Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 9
PHẨM HOA TẠNG THẾ GIỚI
THỨ NĂM
Lúc đó Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng : 'Chư Phật-tử ! Phương
đông của biển Vô-biên-diệu-hoa-hương-thủy này, giáp biển Ly-cấu-diệm-tạng-hương-thủy, có đại liên-hoa tên Nhứt-thiết-hương-ma-ni-vương-diệu-trang-nghiêm. Trên đại liên-hoa này có thế-giới-chủng tên Biến-chiếu-sát-triền, dùng Bồ-Tát-hạnh-hống-âm làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Cung-điện-trang-nghiêm tràng
hình vuông, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh. Phật hiệu My-Gian-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đức-Hoa-Tạng, hình tròn, hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Vô-Biên-Pháp-Hải-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Biến-Hóa-Diệu-Hương-Luân, hình như kim-cang, ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Công-Đức-Tướng-Quang-Minh-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Sắc-Quang-Minh, trạng như ma-ni-bửu-luân, bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Thiện-Quyến-Thuộc-Xuất-Hưng-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Cái-Phúc, hình liên-hoa, năm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Pháp-Hỉ-Vô-Tận-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thi-Lợi-Hoa-Quang-Luân, hình tam giác, sáu
phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Liên-Hoa-Trang-Nghiêm, hình bán nguyệt, bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Công-Đức-Hoa-Thanh Tịnh-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Cấu-Diệm-Trang-Nghiêm, hình như bửu-đăng giăng hàng, tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Huệ-Lực-Vô-Năng-Thắng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Phạm-Âm, hình chữ 'vạn', chính phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Quảng-Đại-Mục-Như-Không-Trung Tịnh-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-Trần-Số-Âm-Thinh, trạng như lưới nhơn-đà-la, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kim-Sắc-Tu-Di-Đăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Sắc-Trang-Nghiêm, hình chữ 'vạn', mười một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Hòi-Chiếu-Pháp-Giới-Quang-Minh-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Sắc-Diệu-Quang, hình như thành-quách rộng lớn, mười hai phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Bửu-Đăng-Phổ-Chiếu-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Biến-Chiếu-Quang-Minh-Luân, hình như hoa xoắn tròn, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Diệm-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Tạng-Trang-Nghiêm, hình tứ châu, mười bốn phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Tận-Phước-Khai-Phu-Hoa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Như-Cảnh-Tượng-Phổ-Hiện, trạng như thân A-Tu-La, mười lăm phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Cam-Lộ-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Đàn-Nguyệt, hìm tám góc, mười sáu phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Pháp-Vô-Đẳng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Cấu-Quang-Minh, trạng như dòng hương-thủy xoáy, mười bảy phật-sát vi-trần-số bao quanh, Phật hiệu Biến-Chiếu-Hư-Không-Quang-Minh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Hoa-Trang-Nghiêm, trạng như hình xây quanh, mười tám phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Phổ-Hiện-Thắng-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thắng-Âm-Trang-Nghiêm, trạng như tòa sư-tử, mười chín phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Vô-Biên-Công-Đức-Xưng-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cao-Thắng-Đăng, trạng như phật-chưởng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Hư-Không-Đăng.
