanh tịnh siêng niệm Phật là được”.
Dặn xong, Đại sư chắp tay xướng to hồng danh của Phật rồi tịch. Thọ bốn mươi chín tuổi.
THẬP NHỨT TỔ
TẾ TỈNH ĐẠI SƯ
Trích ở bộ:
“Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục”
Tế Tỉnh Đại sư, người Phong Nhuận, triều
Thanh, họ Mã, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường.
Thuở thơ ấu ngài học thông
kinh sử. Sau khi xuất gia ngài đi học các nơi, rộng suốt cả hai tông
“Tánh”, “Tướng”, tâm đắc nhứt là “Chỉ thú Pháp Hoa tam
quán”. Kế tham học với Túy Như Thuần Thiền sư ở chùa Quảng
Thông, phát minh tâm yếu được ấn khả. Về sau Thuần Thiền
sư qua ở Vạn Thọ tự, Đại sư kế vị ở Quảng Thông, sách
tấn kẻ hậu học. Tông phong rất thạnh.
Đại sư nói: “Vĩnh Minh Thọ Thiền
sư là bậc long tượng của Thiền môn mà còn quy
tâm Tịnh độ thay, huống nay là thời kỳ mạt pháp càng
phải tuân theo!”.
Đại sư chuyên tu Tịnh độ chủ
trương Liên Tông. Mỗi ngày, hạn thời giờ dạy chúng cùng tiếp
khách nội một cây hương. Ngoài ra nhứt quyết lo lễ Phật niệm
Phật mà thôi.
Ít lâu sau, Đại sư sang trụ
chùa Giác Sanh, không bao lâu lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở
Hồng Loa Sơn. Tăng chúng bốn phương mến đức Đại sư nên hội
về Tư Phước mỗi ngày thêm đông, bèn thành tòng lâm.
Đại sư vì pháp vì người lòng không
chút mỏi nhàm, tất cả đều dùng Tịnh độ làm quy thú. Mỗi khi giảng đến
ơn cứu khổ ban vui của Như Lai thường nước mắt theo lời mà
tuôn ra. Thính chúng đều cảm động, phần đông nước mắt nước mũi ướt
cả vạt áo.
Đại sư từng dạy: “Đầu mối quan hệ trong
vòng sanh tử của chúng ta có hai năng lực: A.- “Tâm chữ đa
đoan trọng xứ thiên trụy([10])”, đây là tâm lực. B.- “Như
nhơn phụ trái cường giá tiên khiên(1)”, đây là nghiệp lực.
Nghiệp lực rất lớn nhưng tâm lực lại
lớn hơn. Vì nghiệp không tự tánh, toàn nương nơi tâm, vì thế nên tâm
chú trọng thời làm cho nghiệp mạnh.
Nếu dùng tâm chú trọng mà
tu tịnh nghiệp thời tịnh nghiệp mạnh, ngày sau báo tận mạng
chung, quyết định sanh Tây phương Cực Lạc, không sanh ở cõi nào
khác. Như cây to, vách cao xiên hướng về Tây phương, khi trốc gốc lỏng
chân, quyết định ngã úp về hướng Tây vậy.
Thế nào là tâm chú trọng?
Chúng ta tu tịnh nghiệp: tín
tâm phải sâu chắc, chí nguyện phải tha thiết. Do tín
tâm sâu cùng chí nguyện thiết, nên tất cả tà thuyết không
lay động được, tất cả cảnh duyên không lôi kéo được.
Giả sử lúc ta tu tịnh nghiệp mà
có Đạt Ma Tổ Sư hiện ra bảo ta bỏ Tịnh tu Thiền có
thể liền thành Phật, thời ta cũng từ tạ Tổ mà không dám tuân lời. Dầu Đức Thích
Ca Như Lai bỗng hiện thân bảo rằng có pháp môn khác
hơn Tịnh độ, rồi bảo ta bỏ Tịnh để tu pháp môn đó, ta cũng lạy
Phật mà từ. Vững được như vậy mới gọi là lòng tin sâu chắc.
Giả sử vòng lửa đỏ tròng vào đầu,
ta cũng không vì sự thống khổ này mà quên nguyện vãng sanh. Dầu
cho sự giàu sang vui sướng nhứt trong đời như
ngôi Luân Vương đến cho ta, ta cũng không vì sự vui sướng ấy
mà quên nguyện vãng sanh. Gặp những cảnh duyên nghịch thuận tột
bậc như vậy mà vẫn không đổi lòng, đây gọi là chí nguyện tha
thiết.
Lòng tin chắc, chí nguyện thiết,
đó là tâm chú trọng. Dùng tâm này mà tu tịnh nghiệp, thời tịnh
nghiệp được mạnh, nghiệp mạnh thời mau thành thục. Tịnh nghiệp Cực
Lạc thành thục thời nhiễm duyên Ta Bà dứt. Như thế, đến
lúc lâm chung, dầu có muốn cảnh giới luân hồi hiện
ra cũng không thể được, dầu có muốn rời Di Đà cùng cảnh Tịnh Độ
đừng hiện ra cũng không thể được.
Nhưng lòng tin chắc
và chí nguyện thiết ấy, lúc bình thời phải rèn luyện cho
thành, đến lúc lâm chung mới khỏi sa lạc vào lối khác. Như Cổ đức lúc lâm
chung, chư thiên trỗi nhạc cầm phan đến rước ở ngôi Đâu Suất
Thiên Vương mà các ngài cố từ, cứ chuyên tâm niệm Phật tưởng
Phật đến khi Phật và Thánh chúng đến mới chịu theo([11]). Vả sắp chết là lúc tứ đại phân
trương, chư Thiên đến rước là cảnh tuyệt cực. Nếu bình thời lòng
tin cùng chí nguyện không phải mười phần vững chắc cả
mười, thời lúc lâm chung gặp phải cảnh ấy tất khó có thể tự chủ được”.
Có nhà tu thiền đến gạn: “Tất
cả các pháp đều huyễn mộng, Ta Bà vốn là huyễn mộng, Cực Lạc cũng
là huyễn mộng. Đồng là huyễn mộng, tu có ích gì?”.
Đại sư nói: “Không phải thế! Từ Thất
địa Bồ Tát trở xuống, đều là trong huyễn mộng mà tu hành. Đến
như Đẳng giác vẫn còn đương ngủ vì còn vô minh. Chỉ bậc Phật mới
là Đại giác.
Đương lúc ở trong cảnh mộng thời khổ
cùng vui rõ ràng. Cảnh mộng chịu khổ ở Ta Bà, sao bằng cảnh mộng an
vui nơi Cực Lạc. Huống lại cảnh mộng Ta Bà là từ mộng vào mộng
càng lúc càng đi sâu vào chốn mê say. Còn cảnh mộng Cực Lạc là từ mộng
ra khỏi mộng thành bậc Đại giác. Cõi uế cùng cõi tịnh dầu đồng cảnh
huyễn mộng, nhưng ảnh hưởng cùng kết quả khác xa nhau, vì thế
nên cần phải sớm tu Tịnh độ”.
Năm Gia Khánh thứ 15, tháng Hai. Đại
sư biết trước ngày vãng sanh, bèn đi từ biệt các nơi và dặn rằng:
“Thân hư huyễn này không bền lâu, ai nấy đều nên nỗ lực niệm
Phật, chúng ta sẽ gặp nhau ở Tịnh độ”.
Đến tháng Chạp, ngày mùng 2, thoạt thấy
trên hư không vô số tràng phan bửu cái từ hướng
Tây đến. Đại sư nói với đại chúng rằng: “Cảnh Tịnh
độ đã hiện, ta sắp sửa về Cực Lạc!”. Rồi Đại sư bảo đại
chúng luân phiên niệm Phật. Ngày 17, giờ Thân, Đại sư nói với đại
chúng rằng: “Hôm qua tôi thấy Văn Thù, Quan Âm và Thế
Chí ba vị Bồ Tát, bây giờ lại được Đức Phật tự thân đến tiếp
dẫn. Tôi đi đây!”. Nói xong, Đại sư đoan tọa xoay mặt về hướng
Tây nói: “Xưng một câu hồng danh thời thấy đặng một phần tướng hảo!”.
Dứt lời, Đại sư kiết ấn mà tịch. Thọ 70 tuổi, Tăng lạp 49.
Giờ Đại sư viên tịch, cả chúng đồng nghe mùi hương lạ ngào ngạt. Để lộ
khánh 7 ngày, thi thể Đại sư sắc mặt tươi như sống, tóc bạc biến
thành đen. Lúc trà tỳ, đặng hơn trăm hột xá lợi.
LỜI PHỤ.- Trong các tông về Đại thừa, Thiền tông xưng là “Trực
chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật” cũng tự gọi là “giáo ngoại
biệt truyền”. Trong 11 vị Tổ Sư của Tịnh độ tông, hết 6 vị
nguyên là Thiền sư chánh truyền: Tam Tổ Thừa Viễn Thiền sư, Lục
Tổ Vĩnh Minh Thọ Thiền sư, Bát Tổ Phật Huệ Thiền sư, Cửu
Tổ Ngẫu Ích Thiền sư, Thập Tổ Tỉnh Am Thiền sư, Thập Nhứt Tổ Triệt
Ngộ Thiền sư. Các ngài ấy từ Thiền qua tu Tịnh, hoằng dương pháp
môn Tịnh độ. Tại sao các ngài không hoằng thiền mà trở lại hoằng
tịnh? Có hai nguyên nhân([12]):
1.- Trực chỉ thiền chỉ lợi cho
bậc Thượng thượng căn, còn bậc Trung và Hạ khó đại triệt đại ngộ được.
Không bằng Pháp môn niệm Phật phổ lợi ba căn: bậc Thượng
căn chứng lý nhứt tâm cao siêu Thượng phẩm, bậc tối Hạ
căn chuyên niệm cũng được đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng
sanh liền dự Thánh chúng, liền thấy Di Đà, liền gần Bồ Tát,
lo gì không đại ngộ đại triệt. Vì sự lợi ích hẹp (thiền) và
rộng (tịnh) như thế, nên các ngài mới cực lực dạy người khuyên người
đồng tu Tịnh độ, để ai ai cũng đều được lợi ích một cách chắc
chắn.
2.- Minh tâm kiến tánh phải
là bậc Thượng căn đại trí. Dầu đã được ngộ triệt, nhưng vô
minh phiền não cùng nghiệp tập từ vô lượng kiếp đến
nay, không phải nhứt đán mà sạch được. Nếu hoặc nghiệp còn chừng mảy tơ, vẫn y
nhiên ở vòng sanh tử, một mai cách ấm (bỏ thân này thọ thân khác)
khó bảo đảm không mê. Nếu được ngộ triệt mà được vãng
sanh thời thẳng đường thành Phật. Vì muốn bảo đảm cho sự giác
ngộ nên các ngài đã ngộ thiền bèn gồm tu tịnh, cầu sanh Cực
Lạc.
Không phải riêng gì các vị Thiền
sư trên đây, còn nhiều vị Thiền sư khác, và nhiều Tổ
sư trong các tông khác: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Thức v.v...
đồng hồi hướng Tịnh độ, đồng dẫn người về Tịnh độ, mà chúng
ta sẽ được xem lược sử của các ngài ở tập sau.
Ôi! Cực Lạc Tịnh Độ khác
nào biển cả: nghìn muôn sông lạch đều chảy dồn về, thượng Thánh hạ
phàm một lòng xu hướng.
Chúng ta, những người lập
chí “thượng cầu hạ hóa”, những người có nguyện “độ mình độ người” phải nên
sớm dùng “tín sâu”, “nguyện thiết”, “chuyên trì Phật hiệu” để được vãng
sanh, để dự Thánh chủng, để trụ bất thoái, để thành Bồ-đề, để độ chúng
sanh, đồng thành Phật đạo.
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm tịnh Phật độ
Cùng pháp giới chúng sanh
Đồng sanh Cực Lạc quốc
HÂN TỊNH
Ngày Phật Đản PL. 2497 (1953)
[1] Vì nơi ấy không có mạch nước, Ngài cầm tích
trượng dộng xuống đất, bỗng có rắn vàng nhỏ từ chỗ dộng trồi lên, nước ngọt
từ đất theo dấu rắn mà vọt ra, bèn thành suối tốt. Vì nhân
duyên ấy nên đặt hiệu tịnh xá là “Long Tuyền” (suối rồng).
[2] Xem lược sử ở tập sau
[3] Xem 48 điều nguyện ở chương Hoằng
Nguyện
[4] Xem bài “Hai Đại Thánh ứng
tích” ở chương thứ sáu
[5] Người đời trọng đức, kiêng danh
hiệu, nên quen gọi là “Vĩnh Minh Đại sư”
[6] Lời phê phán trong bốn bài kệ này
là cốt tủy của tam tạng. Cổ đức cho là nghìn Phật ra đời cũng
không dời đổi. Ý nghĩa rất xác đáng. Xem lời giải
thích của Ấn Quang Đại sư ở tập Thiền Tịnh quyết nghi.
[7] Ta quen gọi Tổ là Liên
Trì Đại sư
[8] Lời răn của Đại sư rất hiệp
với lời dạy của Nhị Tổ: “Chuyên tu thời mười người vãng sanh cả mười.
Còn tạp hạnh, nghìn khó được một giải thoát”.
Ôi! Tông thời thấu nghìn trăm công
án. Giáo thời suốt tam tạng kinh điển, người như thế rất hy hữu,
mà Đại sư còn cho là việc nơi bờ sanh tử, đến lúc lâm
chung trọn dùng không được thay, huống là kẻ kinh giáo qua
loa, tông chỉ chẳng thấu ư! Huống là kẻ cả năm lăng xăng tạp
hạnh ư! Cổ đức nói: “Sở vị tu hành, nguyện lai kết nghiệp”. Chúng
ta nên tự tỉnh tự xét, phải sớm chuyên tu mới được.
[9] Rỗng rang, rỗng trống: hoàn
toàn không có một niệm, một tưởng gì xen vào.
[10] Hai câu này Đại
sư trích lấy trong “Quy Sơn Cảnh Sách” để dẫn giải “tâm lực” và
“nghiệp lực”. Xem các đoạn kế sẽ hiểu được ý chỉ hai câu, nên để nguyên văn cho
toàn lý thú.
[11] Đạo Ngan Thiền sư, xem tiểu
sử ở tập sau.
[12] Xin xem và suy gẫm kỹ bốn bài
kệ luận Thiền và Tịnh của Lục Tổ Diên Thọ Đại sư. Có giảng rõ ở
tập “Thiền Tịnh quyết nghi” ở sau.
MẤY ĐIỆU SEN THANH
LIÊN DU
Hòa thượng Thích Thiền-Tâm
PHẦN HAI
LIÊN TÔNG CHƯ TỔ
HUỆ VIỄN ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Sơ Tổ)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn
Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu
Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn. Cả song thân đều khuyết danh.
Thuở ấy, còn gọi là thời Ngũ Hồ, mặc dù có nhiễu
nhương, nhưng các tư tưởng học thuyết Thánh Hiền lan rộng đã lâu, nên từ bé
ngài đã thấm nhuần nề nếp thuần phong đạo đức.
Niên hiệu Hàm Hoa thứ 9, ngài lên mười ba tuổi, được
song thân cho du học ở miền Hứa Lạc. Không bao lâu, từ Nho giáo đến các học
thuyết Lão, Trang cùng Bách gia chư tử, ngài đều đã thông biện đến mức siêu quần.
Trong niên hiệu Cảnh Bình, vừa 21 tuổi, cảm thấy các học
thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết được vấn đề sống chết luân hồi, mà
trong tâm hằng thao thức, ngài cùng ẩn sĩ Phạm Tuyên Tử định du phương tìm đạo
nhưng lúc ấy vì có loạn Thạnh Hồ đường giao thông bị trở ngại nên ý nguyện
không thành.
Thời gian sau, có Đạo An pháp sư, trú tại chùa Nghiệp
Trung ở núi Thái Hằng thuộc dãy Hằng Sơn, vân tập tăng chúng giảng dạy kinh điển,
các hàng đạo tục, vua quan, sĩ thứ đều cảm hoá hướng về. Ngài nghe danh mến đức;
tìm đến xin quy y, nương theo tu học.
Sau khi nghe Pháp sư giảng xong Kinh Bát Nhã, ngài suốt
thông tỏ ngộ than rằng: “Phật Pháp quả thật cao diệu bao la, xét lại học thuyết
của Khổng, Mạnh, Lão, Trang, khác nào như tro tàn cặn bã!”. Từ đó, ngài chuyên
tâm hôm sớm tụng đọc, suy nghĩ, tu tập. Đạo An thấy biết khen ngợi: “Về sau Phật
Pháp lưu thông ở Đông Độ, âu là do Huệ Viễn này chăng? ”
Niên hiệu Thái Nguyên thứ 6, Đại Sư du hóa đến Tầm
Dương, thuộc Tỉnh Giang Tây, xa trông cảnh Lô Sơn rộng rãi thanh tú, phải nơi
hành đạo, mới đến lập tịnh xá nương ở, thấy chỗ đó thiếu nước, vả lại bấy giờ,
tại bản xứ gặp cơn nắng hạn, các dòng suối đều cạn khô, Ngài phát tâm từ bi đến
khe núi, tụng kinh Hải Long Vương: Cầm tích trượng dộng xuống đất khấn nguyện,
bỗng có con bạch long từ dưới đất bay vọt lên hư không. Giây phút mưa to xối xả,
mực nước các nơi đều trở lại bình thường, tại đó xuất hiện dòng suối mát mẻ
trong xanh, quanh co tuôn chảy. Vì hiện tượng này, Ngài lấy hiệu tịnh xá là
Long Tuyền lúc ấy Pháp sư Huệ Vĩnh, một bạn đồng môn, trước đã trụ chùa Tây Lâm
bên phía tây Lô Sơn, muốn mời ngài cùng ở. Nhưng pháp duyên của Huệ Viễn Đại Sư
thạnh, học giả nương về ngài càng ngày càng đông, cảnh Tây Lâm đất hẹp không thể
lập đạo tràng dung chúng. Quan Thái Sử Hoàn Y thấy thế, phát tâm cất chùa cho
ngài bên phía đông Lô Sơn. Do uy đức của Đại sư, khi sắp khởi công kiến tạo,
vào một đêm nọ bỗng có cơn mưa giông to lớn, sấm sét vang trời. Sáng ra, đại
chúng thấy vật liệu xây cất, như các thứ to quý và các đá chất thành đống. Bởi
nhờ sức thần linh vật chuyển giúp công như thế, nên ngôi chùa ấy có tên Đông
Lâm Thần Vận Tự.
Khi ngôi lan nhã hoàn thành, đại sư đốc xuất chúng
ngày đêm tinh tấn hành đạo. Trước thời gian ấy, tại Quảng châu có các ngư dân
vào buổi hoàng hôn, thấy ánh sáng xuất hiện trên mặt biển, họ cùng đến tìm xem,
và vớt được một tôn tượng Văn Thù Bồ Tát rất đẹp, liền đem trình với quan thái
thú sở tại là Đào Khản. Tượng này được tôn trí tại chùa Hàn Khê. Sau đó, vị trụ
trì nhân có việc đến Hạ Khẩu ban đêm mộng thấy ngôi bản tự bị hỏa hoạn, chỗ thờ
đức Văn Thù có nhiều lòng thần ủng hộ vây quanh. Ông vội vã trở về, qủa thật
ngôi chùa đã bị lửa thiêu tàn trụi, chỉ có pho tượng là còn nguyên. Về sau, Đào
Công sắp đi chấn nhậm nơi khác, nhân thấy tôn tượng rất linh thiêng muốn đem
theo, nhưng dùng đủ mọi cách mà vẫn không di chuyển được. Nghe danh đức của
Ngài Huệ Viễn, ông đến viếng thăm, nhân tiện thuật lại mọi việc, và nhờ đại sư
chú nguyện để cung thỉnh về thờ tại chùa Đông Lâm. Lần này, khác hơn trước,
Long Thiên đều ủng hộ, một cơn gió nhẹ thổi đến, làm cho tôn tượng bỗng dưng
lay động, cuộc di chuyển rất thuận tiện dễ dàng. Tượng được tôn chí một nơi
trang nghiêm riêng biệt tại Đông Lâm, gọi là Văn Thù Các.
Trước chùa, để cảnh trí thêm phần trang nhã và muốn
phân định thời khắc, đại sư cho đào ao trồng hoa sen trắng, trên mặt nước thả
mười hai cánh sen gỗ, dẫn nước suối ra vào. Cứ mỗi giờ nước chảy đầy qua cách
sen gỗ. Đại chúng y theo đó định thời khóa tu hành, gọi là Liên Lậu.
Lần lượt các vị cao tăng, những hàng danh sĩ, mến đạo
phong của Huệ Viễn đại sư, đến xin dự chúng tu tập, mỗi ngày thêm nhiều trong
đây có những vị lỗi lạc tài hoa, như nhóm ông Tạ Linh Vận, trước kia thường
nhìn thiên hạ bằng đôi mắt trắng. Nhưng khi gặp đại sư, bỗng liền đổi thành
thái độ khiêm cung trước đạo phong an điềm giải thoát, và lời luận biện cao nhã
thông suốt của Ngài.
Khu vực Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, từ trước đã làm
nguy hại đến tánh mạng dân cư ở vùng ấy. Nhưng từ khi có chùa Đông Lâm, các
loài rắn dữ đều trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm thường vây quanh Đại Sư để nghe
giảng kinh. Bởi trường hợp này, Đại Sư được người đương thời tôn hiệu là “Bích
Xà Thánh Giả”.
Thỉnh thoảng lại có những danh tài bá lâm, tìm đến vấn
nạn ngài. Trong ấy đại để như pháp sư Huệ Nghĩa, cho đến quan thái úy Hoàn Huyền.
Nhưng khi tiếp kiến, gương mặt rộng rãi uy nghiêm, phong thái trầm tĩnh tự tại
của Đại Sư, các vị ấy bỗng nhiên mất tự chủ xuất hạn đầm đìa, rồi rút lui không
giám tranh biện. Ra ngoài họ đều kinh ngạc than thở: “Huệ Viễn Đại Sư có uy lực,
nhiếp chúng rất lạ lùng thật đáng nể phục!”.
Niên hiệu Long An thứ 3, và đầu năm Nguyên Hưng đời
Đông Tấn, quan phụ chính Hoàn Huyền lần lượt gởi cho ngài hai văn kiện bãi đạo
và thanh lọc hàng ngũ xuất gia. Nội dung của văn kiện gồm nhiều lý lẽ đề cập đến
việc không lợi ích cho quốc gia và sự hoang đường thiếu thiết thật của Phật
Giáo. Thời gian ấy, tăng chúng trong toàn quốc bị đạo luật này chi phối, nhiều
vị phải hoàn tục. Đại Sư đều tuần tự phúc đáp bằng lời lẽ vững mạnh thích đáng,
khiến cho đạo luật đó không được ứng dụng được tại tỉnh Giang Tây.
Trong niên hiệu Nghĩa Hy, An Đế từ Giang Lâm xa giá đến
Giang Tây, chấn nam tướng quân Hà Vô Kỵ yêu cầu ngài đích thân tiếp Vua. Đại sư
lấy cớ đau yếu từ khước không bái kiến. Đến năm Nguyên Hưng thứ hai, Hoàn Huyền
lai gởi văn thơ cho ngài, với nhiều lý luận bắt buộc hàng sa môn phải lễ bái quốc
vương. Đại sư soạn văn thư phúc đáp, và quyển Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận gồm
năm thiên để hồi âm. Triều đình đều nể trọng và phải chấp nhận quan điểm của
ngài.
Đạo đức, sự linh cảm, và công hộ trì Phật pháp của Đại
sư còn rất nhiều, nơi đây chỉ thuật lại phần khái quát. Những điểm này trong vô
hình đã khiến cho tỉnh Giang Tây biến thành trung tâm Phật hóa tại miền Nam.
— Đông Lâm, nhân khi rỗi rảnh, Đại sư họp chúng lại bảo:
“Chư vị đến đây niệm Phật, phải chăng đều cùng quyết chí gieo nhân lành cầu về
Tịnh độ ư?”. Nhân cơ duyên đó, ngài cùng đại chúng cho mời thợ khéo chiếu y
theo kinh điển, tạo tượng Tây Phương Tam Thánh. Ba tôn tượng A Di Đà, Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí khi tạo thành rất cao lớn tươi đẹp, có đủ nét tướng uy đức
trang nghiêm. Tượng Tam Thánh ấy được phụng cúng ở Bát Nhã Đài ở Đông Lâm. Vào
tiết Mạnh Thu năm Mậu Thìn, nhằm ngày lạc thành tôn tượng, Đại sư cùng tất cả
chúng kết lập Bạch Liên Xã, nguyện đồng sanh về cõi Liên bang. Khi ấy, ông Lưu
Di Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào bia đá. Các danh sĩ như nhóm ông Vương
Kiều Chi lại viết thành tập thơ, lấy tên Niệm Phật Tam Muội để tỏ bày ý chí. Đại
sư vì làm lời tựa như sau:
“Tam muội là thế nào?” Chính là nhớ chuyên, tưởng lặng
vậy. Nhớ chuyên, thì chí một tâm đồng. Tưởng lặng, thì khí thanh thần sáng. Khí
thanh thì trí soi ngộ đến lý nhiệm mầu. Thần sáng thì không chỗ u vi nào chẳng thấu.
Hai điểm này tự nhiên thầm hợp nương về, mà phát sinh ra diệu dụng.
Lại các môn Tam muội, danh mục rất nhiều, công cao dễ
tu, Niệm Phật là thắng. Tại sao thế? Vì cùng nơi huyền tịch, mới hiệu Như Lai,
thể hợp với thần, mười phương ứng hiện. Thế nên, khi vào tam muội, lặng lẽ vong
tri, trí sáng chiếu cảnh duyên, gương lòng bày muôn tượng. Chỗ mắt tai không đến
được, mà vẫn thấy vẫn nghe. Nơi linh trí lặng sáng thanh, nên hằng thông hằng
suốt. Nếu chẳng phải bậc căn cơ linh mẫn, thì làm sao được cảnh điệu huyền ư?
Hôm nay, cùng chư hiền tu tập, đồng nương kết pháp
duyên. Rửa lòng cửa Phật, những e còn kém duyên sen. Chuyên ý sớm hôm, cảm nỗi
tháng ngày chẳng lại. Chí nguyện ba thừa thông suốt, bước đạo tiến cao. Lòng
mong dìu dắt người sau, lối tranh tẩy sạch. Xin xem thiên bài mà thấu ý, đừng
theo văn vịnh để vui tâm.
Đại sư vì thấy miền Đông Nam kinh tạng còn thiếu nhiều,
nên sai đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp Lĩnh cùng nhiều vị khác vượt ngọn Thông Lãnh
sang Tây Thiên, tìm thỉnh các thứ kinh Phạn bản. Trải nhiều năm vượt suối băng
ngàn, dãi nắng dầm sương, chịu đủ mọi nỗi khó khăn trở ngại, đoàn thỉnh kinh từ
Tây Vức mới trở về, mang lại nhiều kết quả mong muốn. Tuy nhiên, nguyên bản còn
là chữ Phạn. Huệ Viễn đại sư phải cho người đến Trường An thỉnh Tôn Giả Phật Đà
Bạt Đà La, họp cùng những vị khác đến Lô Sơn phiên dịch các kinh điển ấy. Đại
sư lại viết thư thỉnh cầu tôn giả Đàm Ma Lưu Chi, người Tây Trúc dịch thành bộ
Thập Tụng Luật. Thời ấy, những kinh luật lưu hành từ Lô Sơn, có gần đến trăm thứ.
Tuy xiển dương Tịnh Độ, Đại sư vẫn lưu tâm đến các
pháp môn khác, viết nhiều bài tựa về kinh luận, và hoàn thành mấy tác phẩm như
sau:
Đại Trí Luận Yếu Lược (20 quyển).
Pháp Tánh Luận.
Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận.
Đại Thừa Nghĩa Chương (3 quyển).
Thích Tam Bảo Luận.
Minh Báo Ứng Luận.
Sa Môn Đản Phục Luận.
Biện Tâm Thức Luận.
Phật Ảnh Tán.
Du Lô Sơn Thi.
Lô Sơn Lược Ký.
Du Sơn Ký.
Ngoài ra còn nhiều văn thư biện luận về Phật pháp giữa
Đại sư với Ngài Cưu Ma La Thập, cùng các ông Lưu Di Dân, Đới An và những hàng tấn
thân, đều được người đương thời truyền tụng. Trong bộ Pháp Tánh Luận, Đại sư
phát minh lý Niết Bàn Thường Trú. Khi bộ luận này truyền đến Quan Trung, Pháp
Sư Cưu Ma La Thập xem được, khen rằng: ” Lành thay! Huệ Viễn Đại Sư cư ngụ vùng
biên phương, chưa đọc kinh Đại Niết Bàn, mà lời luận lại thầm hợp với chân lý. Ấy
chẳng phải là điều kỳ diệu hay sao?”
Bạch Liên Xã do Đại sư thành lập, quy tụ hơn ba ngàn
người, trong đây có 123 vị được tôn là HIỀN. Trong 123 vị Hiền này, lại có 18 bậc
thượng thủ gọi là Đông Lâm Thập Bát Đại Hiền, gồm các ngài như sau:
Huệ Viễn Đại Sư.
Huệ Vĩnh Pháp Sư.
Huệ Trì Pháp Sư.
Đạo Sanh Pháp Sư.
Phật Đà Gia Xá Tôn Giả.
Phật Đà Bạt Đà La Tôn Giả.
Huệ Duệ Pháp Sư.
Đàm Thuận Pháp Sư.
Đạo Kính Pháp Sư.
Đạo Bính Pháp Sư.
Đàm Tiên Pháp Sư.
Danh sĩ Lưu Di Đân.
Danh sĩ Lôi Thứ Tôn.
Danh sĩ Lôi Thứ Tôn.
Danh sĩ Tôn Bính.
Danh sĩ Vương Dã.
Danh sĩ Vương Thuyên.
Danh sĩ Châu Tục Chi.
Đại sư ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, chân không bước ra khỏi
núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần thiết với đời, nguyện giải quyết vấn
đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khi có khách đến viếng, lúc ra về Đại sư
chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê trước chùa rồi trở vào. Có một lần, hai danh
nhân là nho sĩ Đào Uyên Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận
khế hợp, khi đưa khách ra về, bất giác Đại sư bước ra khỏi cầu suối hồi nào
không hay. Vừa lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi.
Cả ba như bừng tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt. Người
sau dựng Tam Tiếu Đình tại nơi đây để lưu niệm. Trong Tây Phương bách vịnh, Nhất
Nguyên đại sư có biên ký điều trên như sau:
Tây Phương cổ giáo Thế Tôn Tiên
Đông độ khai tông hiệu Bạch Liên
Thập bát đại hiền vi thượng thủ
Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.
Tạm dịch:
Tây phương Phật dạy trước tiên
Truyền sang Đông độ Bạch Liên mở
đàng
Mười Tám hiền, học hạnh toàn
Hổ Khê dường hãy còn vang tiếng cười.
— Đông Lâm, hôm sớm Đại sư hằng lặng lòng quán tưởng,
chuyên chí về Tịnh đô, đã ba phen thấy thánh tướng mà trầm hậu không nói ra.
Năm Nghĩa Hy thứ mười hai, đêm ba mươi tháng bảy, ngài
ngồi tịnh nơi Bát Nhã đài. Lúc vừa mở mắt xuất định, bỗng thấy Phật A Di Đà
thân sắc vàng đầy khắp hư không. Trong ánh viên quang hiện vô số hóa Phật, mỗi
vị đều có Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên tả hữu. Lại thấy nước chảy chia thành mười
bốn ngọn quanh lộn lên xuống, phóng ra những tia sáng đẹp, diễn nói các pháp:
Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Đức Phật bảo ngài: Ta dùng sức bản nguyện đến
đây an ủi ngươi. Sau bảy ngày, ngươi sẽ được sanh về Cực Lạc”. Đại sư lại thấy
bạn đồng tu ở Liên Xã đã viên tịch trước, như các ông: Phật Đà Da Xá, Huệ Trì,
Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân…đều đứng phía sau Phật. Các vị ấy bước đến trước, chấp tay
chào và nói: “Ngài phát tâm sớm hơn
chúng tôi nay sao lại về muộn như thế?“.
Hôm sau, Đại sư cảm bịnh nhẹ, gọi đệ tử là Pháp Tịnh,
Huệ Bảo đến thuật lại, và nói: “Ta ở Lô Sơn này, trong mười một năm đầu, đã ba
lần thấy thánh tướng cùng các kỳ tích. Nay lại có điềm như thế, tất duyên sanh
Tịnh Độ đã đến thời kỳ!”. Rồi dặn bảo các việc sau, soạn quy chế để răn nhắc đại
chúng cùng nhau sách tiến tu tập.
Trong thời gian Đại sư lâm bịnh, chư Tăng khuyên ngài
phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị. Đại sư khước từ bảo: Thân người như
huyễn, nguyện giữ giới luật hoàn toàn thanh tịnh. Các Đại đức lại thỉnh ngài
dùng nước cơm, Đại sư bảo hãy dở luật tìm xem có đề cập đến điều này hay không?
Các luật sư tra cứu chưa xong, ngài đã viên tịch. Lúc ấy nhằm ngày mùng 6 tháng
8 năm Bính Thìn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ mười hai. Đại Sư thọ 83 tuổi.
Quan Thái Thú Tầm Dương là Nguyễn Bảo cùng đại chúng
làm lễ an táng và xây tháp ngài tại phía Tây Lô Sơn. Vua An Đế nhà tấn hay
tin rất thương tiếc, sắc phong cho đại sư thụy hiệu “Lô Sơn Tôn Giả, Hồng
Lô Đại Khanh, Bạch Liên Xã Chủ”. Các Vua đời sau đều có phong tặng để cảm niệm
công đức hộ pháp an dân của ngài.
THIỆN ĐẠO ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Nhị Tổ)
Thiện Đạo Đại Sư, người đời nhà Đường, chưa am tường
được xuất xứ. Trong niên hiệu Trinh Quán, nhân thấy bài văn Tịnh độ Cửu Phẩm Đạo
Tràng của Đạo Xước Thiền Sư ở Tây Hà, ngài rất mừng bảo: “Đây mới thật là cửa mầu
đi vào cảnh Phật. Tu các hạnh nghiệp khác xa vời quanh quất khó thành, duy pháp
môn này mau thoátt sanh tử!.
Từ đó ngài siêng cần tinh khổ sớm hôm lễ tụng. Ít lâu
sau lại đến kinh sư, khuyên tứ chúng niệm Phật. Mỗi khi ngài vào thất quỳ niệm
Phật, nếu chưa đến lúc kiệt sức, quyết không chịu thôi nghỉ. Lúc ra thất, mà vì
đại chúng diễn nói pháp môn Tịnh Độ. Hơn ba mươi năm, Đại sư vừa hóa đạo, vừa
chuyên tu, chưa từng ngủ nghỉ. Hằng ngày thường nghiêm trì giới hạnh không để
sai phạm một mảy may. Khi được cúng dường thức ăn ngon quí, ngài đem dâng cho đại
chúng, còn phần mình chỉ dùng thứ thô dở mà thôi. Tài vật của dân tín cúng cho,
ngài dùng tả hơn mười muôn quyển kinh A Di Đà, họa cảnh Tịnh độ được ba trăm bức.
Ngoài ra, thì dùng vào việc sửa sang chùa tháp, thắp đèn nối sáng, không chứa để
dư.
Kẻ đạo người tục quy hướng theo đức hóa của ngài, niệm
Phật rất nhiều kể đến số hàng vạn. Nhóm này thì tụng kinh A Di Đà từ mười vạn đến
năm mươi vạn biến. Nhóm khác mỗi ngày đêm niệm Phật từ một muôn đến mười muôn
câu. Trong đó những người hiện tiền chứng Tam Muội, lúc lâm chung được thoại ứng
vãng sanh, đông không thể kể xiết.
Có người hỏi: “Niệm Phật quyết chắc được vãng sanh
chăng?” Ngài đáp: ” Như ông tin tưởng và thực hành, chắc chắn sẽ được toại nguyện!”.
Nói xong, ngài tự niệm: Nam Mô A Di Đà Phật, liền một tia sáng từ trong miệng
phóng ra. Kế lại liên tiếp từ mười đến một trăm câu, mỗi câu đều có ánh sáng
quang minh dài nối nhau khiến sáng rực cả chùa. Sự thần dị này truyền đến Đế
kinh, vua Cao Tôn nghe được phụng tứ một tấm biển sắc tặng hiệu chùa là Quang
Minh Tự.
Đại sư có bài kệ khuyên tu như sau:
Da mồi tốc bạc lần lần,
Lụm cụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà,
Vẫn khổ suy già bịnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,
Đâu khỏi vô thường chết mất?
Duy có đường tắt thoát ly
Chỉ niệm A Di Đà Phật!
Có người gạn:
– Sao Hòa thượng không dạy người quán tưởng Phật, mà
chỉ bảo chuyên trì danh?
Ngài đáp:
– Chúng sanh đời nay phần nhiều chướng nặng tâm thô,
thức thần tán động, mà cảnh tịnh độ rất tế diệu, nên quán tưởng khó thành. Vì
thế đức Phật xót thương, khuyên thẳng nên xưng danh hiệu. Chính vì xưng danh hiệu
là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau tu như thế suốt đời, thì mười kẻ
niệm mười kẻ được vãng sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế?
– Vì không duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện
của Phật hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật và chư
Thánh chỉ dạy.
Nếu bỏ chuyên niệm mà tu xen tạp những hạnh khác, thì
trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn kẻ vãng sanh. Bởi tại sao? – Vì
duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm. Vì không hợp với bản nguyện của
Phật A Di Đà. Vì trái với kinh giáo và lời Phật, Thánh. Vì sự hệ niệm không nối
tiếp nhau. Vì tâm không thường nhớ Phật. Vì tuy hành đạo mà thường tương ưng với
danh lợi. Vì thích theo duyên tạp, làm chướng chánh hạnh vãng sanh của mình và
người.
Gần đây, hàng đạo tục kiến giải không đồng, kẻ thích
chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Xin khuyên nhắc: Nếu chuyên niệm Phật, mười kẻ niệm
mười kẻ được vãng sanh. Như tạp tu mà không chí tâm, thì trong ngàn người khó
mong được một. Nguyện tất cả đều nên chín chắn tự suy xét kỹ!
Lại người niệm Phật đi đứng nằm ngồi, phải cố gắng nhiếp
tâm ngày đêm chớ rời thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới
lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sanh Cực lạc. Từ đây vĩnh
viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư?
Đại sư cũng từng dạy phương pháp giữ vững chánh niệm
trong lúc lâm chung như sau:
– Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về
Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp,
biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc
thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô lượng sự
an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi đáng
thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn tham luyến.
Lúc vừa có bịnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên
dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến
thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên
dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành vui, vì đó chỉ là chuyện bông
lông vô ích. Phải bảo trước cho quyến thuộc biết, lúc mình bịnh ngặt sắp chết,
đừng rơi lệ thương khóc, hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm kẻ lâm chung rối
loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm. Nói tóm lại, tất cả chỉ giữ một việc xưng
danh trợ niệm cho đến sau khi tắt hơi. Nếu lại được bậc tri thức hiểu rành về Tịnh
độ, thường đến khuyên thật là diệu hạnh! Như lúc lâm chung biết áp dụng phương
pháp này tất sẽ được vãng sanh không còn nghi ngờ chi nữa.