Chư Phật-tử ! Phương nam của biển Ly-Cấu-Diệm-Tạng hương-thủy này, giáp biển Vô-Tận-Quang-Minh-Luân hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-tràng-trang-nghiêm, dùng Phật-công-đức-hải-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Ái-kiến-hoa, hình như bửu-luân, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Liên-Hoa-Quang-Hoan-Hỉ-Diệu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Âm, Phật hiệu Tu-Di-Bửu-Đăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Bửu-Trang-Nghiêm-Quang, Phật hiệu Pháp-Giới-Âm-Thinh-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Tạng-Kim-Cang, Phật hiệu Quang-Minh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Âm, Phật hiệu Tối-Thắng-Tinh-Tấn-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Liên-Hoa-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Thành-Vân-Lôi-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Giữ-An-Lạc, Phật hiệu Đại-Danh-Xưng-Trí-Huệ-Đăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Cấu-Võng, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Công-Đức-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hoa-Lâm-Tràng-Biến-Chiếu, Phật hiệu Đại-Trí-Liên-Hoa-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Phổ-Nhãn-Pháp-Giới-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-Minh-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Thắng-Trí-Đại-Thương-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hoa-Vương, Phật hiệu Nguyệt-Quang-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-Cấu-Tạng, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Giác.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Quang-Minh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Hư-Không-Đăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Bửu-Anh-Lạc, Phật hiệu Chư-Độ-Phước-Hải-Tướng-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Luân-Biến-Phú, Phật hiệu Điều-Phục-Nhứt-Thiết-Nhiễm-Trước-Tâm-Linh-Hoan-Hỉ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Hoa-Tràng, Phật hiệu Quảng-Công-Đức-Âm-Đại-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Bình-Đẳng-Trí-Quang-Minh-Công-Đức-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Tận-Quang-Trang-Nghiêm-Tràng, hình như liên-hoa, y biển bửu-võng mà trụ, lưới liên-hoa-quang-ma-ni giăng che, hai
mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Pháp-Giới-Tịnh-Quang-Minh.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Vô-tận-quang-minh-luân-hương-thủy này giáp biển Kim-cang-bửu-diệm-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-quang-trang-nghiêm-tạng, dùng âm-thinh xưng nói hồng-danh của tất cả Như-Lai làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Bửu-Diệm-Liên-Hoa, hình như tướng lông màu ma-ni giữa chặn mày, y biển Bửu-sắc-thủy-triền mà trụ, mây lâu-các trang-nghiêm giăng che,
một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Cấu-Bửu-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Diệm-Tạng, Phật hiệu Vô-Ngại-Tự-Tại-Trí-Huệ-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Luân-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Bửu-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Đàn-Thọ-Hoa-Tràng, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Trí-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phật-Sát-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Quảng-Đại-Hoan-Hỷ-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Quang-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Giới-Tự-Tại-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Tướng, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệm-Vân-Tràng, Phật hiệu Diễn-Thuyết-Bất-Thối-Luân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-Bửu-Trang-Nghiêm-Thanh-Tịnh-Luân, Phật hiệu Ly-Cấu-Hoa-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quảng-Đại-Xuất-Ly, Phật hiệu Vô-Ngại-Trí-Nhựt-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Trang-Nghiêm-Kim-Cang-Tòa, Phật hiệu Pháp-Giới-Trí-Đại-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trí-Huệ-Phổ-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Trí-Cự-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-Trì-Thâm-Diệu-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chủng-Chủng-Sắc-Quang-Minh, Phật hiệu Phổ-Quang-Hoa-Vương-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Bửu-Tràng, Phật hiệu Công-Đức-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-Ni-Hoa-Hào-Tướng-Quang, Phật hiệu Phổ-Âm-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thậm-Thâm-Hải, Phật hiệu Thập-Phương-Chúng-Sanh-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Quang, Phật hiệu Pháp-Giới-Phổ-Trí-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Liên-Hoa, Phật hiệu Phước-Đức-Tạng-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Đại-Biến-Hóa-Quang-Minh-Võng.