Việc vượt qua cửa tử là điều rất quan hệ lớn lao, phải
tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm, tất nhiều kiếp sẽ chịu khổ lụy
đâu có ai thay thế cho mình? Phải chú ý nghĩ suy và nghi nhớ kỹ!
Một hôm, Đại sư bỗng bảo người rằng: “Thân này đáng
chán, ta sắp về Tây!” Nói xong leo lên cây liễu trước chùa, chấp tay hướng về
Tây chúc nguyện rằng: Xin Phật và Bồ Tát tiếp dẫn con, khiến cho không mất
chánh niệm, được sanh về cực Lạc. Nguyện xong, gieo mình xuống nhẹ nhàng như
chiếc lá rơi, ngồi kiết già ngay thẳng trên mặt đất.
Đại chúng vội chạy đến xem thì ngài đã tắt hơi viên tịch.
Lời bình:
Các bậc tu thiền đắc đạo, muốn biểu hiện sự sống chết
tự tại, có vị đứng mà hóa, có vị trở ngược đầu xuống đất đưa hai chân lên trời
mà viên tịch. Nếu chưa phá tan ngũ uẩn, khi từ trên cao rơi xuống, dù bậc phục
được hoặc phát ngộ cũng khó giữ vững được chánh niệm. Hành động của Thiện Đạo đại
sư, từ trên cây gieo mình xuống đất ngồi kiết già mà hóa, là biểu hiện sự sống
chết tự tại, tuỳ niệm vãng sanh một cách tuyệt mức. Đại sư muốn ngầm khai thị:
“Niệm Phật được nhất tâm chứng ngộ, thì Tịnh tức là Thiền vậy.
THỪA VIỄN ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Tam Tổ)
Thừa Viễn Đại Sư, người đời Đường, nguyên quán từ đâu,
chưa rõ được xuất xứ. Ban sơ, ngài theo học với Đường thiền sư ở Thành Đô, kế lại
học với Tản thiền sư ở Tứ Xuyên. Sau ngài đến Kinh Châu tham học với Chân pháp
sư ở chùa Ngọc Tuyền.
Sau khi học nghiệp đã xong, tu hành đã ngộ, Chân công
khuyên đến hoằng sơn để ứng duyên hoằng hóa. Trước tiên khi mới đến, Đại sư cất
thảo am dưới gộp đá phía Tây Nam non Hoành. Người đạo tâm hay biết, đem cúng
cho thức ăn thì ngài dùng, hôm nào không có thì ăn bùn đất, tuyệt không hề đi
quyên xin. Khổ tu như thế, đến nỗi mình gầy mặt nám, trên thân chỉ còn một chiếc
y cũ rách.
Về phần truyền giáo, Đại sư đứng theo lập trường Trung
đạo, tùy căn cơ mỗi người mà quyền biến chỉ dạy. Thấy cư dân quanh vùng phần
nhiều khổ tật bệnh, ngài rộng truyền pháp môn Tịnh độ, khuyên mọi người đều nên
niệm Phật. Trên đá, nơi gốc cây, ven đường, Đại sư đều có viết lời thánh giáo,
khuyên tỉnh ngộ lẽ đạo việc đời, cần chuyên niệm Phật. Do đức hóa của ngài, từ
đó không cần chỉ dẫn nhiều, mà lần lượt kẻ mang vải, gạo, người khiêng đá gỗ, đến
càng lúc càng đông, xây thành cảnh chùa, đến nỗi có dư bố thí cho kẻ nghèo đói.
Ngài vẫn thản nhiên, không khước từ cũng không khuyến khích, để họ xây cất sửa
dọn tùy tâm. Chẳng mấy lúc nơi vùng hoang sơn trước kia, đã trở thành cảnh lan
nhã thanh u đồ sộ. Lần lần về sau, bốn phương xa gần người tín hướng quy y niệm
Phật càng nhiều, như nước trăm sông đổ về biển, phải lấy số vạn mà kể.
Trước đó, có ngài Thích Pháp Chiếu ở Lô Sơn, một hôm
nhập định, thần thức dạo chơi cõi Cực Lạc. Bên đức Phật, thấy có vị Tăng mặc áo
rách đứng hầu. Đức A Di Đà chỉ vị Tăng ấy mà bảo rằng: “Ngươi có biết chăng,
người này là Sa môn Thừa Viễn ở Hoành Sơn đấy! “. Sau khi xuất định, Pháp Chiếu
đến Hoành Sơn tìm. Lúc gặp Thừa Viễn đại sư, nhìn đúng là vị Tăng áo rách mà
mình đã thấy, liền xin theo làm đệ tử.
Về sau, ngài Pháp Chiếu đi truyền giáo khắp nơi, danh
đức rộng lớn, được vua Đại Tông nhà Đường phong làm Quốc Sư. Nhân khi nhàn nhã,
Quốc sư thuật lại đạo hạnh của thầy mình cho vua nghe. Đại Tông muốn thỉnh ngài
Thừa Viễn lai kinh để học đạo, nhưng rồi tự biết đó bậc chí đức không thể vời
rước được, liền xây về phương nam, hướng về phía Hoành Sơn mà đảnh lễ. Kế đó,
vua truyền chỉ phong tặng chỗ ở của ngài hai tấm biển: một tấm đề Sắc Tứ Di Đà
Tự. Tấm kia niêm mấy chữ Bát Chu Tam Muội Đạo Tràng. Vua lại truyền cho ông Liễu
Tôn Nguyên soạn bài văn ký sự khắc vào bia đá, dựng bên cổng trước chùa.
Vào năm Trinh Ngươn thứ mười tám đời Đường, nhằm ngày
19 tháng 7, Đại sư an lành thị tịch thọ chín mươi mốt tuổi.
PHÁP CHIẾU ĐẠI SƯ
(Liên Tông Tứ
Tổ)
Pháp Chiếu đại sư, chưa rõ là người bậc thế nào? Trong
năm Đại Lịch thứ hai đời nhà Đường, hàng đạo tục được biết ngài ở chùa Vân
Phong tại Hoành Châu, thường chuyên cần tu tập.
Một buổi sáng, vào lúc thanh trai, ngài thấy trong bát
cháo ở Tăng đường; hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh sơn tự,
phía Đông bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe nước có cửa
ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề “Đại Thánh Trúc Lâm
Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh chùa lớn ấy, gồm vườn
ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn Bồ Tát ở trong đó.
Ngài đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri thức. Một vị
cao Tăng bảo: “Sự biến hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về
địa thế non sông, thì đó là cảnh Ngũ Đài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý muốn đến
viếng Ngũ Đài thử xem sự thật ra thế nào”.
Năm Đại Lịch thứ tư, Đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại
chùa Hồ Đông. Ngày khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện
ra cung điện lầu các Phật A Di Đà cùng hai vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân
vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tánh trông thấy đều đặt
bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm
lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Đạo tràng khai liên tiếp
được năm hội.
Một hôm, Đại sư gặp cụ già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn
đến Kim Sắc thế giới tại Ngũ Đài Sơn, để đảnh lễ đức Đại Thánh Văn Thù sao đến
nay vẫn chưa thật hành ý nguyện?”. Nói xong liền ẩn mất. Được sự nhắc nhở, ngài
sửa soạn hành trang, cùng mấy pháp hữu, đồng viếng Ngũ Đài.
Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mùng sáu tháng tư, Đại
sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào khoảng
canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng
tia sáng mà theo dõi. Đi được năm mươi dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi
có khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử đứng
đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Đà. Theo chân hai đồng tử dẫn đường, ngài
đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề: “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi đây đất vàng,
cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễm trang nghiêm. Cảnh giởi qủa đúng như ảnh
tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.
Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy Đức Văn Thù bên
Tây, đức Phổ Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết
pháp cho một muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến
chí thành đảnh lễ, rồi qùy xuống thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng phàm phu
đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có
Phật tánh mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật lại qúa rộng rãi
mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành cho mau được giải thoát?”
Đức Văn Thù bảo:
Thời kỳ này chính là đúng lúc các người nên niệm Phật.
Trong các hành môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thuở đời qúa khứ,
ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà được Nhất thiết chủng trí. Tất
cả các pháp như: Bát Nhã Ba La Mật, những môn thiền định rộng sâu, cho đến chư
Phật cũng từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật là vua trong các
pháp môn”.
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi:
Bạch Đại Thánh! Nên niệm như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Đà giáo
chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên
niệm danh hiệu của ngài nối tiếp không dán đoạn, thì khi mạng chung, quyết được
vãng sanh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị đại Thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu
ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được qủa Vô
thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật, thì không chi hơn
niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.
Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui
mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng,
ngài quay lại thì người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy,
rồi trở về chùa Phật Quang.
Đến ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu dại sư cùng hơn năm
mươi vị Tăng đồng đến hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức
Phật. Vừa lạy được mười lượt, ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh
trang nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong ấy.
Hôm khác, ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ, nguyện thấy Đại
Thánh. Đang khi lạy xuống vừa ngước lên, Đại sư bỗng thấy một Phạm Tăng tự xưng
là Phật Đà Ba Ly. Vị này đưa ngài vào một đại điện trang nghiêm, biển đề là Kim
Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ báu lạ đẹp mầu, ánh sáng lấp lánh. Dù đã
nhiều lần thấy sự linh dị, nhưng ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.
Tháng chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi
chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu
hôm, ngày thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước
vào bảo: “Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền thuật cho người
đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vì Phạm Tăng hiện ra, bảo
y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ
nói ra người đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức
Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn
lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông thấy được truyền thuật với
chúng sanh làm duyên cho kẻ được biết, phát khởi tâm Bồ đề”. Ngài tuân lời, nhớ
kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi nghi chép ra truyền lại cho mọi người.
Năm sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Đông cùng với chư
Tăng chùa Hoa Nghiêm, theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó lại
đến chỗ dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Đại chúng còn đang ngậm ngùi
ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng chuông hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng
chuông thanh thoát ngân nga, nhặt khoan ràng rẽ. Ai nấy đều kinh lạ đồng công
nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì muốn cho người viếng
cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy, khắc những sự việc của ngài
nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó, một cảnh chùa trang nghiêm được dựng
lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để lưu niệm.
Triều vua Đức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm
Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong
cung nghe tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người
dò tìm, được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái
sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại hoàng
cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đương thời gọi ngài là Ngũ Hội Pháp Sư.
Từ đó Đại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một
đêm nọ ngài thấy vị Phạm Tăng khi trước là Phật Đà Ba Ly hiện đến bảo: “Hoa sen
công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng
thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”. Đến kỳ hạn, Đại sư gọi Tăng chúng lại căn dặn
rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người phẳi gắng tinh tu!” Nói xong, ngài ngồi ngay
yên lặng mà tịch.
THIẾU KHANG ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Ngũ Tổ)
Thiếu Khang đại sư họ Châu, người đời nhà Đường, ở
vùng núi Tiên Đô xứ Tấn Vân. Từ buổi sơ sanh, ngài im lặng không nói. Năm bảy
tuổi nhân lễ trai hội, ngài theo mẹ vào chùa lạy Phật. Bà chỉ tượng Phật hỏi đùa
rằng: “Con có biết đó là ai chăng?” Ngài bỗng ứng tiếng đáp: “Đức Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Thế Tôn!”. Biết con mình có duyên lành với Phật pháp, cha mẹ ngài liền
cho đi xuất gia. Căn cơ linh mẫn, đến mười lăm tuổi ngài đã thông suốt được năm
bộ kinh.
Niên hiệu Trinh Ngươn năm đầu, Đại sư đến viếng chùa Bạch
Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong đại điện phóng quang, ngài lại tìm xem,
thì áng sáng phát xuất từ tập văn Tây Phương Hóa Đạo của Thiện Đạo Hòa Thượng,
ngài liền khấn rằng: “Nếu tôi có nhân duyên với Tịnh độ, nguyện tập văn này
phóng quang một lần nữa!” Vừa dứt lời, ánh sáng lại càng chiếu ra rực rỡ, trong
ấy ẩn hiện hình dạng các hóa Bồ Tát. Ngài chấp tay nói: “Kiếp đá có thể mòn,
nguyện này thề không dời đổi!”.
Nhân đó, Đại sư đến Trường An, chiêm lễ di tượng của
Thiện Đạo Hòa Thượng. Đang khi lễ tượng của Nhị Tổ bỗng bay lên, bảo ngài rằng:
“Ông nên y theo lời dạy của ta mà phổ độ chúng sanh, ngày kia công thành, sẽ
sanh về Cực Lạc!”. Đi ngang qua Giang Lăng, ngài gặp một Sư cụ bảo: “Ông muốn
hoằng hóa, nên sang xứ Tân Định, cơ duyên ở nơi đó!” Nói xong bỗng biến mất.
Sau thời gian ấy, Đại sư, đến Tân Định, thấy người xứ
này chưa biết niệm Phật là gì. Dùng phương tiện, ban sơ ngài quyên tiền dẫn dụ
trẻ con niệm Phật. Nếu đứa nào niệm Phật được một câu; ngài liên thưởng cho một
đồng tiền. Như thế hơn một năm, rồi không cần thưởng tiền, chúng nó cũng niệm.
Tập quán lần quen, về sau lúc gặp đại sư ở trong nhà hay đi chơi ngoài đường,
chúng cũng vẫn niệm. Từ đó, nam nữ, già trẻ, hễ thấy ngài đều niệm: A Di Đà Phật!
Nhân sự việc này, dân chúng vùng ấy lần lượt phát tâm thờ cúng niệm Phật rất
nhiều.
Thấy cơ duyên đã có phần thuần thục, Đại sư thành lập
Tịnh độ đạo tràng ở Ô Long Sơn, xây đàn tam cấp. Cứ đến ngày trai, thiện nam
tín nữ đều họp nơi đó để niệm Phật nghe pháp. Thường thường số người họp có
trên ba ngàn. Mỗi khi thăng tòa, ngài chấp tay to tiếng niệm Phật, thì đại
chúng ở dưới đều xướng niệm hòa theo. Có lúc Đại sư xưng một câu Phật hiệu, hội
chúng thấy một đức Phật từ miệng ngài bay ra. Niệm đến mười câu, trăm, ngàn câu
đều có mười, trăm, ngàn, ngàn vị Phật bay ra, liên tiếp như xâu chuỗi. Đại sư bảo:
“Quí vị đã được thấy Phật, chắc chắn đều sẽ vãng sanh!” Mọi người nghe nói đều
có cảm niệm vui mừng an ủi.
Năm Trinh Ngươn thứ hai mươi mốt, vào tháng 10, Đại sư
họp hết hàng đạo tục đến dặn bảo rằng: “Các vị nên phát tâm chán lìa cõi ta bà
ác trược, ưa thích miền Tịnh độ an vui, mà cố gắng tu hành tinh tấn. Giờ phút
này ai thấy được quang minh của ta, kẻ ấy mới thật là hàng đệ tử”. Nói xong,
ngài phóng vài tia sáng lạ đẹp dài, rồi ngồi yên lặng mà tịch.
Đại chúng xây tháp ngài ở Đài Nham, tôn hiệu là Đài
Nham Pháp Sư.
DIÊN THỌ ĐẠI SƯ
(Liên Tông Lục
Tổ)
Diên Thọ Đại sư, tự Xung Huyền, người đời Tống, con của
họ Vương ở Tiền Đường. Lúc thiếu thời, ngài thích tụng kinh Pháp Hoa, cảm đến bầy
dê quỳ mọp nghe kinh.
Lớn lên, Xung Huyền được Văn Mục Vương tuyển dụng, cho
làm quan trông nom về thuế vụ. Nhiều lần ngài lấy tiền công qũy đến Tây Hồ mua
cá trạnh phóng sanh. Việc phát giác ra, bị Pháp ty thẩm định, xử ngài vào tội tử
hình. Lúc sắp đem đi chém, Văn Mục Vương bí mật cho người rình xem, nếu thấy
ngài nhan sắc thản nhiên, không tỏ về buồn rầu lo sợ, thì phải đem về trình lại.
Thấy ngài trước sau vẫn an điềm. Sứ giả trao sắc chỉ cho quan Giám trảm, rồi dẫn
về diện kiến vua. Khi Vương hỏi duyên cớ, ngài đáp: “Tôi tự dụng của công, đáng
tội chết. Nhưng toàn số tiền đó, tôi dùng mua cứu được muôn ức sanh mạng, thì
dù thân này có chết, cũng được vãng sanh về cõi Liên Bang, vì thế nên tôi không
lo sợ”. Văn Mục Vương nghe qua cảm động, ra lịnh tha bổng. Ngài xin xuất gia,
Vương bằng lòng.
Sau đó, ngài đến quy đầu với Thúy Nham thiền sư ở Tứ
Minh. Kế lại tham học với Thiều Quốc Sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc
sư ấn khả, ngài từng tu Pháp Hoa Sám ở chùa Quốc Thanh. Trong lúc thiền quán thấy
đức Quán Thế Âm Bồ Tát rưới nước cam lồ vào miệng, từ đó được biện tài vô ngại.
Do túc nguyện muốn chuyên chủ về Thiền hoặc Tịnh mà chưa quyết định, ngài đến
thiền viện của Trí Giả đại sư, làm hai lá thăm: một lá đề Nhất tâm Thiền định,
còn lá kia là: Trang nghiêm Tịnh độ. Kế lại chí tâm đảnh lễ Tam Bảo sám hối, cầu
xin gia bị. Đến khi rút thăm, luôn bảy lần đều nhằm lá Trang Nghiêm Tịnh Độ. Từ
đây ngài nhất ý tu về Tịnh nghiệp.
Năm Kiến Long thứ hai đời Tống. Trung Ý Vương thỉnh
ngài trụ trì chùa Vĩnh Minh, tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. Ngài ở đây trước
sau mười lăm năm, độ được một ngàn bảy trăm vị Tăng. Đại sư lập công khóa, mỗi
ngày đêm hành trì một trăm lẻ tám điều và hai điều đặc biệt trong đó, là tụng một
bộ kinh Pháp Hoa, niệm mười muôn câu Phật hiệu. Ban đêm khi ngài qua gộp núi
khác niệm Phật, những người ở gần nghe tiếng loa pháp cùng thiên nhạc trầm bổng
du dượng. Về kinh Pháp Hoa, trọn đời ngài tụng được một muôn ba ngàn bộ. Đại sư
thường truyền giới Bồ Tát, mua chim cá phóng sanh, thí thức cho qủi thần, tất cả
công đức đều hồi hướng về Tịnh độ. Ngài có trứ tác một trăm quyển Tông Cảnh Lục,
hội chỉ thú dị đồng của ba tông: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Duy Thức.
Đại sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Đồng Quy. Trong đây lời
lẽ chỉ dạy về Tịnh độ rất thiết yếu, đại lược như sau:
Hỏi: –Cảnh duy tâm Tịnh độ đầy khắp mười
phương, sao không hướng nhập, mà lại khởi lòng thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở
đài sen. Như thế đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa tịnh thì đâu
thành bình đẳng?
Đáp:- Sanh duy tâm Tịnh độ là phần của
các bậc đã liễu ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng. Tuy nhiên, theo kinh
Như Lai Bất Từ Nghị Cảnh Giới, thì những bậc chứng Sơ địa vào Duy tâm độ, cũng
nguyện xả thân để mau sanh về Cực Lạc. Thế thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh
Cực Lạc đâu ngoài Duy Tâm? Còn về Phần “Lý vô sanh mà môn bình đẳng” tuy lý
thuyết là như thế, nhưng kẻ lực lượng chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng,
lại gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng nhập được. Những kẻ ấy cần
phải cầu sanh Cực Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau chứng vào Tịnh độ
duy tâm và thực hành Bồ Tát.
Thập Nghi Luận cũng nói: “Bậc trí tuy liễu vô sanh,
song vẫn hăng hái cầu về Tịnh độ, vì thấu suốt sanh thể như huyễn không thể tìm
được. Đó mới thật là chân vô sanh. Còn kẻ ngu không hiểu lý ấy, bị nghĩa sanh
ràng buộc nghe nói sanh thì nghĩ rằng thật có tướng sanh, nghe nói vô sanh lại
tưởng lầm là không sanh về đâu cả. Do đó, họ mới khởi niệm thị phi chê bai lẫn
nhau gây thành nghiệp tà kiến báng pháp. Đáng thương thay!
Hỏi:- Kinh luận nói: “Ngoài tâm không
pháp, Phật không khứ lai”. Nhưng sao người tu Tịnh độ lại thấy Thánh tướng và
việc Phật đến rước là như thế nào?
Đáp:- Kinh Bát Chu nói: “Như người nằm
mơ thấy bảy thứ báu, hàng thân thuộc đều cùng vui mừng. Đến lúc thức tỉnh nghĩ
lại, chẳng biết cảnh sang giàu ấy ở đâu? Sự việc niệm Phật cũng như vậy”. Thế
thì biết các cảnh đều như huyễn, do duy tâm hiện, tức có mà không, tuy hiện tướng
khứ lai song thật không có đến đi. Cho nên, thánh cảnh tuy như huyễn, song chẳng
phải không có huyễn tướng, việc đến đi tuy không thật, song chẳng ngại gì có tướng
khứ lai. Đó là lý trung đạo. Huyễn sắc tức chân không chính huyễn sắc, có và
không đều vô ngại. Tất cả sự và cảnh chúng sanh đang sống ở thế gian này, cũng
đều như thế.
Thật ra, chân cảnh của duy tâm, không có đông tây cùng
phương hướng, không có đến đi qua lại, cũng không có một pháp nào ngoài tâm.
Nhưng với bậc đã dứt trừ nghiệp hoặc, chứng vô sanh nhẫn, vào thật tướng của
pháp thân, mới dám đương sánh huyền lý trên đây. Còn hàng sơ tâm mới tu, chớ
nên lầm tự nhận.
Hỏi:- Theo Quán kinh thì phải nhiếp tâm
vào định, quán y báo chánh báo cõi Cực lạc rõ ràng, mới có thể về Tịnh độ. Tại
sao kẻ chưa vào định, tu môn Trì danh cũng được vãng sanh?
Đáp:- Chín phẩm sen ở Cực lạc gồm nhiếp
tất cả công hạnh thấp cao, song không ngoài hai điểm: Định tâm và Chuyên Tâm.
1. Định tâm hay định thiện, là những vị tu tập quán
pháp thành công, hoặc trì danh hiệu được vào tam muội. Các vị này sẽ sanh về
thượng phẩm.
2. Chuyên tâm hay tán thiện, là những người chỉ niệm
danh hiệu chưa được vào tam muội, hoặc tu các công đức lành khác trợ giúp, rồi
phát nguyện hồi hướng. Hạng người này cũng được dự vào các phẩm thấp hơn. Nhưng
cần phải trọn đời quy mạng Tây phương và chuyên cần tu tập. Lúc ngồi nằm thường
xây mặt về Tây phương. Khi niệm Phật, lúc phát nguyện, phải chí thành không xao
lãng. Tâm niệm khẩn thiết ấy ví như kẻ bị gông xiềng tù ngục cầu mau thoát ly;
người lâm cảnh lửa cháy, nước trôi, hoặc giặc cướp rượt đuổi mong được thoát khỏi
nạn. Lại phải vì sự sống chết, phát lòng Bồ đề, cầu sanh Tây Phương, mau thành
Thánh đạo để đền đáp bốn ân, nối thạnh Tam Bảo, độ khắp muôn loài. Chí thành
như thế, quyết chắc sẽ được kết qủa.
Trái lại, nếu lời và hạnh không hợp nhau, sức tín nguyện
yếu kém, tâm không chuyên nhất, sự tu hành không tương tục thì khó hy vọng
thành công. Bởi kẻ biếng trễ như thế e khi lâm chung bị nghiệp chướng trở ngăn,
chẳng gặp bạn lành, lại thêm thân thể đau nhức, tâm thức hôn mê, không thành
chánh niệm. Vì sao? Bởi hiện tại là nhân, khi lâm chung là qủa. Cần phải nhân
cho chắc thật, qủa mới không hư luống, như tiếng hòa nhã thì vang dịu dàng,
hình ngay tất bóng thẳng vậy. Nếu muốn khi sắp chết mười niệm thành công, thì
ngay lúc hiện tại phải một lòng chí thiết tinh tấn tu hành, tất không còn điều
chi lo ngại.
Đại khái, chúng sanh bởi tâm chia thiện ác, nên báo có
khổ vui. Do nơi ba nghiệp tạo thành, mới khiến sáu đường luân chuyển. Nếu tâm
sân hận, tà dâm, đó là nghiệp Địa ngục. Tâm tham lam, bỏn xẻn là nghiệp Ngạ qủy.
Tâm ngu si, tà kiến là nghiệp Súc sanh. Tâm ngã mạn, tự cao là nghiệp Tu la. Giữ
bền Ngũ giới, là nghiệp người. Tiến tu Thập Thiện là nghiệp Trời. Chứng ngộ
nhân không, là nghiệp Duyên giác. Tu trọn Lục độ, là nghiệp Bồ Tát. Chân từ
bình đẳng là nghiệp Phật.
Nếu tâm thanh tịnh niệm Phật, thì hóa sanh về Tịnh độ,
ở nơi bảo các hương đài. Như ý mê tối đục nhơ, tất bởi chất cõi uế bang, nương
cảnh nổng gò hầm hố. Cho nên lìa được tự tâm không còn biệt thể, muốn được qủa
tịnh, phải chủng nhân mầu. Như tánh nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên, lý thế tất
nhiên, có chi mà ngờ vực!
Đại sư lại vì người đương thời còn phân vân giữa Thiền
và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết qủa chắc chắn, nên làm kệ Tứ Liệu Giản để
so sánh sự lợi hại như sau:
– Có Thiền không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lộ.
Ấm cảnh khi hiện ra
Chớp mắt đi theo nó.
– Không Thiền có Tịnh độ
Muôn tu muôn thoát khổ.
Vãng sanh thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ?
– Có Thiền có Tịnh độ
Như thêm sừng mãnh hổ.
Hiện đời làm thầy người
Về sau thành Phật, Tổ.
– Không Thiền không Tịnh độ
Giường sắt, cột đồng lửa!
Muôn kiếp lại ngàn đời
Chẳng có nơi nương tựa.
Niện hiệu Khai Bảo thứ tám, ngày 26 tháng 2 vào buổi
sáng sớm. Đại sư lên chánh điện đốt hướng lễ Phật. Lễ xong, ngài họp đại chúng
lại dặn dò khuyên bảo, rồi ngồi kiết già trên pháp tòa mà thị tịch, thọ được bảy
mươi hai tuổi.
Về sau, có vị Tăng từ Lâm Xuyên đến, trọn năm kinh
hành lễ tháp của Đại sư. Có người hỏi duyên cớ, vị Tăng đáp: Năm trước tôi bị bịnh
nặng, thần thức vào cõi u minh, thấy bên tả đại điện có thờ tượng một vị Hòa
thượng. Minh Vương đang cung kính lễ bái tượng ấy. Tôi thưa hỏi nguyên do, mới
biết đó là tượng Diên Thọ thiền sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu. Ngài đã vãng
sanh về phẩm Thượng thượng nơi cõi cực Lạc. Minh Vương trọng đức nên kính thờ”.
Theo truyện ký, vào thời Ngô Việt Vương, tại Hàng Châu
có Hòa thượng Hành Tu, trụ trì chùa Pháp Tướng. Ngài vốn con nhà họ Trần ở Tuyền
Nam, sanh ra có tướng lạ, hai tai dài chấm tới vai, đến bảy tuổi vẫn không nói.
Một hôm có người đùa hỏi, ngài bỗng ứng tiếng đáp: “Nếu không gặp bậc tác gia,
nói cho lắm chỉ xô phá lầu khói mà thôi!”.
Sau ngài xuất gia ở chùa Ngõa Quan tại Kim Lăng, tham
phỏng với Tuyết Phong thiền sư, ngộ được tâm ấn. Từ đó mãnh thú gặp ngài đều thuần
thục, từng nổi tiếng là ông Tăng có nhiều sự phi thường, linh dị. Có một Đại đức
hỏi: “Thế nào ý nghĩa của đôi tai dài?” Ngài không đáp, chỉ kéo dài hai tai mà
biểu thị. Lại hỏi: “Chót núi phương Nam có khó đến chăng”?”. Ngài đáp: “Chỉ tại
chưa từng đi đến”. Hỏi: “Sau khi đến rồi như thế nào?. Đáp: “Một mình nằm nghỉ
đỉnh non cao”.
Ngô Việt Vương nhân khi đến chùa lễ Phật, có hỏi ngài
Vĩnh Minh: “Bạch tôn đức! Thời nay có bậc chân Tăng nào khác chăng?” Đại sư
đáp: “Có Hòa thượng Hành Tu, đôi tai dài, chính là Phật Định Quang ứng thân đấy!”.
Vương tìm đến ngài Hành Tu cung kính đảnh lễ, tôn xưng là Định Quang Như lai ra
đời. Ngài bảo: “Vĩnh Minh Đại sư thật khéo nhiều lời. Ông ta cũng chính là Phật
A Di Đà ứng thân đó”. Nói xong, ngồi yên mà hóa. Ngô Việt Vương vội vã trở về
chùa Vĩnh Minh định gạn hỏi hết, thì Đại sư cũng đã thị tịch.
Do đó, người đương thời truyền nhau: Vĩnh Minh đại sư là
Phật A Di Đà ứng hóa. Và hàng Tăng tục mới lấy ngày sanh nhật của Đại sư
ngày 17 tháng 11 là lễ vía kỷ niệm Phật A Di Đà.
TỈNH THƯỜNG ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Thất Tổ)
Tỉnh Thường đại sư, tự Thứu Vi, người đời Tống, con
nhà họ Nhan ở Tiền Đường. Khi lên bảy, ngài gặp duyên lành xuất gia và mới mười
bảy tuổi đã thọ giới cụ túc.
Trong niên hiệu Thuần Hóa, Đại sư đến trụ trì chùa
Chiêu Khánh. Vì mến di phong của Lô Sơn, ngài tạo tượng Phật A Di Đà kết hợp bạn
sen, thành lập Liên Xã. Sau đó, ngài lại chích máu tả phẩm Tịnh Hạnh trong Kinh
Hoa Nghiêm. Do nhân duyên ấy lại đổi tên Liên Xã thành Tịnh Hạnh Xã. Hàng
sĩ phu dự vào hội niệm Phật được một trăm hai mươi người. Ngoài ra các hàng nam
nữ thiện tín khác có đến hàng vạn, đều xưng là Tịnh Hạnh đệ tử. Trong đây quan
Tướng Quốc Hương Văn Đán làm hội thủ. Riêng phần tỳ kheo tăng, Đại sư độ được
hơn một ngàn người, đều tu môn niệm Phật.
Năm Thiên Hy thứ tư, ngày 12 tháng giêng, theo thường
khóa Đại sư ngồi kiết gia niệm Phật. Giây lát, bỗng nói to lên rằng: “Đức
A Di Đà Thế Tôn đã đến!”. Rồi ngồi yên mà hóa, thọ 62 tuổi.
Trong giờ ngài thị tịch, đại chúng thấy mặt đất biến
thành sắc vàng ròng, rất lâu mới hoàn phục như cũ.
Lời phụ:
Kinh dạy: “Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Đại sư
đã tu nhân niệm Phật thanh tịnh, tất phải cảm tịnh quả. Nhưng vì tịnh qúa mãnh
liệt nên không đợi sanh về Tây phương mà ảnh hưởng đến cảnh uế độ này tạm biến
thành sắc hoằng kim. Đây là một bằng chứng cho biết cảnh đất vàng cây báu ở Tịnh
độ là có thật, vì “Tất cả pháp do tâm tạo”.
Quả vị của Đại sư tất ở ngôi Thượng thượng phẩm.
CHÂU HOẰNG ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Bát Tổ)
Châu Hoằng đại sư, tự Phật Huệ, hiệu
Liên Trì, người đời Minh, con nhà họ Trầm, ở xứ Nhân Hòa tại Hàng Châu. Năm mười
bảy tuổi ngài đã được bổ làm Giáo thọ, nổi tiếng là người học hạnh kiêm toàn.
Láng giềng có bà lão, mỗi ngày niệm Phật
vài ngàn câu, lấy làm thường khóa. Nhân lúc rỗi rảnh sang chơi, ngài hỏi duyên
cớ, bà đáp: “Ông nhà tôi lúc sanh tiền chuyên lo niệm Phật, đến khi chết, không
đau bịnh chi, vui vẻ vòng tay cáo từ mọi người mà qua đời. Do đó, tôi biết công
đức niệm Phật không thể nghĩ bàn!” Ngài nghe nói cảm động, từ đó hằng để ý đến
pháp môn Tịnh độ. Lại viết bốn chữ: “Sống chết việc lớn” dán nơi vách đầu bàn đệ
tự răn nhắc.
Năm ba mươi hai tuổi, ngài xuất gia, rồi
đi tham phỏng các bậc danh đức. Sau cùng đến học đạo với Tiếu Nham Nguyệt Tâm
thiền sư, tham câu “Niệm Phật là ai?”. Một hôm, đang đi tham cứu bỗng chợt tỉnh
ngộ. làm bài kệ rằng:
Hai
chục năm qua việc đáng nghi
Ngoài ba ngàn dặm gặp sao kỳ!
Đốt hương, liệng kích dường như mộng
Ma, Phật, tranh suông lẫn thị phi!
Niên hiệu Long Khánh thứ năm, Đại sư đi
khất thực ngang qua đỉnh Vân Thê, thấy cảnh nước non cực kỳ u nhã, quyết ý cất
am ở tu. Trong núi ấy có nhiều cọp, ngài hành phép Du Già thí thực, từ đó các
loài thú dữ không còn khuấy hại nữa. Mấy năm sau, gặp lúc nắng hạn lâu, cư dân
quanh vùng đến am cầu xin đảo võ. Ngài đáp: “Tôi chỉ biết niệm Phật, không có
tài chi khác!”. Mọi người vẫn nài nỉ cố thỉnh. Đại sư cảm lòng thành của dân
chúng, ra thảo am gõ mõ đi dọc theo bờ ruộng mà niệm Phật. Bước chân của ngài
đi đến đâu, mưa lớn rơi theo đến đó. Nhân dân vui mừng kính đức, cùng nhau hiệp
xây cất điện chùa. Tăng chúng các nơi lần lượt nương về, không bao lâu chỗ ấy
thành cảnh đại tòng lâm trang nghiêm thanh tịnh.
Đại sư tuy đã tỏ thiền cơ, nhưng xét thấy
căn lực người thời mạt pháp kém yếu, kẻ nói lý thì nhiều song ngộ lý thật rất
ít. Vì muốn lợi mình và người, nên ngài chủ trương Tịnh độ, cực lực bác bỏ cuồng
thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao do ngài trứ tác, dung hòa cả sự lý, gồm
nhiếp khắp ba căn, lời dẫn giải rất là uyên áo. Về trước, các bậc Tôn đức trong
Phật giáo, tuy hoằng truyền Tịnh độ, nhưng vẫn không bỏ Thiền tông đến phiên Đại
sư là người được chánh truyền tâm ấn từ ngài Tiếu Nham thuộc dòng Lâm Tế, lại
chỉ hoằng dương Tịnh độ. Vì thế, các nhà thiền học đường thời rất không bằng
lòng. Ông Tào Lỗ Xuyên, một vị học Phật, hai phen gởi thư đến Vân Thê gạn hỏi.
Ngài cũng hai phen phúc đáp mà vài đoạn có liên quan đến Tịnh độ, sẽ được trích
thuật ở phần sau.
Đại sư bình thời cũng tu các công đức để
phụ trợ tịnh nghiệp, nhưng truyền giới pháp, khai những ao phóng sanh. Ngài lại
thẩm định nghi Thủy Lục, hành Du Già Diệm Khẩu để cứu khổ u minh, truyền bá văn
giới sát, khiến người quy hóa làm lành rất nhiều.
Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi, cuối tháng 6,
Đại sư vào thành từ biệt các đệ tử và những người cố cựu, nói: “Tôi sắp đi nơi
khác!.” Rồi ngài trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi người không
hiểu là duyên cớ gì. Đến chiều mùng một tháng bảy, ngài vào Tăng đường bảo:
“Mai này tôi sẽ đi”.
Qua chiều hôm sau, đại sư kêu mệt rồi vào
tư thất ngồi kiết già nhắm mắt. Chư Tăng, các đệ tử tại gia và những người cố cựu
trong thành đều hội đến. Ngài mở mắt ra nhìn mọi người nói: “các vị nên chân thật
niệm Phật, đừng làm điều chi khác lạ, và chớ phá hoại quy củ của tôi”. Nói
xong, hướng về Tây chấp tay niệm Phật mà qua đời. Thọ được tám mươi mốt tuổi.
PHỤ VẤN ĐÁP
(Lược trích)
Thơ
hỏi: – Kẻ hèn nầy từ lâu giữ miền Đông Lỗ,
đối với các kinh điển Nho và Phật, đã làm con mọt sách từ bốn mươi năm qua. Lại
thường phụng giáo với những hàng thức giả, cũng uẩn súc được đôi phần. Nay nhân
sư Đoạn Phàm đến Vân Thê, xin gởi mấy lời để mong sự hiệu chính nơi ngài là bậc
thiện tri thức.
1. Trong Phật pháp có ba tạng, mười
hai phần giáo, đức Thế Tôn khi xưa đan giăng nhiều thứ lưới nơi bể sanh tử sâu
rộng, để tùy phần vớt các loài cá nhơn thiên lớn nhỏ đưa lên bờ Niết Bàn. Nhưng
nên nói lớn để gồm nhỏ, đâu thể cử một mà bỏ nhiều! Gần đây, tôi nghe có kẻ bảo:
nhiều kiếp thành Phật, tất là Tiệm chớ không phải Đốn. Vả Tiệm giáo cũng là Phật
dạy, chưa từng không đúng, song dùng Tiệm để bỏ Đốn giáo, phải chăng thật đã
sai lầm?
Tôn giả bên trong ẩn dấu sự tỏ ngộ đốn
viên, ngoài thì hiển bày pháp môn Tịnh độ. Việc nầy chư Phật cũng có như thế,
không đủ để hiềm nghi. Nhưng học chúng của ngài lại chỉ trọng một đức A Di Đà
mà bỏ hết mười lăm vì Vương tử, muốn tôn một kinh Tịnh độ mà bỏ hết ba tạng mười
hai phần kinh. Đó là điều kẻ hèn nầy không muốn nghe! Hiện nay tuy nhằm thời mạt
pháp, song con người há chỉ có độn tánh mà không lợi căn? Như đức Thích Tôn vì
Ca Diếp, Kiều Trần Như thì nói pháp nầy; vì Thiện Tài, Long Nữ lại nói pháp
khác. Chỗ thuyết giáo của Phật tùy cơ biến đổi, thật tròn trặn như trên mặt nước
lăn trái hồ lô, nếu như cắm cọc đóng đinh, giữ cây chờ thỏ, làm sao lợi ích
hàng nhơn thiên được? rất mong Tôn giả tùy cơ thuyết pháp, khi gặp hàng lợi căn
nên vì nói thượng thừa, để họ ngộ lý viên dung không còn thiên trệ kiến, cho đại
bàng cùng chim én đều được thích nghe. Như thế há chẳng là điều rất lành rất tốt
ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm là Nhứt thừa viên
giáo, là vua trong các kinh. Trong bộ Di Đà Sớ Sao, Tôn giả lại đem kinh Di Đà
sánh với Hoa Nghiêm, điểm ấy tợ hồ chưa thỏa đáng. Đã thế, có người lại còn
nhân đó mà làm luận đưa cao tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm, khiến cho màu tím sắc
chu thành ra lẫn lộn! Mong Tôn giả vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa
Nghiêm nói Hoa Nghiêm, đừng chê nhau cũng chớ lạm nhau, mới thật là lưu thông
Phật pháp.