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-cang-bửu-diệm-hương-thủy này giáp biển Đế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới chủng tên Quang-chiếu-thập-phương, nương mây Diệu-trang-nghiêm-liên-hoa-hương mà trụ, dùng vô-biên-Phật-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Thập-phương-vô-tận-sắc-tạng-luân, hình xoay vòng vó vô-lượng góc, nương biển vô-biên-sắc-bửu-tạng mà trụ, lưới nhơn-đà-la giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhãn-Quang-Minh-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Diệu-Trang-Nghiêm-Tạng, Phật hiệu Vô-Thượng-Huệ-Đại-Sư-Tử.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Hiện-Liên-Hoa-Tòa, Phật hiệu Biến-Chiếu-Pháp-Giới-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Tràng-Âm, Phật hiệu Đại-Công-Đức-Phổ-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-cang-bửu-trang-nghiêm-tạng, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhựt-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhơn-đà-la-hoa-nguyệt, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Trí-Huệ-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Luân-Tạng, Phật hiệu Đại-Hỷ-Thanh-Tịnh-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Âm-Tạng, Phật hiệu Đại-Lực-Thiện-Thương-Chủ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Nguyệt, Phật hiệu Tu-Di-Quang-Trí-Huệ-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-biên-trang-nghiêm-tướng, Phật hiệu Phương-Tiện-Nguyện-Tịnh-Nguyệt-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hoa-âm, Phật hiệu Pháp-Hải-Đại-Nguyện-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhứt-thiết-bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Công-Đức-Bửu-Quang-Minh-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kiên-cố-địa, Phật hiệu Mỹ-Âm-Tối-Thắng-Thiên.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-thiện-hóa, Phật hiệu Đại-Tinh-Tấn-Tịch-Tịnh-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-thủ-hộ-trang-nghiêm-hạnh, Phật hiệu Kiến-Giả-Sanh-Hoan-Hỷ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Đàn-Bửu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Thậm-Thâm-Bất-Khả-Động-Trí-Huệ-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hiện-chủng-chủng-sắc-tướng-hải, Phật hiệu Phổ-Phóng-Bất-Tư-Nghị-Thắng-Nghĩa-Vương-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hóa-hiện-thập-phương-đại-quang-minh, Phật hiệu Thắng-Công-Đức-Oai-Quang-Vô-Giữ-Đẳng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Vân-Tràng, Phật hiệu Cực-Tịnh-Quang-Minh-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-biến-chiếu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Giải-Thoát-Tinh-Tấn-Nhựt.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Đế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy nà giáp biển Kim-cang-luân trang-nghiêm-để-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-gián-thố, dùng âm-thinh do nhơn-đà-la-võng trí Phổ-Hiền sanh ra làm thể. Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Liên-hoa-võng, trạng như hình núi Tu-Di, nương biển Chúng-diệu-hoa-sơn-tràng mà trụ, mây Phật-cảnh-giới-ma-ni-vương-đế-võng giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Pháp-Thân-Phổ-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-tận-nhựt-quang-minh, Phật hiệu Tối-Thắng-Đại-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Phóng-diệu-quang-minh, Phật hiệu Đại-Phước-Vân-Vô-Tận-Lực.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thọ-hoa-tràng, Phật hiệu Vô-Biên-Trí-Pháp-Giới-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-châu-cái, Phật hiệu Ba-La-Mật-Sư-Tử-Tần-Thân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Diệu-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Kiến-Thọ-Phong, Phật hiệu Phổ-Hiện-Chúng-Sanh-Tiền.