Thơ
đáp: – Tiếp được tờ mây, biết cư sĩ đại
lượng bao la, muốn đem hết chúng sanh trong pháp giới đưa vào biển tánh nhứt thừa.
Đó là nguyện lớn của đức Phổ Hiền, riêng lòng thật lấy làm kính ngưỡng!
1. Theo lời cư sĩ bảo: tôi nên tùy cơ
diễn giáo, đó là ý kiến rất hay! Nhưng tùy muôn cơ mà dẫn dạy, đó là việc của
chư Phật ra đời. Điều ấy kẻ hèn này chưa làm được. Như khi xưa Lục Tổ ở Tào Khê
chuyên dạy môn thiền Trực Chỉ, đâu phải ngài không thông các giáo pháp khác? Và
như Viễn Công ở Lô Sơn riêng mở Bạch Liên Xã, gồm các bậc cao tăng danh sĩ, há
chỉ tiếp độ kẻ độn căn? Đến như năm tông: Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng,
Lâm Tế, tuy đồng ra một nguồn, nhưng sự tiếp độ của mỗi tông đều có phần sai
khác. Những điều trên là sự thi thiết riêng của chi phái môn đình, đó cũng là lẽ
tất nhiên, chẳng lấy làm chi lạ! Chư Tổ sư khi xưa đều như thế, huống nữa là kẻ
phàm thường nầy ư? Nếu không tự lượng bắt chước theo Phật, nay nói pháp nầy,
mai diễn pháp khác, thì thành ra mờ mịt chẳng có sư thừa. Đó tuy nói là lợi người,
kỳ thật làm cho người lầm lạc. Tại sao thế? Bởi Phật là đấng pháp vương, đối với
các pháp đều tự tại. Còn kẻ dân thường mà tiếm xưng thiên tử là điều nguy hiểm,
há chẳng nên kiêng dè ư?
2. Kinh Hoa Nghiêm đúng là Nhứt thừa
viên giáo, gồm vô lượng môn: cầu sanh Tịnh độ là một trong vô lượng môn của Hoa
Nghiêm. Theo căn cơ thời nay, nên do một Tịnh độ mà vào Hoa Nghiêm, không phải
nêu Tịnh độ mà bỏ Hoa Nghiêm. Cư sĩ bảo do tôi đem kinh Di Đà sánh với Hoa
Nghiêm, nên mới có kẻ làm luận đưa cao Tịnh độ, đè nén Hoa Nghiêm. Xin hỏi bộ
luận ấy ở đâu, do ai trứ tác? Nhưng tôi cũng chưa từng đem kinh Di Đà sánh
ngang với Hoa Nghiêm. Trong văn sớ sao của tôi chỉ nói: “Kinh Hoa Nghiêm cực
viên, kinh Di Đà được một ít phần viên”. Đó là chỉ bảo kinh Di Đà chỉ thuộc một
phần pháp quyến của Hoa Nghiêm, có chi gọi rằng đồng bậc? Vả lại khi nói Hoa
Nghiêm, đã gồm Tịnh độ, và nói Tịnh độ cũng thông với Hoa Nghiêm. Thế thì kẻ diễn
Hoa Nghiêm tự nói Hoa Nghiêm, người nói Tịnh độ tự diễn Tịnh độ, vẫn đồng hành
mà không trái nhau. Người thời nay chỉ biết Hoa Nghiêm rộng hơn Cực Lạc, song
không rõ đức Di Đà chính là Phật Giá Na. Ngài Long Thọ truyền bá kinh Hoa
Nghiêm mà nguyện sanh Cực Lạc. Đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng phụ tá Phật Tỳ Lô Giá
Na, hiệu là Hoa Nghiêm Tam Thánh, cũng phát nguyện về cõi Liên bang. Cư sĩ
khuyên tôi vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm. Xin hỏi
các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, là bậc người nào? Những vị Bồ Tát ấy niệm Phật cầu
sanh Tịnh độ, là căn Tịnh độ hay Hoa Nghiêm? Cư sĩ lâu nay vẫn truyền dương
kinh Hoa Nghiêm, mà trái với đức Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ là điều tôi chưa
hiểu nổi!
Thật ra, cư sĩ với tôi đều là bạn lành
trong Hoa Tạng thế giới. Nay lão hủ lại muốn mời cư sĩ cùng làm huynh đệ ở Liên
bang. Mong cư sĩ xét suy, đừng xem tôi là người bên ngoài vậy.
Thơ
Hỏi: – Đại đức Đoạn Phàm có đem về thơ
phú đáp của Tôn giả. Duyệt xem, thấy lời và ý ân cần, thật rất cảm lòng chiếu cố!
Nhưng nỗi riêng chưa tỏ hết, còn xin có mấy điểm trình bày:
1. Kinh Pháp Hoa, trong phần khen
công đức thọ trì có dẫn: “Nếu người nữ nào thọ trì phẩm này sẽ thoát hẳn nữ
thân, sanh về Cực Lạc”. Như thế sự vãng sanh Tịnh độ, ! phải chăng là nhân quả
của nữ nhơn? Lại nữa, kinh Lăng Nghiêm trong phần tuyển lựa viên thông, đức Văn
Thù đã bác môn Niệm Phật của ngài Thế Chí là vô thường, sanh diệt. Vậy ý Tôn giả
nghĩ thế nào?
2. Tề Kỷ thiền sư, khi các học giả đọc
đến hai câu kệ của ngài Thiện Đạo: “Duy có đường tắt tu hành. Chỉ niệm A Di Đà
Phật” đã quát to: “Vẫn còn quanh lỗi cũ, niệm được cái gì?” Thiền sư lại bảo:
“Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!” Lời của
một bậc ngộ đạo nói như vậy, há không có ý vị ư?
3. Bởi thế bậc thức đạt đã bảo: “Trải
nhiều kiếp cần khổ tu hành không bằng một niệm ngộ Vô sanh pháp nhẫn”. Người
trí cần phải vượt khỏi môn quyền học tam thừa, không còn ngã và ngã sở. Nay sự
vãng sanh Tịnh độ, ta là người hay sanh Cực Lạc là chỗ sanh về, thì năng, sở,
người, cảnh còn phân biệt rõ ràng, đâu gọi là cứu cánh?
4. Nếu như nói: “Hoa nở thấy Phật ngộ
vô sanh”. Đây tất phải đợi sau khi vãng sanh thấy đức Di Đà mới được ngộ đạo,
phải chăng là quá chậm trễ xa vời?
5. Trong thơ trước, tôi đã khuyên tôn
giả “Vì căn Tịnh độ nói Tịnh độ, với cơ Hoa Nghiêm nói Hoa Nghiêm” thật đã vì
ngài mà tỏ bày hết tâm não. Tôn giả lại không lưu ý, nên vừa rồi thính chúng
nơi pháp hội của ngài từ Hàng Châu sang đất Tô, vị nào cũng nôn nao cầu về chín
phẩm. Nhân khi cùng nói chuyện, tôi vừa đề cập đến thượng thừa thì họ đều sửng
mắt kinh lòng! Đó là lỗi của thầy, hay của hàng đệ tử? Đấng đại trượng phu khí
lượng phải xung thiên, nay ngài đã ra ứng thế, mở pháp đường, lên giảng tọa,
sao không đủ tác lược của bậc đại nhơn, mà chỉ bắt trước hành động những ông
già bà cả ăn chay ở đầu làng xóm ngõ? Nếu một mai bị bậc lanh lợi thông suốt hỏi
đến, sẽ toan ẩn mình trên sao Bắc Đẩu, hay chui thân vào núi Thiết Vi ư?
6. Thế thì việc Tôn giả muốn vời tôi
cùng làm bạn sen nơi Cực Lạc, khác nào bảo kẻ nầy gánh gai bỏ vàng, đuổi theo vật
mà chạy vào mê lộ? Há chẳng nghe nói: Nếu là chim Đại bàng kim súy, mới dương
cánh đã vượt cao chín tầng mây; ngựa Nhiếp ảnh thần câu, vừa cất vó đã ra ngoài
vạn dặm. Hạng nầy không còn theo thứ lớp mà ăn uống, cũng không tùy tiện chịu
vùi thân. Người xưa bảo: “Nếu muốn cứu cánh việc ấy, phải đứng trên chót vót đỉnh
non cao, đi sâu tận lòng đáy biển thẳm. Như chưa bỏ được sự êm ấm của khuê
phòng, thì có chỗ nào dùng được!”
Cho nên, Phật pháp là việc lớn, không phải
phàm thường. Mong ngài nghĩ lại!
Thơ
Đáp: – Mấy điều huệ cố của cư sĩ, lời hay
lẽ diệu, luận biện điệp trùng, thật là đáng ngợi khen, đáng ngưỡng vọng. Nhưng
trộm nghĩ: lòng thương tôi tuy sâu, song tiếc đã lắm lời phí uổng!
Nếu cư sĩ quả muốn tuyên dương Thiền
tông, ức chế Tịnh độ, thì không cần nói chi nhiều. Sao chẳng bảo: “Chư Phật
trong ba đời bị miệng ta nuốt mất hết cả. Một đức Phật còn chẳng lập, có ai là
A Di Đà?” Lại sao không bảo: “Nếu người biết được tâm, đại địa không tấc đất. Một
tấc đất đã không, nơi nào là cõi Cực Lạc?” Chỉ dùng hai lời ấy thôi, đủ gồm hết
những điều cư sĩ muốn nói. Nay nghĩ nếu mỗi mỗi thơ đáp, e phạm lỗi đấu tranh.
Nếu hẳn không trả lời, vì đạo pháp có tương quan, lại chẳng thể im lặng. Vậy
xin tỏ bày ước lược như sau:
1. Cư sĩ dẫn kinh Pháp Hoa, nói sự
vãng sanh Tịnh độ là nhân quả của người nữ. Thế thì việc Long Nữ thành Phật,
cũng là nhân quả của người nữ ư? Lại dẫn kinh Lăng Nghiêm nói: đức Văn Thù bác
niệm Phật là vô thường, sanh diệt, không viên thông. Thế tại sao ngài Kiều Trần
Như tỏ ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN có thể gọi là suốt lý vô thường, hợp lẽ bất sanh
diệt, lại chẳng được trọn là pháp viên thông? Nếu quả thật:, đức Quán Âm đỗ
cao, ngài Thế Chí thi rớt, thì sao cư sĩ chẳng nghe biết điều thí dụ: “cửa rồng
chạm trán” là lời của kẻ quê mùa miền Đông dã ở nước Tề?
2. Về những điều của Tề Kỷ thiền sư bảo,
cư sĩ đã học Thiền, sao chẳng biết đó là những nhà tông sư vì người cởi chấp mở
trói, ý ở ngoài lời, lại cứ theo văn tự hiểu thành sự thật, mà chịu chết dưới
câu nói như thế? Nếu quả vậy, thì cổ đức bảo: “Đạp trên đỉnh đầu Phật Tỳ Lô mà
đi”, cũng là đạp thật sự hay sao? Những cơ phong ấy trong các Ngữ lục có ngàn
muôn ức. Lão hủ bốn mươi năm về trước cũng đã từng dùng đến để cho lời nói cao
siêu xuất cách, câu văn mạnh mẽ hùng hào. Về sau xét lại biết hổ thẹn, không
còn dám theo lề lối cũ, nay chợt nghĩ đến hãy còn đỏ mặt. Như Tề Kỷ thiền sư
nói: “Y như trước bỏ cha trốn đi, lưu lạc tha phương, khổ thay A Di Đà Phật!”
Xin cũng dùng chuyên ngữ đối đáp: “Nay chính thật như con nhớ mẹ, trở lại quê
xưa, vui thay A Di Đà Phật!” Thử đem cân lường câu nói nầy với lời ngài Tề Kỷ,
xem bên nào ít nhiều nặng nhẹ, và có bao khoảng cách xa?
3. Trong thơ lại dẫn lời cổ nhơn bảo:
“Trải nhiều kiếp cần khổ tu hành, không bằng ngộ một niệm Vô sanh pháp nhẫn”.
Xin hỏi: “Cư sĩ đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn chưa?” Nếu chứng được thì không
nên cho rằng: Ta là người hay sanh Tịnh độ là chỗ sanh về. Tại sao? Bởi tâm tức
là cảnh, ai là người hay sanh? Cảnh tức là tâm, đâu là chỗ được sanh? Vì không
còn thấy năng sở, nên tuy vãng sanh mà chưa từng có sanh. Đó mới là chân vô
sanh. Nếu cho không sanh về đâu mới là vô sanh, thì thành ra lỗi đoạn diệt,
thiên (lệch) không vậy.
4. Cư sĩ bảo: Nếu đợi hoa nở thấy Phật
mới ngộ vô sanh là chậm trễ xa vời. Kẻ hiểu thiền tông sao chẳng biết: từ mê được
ngộ như giấc chiêm bao dài mới thức tỉnh? Người niệm Phật tùy theo căn cơ, có vị
trong hiện đời đã kiến tánh. Đó là hoa sen nở trong giây phút. Có kẻ sau khi
vãng q sanh mới kiến tánh. Đó là hoa nở về lâu. Bởi căn cơ có sáng tối, công
phu có trễ siêng, nên hoa nở mới có sớm muộn, đâu được nhất khái cho là sai chậm
ư?
5. Trong thơ còn đề cập đến mấy vị
tăng ở núi hoang nào đó, khi hỏi tới thượng thừa thì đều sửng mắt kinh lòng! Cư
sĩ khuyên tôi với căn Hoa Nghiêm thì nói Hoa Nghiêm, với cơ Tịnh độ thì đàm Tịnh
độ. Nay những kẻ ấy thuộc về hàng độn căn, chính nên giảng Tịnh độ, sao cư sĩ
không tùy bịnh cho thuốc, lại luận thượng thừa với họ làm chi?
Cư sĩ lại bảo tôi đã ra ứng thế, mở pháp
đường, lên giảng tọa, mà không đủ tác lược của bậc đại nhơn. Lão hủ chưa từng
dám dương với danh dự ra ứng thế, nên tự ưng không có tác lược của bậc đại
nhơn. Điều này hãy tạm gác qua, không cần bàn luận. Nhưng nếu bỉ người tu Tịnh
độ là hạng ông già bà cả ăn chay quê mùa, thật ra không phải chê các vị đó đâu,
mà chính là bỉ đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ vậy! Đâu riêng gì những
vị Bồ Tát ấy, mà chư Tổ Huệ Viễn, Thiện Đạo, Thiên Thai, Vĩnh Minh, chư đại thiện
tri thức, các hàng danh nhơn niệm Phật, theo cư sĩ, cũng là hạng quê mùa cả ư?
Song hạng quê mùa nếu biết niệm Phật được vãng sanh, sẽ lên ngôi Bất thối chuyển,
cũng đâu nên xem rẻ khinh chê? Những ông già bà cả ăn chay niệm Phật, cũng đáng
khen là họ biết giữ theo quy củ quê mùa của chính mình. Còn hạng thông minh tài
biện, ăn thịt uống rượu, vọng nói bát nhã, hôm sớm cứ tìm chư tăng gạn thiền
nói đạo thì thế nào?
Đến như việc các ông già bà cả khi bị kẻ
lanh lợi thông suốt hỏi đến, thì chẳng cần lên sao Bắc Đẩu, vào núi Thiết Vi
làm chi cho cao xa. Họ chỉ cần đặt giường nằm nơi cổ họng, trải tòa ngồi trên
đôi mắt của các vị lanh lợi thông suốt ấy. Làm như thế để chi? Để dạy chúng hãy
tạm đóng môn tam muội nơi cửa miệng, biết nhắm mắt hồi quang phản chiếu xét trở
lại chính mình đó thôi!
6. Cư sĩ cho rằng việc khuyên niệm Phật
cầu sanh Tịnh độ là điên đảo, đuổi theo vật vào mê lộ, là gánh gai bỏ vàng, làm
khuất nhục đến mình. Nhưng các thí dụ ấy còn chưa thân thiết. Nay lão hủ xin
đem một thí dụ khác thay thế:
Có một lão nông dân chân thật gởi thiếp
vào cửa vị phú trưởng giả, mời đến nhà ở đồng ruộng của mình viếng cảnh. Mọi
người nghe nói đều cười. Lão nông lại quét dọn đường sá sạch sẽ, đến mời thỉnh
lần nữa. Người gác cửa nhà phú trưởng giả cười bảo: “Chủ nhơn lần trước không
quở trách ông là may lắm rồi. Ông định làm mặt dày hay sao?” Lão ông đáp: “Tôi
thấy ttong các nhà giàu, có kẻ làm giàu mà bất nhơn. Có người ngoài giàu nhưng
trong nghèo. Có kẻ chưa giàu song tỏ ra kiêu mạn trước. Có người chỉ giữ kho,
giữ sổ sách ở nhà giàu, mà tự cho là mình giàu. Vả lại cảnh giàu sang như Kim cốc,
My ô, nay còn đâu ư? Tôi là một lão già ở đồng ruộng, an hưởng sự vui thái
bình, nên quên phận thấp kém của mình, mới thương xót mà mời thỉnh. Thôi từ nay
cũng xin tự biết lỗi rồi!” Nói xong cùng nhau cười rộ mà chia tay.
TRÍ HÚC ĐẠI SƯ
(Liên Tông Cửu Tổ)
Trí Húc Đại sư tự Ngẫu Ích, người đời
Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô huyện. Thân phụ trọ trì chú Đại Bi và Bạch Y, mộng
thấy đức Quán Âm đại sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra ngài.
Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết
sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì Đại Sư, liền đốt
quyển sách của mình viết. Năm hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Địa Tạng Bản Nguyện
phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng niệm Phật.
Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài hai
mươi bốn tuổi, sau khi nghe một pháp sư giảng kinh, bỗng phát nghi tình, dụng
công tham cứu. Ít lâu sau, được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời
kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bịnh vừa bớt, liền
kết đàn trì chú Vãng sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh tay, thề phát lòng bồ
đề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo quả, sớm độ chúng hữu tình.
Về sau, Đại sư trụ trì trải qua các nơi:
Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền
giáo pháp Thiên Thai và môn niệm Phật. Thời bấy giờ, những ta tu thiền ở các
nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh độ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất
bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Đại sư lại nhận định pháp Trì danh
chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền, đem những huyền
lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh độ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng. Sau đó, Đại
sư về dưỡng lão ở Linh Phong.
Bình thời, Đại sư từng khai thị rằng:
Pháp môn Tịnh Độ không chi chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện
thiết và gắng sức thật hành mà thôi. Phật dạy: “Nếu người nào chuyên niệm A Di
Đà, chính là Vô thượng thâm diệu thiền”. Trí Giả đại sư bảo: “Niệm Phật tam muội
là vua trong các môn tam muội”. Tổ Vân Thê cũng nói: “Một câu A Di Đà Phật bao
trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông”.
Đáng tiếc người thời nay xem niệm Phật
là cạn cợt tầm thường, bảo đó là là công hạnh của hạng ngu phu, ngu phụ. Bởi thế
nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày lơ là, công phu
khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo:”Muốn đi sâu vào niệm Phật
tam muội phải tham cứu chữ Thùy“. Họ đâu biết rằng: Một tâm niệm hiện
tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác ý rời và tuyệt. Một
câu niệm Phật là hiện tại, cũng vốn vượt tình lìa kiến, cần chi nói diệu nói
huyền? Chỉ quí tin cho chắc, giữ cho vững, rời buông bỏ hết mà niệm. Hoặc mỗi
ngày đêm niệm một muôn, hai muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn câu lấy sự nhất
định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến trọn đời, thề không biến
đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh, thì chư Phật trong ba đời đều
thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không còn thối chuyển, tất cả
pháp môn đều lần lượt hiện tiền.
Rất kiêng kỵ kẻ không có chủ trương, nay
vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết giáo, thì muốn tầm chương trích cú, học luật học
kinh. Gặp người tu thiền lại mong tham cứu thoại đầu, theo cơ phong chuyến ngữ.
Gặp bậc trì luật, ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh đầu đà. Thế nên sự sự
không rồi, điều điều chẳng trọn. Đâu biết rằng khi câu Phật hiệu niệm được thuần
thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó; một ngàn bảy trăm công
án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh,
tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cả
thân tâm thế giới là đại bố thí. Niệm Phật không khởi tham sân si là đại trì giới.
Niệm Phật không quản nhân ngã thị phi là đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đọan,
không tạp vọng là đại tinh tấn. Niệm Phật không còn vọng tưởng thô tế là đại
thiền định. Niệm Phật không bị các pháp khác mê hoặc là đại trí huệ. Thử kiểm
điểm lấy mình, nếu chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa
tuyệt lòng thị phi nhân ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng
bông lông, chưa khỏi bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc, thì chưa phải là người chân
thật niệm Phật.
Nếu muốn đến cảnh giới nhất tâm bất loạn,
cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi ký số rành rẽ, và khắc định
thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày, công phu tụ thuần thục,
không niệm mà vẫn tự niệm. Chừng đó, muốn ký số hay không ký số cũng được.
Nếu bước đầu, vội vàng lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn
học hỏi lối viên dung tự tại, rốt niệm lực khó thành. Đây tổng yếu bởi tin chưa
sâu, thực chành chưa hết sức.
Người như thế, dù cho giảng thông thuộc
ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công án, cũng đều là việc
bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm chung, quyết định không
dùng chi được….!
Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Đông, Đại
sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử, sau khi trà tỳ, phải
tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết
duyên Tịnh độ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng giêng, Đại sư sáng dậy sớm,
sắc diện tươi khỏe như người không bịnh. Đến đúng ngọ, ngài đoan tọa trên giường,
xây mặt về Tây chấp tay niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi.
Ba năm sau, các môn nhân hội lại, định y
pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra thấy toàn thân đại sư vẫn còn nguyên vẹn,
tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặc tươi tỉnh như sống. Đại chúng không nỡ tuân lời
di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.
HÀNH SÁCH ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Thập Tổ)
Hành Sách Đại sư, tự là Triệt Lưu, người
đời nhà Thanh, con của Tưởng Toàn Xương, một bậc lão nho ở vùng Nghi Hưng. Cha ngài
là bạn phương ngoại với đức Đức Thanh Hòa Thượng, tức Hám Sơn Đại Sư.
Niên hiệu Thiên Khải thứ sáu, sau khi
Hám Sơn Đại sư thị tịch được ba năm, một đêm Tưởng Toàn Xương nằm mộng thấy
ngài Hám Sơn vào nhà mình. Cũng trong đêm ấy, Hành Sách Đại sư sanh ra, nên
nhân đó ngài lại được cha đặt cho ngoại hiệu là Mộng Hám. Đến khi khôn lớn,
cha mẹ kế tiếp qua đời, ngài cảm sự thế vô thường, có ý niệm thoát tục.
Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất
gia với Nhược Am Hòa THượng ở chùa Lý An. Tu hành tinh tấn không đặt lưng xuống
chiếu trải năm độ nắng mưa, ngài tỏ suốt nguồn chân, ngộ và pháp tánh. Sau khi
Nhược Am Hòa Thượng thị tịch, Đại sư trụ trì chùa Báo Ân. Thời gian này, ngài
được bạn đồng tham thức là Tức Am thiền sư khuyên tu tịnh độ, lại gặp Thiều Thạch
Pháp sư hướng dẫn về duyệt lãm về Thiên Thai Giáo Quán. Kế đó, ngài cùng Tiều
Thạch Pháp Sư đồng nhập thất tu môn Pháp Hoa Tam Muội. Nhân đây, túc huệ của đại
sư khai phát, ngộ suốt đến chỗ cốt tủy của Thai giáo.
Niên hiệu Khang Hy thứ hai, ngài cất am ở
núi Pháp Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh độ. Nhân đó lại
đặt tên chỗ ở của mình là Liên Phụ Am. Đến năm Khang Hy thứ chín, Đại sư trụ
trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên Xã. Học giả các nơi hưởng ứng
tu tập rất đông. Ngài từng làm bài văn khuyên phát lòng tin chân thật rằng:
“Phần đông người tu tập xưa nay, đều ưa
thích Niệm Phật Tam Muội. Tuy nói quả cao để tu tiến, mà kẻ sau ít được thành
công. „y bởi do tín nguyện không chuyên nên chẳng thể đồng về cảnh Tịnh. Nay đã
họp nhiều liên hữu, cùng nhau tu tập tịnh nhân, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm,
đâu biết rõ lối đường thoát khổ. Đồng nhân chúng ta dự và pháp hội, lòng tin
chí nguyện phải thật phải chân. Nếu không chân chính, tuy ăn chay niệm Phật, tu
phước phóng sanh, chỉ là người lành thế gian, duy hưởng nhân thiên phước báu.
Lúc hưởng phước vui, dễ bề tạo nghiệp, đã tạo nghệp ác, phải đọa khổ luân hồi.
Điều này dùng chánh nhãn xét xem: Chỉ hơn bọn xiển đề một bước! Nếu lòng tin
như thế, đâu được gọi là chân? Vậy chân tín là thế nào?
Thứ
nhất phải tin: Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba
không sai khác. Chúng ta là Phật chưa thành. Di Đà là Phật đã thành. Giác tánh
đồng một vẫn không có hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, giác tánh chưa từng mất. Ta
tuy nhiều kiếp luân chuyển, giác tánh chưa động. Nên nói: “Khi một niệm hồi
quang đồng về nơi bản đắc là như thế.
Thứ
hai phải tin: Chúng ta là Phật danh tự, Di Đà là
Phật cứu cánh, tánh tuy không khác, ngôi cách vực trời. Nếu không chuyên niệm đức
Phật kia, cầu về cõi Tịnh; tất phải chịu theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô
cùng! Đây gọi là pháp thân lưu chuyển sáu nẻo, không được thành Phật, mà vẫn
cam phận chúng sanh.
Thứ
ba phải tin: Chúng ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng
sanh trong tâm của Di Đà. Di Đà tuy muôn đức trang nghiêm an vui ở cõi Tịnh,
cũng là vị Phật trong tâm chủa chúng ta. Đã rõ chân tâm vốn không hai, tất biết
cảm ứng tự giao tiếp. Như đá nam châm hút sắt, việc này đâu lựa phải nghi? Đây
gọi: nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền hoặc tương lai, quyết định sẽ thấy Phật,
cách Phật chẳng xa vậy.
Đủ lòng tin chân thật như trên, tuy chút
phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây phương, trang
nghiêm Tịnh độ. Huống nữa trì trai giữ giơi, bố thí, phóng sanh, đọc tụng đại
thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, há chẳng đủ làm tư lương Tinh dộ ư?
Chỉ e lòng tin chẳng chân thành, mới khiến bị chìm nơi hữu lậu. Cho nên trong
việc Tịnh tu, không chước chi lạ. Muốn công không luống uổng, qủa được tròn
nên, thì ngày đêm khi hành đạo, không rời ba điều tin trên mà thôi!”.
Đại sư thường tổ chức những kỳ đả thất,
để khuyến khích đại chúng tinh tấn thêm. Trong các kỳ thất, ngài khai thị đại ý
rằng:
Bảy ngày trì danh, quí nơi giữ một lòng
không loạn, chớ để trần lụy xen vào, không phải niệm mau niệm nhiều là hay.
Cách trì danh, cần không hưỡn không gấp, bền bỉ chắc chắn, khiến cho câu Phật
hiệu rành rõ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, nên giữ câu hồng
danh liên tục chẳng dứt, không tán loạn hôn trầm dường như hơi thở ra vào nối
tiếp. Trì danh như thế gọi là nhất tâm tinh tấn về phần sự.
Nếu thể cứu được sâu vào, thì muôn pháp
đều như, nguyên không hai tướng. Đó là chúng sanh cùng Phât, mình cùng người,
nhân với quả, y báo với chánh báo, nhơ cùng sạch, khổ cùng vui, ưa với chán, lấy
với bỏ, bồ đề cùng phiền não, sanh tử cùng Niế bàn…các pháp ấy đều không hai, đều
đồng một tướng, đồng một thể thanh tịnh. Như thế cứ thể cứu một cách thiết thật,
không cần phải gắng gượng an bài. Thể cứu đến lúc cùng cực bỗng nhiên khế hợp với
bản tâm. Chừng đó mới biết mặc áo ăn cơm cũng là tam muội, cười đùa giận mắng đều
việc độ sanh. Khi ấy nhất tâm hay loạn tâm trọn thành hý luận, ngày đêm sáu thời
tìm một mảy tướng khác cũng không thể được. Liễu đạt như thế, mới chân chánh là
người học đạo. Và trì danh như thế, gọi là nhất tâm tinh tấn về phần lý.
Sự nhất tâm như trước tợ khó mà dễ. Lý
nhất tâm như sau tợ dễ mà khó. Chỉ nhất tâm được như trước, quyết chắc dự phần
vãng sanh. Nếu kiêm thêm cảnh nhất tâm sau, tất có thể lên ngôi Thượng phẩm. Nhưng
hai thứ nhất tâm đây, đều là phần việc kẻ bác địa phàm phu, người hữu tâm đều
có thể tu học. Khắp khuyên các hàng đạo tục trong Liên Xã, đều phải sách tấn
thân tâm. Gần trong bảy ngày, xa suốt một đời, nếu thường tin và tu như thế,
thì dù không chứng qủa, cũng mạnh nhân sen. Ngài kia gởi chất liên trì, tất
không thuộc phẩm trung hạ vậy.
Đại sư trụ trì chùa Phổ Nhân được mười
ba năm. Niên hiệu Khang Hy thứ hai mươi mốt, ngày mùng chín tháng bảy, ngài
thoát hóa, thọ 55 tuổi. Khi ấy có ông Tôn Hàn bị cấp bịnh tắt hơi, hôm sâu bỗng
sống lại nói:
“Tôi bị Minh ty bắt giam cầm nơi điện
Diêm La. Bỗng đâu trong chỗ tối tăm, thấy ánh sáng rực trời, hương hoa đầy khắp
hư không. Vua Diêm La quỳ mọp xuống đất, đưa một vị đại sư về Tây phương. Tôi
thưa hỏi đại sư nào được đáp là ngài Triệt Lưu. Nhờ sánh sáng của đại sư chiếu
đến, tôi mới được tha trở về. Đồng ngày ấy có con nhà họ Ngô chết, qua một đêm
sống lại, cũng thuật việc mình nghe thấy y như ông Tôn Hàn.
THẬT HIỀN ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Thập Nhất Tổ)
Thật Hiền Đại sư, tự Tư Tề, hiệu Tĩnh
Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục.
Từ thuở bé ngài không ăn cá thịt. Sau
khi xuất gia, tham cứu câu NIỆM PHẬT LÀ AI? Được tỏ ngộ, và nói: “Tôi đã tỉnh
giấc mơ!”.
Kế tiếp, Đại sư đóng cửa thất ba năm ở
chùa Chân Tịch, ngày duyệt ba tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Mãn thất,
ngài đến Mậu Sơn lễ Xá Lợi ở tháp A Dục Vương. Nhằm ngày Phật Niết Bàn, đại sư
họp nhiều hàng đạo tục sắm lễ cúng dường, rồi đốt ngón tay trước Phật, phát bốn
mươi tám điều đại nguyện. Lúc ấy cảm Xá lợi phóng ánh sáng rực rỡ. Đại sư làm
bài văn” Khuyên phát lòng bồ đề” để khuyến khích tứ chúng, nhiều người đọc đều
rơi lệ. (Phụ ký nơi đoạn sau)
Lúc lớn tuổi, ngài về trụ trì chùa Tiên
Lâm tại Hàng Châu. Năm Ung Chánh thứ bảy, Đại sư lập Liễn Xã, làm văn phát thệ
giữa đại chúng, lấy trọn đời tinh tấn tu tịnh nghiệp làm kỳ hạn. Ngày chia nhật
khóa làm hai mươi phần, mười phần trì danh, chín phần quán tưởng, một phần lễ
sám. Có nhà tu thiền hỏi về chỉ thú niệm Phật, Đại sư dùng lời kệ khai thị rằng:
Một
câu A Di Đà
Là
việc đầu công án
Không
thương lượng chi khác
Thẳng
ngay liền quyết đoán,
Ví
như đống lửa lớn
Nhảy
vào liền cháy tan
Lại
như gươm Thái A
Xông
vào liền đứt đọan
Sáu
chữ gồm nhiếp thâu
Tám
muôn tư pháp tạng
Một
câu giải quyết xong
Ngàn
bảy trăm công án
Mặc
ai không thích nghe
Ta
tự tâm tâm niệm
Xin
bất tất nhiều lời
Gắng
một lòng không loạn.
Niên hiệu Ung Chánh thứ hai, ngày mùng
tám tháng chạp, Đại sư bảo chúng rằng: “Tháng tư sang năm ta sẽ đi xa”. Rồi
đóng cửa thất, mỗi ngày niệm Phật mười muôn câu. Sang năm, ngày 12 tháng 4, Đại
sư bảo môn đồ rằng: “Từ đầu tháng đến nay, ta đã hai phen thấy Tây Phương Tam
Thánh, chắc là đến lúc vãng sanh!”. Nói xong, liền làm kệ giã từ đại chúng. Qua
hôm sau, Đại sư không ăn uống, cứ nhắm mắt ngồi thẳng. Đến canh năm tắm rửa
thay y áo. Bữa ấy tức là ngày 14, gần giờ ngọ, Đại sư lại nhắm mắt day về Tây
ngồi yên lặng. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đông như chợ. Đại sư bỗng mở
mắt nói:”Tôi về Cực Lạc không bao lâu sẽ trở lại. Thoát ly sống chết là việc lớn,
mỗi người nên cố gắng thanh tịnh niệm Phật!”.
Dặn dò xong, chắp tay xướng hồng danh Phật
rồi thị tịch. Thọ được 49 tuổi.
BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT LÒNG BỒ ĐỀ
(Thật Hiền Đại
Sư soạn)
Từng nghe, cửa yếu vào đạo, phát tâm làm
đầu. Việc gấp tu hành, lập nguyện ở trước. Nguyện lập, tất cả chúng sanh
có thể độ. Tâm phát, thì Phật đạo với kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn,
lập nguyện vững bền, thì trải kiếp như số vi trần, vẫn còn trong vòng sanh tử.
Dù có tu hành siêng khổ, chỉ luống công khó nhọc mà thôi!
Kinh Hoa nghiêm nói: “Nếu quên mất tâm Bồ
đề mà tu các pháp lành đó là nghiệp ma”. Quên mất mà còn như thế, huống là chưa
phát ư? Cho nên, muốn học Như lai thừa, trước phát Bồ đề nguyện. Điều nầy vẫn
không thể lần lựa vậy.
Nhưng sự sai biệt của tâm nguyện, tướng
trạng có rất nhiều. Nay xin vì đại chúng, mà ước lược tỏ bày. Phát tâm gồm tám
tướng là tà, chánh, chân, ngụy, cùng đại, tiểu, thiên, viên. Tám
tướng ấy như thế nào?
1. Trong đời có người tu, chỉ một bề
hành theo sự tướng, không xoay vào tham cứu chân tâm. Hoặc theo việc bên ngoài,
ưa thích hư danh, mong cầu lợi dưỡng. Hoặc đắm mê huyễn cảnh, tham dục lạc hiện
tại, cầu phước báo đời sau. Phát tâm như thế gọi là Tà.
2. Bậc không cầu lợi dưỡng, cũng chẳng
thích hư danh, vui hiện thế không màng, phước vị lai chẳng tưởng. Chỉ vì sự sống
chết, mong cầu đạo Bồ đề. Phát tâm như thế gọi là Chánh.
3. Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm
dưới độ chúng sanh. Nghe thành Phật lâu xa chẳng khiếp lui, thấy chúng sanh khó
độ mà không chán mỏi. Như leo non cao muôn dặm, quyết trèo tận đỉnh. Như lên
tháp báu chín cấp, đến ngọn chót cùng. Phát tâm như thế gọi là Chân.
4. Có tội không sám hối, có lỗi chẳng biết
trừ. Trong trược mà ngoài thanh, trước siêng nhưng sau trễ. Dù tu pháp lành, bị
tội nghiệp làm ô nhiễm. Phát tâm như thế gọi là Ngụy (dối).
5. Chúpg sanh độ hết, bản nguyện mới
cùng. Phật đạo tròn nên, thề nguyện mới mãn. Phát tâm như thế gọi là Đại.
6. Xem ba cõi như tù ngục, nhìn sống chết
tợ oan gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như vậy gọi là Tiểu.
7. Thấy ngoài tâm có chúng sanh, mình phải
độ. Hiểu ngoài tâm có Phật đạo, rồi nguyện thành. Công tu tập chẳng sạch quên,
sự kiến giải không tiêu mất. Phát tâm như thế gọi là Thiên (lệch).
8. Biết chúng sanh là tánh mình, nên
nguyện độ thoát. Rõ Phật đạo là tánh mình, nên nguyện viên thành. Lìa ngoài nguồn
tâm thể, không thấy có pháp chi. Rồi dùng tâm rỗng như hư không, phát nguyện lớn
như hư không, tu hạnh rộng như hư không. Kết cuộc chứng quả vô chứng đắc như hư
không, cũng chẳng thấy có tướng “không”. Phát
tâm như thế gọi là Viên.
Tám lối phát tâm trên đã biết rành rẽ.
Nên tự xét kỹ, xem mình phát tâm thuộc về cách nào? Nếu thấy là Tà, Ngụy, Tiểu,
Thiên phải lập tức sửa đổi. Như thuộc Chánh, Chân, Viên, Đại, nên bền chắc thêm
lên. Như thế mới gọi là chân chánh phát Bồ đề tâm.
Bồ đề tâm nầy là vua trong các pháp
lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được. Nhân duyên ấy, đại ước có mười thứ:
1. Vì nghĩ đến ơn Phật: – Đức Thích Tôn ta, khi mới phát
tâm, vì độ chúng ta, tu Bồ Tát đạo, trải qua vô lượng kiệp chịu đủ sự khổ. Lúc
ta tạo nghiệp, Đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không
chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ. Nhưng
ta nghiệp nặng, không thể cứu vớt. Ta sanh làm người, Phật dùng phương tiện,
khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm bỏ. Phật mới ứng thế,
ta còn trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ. Tội chi mà sanh nhằm mạt
pháp? Phước gì mà dự tăng luân? Chướng chi mà không thấy kim thân? May gì mà được
gặp Thánh tượng?
Rồi tự suy nghĩ: nếu đời trước chẳng trồng
căn lành, thì làm sao được nghe Phật pháp? Không nghe chánh pháp, đâu biết mình
thường thọ Phật ân? Ân đức nầy, bể thẳm khôn cùng, non cao khó sánh! Nếu không
phát tâm bồ đề, tu hạnh Bồ Tát, giữ vững chánh pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù
e nát thịt tan xương, cũng không đền đáp được! Đây là nhân duyên thứ nhất.
2.
Vì nhớ ơn cha mẹ: – Than ôi cha mẹ, sanh ta khó nhọc!
Mười tháng mang thai mỏi nặng, ba năm bú sữa mớm cơm. Khi được nên người, chỉ
mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ. Ngờ đâu ta đã xuất gia, lạm xưng
Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đỡ tay chân. Cha mẹ còn, ta không thể nuôi
dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi tưởng lại
thì, nước trời đà cách biệt từ dung, mồ biếc chỉ hắt hiu thu thảo. Như thế với
đời là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai đường đã lỗi, khó tránh tội
khiên!
Nghĩ thế rồi, làm sao chuộc lại? Chỉ có
trăm kiếp ngàn đời, tu Bồ Tát hạnh, mười phương ba cõi, độ khắp chúng sanh. Được
như vậy, chẳng những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều đời, đều nhờ độ
thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều người cũng được siêu
thăng. Đây là nhân duyên thứ hai.