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Đế-Võng-quang, Phật Vô-Cấu-Nhựt-Kim-Sắc-Quang-Diệm-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-bửu-gián-thế, Phật hiệu Đế-Tràng-Tối-Thắng-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-cấu-quang-minh-địa, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Lực-Thanh-Tịnh-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hằng-xuất-thán-Phật-công-đức-âm, Phật hiệu Như-Hư-Không-Phổ-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cao-Diệm-Tạng, Phật hiệu Hóa-Hiện-Thập-Phương-Đại-Vân-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-nghiêm-đạo-tràng, Phật hiệu Vô-Đẳng-Trí-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-sanh-nhứt-thiết-bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Quảng-Độ-Chúng-Sanh-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-nghiêm-diệu cung-điện, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Nghĩa-Thành-Quảng-Đại-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ly-trần-tịch-tịnh, Phật hiệu Bất-Đường-Hiện.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-hoa-tràng, Phật hiệu Duyệt-Ý-Kiết-Tường-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Vân-Tạng, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Giác-Thần-Thông-Vương.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-Cang-Luân-Trang-Nghiêm-để-hương-thủy này giáp biển Liên-Hoa-nhơn-đà-la-võng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-hiện-thập-phương-ảnh, y liên-hoa-ma-ni trang-nghiêm mà
trụ, dùng Phật-trí-quang-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên chúng-sanh-hải-bửu-quang-minh, hình như tạng-chơn-châu, nương biển ma-ni-anh-lạc mà trụ, mây thủy quang-minh ma-ni giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Bất-Tư-Nghị-Công-Đức-Biến-Chiếu-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hương-luân, Phật hiệu Vô-Lượng-Lực-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Quang-Luân, Phật hiệu Pháp-Giới-Quang-Âm-Giác-Ngộ-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hống-Thinh-Ma-Ni-Tràng, Phật hiệu Liên-Hoa-Quang-Hằng-Thùy-Diệu-Tý.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Cực-Kiên-Cố-Luân, Phật hiệu Bất-Thối-Chuyển-Công-Đức-Hải-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-hạnh-Quang-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Phổ-Thắng-Tôn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Tòa-Biến-Chiếu, Phật hiệu Sư-Tử-Quang-Vô-Lượng-Lực-Giác-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Diệm-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Thanh-Tịnh-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Đăng, Phật hiệu Vô-Ưu-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thường-Văn-Phật-Âm, Phật hiệu Tự-Nhiên-Thắng-Oai-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-Tịnh-Biến-Hóa, Phật hiệu Kim-Liên-Hoa-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Nhập-Thập-Phương, Phật hiệu Quán-Pháp-Giới-Tần-Thân-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xí-Nhiên-Diệm, Phật hiệu Quang-Diệm-Thọ-Khẩn-Na-La-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Quang-Biến-Chiếu, Phật hiệu Hương-Đăng-Thiện-Hóa-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Hoa-Tụ-Luân, Phật hiệu Phổ-Hiện-Phật-Công-Đức.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-phổ-thanh-tịnh, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Bình-Đẳng-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Quang-Hải, Phật hiệu Thập-Phương-Tự-Tại-Đại-Biến-Hóa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-Châu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Pháp-Giới-Bửu-Quang-Minh-Bất-Khả-Tư-Nghị-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đế-Thích-Tu-Di-Sư-Tử-Tòa, Phật hiệu Thắng-Lực-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Bửu-Phổ-Chiếu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Biến-Chiếu-Thế-Gian-Tối-Thắng-Âm.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Liên-hoa-nhơn-đà-la-võng-hương-thủy này giáp biển Tích-tập-bửu-hương-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Oai-đức-trang-nghiêm, dùng Phật pháp-luân-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Chủng-chủng-xuất-sanh, hình như kim-cang, y tràng chủng-chủng-kim-cang-sơn mà trụ, mây kim-cang-bửu-quang giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Liên-Hoa-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hỷ-kiến-âm, Phật hiệu Sanh-Hỷ-Lạc.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-trang-nghiêm-tràng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đa-La-Hoa-Phổ-Chiếu, Phật hiệu Vô-Cấu-Tịch-Diệu-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Biến-hóa-quang, Phật hiệu Thanh-Tịnh-Không-Trí-Huệ-Nguyệt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-gián-thố, Phật hiệu Khai-Thị-Phước-Đức-Hải-Mật-Vân-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trang-nghiêm-cụ-diệu-âm-thinh, Phật hiệu Hoan-Hỷ-Vân.