3.
Vì nhớ ơn Sư trưởng:- Cha mẹ tuy sanh dục sắc thân,
nhưng nếu không có thầy thế gian, thì ta chẳng hiểu biết nghĩa nhân. Không có
thầy xuất thế, tất ta chẳng am tường Phật pháp. Không biết lễ nghĩa liêm sĩ,
nào khác chi loài cầm thú? Không tường nhân quả Phật pháp, đâu khác gì hàng ngu
mông. Nay ta biết chút ít lễ nghĩa, hiểu đôi phần Phật pháp là nhờ đâu? Huống nữa,
thân giới phẩm đã nhuận phần đức hạnh, áo cà sa thêm rạng vẻ phước điền, thực
ra đều do ân sư trưởng mà được.
Đã biết như thế, nếu ta cầu tiểu quả thì
chỉ có thể lợi riêng mình. Nay phải phát đại tâm, mới mong độ các loài hàm thức.
Như vậy, thầy thế gian mới dự hưởng phần lợi ích, mà thầy xuất thế cũng thỏa
mãn vui lòng. Đây là nhân duyên thứ ba.
4.
Vì nhớ ơn thí chủ: – Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức
ăn, đều nhờ tín thí, thuốc men giường chiếu, cũng của đàn na. Người nhọc sức cấy
cày, vẫn còn kém thiếu. Ta ngồi không thọ hưởng, sao nỡ an lòng? Kẻ dệt may
gian khổ, chẳng kể đêm hôm. Ta y phục dư thừa, há không mến tiếc? Người nhà lá
vách phên, trọn đời bận rộn. Ta nền cao đền rộng, thong thả quanh năm. Đem công
cực nhọc để cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để
giúp cho ta được no đủ, lý có hợp không?
Thế nên tự nghĩ: Phải vận dụng lòng bi
trí, tu phước huệ trang nghiêm, để đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi
ích. Bằng chẳng vậy, thì chút hạt cơm tấc vải, đền đáp có phân: thân nô dịch
súc sanh, nợ nần phải trả. Đây là duyên thứ tư.
5.
Vì nhờ ơn chúng sanh: – Ta cùng chúng sanh, từ vô thỉ đến
nay, kiếp kiếp đời đời thay đổi làm quyến thuộc, kia đây đều có nghĩa với nhau.
Nay dù cách đời đổi thân, hôn mê không nhớ biết, song cứ lý suy ra, chẳng thể
không đền đáp.
Vật loại mang lông đội sừng ngày nay, biết
đâu ta là con của nó trong kiếp trước? Loài bướm ong trùng dế hiện tại, biết
đâu đó là thân sinh tiền thế của mình? Đến như tiếng rên siết trong thành ngạ
quỉ, giọng kêu la dưới cõi âm ty, ta tuy không thấy chẳng nghe, họ vẫn van cầu
cứu vớt. Ngoài kinh ra, nơi đây bày tỏ việc nầy? Không Phật nói, chẳng ai hiểu
rành điều ấy! Cho nên Bồ Tát xem ong kiến là cha mẹ quá khứ, nhìn thú cầm là
chư Phật vị lai. Thương nẻo khổ lâu dài, hằng lo cứu vớt. Nhớ nghĩa xưa sâu nặng,
thường tưởng báo ân. Đây là nhân duyên thứ năm.
6.
Vì tưởng khổ sinh tử:- Ta cùng chúng sanh, nhiều kiếp đến
nay, hằng trong vòng sanh tử, chưa từng được thoát ly. Khi ở cõi nầy, lúc thế
giới khác, khi sanh thiên cảnh, lúc sống nhơn gian, siêu đọa phút giây, xuống
lên muôn nẻo. Cửa quỉ sớm đi rồi chiều lại; âm ty nay thoát bỗng mai vào. Lên
non đao rừng kiếm, thân thể đứt rời. Nuốt sắt nóng dầu sôi, ruột gan rã cháy.
Khóc than trong lửa, rên siết trong băng. Muôn lần sống chết nội ngày đêm, giây
phút khổ đau bằng thế kỷ! Lúc ấy dù biết tội khổ, nhưng ăn năn sao kịp! Khi ra
khỏi vội liền quên mất, vẫn tạo tội như thường! Tâm không hằng như lữ khách ruổi
dong. Thân chẳng định dường cửa nhà thay đổi. Cát bụi cõi đại thiên, không tính
nổi số thân luân chuyển. Nước đầy trong bốn bể, chẳng nhiều bằng giọt lệ biệt
ly! Nếu không lời Phật, việc nầy ai thấy ai nghe? Ví chẳng xem kinh, lý ấy đâu
hay đâu biết? Thảng hoặc luyến mê như trước, chỉ y cũ luân hồi. Rồi ra muôn kiếp
ngàn sanh, khó hối một lầm trăm lẫn. Giờ tốt vội qua mà chẳng lại, thân người dễ
mất nhưng khó tìm. Âm cảnh mịt mờ, xót nỗi biệt ly dài dặc! Tam đồ ác báo,
thương cho thống khổ ai thay?
Vậy phải dứt nguồn sanh tử, cạn bể dục
si, độ thoát mình người, đồng lên giác ngạn. Muôn đời siêu hoặc đọa, quan hệ ở phút
nầy, không thể bê trễ được! Đây là nhân duyên thứ sáu.
7.
Vì tôn trọng tánh linh: – Tâm tánh của ta cùng Thích Ca
Như Lai không hai không khác. Tại sao đức Thích Tôn đã thành chánh giác sáng suốt
tự tại, mà ta vẫn còn là phàm phu điên đảo hôn mê? Lại đức Thế Tôn có đủ vô lượng
thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm. Còn chúng ta thì đầy vô lượng phiền
não nghiệp duyên, lụy trân ràng buộc?
Tầm tánh tuy vẫn đồng một, vì mê ngộ nên
cách vực trời. Ví như hạt bảo châu vô giá vùi dưới bùn nhơ, người xem dường đất
đá. Cho nên phải dùng vô lượng pháp lành, đối trị phiền não, để tánh đức hiển bày.
Như bảo châu được rửa sạch lau khô, treo để trên tràng cao, liền phóng quang rực
rỡ. Thế mới không uổng công Phật giáo hóa, chẳng phụ tánh linh mình, xứng đáng
bậc trượng phu. Đây là nhân duyên thứ bảy.
8. Vì sám hối nghiệp chướng: – Kinh nói: “Phạm một giới nhỏ, phải
đọa địa ngục bằng tuổi thọ của Tứ thiên vương”. Lỗi nhỏ còn như thế, huống chi
tội nặng ư? Chúng ta mỗi ngày, một cử một động thường sai giới luật, lúc ăn lúc
uống hằng phạm thi la. Tính kỹ trong một ngày cũng đã nhiều tội, huống chi trọn
đời, cho đến vô lượng kiếp về trước! Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã
hết chín phạm, ít phát lộ nhiều dấu che. Năm giới còn như thế, huống là giới Sa
di, Tỳ kheo và Bồ Tát ư?
Nay ta phải phát lòng thương mình,
thương người, lệ rơi theo tiếng, thân khẩu thiết tha, cùng với chúng sanh, ai cầu
sám hối! Chẳng thế thì ngàn đời muôn kiếp, ác báo khó trừ, làm sao thoát khổ.
Đây là nhân duyên thứ tám.
9. Vì cầu sanh Tịnh độ: – Ở cõi nầy tu tập, việc tiến đạo
khó khăn; về Cực Lạc hành trì, sự thành Phật dễ thuận. Vì dễ thuận, nên một đời
liền đắc quả. Bởi khó khăn, nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Cho nên thánh trước
hiền sau, người người xu hướng. Ngàn kinh muôn luận, chỗ chỗ chỉ quy. Sự tu
hành giữa thời mạt pháp, thật không chi hơn pháp môn nầy. Như kinh nói: “Ít căn
lành khó được vãng sanh, nhiều phước đức mới về cõi tịnh”. Nhiều phước đức
không gì bằng chấp trì danh hiệu. Nhiều căn lành chẳng chi hơn phát ý bồ đề. Tạm
trì Phật hiệu, thắng hơn bố thí trăm năm. Một phát đại tâm, vượt quá tu hành
nhiều kiếp. Bởi niệm Phật vốn mong thành Phật, đại tâm không phát, thì niệm Phật
để làm chi? Còn phát tâm vốn để tu hành, Tịnh độ chẳng cầu, dù phát cũng dễ thối
chuyển. Cho nên gieo hạt giống bồ đề, cày lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên
tăng tiến. Nương chiếc thuyền đại nguyện, vào biển mầu Tịnh độ, Tây phương quyết
định sanh về. Đây là nhân duyên thứ chín.
10.
Vì hộ trì chánh pháp: – Đức Thế Tôn ta, từ vô lượng kiếp đến
nay, vì chúng ta mà tu đạo bồ đề. Ngài đã làm việc khó làm, nhịn điều khó nhịn,
công tròn quả mãn, thành đấng Như Lai. Sau khi thành Phật, duyên giáo hóa đã
xong, liền vào Niết bàn. Nay chánh pháp đã qua, tượng pháp đã hết, chỉ còn mạt
pháp, có kinh giáo mà không kẻ đắc thành. Thời nay tà chánh chẳng phân, thị phi
lẫn lộn, tranh đua nhơn ngã, đeo đuổi lợi danh. Tam bảo chẳng còn thật nghĩa,
suy tàn tồi tệ không nỡ thốt lời. Khi nghĩ đến đây, khó cầm giọt lệ!
Ta là Phật tử, không báo được ân, trong
không ích cho mình, ngoài không ích cho người, sống không ích dương thế, chết
không ích đời sau. Suy nghĩ như vậy, đau lòng xót dạ, vội phát bồ đề, nguyện
nguyện độ sanh, tâm tâm cầu Phật, thề hết báo thân? sanh về Cực Lạc. Những mong
cầu sau khi chứng quả, trở lại Ta Bà: khiến cho Phật nhật rạng soi, pháp môn rộng
mở. Tăng hải đẹp thanh nơi cõi trược, nhân dân tu đức ở phương đông. Kiếp vận
nhờ đó mà tiêu trừ, chánh pháp do đây được bền vững. Đây là nhân duyên thứ mười.
Như trên tám cách đã thông, mười duyên
đã biết, phát tâm có chỗ, xu hướng có nơi. Trông mong đại chúng, đồng lập đại
nguyện, đồng phát đại tâm. Nếu chưa phát thì nay phát, đã phát nên tăng trưởng,
đã tăng trưởng khiến tương tục. Chớ thấy khó mà thối khiếp, chớ thấy dễ mà
khinh thường. Chớ dục tốc mà chẳng bền lâu, chớ biếng trễ mà không tiến ích.
Cũng đừng vì tối dốt mà một mặt vô tâm, đừng vì trí cạn mà tự hiềm vô phận. Ví
như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn lần sâu. Lại như mài dao, mài bền thì lưỡi
lụt lần bén. Đâu nên vì rễ cạn mà bỏ khô không vun tưới, dao lụt mà để luống
thành phế hư!
Còn nếu cho tu hành là khổ, tất chưa biết
biếng trễ lại càng khổ hơn! Tu hành tuy siêng nhọc nhứt thời, nhưng an vui mãi
mãi.
Biếng trễ chi tạm nhàn một kiếp, song khổ
lụy đời đời. Huống chi dùng Tịnh độ làm thuyền bè, đâu lo gì thối chuyển? Lại
được Vô sanh làm sức nhẫn, há còn sợ gian nan? Chớ bảo ý niệm vô thường, nguyện
suông vô ích. Phải biết tâm chân thì sự thật. Nguyện rộng tất hạnh sâu. Hư
không chẳng rộng lớn bằng nguyện tâm, kim cương không cứng bền bằng nguyện lực.
Đại chúng nếu không chê bỏ lời nầy, thì
xin nguyện cùng làm quyến thuộc bồ đề, bạn lành Tịnh độ. Nguyện đồng sanh Cực Lạc,
đồng thấy Di Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh Giác.
TẾ TỈNH ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Thập Nhị Tổ)
Tế Tỉnh Đại Sự, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp
Đường, người đời Thanh, con nhà họ Mã ở huyện Phong Nhuận.
Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau
khi xuất gia, lại đi tham học các nơi, rộng suốt cả hai tông: Tánh và Tướng. Chỗ
tâm đắc nhất cúa ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của Kinh Pháp Hoa. Kế đó,
ngài lại tham phỏng với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt,
được truyền tâm ấn. Sau Thuần công về an dưỡng ở chùa Vạn Thọ, Đại sư kế nhiệm
tại Quảng Thông, sách tiến hàng hậu laii, tông phong rất thạnh.
Bình nhật, Đại sư thường bảo: “Ngài Vĩnh
Minh nguyên là bậc tông trượng trong thiền môn, mà còn quy tâm về Tịnh Độ. Huống
nay là thời mạt pháp, chúng ta cũng phải tuân theo”. Do đó, ngài chuyên tu tịnh
nghiệp, chủ trương Liên tông. Mỗi ngày hạn thời giờ dạy chúng hoặc tiếp khách nội
một cây hương. Ngoài ra chỉ chuyên lễ sám niệm Phật mà thôi.
Không bao lâu, Đại sư sang trụ trì chùa
Giác Sanh. Kế đó lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở Hồng Loa Sơn. Tăng chúng các
nơi mến đức nương về ngày càng đông, khiến chỗ ấy trở thành đại tòng lâm. Đại
sư vì pháp lợi sanh lòng không chán mỏi, tất cả đều dùng Tịnh độ làm chỗ quy thú.
Mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi theo tiếng.
Thính chúng ngồi nghe đều cảm động sa nước mắt. Trong hai quyển Ngữ Lục của
ngài, lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Đại lược như sau:
-“Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của
chúng ta, duy có hai thức: Tâm lực và Nghiệp lực. Tâm lực là tâm niệm có nhiều
mối, khi lâm chung đi theo mối nặng nhất. Nghiệp lực ví như người mang nợ, chủ
nợ mạnh lôi kéo trước tiên. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn.
Bởi nghiệp không tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi tâm chú trọng thì
làm cho nghiệp thêm mạnh. Nếu ta dùng trọng tâm mà tu Tịnh độ, tất tịnh nghiệp
mạnh, khi lâm chung quyết định sanh về Tây phương. Ví như cây to tường cao,
nghiêng hướng về Tây, ngày kia khi đã đổ tất cũng hướng về Tây vậy.
Thế nào trọng tâm? Chúng ta tu Tịnh độ,
lòng tin qúi ở nơi sâu, chí nguyện qúi ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết,
nên tất cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh duyên không thể lay động,
tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm Phật, bỗng tổ Đạt
Ma hiện ra, bảo phải bỏ Tịnh tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì cũng từ tạ
không dám tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân, bảo có pháp môn khác hơn Tịnh
độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững
như vậy, mới gọi là lòng tin sâu sắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng
đỏ xoay vần trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại
như có cảnh dục lạc mầu nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng
không vì sự vui sướng đó mà quên tạm niệm cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh duyên
nghịch thuận cùng cực như thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là chí nguyện tha
thiết.
Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi
là trọng tâm. Dùng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh và lần lần thành
thục. Khi nghiệp thanh tịnh Cực Lạc thành thục, tất duyên nhiễm Ta bà phải dứt.
Như thế, lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra, cảnh Tịnh độ cùng đức
Di Đà chẳng hiện tiền, cũng không thể được. Nhưng tín nguyện sâu thiết ấy lúc
bình thời phải rèn luyện cho thành, khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác.
Như cổ đức lúc sắp mạng chung, chư Thiên ở sáu cõi trời trổi nhạc cầm tràng
phan, kế tiếp đến rước, mà vẫn cố từ, một lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến
mới chịu đi. Lâm chung là cảnh tứ đại sắp phân tán, chư Thiên đến rước là cảnh
tốt đẹp tuyệt vời! Nếu bình thời tâm tín nguyện chưa được mười phần vững chắc,
thì khi lâm chung gặp phải cảnh ấy, làm sao tự chủ được!”
Có nhà tu thiền hỏi: “Tất cả các pháp, đều
như mộng huyễn. Cõi Ta bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng.
Như thế, niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi được?
Đại sư đáp: – Không phải thế đâu! Các bậc
Bồ Tát từ đệ Thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Đến như bậc Đẳng
Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Đại Giác, hoàn
toàn thức tỉnh. Đang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cùng khổ vẫn uyển nhiên!
Như thế, cam chịu cảnh mộng khổ ở Ta bà, sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực
Lạc? Phương chi, mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra
khỏi mê, lần lướt đến ngôi Đại Giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng, mà kết qủa
ở đôi nơi rất khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào
tháng hai, Đại sư dự biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa, đi từ giã những người
ngoại hộ, dặn rằng: “Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên qúi tiếc.
Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi Liên bang!”. Đến
ngày mùng hai tháng chạp, Đại sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm niệm Phật, bỗng thấy
có vô số tràng phan từ phương Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói: “Cảnh Tịnh độ
đã hiện, ta sắp về Tây phương!. Rồi bảo đại chúng, luân phiên trợ niệm. Sang
ngày 17, vào giờ Thân, ngài nói với chúng rằng: “Hôm qua tôi thấy ba vị đại sĩ:
Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí. Hiện giờ lại được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn.
Tôi đi đây!”. Đại chúng nghe nói, niệm Phật càng chí thiết, Đại sư ngồi thẳng,
chắp tây hướng về Tây, bảo: “Xưng một cầu hồng danh, thấy một phần tướng hảo”!
Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch.
Lúc ấy, tất cả chúng đều nghe mùi hương
lạ ngào ngạt. Để lộ khám bảy ngày, dung sắc Đại sư tươi như sống, tóc bạc biến
thành đen. Lúc trà tỳ, được hơn một trăm hạt xá lợi lóng lánh. Đại sư thọ được
bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.
ẤN QUANG ĐẠI SƯ
(Liên Tông
Thập Tam Tổ)
Ấn Quang Đại Sư, húy Thánh Lượng, biệt
hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối đời nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con
nhà họ Triệu ở Hiệp Tây. Thuở bé ngài học Nho, lớn lên lấy việc duy trì đạo Khổng
làm trách nhiệm, nên theo thuyết cúa Hàn Dũ, Âu Dương Tu, bài bác Phật Pháp.
Sau khi bịnh mấy năm, tự xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước.
Niên hiệu Quang Chữ thứ bảy đời Thanh, vừa
sang hai mươi mốt tuổi, căn lành thuần thục, ngài xuất gia với Đạo Thuần hòa
thượng tại chùa Liên Hoa Động ở núi Chung Nam. Ít lâu sau, lại được duyên thọ đại
giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An, với luật sư Ấn Hải Định.
Ngài từng bị đau mắt khi sanh ra vừa sáu
tháng, sau tuy lành bịnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi đỏ, thì chỉ nhìn
thấy cảnh vật lờ mờ. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và viết chữ khéo,
nên được cử làm chức Thơ ký. Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt lại phát đỏ như huyết.
Lúc trước nhân khi phơi kinh được xem bộ Long Thơ Tịnh Độ, biết rõ công đức Niệm
Phật, nên kỳ thọ giới này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ ngài vẫn ngồi niệm Phật.
Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời Phật. Nhờ đó tuy đôi mắt phát
đỏ, vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn bịnh đau mắt cũng được
lành. Do đây, ngài biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân duyên
này cũng là đầu mối khiến ngài quy hướng Tịnh độ, và khuyên người niệm Phật. Từ
đó, Đại sư tiến bước trên đường tu học trải qua các danh lam: Từ Phước Tự, Long
Tuyền Tự, Viên Quảng Tự, và sau cùng đến chùa pháp võ ở Phổ Đà Sơn.
Trong thời gian ấy, khi thì tham học,
lúc duyệt Tam tạng kinh, khi lại nhập thất, nên ngài Ngộ sâu đến thượng thừa,
lý sự đều vô ngại, Đại sư kiến thức cao siêu, làm việc cẩn thận nên hai phen được
Hóa Văn Hòa Thượng và Đế Nhàn Pháp Sư mời làm đồng bạn đến đế đô thỉnh ba tạng
kinh cho Pháp Võ Tự ở Phổ Đà Sơn và Đầu Đà Tự Tại Ôn Châu. Cảm mến hạnh đức,
Hóa Văn hòa thượng thỉnh ngài về ở lầu Tàng Kinh tại chùa Pháp Võ để tĩnh tâm
tu niệm. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn ba mười năm xuất gia, Đại sư
trước sau tới lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội.
Nhưng chuông trống tuy đánh bên trong,
tiếng thanh vẫn vang ra ngoài. Cao Tăng dù muốn ẩn mình, Thiên long cũng đưa
duyên phổ hóa. Niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc năm đầu, cư sĩ Cao Hạt Niên nhân
khi hành hương đến chùa Pháp Võ, lúc trở về đem vài bài văn của Đại sư đăng lên
Phật Học Tòng Báo ở Thượng Hải, dưới đề tên là Thường Tâm. Tuy chưa biết đó là
ai, nhưng văn tự Bát Nhã đã khiến cho độc giả phát khởi căn lành, nhiều người
đua nhau dò hỏi chỗ ở. Lúc ấy, Đại sư vừa đúng năm mươi hai tuổi. Mấy năm sau,
tung tích cũng bị người tìm biết được; lần lượt kẻ vượt bể lên non cầu lời khai
thị, người mượn tin hồng nhạn hỏi lối nam châm. Cư sĩ Từ Huất Như sưu tầm văn
tín của ngài in thành bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, tái bản và tăng đính nhiều
lượt, truyền bá cả trong đến ngoài nước.
Ban sơ, khi họ Từ cư sĩ đem mẹ lên núi cầu
xin quy y, Đại sư còn bền chí ẩn tu không chịu chấp nhận, bảo sang quy y với Đế
Nhàn Pháp Sư ở chùa Quán Tông tại Ninh Ba. Đến năm Dân Quốc Thư tám, cư sĩ Châu
Mạnh Do đem quyến thuộc lên núi, ba bốn phen đảnh lễ cầu khẩn, xin thâu làm đệ
tử tại gia. Đại sư quán xét cơ duyên, lý khó khước từ, bất đắc dĩ phải chấp thuận.
Tính đến năm ấy, ngài được năm mươi chín tuổi, mới thâu đệ tử quy y lần đầu. Từ
đó,hàng thiện tín kẻ viết thư cầu làm đệ tử, người lên non xin được quy y, tất
cả đều y giáo phụng hành, ăn chay niệm Phật. Trong một đời giáo hóa, đệ tử tại
gia của Đại sư từ hạng quyền qúy giàu sang, danh nhân học sĩ đến kẻ thôn giã
thường dân, số lên đến gần ba trăm ngàn người. Có nhiều vị niệm Phật tu hành được
sanh về Cực Lạc.
Đại sư trì giới tinh nghiêm, giữ mình rất
kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp, cùng thức ăn ngon qúi người đem đến dâng, nếu
không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất gia khác. Còn phẩm vật
thông thường, thì đều chuyển giao cho nhà kho của chùa, để dại chúng cùng thọ
hưởng. Bao nhiêu số tiền của dân tín cúng dường riêng cho mình, ngài đều đem in
kinh sách, hoặc cứu tế các nạn tai, hay giúp vào những cơ quan từ thiện. Riêng
mình chỉ giữ phần cơm thô áo vải đến trọn đời. Đại sư tánh không thích phô
trương, có vài Phật tử mến đức tìm tới tận quê nhà, sưu tập sự tích từ khi ngài
còn bé qua giai đoạn xuất gia và ra đời hoằng hóa, viết thành tuyệt ký, rồi gởi
đến xin hiệu chính, để ấn tống lưu truyền rộng ra. Ngài đều khước từ, gởi
nguyên bản trả lại, khuyên xin vì mình mà dẹp bỏ đi. Hai vị hiển quan: Đào Tại
Đông và Hoàng Hàm Chi có viết thư đem đạo hạnh của Đại sư trình lên Tổng thống
Trung Hoa Dân Quốc. Ngài được Từ Tổng Thống phong tặng tấm biển đề “Ngộ Triệt
Viên Minh”. Sai đoàn đại biểu đem đến tận chùa Phổ Đà, cùng hiến dâng nhiều
hương hoa phẩm vật, song riêng ngài vẫn thản nhiên dường không hay biết. Đại sư
có ba điểm đặc biệt khác hơn những vị xuất gia đương thời. Một là không lãnh
làm trụ trì tự viện lớn, vì cho mình kém đức, e chướng ngại đến sự thanh tu.
Hai là không thâu đệ tử xuất gia, vì xét thấy vào thời mạt pháp đã sâu, người xứng
đáng với bổn phận xuất gia rất ít, nên không muốn gây nhiều hệ lụy. Ba là không
quyên mộ khuyến hóa, bởi thẹn thấy nhiều kẻ vì lợi danh mà làm mất sự thanh khiết
của nhà tu.
Về duyên hoằng hóa, Đại sư, quán xét vào
thời mạt vận đạo đức lần suy, nhân căn hầu hết đều kém yếu. Phần đồng chỉ ở
trình độ giữ Tam Quy, Ngũ Giới, niệm Phật ăn chay mà thôi. Như thế cũng gọi là
đã có nhiều căn lành rồi. Còn hạng siêu xuất thì thật ra tuyệt ít. Vì thế, đại
khái ngài chỉ khuyên giữ trọn luân thường, tin chắc nhân qủa, lánh dữ làm lành,
tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Người đáng chiết phục, dù bậc thiền
túc cự nho, đạt quan danh sĩ, cũng thẳng thắng chỉ trích. Kẻ đáng nhiếp thọ,
tuy hàng sơ học hậu sanh, nông công nô bộc, cũng từ ái khuyên dậy. Cách giáo
hóa của Ngài, chỉ đem những sự lý thuyết thật bình thường để khuyến ích, tuy
chính mình hiểu sâu tông giáo, song không chuộng huyền luận cao đàm. Đại sư thường
tán trợ vào các hội niệm Phật phóng sanh, khuyên giúp vào các viện Từ „u, Dưỡng
lão. Ngài cũng sáng lập ra hoằng Hóa Xã, giao cho người coi sóc, mình lãnh phần
chỉ đạo, để ấn tống hoặc phát hành kinh sách và tượng Phật, Bồ Tát và hơn năm
triệu bộ kinh sách thích ứng với thời cơ.
Về công trình hộ pháp, lúc Âu chiến lần
thứ nhất, chính quyền có nghị định cho đời những kiều dân người Đức vào ở các
chùa. Đại sư cố gắng vận động với các bậc quyền thế, khiến cho bỏ qua việc đó.
Từ năm Dân Quốc thứ hai đến năm Dân Quốc thư hai mươi lăm, đã nhiều phen chính
phủ theo lời đệ nghị của những nhà đương quyền có óc duy vật, lần lượt đăng báo
muốn sung tài sản chùa chiền vào công qũy, chiếm các tự viện làm trường học. Đại
sư họp sứ cùng chư Tăng sĩ và các cư sĩ hộ pháp, lập cách giải cứu, khiến cho đều
được nạn thoát tai qua. Ngoài ra, các tiểu tiết khác, ngài chỉ tuỳ thời dùng đôi
lời nói, hoặc một phong thơ đều tiêu kiếp nạn.
Về phần linh cảm, năm Đại sư bảy mươi tuổi
được Tăng chúng thỉnh về chùa Báo Quốc. Và cuối mùa hạ, nơi đây sanh ra loài rệp
rất nhiều. Từ gối chăn màn nệm, đến cửa sổ án kinh, đâu đâu cũng thấy chúng bò
lai vãng. Hàng đệ tử thương ngài tuổi già sợ không kham chịu sự quấy nhiễu, xin
vào để tìm cách thâu nhập. Đại sư không chấp thuận, chỉ yên tâm niệm Phật cầu
nguyện cho chúng đi, không bao lâu loài rệp đều tuyệt tích. Ngoài thời niệm Phật,
ngài thường tụng chú Đại Bi vào tàn hương, gạo, hoặc nước, để cứu những bịnh nặng
mà các y sĩ đều bó tay. Mỗi lần như thế đều ứng nghiệm kỳ lạ. Một hôm, nơi lầu
Tàng Kinh chùa Báo Quốc, phát hiện ra vô số mối trắng. Ngài hay được liền trì
chú Đại Bi trong nước, bảo đem đến vẩy vào chúng. Loài mối đều kéo nhau bỏ đi
nơi khác. Cư sĩ Cao Hạt Niên có lời tự thuật: Sở dĩ ông biết Ấn Quang Đại Sư là
bậc cao Tăng, bởi ngài nói những lời rất thông thường, nhưng càng suy ngẫm càng
thấy đúng với hiện cảnh và sau đó đều ứng nghiệm. Kỳ lên núi Phổ Đà lần thứ nhất,
lúc nhà Thanh hãy còn, nhân ngụ tại chùa lâu ngày, cư sĩ có hỏi Đại Sư về cuộc
diện mai sau. Ngài ứng khẩu đáp bằng một bài thi:
Tuần
hoàn kiếp số rất bi thương!
Thoát khổ đâu hơn Cực Lạc bang?
Gắng niệm Di Đà về bản cảnh
Đừng mê trần lụy lạc tha hương
Bụi hồng nghiệp trước đời hư mộng
Lửa đỏ ngày sau nước họa ương
Khuyên sớm xa nơi nhiều kiếp nạn
Cùng nhau dạo bước đến Liên phương.
Trong bài thi, ngài ám chỉ nạn binh hỏa
về sau, và khuyên người niệm Phật vậy.
Năm Dân Quốc thứ mười bảy, Đại sư thành
lập Tịnh Độ đạo tràng tại chùa Linh Nham, soạn ra chương trình quy củ giao cho
Chân Đạt hòa thượng nhiếp chúng trụ trì. Từ đó ngài về ở Tịnh thất tại Tô Châu.
Sau thời niệm Phật, Đại sư họp cùng cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, tu chỉnh bốn quyển Danh
Sơn Chí, nói về linh tích các núi: “Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa”. Năm
bảy mươi tuổi, vì chiến cuộc bức bách, ngài từ Tô Châu dời về Linh Nham, an cư
niệm Phật ba năm.
Năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ngày 24
tháng 10, Đại sư dự biết kỳ vãng sanh, cho triệu tập chư Tăng và cư sĩ về chùa
Linh Nham. Trong buổi hội đàm, ngài suy cử Diệu Chơn hòa thượng kế nhiệm trụ
trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn niệm Phật không có chi đặc biệt
lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”.
Qua ngày mùng 4 tháng 11, Đại sư cảm bịnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm
xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Đà đã đến tiếp dẫn,
tôi sắp đi đây. Đại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây Phương!”. Nói đoạn,
bước lại ghế ngồi kiết già, chấp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng
rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Đại sư tăng lạp được sáu mươi, thế thọ tám mươi
tuổi.
Rằm tháng hai năm sau, nhằm thánh tiết
Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Đại sư vãng sanh được một trăm ngày. Hàng
đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai mươi ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ.
Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Đạt hòa thượng cầm đuốc
cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc. Hôm sau Diệu
Chơn hòa thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi hiện ra nhiều
hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như khoáng chất, gõ
vào phát ra tiếng trong thanh. Đại chúng lựa chia thành sáu phần:
Nha
sỉ xá lợi, gồm ba mươi hai cái răng.
Ngũ
sắc xá lợi châu, nhiều hạt tròn sáng.
Ngũ
sắc tiểu xá lợi hoa, hình như các đóa hoa nhỏ.
Ngũ
sắc đại xá lợi hoa, hình như những đóa hoa lớn.
Ngũ
sắc huyết xa lợi, do huyết nhục hóa thành.
Ngũ
sắc xá lợi khối, gồm những khối có nhiều hình dáng, màu sắc.
Tất cả đều để vào lồng kiếng, trân tàng
tại bản sơn.
Kế tiếp hàng Tăng Ni và đệ tử lễ bái thỉnh
cầu, vị nào có thành tâm khi bới tro tìm kiếm đều được xá lợi. Như Quảng Hiệp
Pháp Sư ở Tân Gia Ba, Pháp Độ Thượng Nhân ở Ngũ Đài, cư sĩ Ngô Quốc Anh ở Phi
Luật Tân, cư sĩ Nhạc Huệ Võ ở Thượng Hải, mỗi vị đều được xá lợi màu xanh, màu
vàng, huyết sắc hoặc ngũ sắc. Đại sư lúc bình thời, ngôn hạnh chân thật, không
biểu thị điều chi kỳ lạ, nên chẳng thể biết ngài chứng đắc đến đâu. Song hàng Tăng
tục xét qua đạo hạnh, sự hoằng hóa thuở còn sanh tiền, đến việc quy Tây và lưu
xá lợi khi viên tịch, đều nhận định ngài là bậc Thánh nhân tái lai để tùy cơ độ
sanh và hộ trì chánh Pháp. Vì thế, nhân ngày kỷ niệm một năm viên tịch, các
liên hữu Tăng tục đồng suy tôn Đại Sư làm vị tổ thứ mười ba của Liên tông.
LỜI PHỤ:
Tịnh độ không có sự truyền thừa như chư
Tổ như bên Thiền tồng. Sở dĩ có chư Tổ Tịnh độ, là do các vị tăng tục môn Niệm
Phật đời sau họp lại chọn những bậc siêu xuất mà suy tôn. Sự siêu xuất ấy biểu
lộ trên ba quan điểm:
1. Về phần kiến thức, phải là bậc hiểu
sâu cả Tông lẫn Giáo, ngộ đến Thượng thừa.
2. Về phần đạo hạnh, phải giới phẩm tinh
nghiêm, tu hành tinh tấn. Khi lâm chung có triệu chứng vãng sanh.
3. Về phần hoằng hóa, phải có công tuyên
dương Tịnh độ, hộ trì chánh pháp, khuyến đạo ngàn muôn người niệm Phật.
Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục chỉ ghi có
11 vị Tổ tông Tịnh độ. Về sau nơi đạo tràng Linh Nham, ngài Ấn Quang họp các
liên hữu tăng tục, suy tôn Hành Sách đại sư làm vị Tổ thứ 10, đưa Thật Hiền đại
sư lên hàng thứ 11, và Tế Tỉnh đại sư lên hàng thứ 12. Sau khi Ấn Quang đại sư
vãng sanh, chư liên hữu xét thấy ngài hạnh đức trang nghiêm có công lớn với Tịnh
độ, mới họp lại đồng suy tôn lên làm vị Tổ thứ 13.
Thiền tông tuy có y bát truyền thừa,
nhưng mục đích dùng để biểu tín với quần chúng. Sau đời Lục Tổ, chỉ truyền pháp
không còn truyền y bát, vì lúc ấy thiền hóa đã thạnh hành. Bên Tịnh độ, chư đại
sư cũng thuần vì bi trí lợi sanh, không tự gọi mình là Tổ. Chỉ sau khi các ngài
viên tịch, người đời sau mới suy tôn lên. Nhưng thật ra, xét kỹ qua mọi phương
diện, các vị đều là bậc thánh nhơn ứng hóa, xứng đáng được tôn là Tổ. Những bậc
cao tăng thông thường không thể làm được như vậy.
Trong 13 vị Tổ của Tịnh độ, đã có bảy
ngài nguyên là thiền sư được chánh truyền. Các vị ấy là: Thừa Viễn, Vĩnh Minh,
Liên Trì, Ngẫu ích, Hành Sách, Tỉnh Am và Triệt Ngộ. Tại sao các ngài đã ngộ
thiền mà không hoằng Thiền, trở lại hoằng Tịnh? Trong đây có ba nguyên yếu:
1. Về pháp môn: – Trực chỉ thiền, chỉ có lợi cho bậc thượng
thượng căn, hàng trung, hạ khó bề thể nhập (Phi
thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa Tổ ngữ). Còn môn Tịnh độ, thì lợi khắp cả ba căn.
Hàng thượng thượng căn tu Tịnh độ, có thể hiện đời ngộ được bản tâm, chứng Niệm
Phật tam muội, khi mạng chung sanh về Thượng phẩm. Dù kẻ tối hạ căn nếu chuyên
niệm Phật, cũng được đới nghiệp vãng sanh, lên ngôi Bất thối. Khi đã vãng sanh,
lễ cẩn Di Đà, gần gũi thánh chúng thọ mạng vô biên kiếp, lo gì không ngộ chân
tâm, chứng thánh quả! Vì sự lợi ích rộng rãi chắc chắn như thế, các ngài mới
khuyên tu Tịnh độ.
2.
Về thời tiết: – Trong thời Chánh pháp, có thật
hành phần nhiều đều chứng quả, hoặc đi sâu vào thiền định, đê làm cơ bản cho những
kiếp tu sau. Qua thời Tượng pháp, sự ngộ đạo còn có ít người huống chi là chứng!
Đến thời Mạt pháp, như kinh Đại Tập nói: “ức ức người tu hành, song khó tìm một
người ngộ đạo”. Dù được ngộ đạo, nhưng chưa phải chứng, phiền não nghiệp tập
hãy còn, khi luân hồi bị phước báo làm mê, mười người đã thổi chuyển hết chín.
Do đó, từ cuối đời Tượng bước sang Mạt pháp, chư đại thiện tri thức lần lần
chuyển hướng dạy người tu Tịnh độ. Vì bấy giờ thiền hóa còn thạnh hành, các
ngài phải thị hiện phương tiện, trước triệt ngộ thiền cơ, sau hoằng dương Tịnh
độ, mới được người đương thời tín nhiệm tuân hành.
3.
Về cơ duyên: – Từ đầu Mạt pháp trở về sau, căn cơ
của quần chúng hầu hết là hạng trung hạ. Muốn thật hiện mục đích lợi sanh trong
thời đại nầy, chư Bồ Tát phải tùy cơ duyên mà chủ trương Tịnh độ. Các tông khác
tuy cũng rất cần chấn hưng, nhưng chỉ thuộc phần thứ yếu, bởi sự lợi ích không
được phổ cập. Từ trước chư tôn túc trong các tông khác cũng xét biết điều nầy,
nên tuy vẫn hoằng dương bổn môn, mà phần nhiều đều quy hướng Tịnh độ. Như Chân
Yết Liễu thiền sư nói: “Những vị dưới tông Tào Động đều mật tu Tịnh độ, bởi Tịnh
độ thấy Phật còn dễ hơn Thiền tông” (Động
hạ nhất tông giai cụ mật tu, dĩ Tịnh độ kiến Phật vưu giản vị ư tông môn).
Về như thời cận đại, Đế Nhàn Pháp sư tuy
truyền bá tông Thiên Thai, song vẫn niệm Phật. Khi sắp viên tịch, ngài đọc lời
kệ khuyến tấn đại chúng:
Tôi
nhờ niệm Phật.
Thọ dụng chân thật.
Tịnh độ hiện tiền.
Chúng gắng tinh chuyên!
Ấn Quang Pháp sư trong bức thư gời cho
Thể An Hòa thượng, có nói: “Trong mấy mươi năm lịch duyệt bắc nam, đi về hàng
muôn dặm, tôi kinh nghiệm thấy những vị thông minh hiểu suốt tông giáo, khinh
thường Tịnh độ, khi lâm chung phần nhiều mê loạn, đôi khi có trạng thái kêu la.
Còn những người chân thật niệm Phật, dù tín nguyện chưa chí thiết, không có thoại
tướng lúc lâm chung, nhưng họ chết đều an ổn cả”.
Cho nên, từ lúc sanh tiền cho đến khi quá vãng, môn Niệm Phật đích thật là con thuyền cứu khổ nhơn sanh trong thời buổi nầy vậy.













Comments
Post a Comment