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-hoa-trì, Phật hiệu Danh-Xưng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-trang-nghiêm, Phật hiệu Tần-Thân-Quán-Sát-Nhãn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-diệu-hoa, Phật hiệu Vô-Tận-Kim-Cang-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-Hoa-Trang-Nghiêm-Thành, Phật hiệu Nhựt-Tạng-Nhãn-Phổ-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Thọ-Phong, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhựt-quang-minh, Phật hiệu Khai-Thị-Vô-Lượng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Y-Chỉ-Liên-Hoa-Diệp, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Phước-Đức-Sơn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phong-phổ-trì, Phật hiệu Nhựt-Diệu-Căn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-Minh-hiển-hiện, Phật hiệu Thân-Quang-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Lôi-âm-kim-cang-bửu-phổ-chiếu, Phật hiệu Tối-Thắng-Hoa-Khai-Phu-Tướng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đế-Võng-Trang-Nghiêm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Thị-Hiện-Vô-Úy-Vân.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Tích-tập-bửu-hương-tạng-hương-thủy này giáp biển Bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-vô-cấu, dùng phật-sát-thần-biến-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-diệu-bình-thản, hình như bửu-thân, nương biển bửu-quang-luân mà trụ, mây chiên-đàn-ma-ni-chơn-châu giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nan-Tòi-Phục-Vô-Đẳng-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xí-nhiên-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Liên-Hoa-Huệ-Thần-Thông-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-diệu-tướng-luân-tràng, Phật hiệu Thập-Phương-Đại-Danh-Xưng-Vô-Tận-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệm-tạng-ma-ni-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Đại-Trí-Huệ-Kiến-Văn-Giai-Hoan-Hỷ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Hoa-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Vô-Lượng-Lực-Tối-Thắng-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-sanh-tịnh-vi-trần, Phật hiệu Siêu-Thắng-Phạm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Quang-Minh-biến-hóa-hương, Phật hiệu Hương-Tượng-Kim-Cang-Đại-Lực-Thế.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-minh-triền, Phật hiệu Nghĩa-Thành-Thiện-Danh-Xưng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-anh-lạc-hải, Phật hiệu Vô-Tỉ-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-hoa-đăng-tràng, Phật hiệu Cứu-Cánh-Công-Đức-Vô-Ngại-Huệ-Đăng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-Xảo-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Huệ-Nhựt-Ba-La-Mật.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chiên-Đàn-Hoa-Phổ-Quang-Minh, Phật hiệu Vô-Biên-Huệ-Pháp-Giới-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đế-Võng-Tràng, Phật hiệu Đăng-Quang-Hoánh-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tịnh-Hoa-Luân, Phật hiệu Pháp-Giới-Nhựt-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đại-Oai-Diệu, Phật hiệu Vô-Biên-Công-Đức-Hải-Pháp-Luân-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đồng-an-trụ-bửu-liên-hoa-trì, Phật hiệu Khai-Thị-Nhập-Bất-Khả-Tư-Nghị-Trí.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bình-Thân-Địa, Phật hiệu Công-Đức-Bửu-Quang-Minh-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Ma-Ni-Tụ, Phật hiệu Vô-Tận-Phước-Đức-Hải-Diệu-Trang-Nghiêm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vi-Diệu-Quang-Minh, Phật hiệu Vô-Đẳng-Lực-Phổ-Biến-Âm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thập-phương-phổ-kiên-cố-quang-minh-chiếu-diệu, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Nhãn-Đại-Minh-Đăng.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Bửu-Trang-Nghiêm-Hương-Thủy này, giáp biển Kim-Cang-Bửu-Tụ-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Pháp-giới-hành, dùng Bồ-Tát phương tiện âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-quang-chiếu-diệu, hình như xâu chuỗi, nương biển Bửu-sắc-châu-anh mà trụ, mây Bồ-Tát-Châu-kế-quang-minh-ma-ni giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Công-Đức-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Diệu-Cái, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Bửu-Trang-Nghiêm-Sư-Tử-Tòa, Phật hiệu Đại-Long-Uyên.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Xuất-Hiện-Kim-Cang-Tòa, Phật hiệu Thăng-Sư-Tử-Tòa-Liên-Hoa-Đài.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Liên-hoa-thắng-Âm, Phật hiệu Trí-Quang-Phổ-Khai-Ngộ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thiện-quán-tập, Phật hiệu Trì-Địa-Diệu-Quang-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hỉ-Lạc-Âm, Phật hiệu Pháp-Đăng-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-tạng-Nhơn-đà-la-võng, Phật hiệu Bất-Không-Kiến.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-địa-tạng, Phật hiệu Diệm-Thân-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-Quang-Luân, Phật hiệu Tịnh-Trị-Chúng-Sanh-Hạnh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-điều-phục-sơn-trang-nghiêm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Công-Đức-Vân-Phổ-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-thọ-hình, Phật hiệu Bửu-Hoa-Tướng-Tịnh-Nguyệt-Giác.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Bố-Úy, Phật hiệu Tối-Thăng-Kim-Quang-Cự.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đại-danh-xưng-long-vương-tràng, Phật hiệu Quán-Đẳng Nhứt-Thiết-Pháp.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thị-hiện-ma-ni-sắc, Phật hiệu Biến-Hóa-Nhựt.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Quang-diệm-đăng-trang-nghiêm, Phật hiệu Bửu-Cái-Quang-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hương-Quang-Vân, Phật hiệu Tư-Duy-Huệ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Oán-Thù, Phật hiệu Tinh-Tấn-Thắng-Huệ-Hải.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Trang-nghiêm-cụ-quang-minh-tràng, Phật hiệu Phổ-Hiện-Duyệt-Y-Liên-Hoa-Tự-Tại-Vương.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Hào-tướng-trang-nghiêm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật Thanh-Tịnh-Nhãn.
Chư Phật-tử ! Vòng qua phía hữu của biển Kim-cang-bửu-điệp-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Đăng-diệm-quang-minh, dùng phổ-thị-bình-đẳng-pháp-luân-âm-thinh làm thể. Trong đó, phương dưới hết, có thế-giới tên Bửu-nguyệt-quang-diệm-luân, hình như đồ trang-nghiêm, y biển Bửu-trang-nghiêm-hoa mà trụ, mây lưu-ly-sắc-sư-tử-tòa giăng che, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Nhựt-Nguyệt-Tự-Tại-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tu-Di-Bửu-Quang, Phật hiệu Vô-Tận-Pháp-Bửu-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-diệu-quang-minh-tràng, Phật hiệu Đại-Hoa-Tụ.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Ma-ni-Quang-minh-hoa, Phật Nhơn-Trung-Tối-Tự-Tại.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Phổ-Âm, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Biến-Chiếu.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Đại-Thọ-Khẩn-Na-La-Âm, Phật hiệu Vô-Lượng-Phước-Đức-Tự-Tại-Long.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Biên-Tịnh-Quang-Minh, Phật hiệu Công-Đức-Bửu-Hoa-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Tối-Thắng-Âm, Phật Nhứt-Thiết-Trí-Trang-Nghiêm.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chúng-bửu-gián-sức, Phật hiệu Bửu-Diệm-Tu-Di-Sơn.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Thanh-tịnh-tu-di-Âm, Phật hiệu Xuất-Hiện-Nhứt-Thiết-Hạnh-Quang-Minh.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Sư-Tử-Hoa-Võng, Phật hiệu Bửu-Diệm-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Kim-cang-diệu-hoa-đăng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Đại-Nguyện-Quang.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Nhứt-Thiết-pháp-quang-minh-địa, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Pháp-Quảng-Đại-Chơn-Thật-Nghĩa.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Chơn-châu-mạt-bình-thản-trang-nghiêm, Phật hiệu Thắng-Huệ-Quang-Minh-Võng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Lưu-Ly-Hoa, Phật hiệu Bửu-Tích-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Vô-Lượng-Diệu-Quang-Luân, Phật hiệu Đại-Oai-Lực-Trí-Hải-Tạng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Minh-kiến-thập-phương, Phật hiệu Tịnh-Tu-Nhứt-Thiết-Công-Đức-Tràng.
Trên đó, quá phật-sát vi-trần-số thế-giới, có thế-giới tên Khả-ái-nhạo-phạm-âm, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Phổ-Chiếu-Pháp-Giới-Vô-Ngại-Quang.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment