Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 10
PHẨM HOA TẠNG THẾ GIỚI
THỨ NĂM
Phổ-Hiền Bồ-Tát lại bảo đại-chúng rằng : 'Chư Phật-tử ! Phương đông của biển Ly-cấu-diệm-tạng-hương-thủy giáp biển Biến-hóa-vi-diệu-thân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Bố-Sai-Biệt-Phương.
Kế đó là biển Kim-cang-nhãn-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Trang-Nghiêm-Pháp-Giới-Kiều.
Kế đó là biển Chủng-chủng-liên-hoa-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hằng-Xuất-Thập-Phương-Biến-Hóa.
Kế đó là biển Vô-gián-Bửu-Vương-Luân, có thế-giới-chủng tên Bửu-Liên-Hoa-Hành-Mật-Vân.
Kế đó là biển Diệu-hương-diệu-phổ-trang-nghiêm, có thế-giới-chủng tên Tỳ-Lô-Giá-Na-Biến-Hóa-Hạnh.
Kế đó là biển Bửu-Mật-Diệm-Phủ-Tràng-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Chư-Phật-Hộ-Niệm-Cảnh-Giới.
Kế đó là biển Nhứt-thiết-sắc-xí-nhiên-quang, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Quang-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Nhứt-thiết-trang-nghiêm-cụ-cảnh-giới, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Đăng.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số biển hương-thủy như vậy.
Biển hương-thủy gần Luân-vi-sơn nhứt tên Pha-Lê-Địa, có thế-giới-chủng tên Thường-phóng-quang-minh, dùng thanh-tịnh-kiếp âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Khả-ái-nhạo-tịnh-quang-tràng, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Tối-Thắng-Tam-Muội-Tinh-Tấn-Huệ.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Hương-trang-nghiêm-tràng, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Chướng-Ngại-Pháp-Giới-Đăng.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với Ta-Bà thế-giới, có thế-giới tên Phóng-Quang-Tạng, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Vô-Chướng-Ngại-Huệ-Minh.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Tối-Thắng-Thân-Hương, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Giác-Phần-Hoa.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Vô-tận-quang-minh-luân-hương-thủy, đến biển Cụ-túc-diệu-quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Vô-Cấu.
Kế đó là biển Quang-diệu-cái-hương-thủy có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Phổ-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hương-Ma-Ni-Quỷ-Độ-Hình.
Kế đó là biển Xuất-Phật-âm-thinh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Kiến-Lập-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Hương-tràng-tu-di-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quang-Minh-Biến-Mãn.
Kế đó là biển Chiên-đàn-diệu-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Luân.
Kế đó là biển Phong-lực-trì-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Vân-Tràng.
Kế đó là biển Đế-Thích-Thân-Trang-Nghiêm-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Chơn-châu-Tạng.
Kế đó là biển Bình-Thân-Nghiêm-Tịnh-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên là Tỳ-Lưu-Ly-Mạt-Chủng-Chủng-Trang-Nghiêm.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số biển hương-thủy như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Diệu-thọ-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Xuất-Sanh-Chư-Phương-Quảng-Đại-Sát, dùng Phật-tồi-phục-ma-âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Diệm-Cự-Tràng, Phật hiệu Thế-Gian-Công-Đức-Hải.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Xuất-Sanh-Bửu, Phật hiệu Sư-Tử-Lực-Bửu-Vân.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Y-Phục-Trạng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Trí-Hải-Vương.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Bửu-Anh-Lạc-Sư-Tử-Quang-Minh, Phật hiệu Thiện-Biến-Hóa-Liên-Hoa-Tràng.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Kim-cang-diệm-quang-minh-hương-thủy, đến biển Nhứt-thiết-trang-nghiêm-cụ-oanh-sức-tràng, có thế-giới-chủng tên Thanh-tịnh-hạnh-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Bửu-hoa-quang-diệu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Công-Đức-Tướng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Liên-Hoa-Khai-Phu-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Bồ-Tát-Ma-Ni-Quan-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Diệu-bửu-y-phục-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tịnh-Châu-Luân.
Kế đó là biển Khả-ái-hoa-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bá-quang-vân-chiếu-diệu.
Kế đó là biển Biến-hư-không-đại-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Quang-Phổ-Chiếu.
Kế đó là biển Diệu-hoa-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Kim-Nguyệt-Nhãn-Anh-Lạc.
Kế đó là biển Chơn-châu-Hương-hải-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phật-Quang-Minh.
Kế đó là biển Bửu-luân-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thiện-Hóa-Hiện-Phật-Cảnh-Giới-Quang-Minh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Vô-biên-luân-trang-nghiêm-để-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Lượng-Phương-Sai-Biệt, dùng những loại ngôn-thuyết âm-thinh của tất cả quốc-độ làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Kim-cang-hoa-cái, Phật hiệu Vô-Tận-Tướng-Quang-Minh-Phổ-Môn-Âm.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Xuất-sanh-Bửu-y-tràng, Phật hiệu Phước-Đức-Vân-Đại-Oai-Thế.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Chúng-bửu-cụ-diệu-trang-nghiêm, Phật hiệu Thắng-Huệ-Hải.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Nhựt-Quang-Minh-y-phục-tràng, Phật hiệu Trí-Nhựt-Liên-Hoa-Vân.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Đế-thanh-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, đến biển A-tu-la-cung-điện-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hương-thủy-quang-sở-trì.
Kế đó là biển Bửu-sư-tử-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Thị-Thập-Phương-Nhứt-Thiết-Bửu.
Kế đó là biển Cung-điện-sắc-quang-minh-vân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Luân-Diệu-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Xuất-đại-liên-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Trang-Nghiêm-Biến-Chiếu-Pháp-Giới.
Kế đó là biển Đăng-diệm-diệu-nhãn-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Quán-Sát-Thập-Phương-Biến-Hóa.
Kế đó là biển Bất-Tư-Nghì-trang-nghiêm-luân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thập-Phương-Quang-Minh-Phổ-Danh-Xưng.
Kế đó là biển Bửu-Tích-Trang-Nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Đăng-Quang-Chiếu-Diệu.
Kế đó là biển Thanh-tịnh-bửu-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tu-Di-Vô-Năng-Vi-Ngại-Phong.
Kế đó là biển Bửu-Y-lan-thuẩn-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Như-Lai-Thân-Quang-Minh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Thọ-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên An-Trụ-Đế-Võng, dùng Bồ-Tát-trí-địa-âm-thinh làm thể. Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Diệu-Kim-Sắc, Phật hiệu Hương-Diệm-Thắng-Oai-Quang.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Ma-Ni-Thọ-Hoa, Phật hiệu Vô-Ngại-Phổ-Hiện.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Tỳ-Lưu-Ly-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Pháp-Tự-Tại-Kiên-Cố-Huệ.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Phạm-Âm-Diệu-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Liên-Hoa-Khai-Phu-Quang-Minh-Vương.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Kim-cang-luân-trang-nghiêm-để-hương-thủy, đến biển Hóa-hiện-liên-hoa-xứ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quốc-Độ-Bình-Chánh.
Kế đó là biển Ma-Ni-Quang-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Pháp-Giới-Vô-Mê-Hoặc.
Kế đó là biển Chúng-diệu-hương-nhựt-ma-ni-hương-thủy, có thế-giới chủng tên Phổ-Hiện-Thập-Phương.
Kế đó là biển Hằng-nạp-bửu-lưu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hành-Phật-Ngôn-Âm.
Kế đó là biển Vô-biên-thâm-diệu-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Phương-Sai-Biệt.
Kế đó là biển Kiên-thiệt-tích-tụ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Lượng-Xứ-Sai-Biệt.
Kế đó là biển Thanh-tịnh-phạm-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Thanh-Tịnh-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Chiên-đàn-lan-thuẩn-âm-thinh-tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hoánh-Xuất-Tràng.
Kế đó là Diệu-hương-bửu-vương-quang-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hiện-Quang-Minh-Lực.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Liên-Hoa-nhơn-đà-la-võng, đến biển Ngân-liên-hoa-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Biến-Hành.
Kế đó là biển Tỳ-lưu-ly-trúc-mật-diệm-vân, có thế-giới-chủng tên Phổ-Xuất-thập phương-âm.
Kế đó là biển Thập-phương-quang-diệm-tụ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hằng-xuất-biến-hóa-phân-bố-thập phương.
Kế đó là biển Xuất-hiện-chơn-kim-ma-ni-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Kim-cang-tràng-tướng.
Kế đó là biển Bình-đẳng-đại-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Pháp-Giới-Dũng-Mãnh-triền.
Kế đó là biển Bửu-hoa-tòng-vô-tận-quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Tịnh-Quang-Minh.
Kế đó là biển Diệu-Kim-Tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diễn-Thuyết-Vi-Mật-Xứ.
Kế đó là biển Quang-ảnh-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Tịch-âm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hiện-Tiền-Thùy-Bố.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy. Gần Luân-vi-sơn nhứt, là biển Mật-diệm-Vân-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhứt-Thiết-Quang-Trang-Nghiêm, dùng Như-Lai đạo-tràng chúng hội âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tịnh-nhãn-trang-nghiêm, Phật hiệu Kim-Cang-Nguyệt-Biến-Chiếu-Thập-Phương.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Liên-hoa-đức, Phật hiệu Đại-Tinh-Tấn-Thiện-Giác-Huệ.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Kim-cang-mật-trang-nghiêm, Phật hiệu Ta-La-Vương-Tràng.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Tịnh-hải-trang-nghiêm, Phật hiệu Oai-Đức-Tuyệt-Luân-Vô-năng-Chế-Phục.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Tích-Tập-Bửu-Hương-Tạng-hương-thủy, đến biển Bửu-quang-minh-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Cấu-Xưng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Cát-tường-ốc-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới tên Vô-Ngại-quang-Phổ-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Chiển-đàn-thọ-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hiện-Thập-Phương-Triền.
Kế đó là biển Xuất-sanh-diệu-sắc-bửu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thắng-Tràng-Châu-Biến-Hành.
Kế đó là biển Tâm-vương-ma-ni-tràng-nghiêm-sức-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thị-hiện-vô-ngại-phật-quang-minh.
Kế đó là biển Chơn-châu-luân-phổ-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Chư-Phật-Nguyện-Sở-Lưu.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-hải như vậy. Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Diêm-phù-đàn-bửu-tạng-luân-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Âm-Tràng, dùng nhập-nhứt-thiết-trí-môn-âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Hoa-Nhụy-Diệm, Phật hiệu Tinh-Tấn-Thí.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-cang-tràng, có thế-giới tên Liên-hoa-quang-minh-tràng, Phật hiệu Nhứt-Thiết-Công-Đức-Tối-Thắng-Tâm-Vương.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Thập-lực-trang-nghiêm, Phật hiệu Thiện-Xuất-Hiện-Vô-Lượng-Công-Đức-Vương.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Ma-ni-hương-sơn-tràng, Phật hiệu Quảng-Đại-Thiện-Nhãn-Tịnh-Trừ-Nghi.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Bửu-Trang-nghiêm-hương-thủy, đến biển Trì-Tu-Di-Quang-Minh-Tạng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Xuất-sanh-Quảng-đại-vân.
Kế đó là biển Trang-Nghiêm-đại-oai-lực-cảnh-giới-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Ngại-Tịnh-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Mật-bố-bửu-liên-hoa-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Đăng-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Y-chỉ-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhựt-Quang-Minh-Võng-Tạng.
Kế đó là biển Chúng-Đa-Nghiêm-Tịnh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Hoa-Y-Xứ.
Kế đó là biển Cực-thông-huệ-hành-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tối-Thắng-Hình-Trang-Nghiêm.
Kế đó là biển Trì-diệu-ma-ni-phong-hương-thủy, có thế-giới-chủng Phổ-Tịnh-Hư-Không-Tạng.
Kế đó là biển Đại-quảng-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Đế-Thanh-Cự-Quang-Minh.
Kế đó là biển Khả-ái-ma-ni-châu-biến-chiếu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Hống-Thinh.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Xuất-Đế-Thanh-Bửu-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Châu-Biến-Vô-sai-biệt, dùng Bồ-Tát Chấn-Hống-Âm-Thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết có thế-giới tên Diệu-Thắng-Tạng, Phật hiệu Tối-Thắng-Công-Đức-Huệ.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Trang-Nghiêm-Tướng, Phật hiệu Siêu-Thắng-Đại-Quang-Minh.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Lưu-Ly-Luân-Phổ-Trang-Nghiêm, Phật hiệu Tu-Di-Đăng.
Phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Hoa-Tràng-Hải, Phật hiệu Vô-Tận-Biến-Hóa-Diệu-Huệ-Vân.
Chư Phật-tử ! Ngoài biên Kim-cang-Bửu-Tự-hương-thủy, đến biển Sùng-Đức-Bửu-Tê-Nghê-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thấu-Xuất-Bửu-Tràng.
Kế đó là biển Bửu-Tràng-Trang-Nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hiện-Nhứt-Thiết-Quang-Minh.
Kế đó là biển Diệu-Bửu-Vân-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Trang-Nghiêm-Quang-Minh-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Bửu-thọ-hoa-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Hoa-Gián-Sức.
Kế đó là biển Diệu-hoa-y-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Quang-Minh-Hải.
Kế đó là biển Bửu-thọ-phong-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Diệm-Vân.
Kế đó là biển Thị-hiện-quang-minh-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Nhập-Kim-Cang-Vô-Sở-Ngại.
Kế đó là biển Liên-hoa-phổ-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Vô-Biên-Ngạn-Hải-Uyên.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Thị-Hiện-Quốc-Độ-Tạng.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Bất-Khả-Hoại-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Diệu-Luân-Gián-Thố-Liên-Hoa-Tràng, dùng Phật-lực-sở-xuất âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Tối-Diệu-Hương, Phật hiệu Hóa-Vô-Lượng-Trần-Số-Quang.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Bất-Tư-Nghị-Sai-Biệt-Trang-Nghiêm-Môn, Phật hiệu Vô-Lượng-Trí.
Trên đó, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Thập-Phương-Quang-Minh-Diệu-Hoa-Tạng, Phật hiệu Sư-Tử-Nhãn-Quang-Diệm-Vân.
Phương trên hết, có thế-giới tên Hải-Âm-Thinh, Phật hiệu Thủy-Thiên-Quang-Diệm-Môn.
Chư Phật-tử ! Ngoài biển Thiên-Thành-Bửu-Diệu-Hương-Thủy, đến biển Diệm-luân-hích-tích-Quang-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bất-khả-thuyết-chủng-chủng-trang-nghiêm.
Kế đó là biển Bửu-trần-lộ-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Phổ-Nhập-Vô-Lượng-Triền.
Kế đó là biển Cụ-Nhứt-thiết-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Bửu-Quang-Biến-Chiếu.
Kế đó là biển Bố-chúng-bửu-võng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên An-Bố-Thâm-Mật.
Kế đó là biển Diệu-bửu-trang-nghiêm-tràng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Thế-Giới-Hải-Minh-Liễu-Âm.
Kế đó là biển Nhựt-Cung-Thanh-Tịnh-Ảnh-Hương-Thủy, có thế-giới-chủng tên Biến-Nhập-Nhơn-Đà-La-Võng.
Kế đó là biển Chủng-chủng-diệu-trang-nghiêm-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tịnh-Mật-Quang-Diệm-Vân.
Kế đó là biển Châu-biến-bửu-diệm-đăng-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Tùy-Phật-Bổn-Nguyện-chủng-chủng-hình.
Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy.
Gần Luân-Vi-Sơn nhứt, là biển Tích-tập-anh-lạc-y-hương-thủy, có thế-giới-chủng tên Hóa-Hiện-Diệu-Y, dùng tam-thế chư Phật âm-thinh làm thể.
Trong đây, phương dưới hết, có thế-giới tên Phát-sanh-Hoan-Hỉ, y biển Nhơn-đà-la-hoa-tạng-hương-thủy mà trụ, một phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Kiên-Ngộ-Trí.
Trên đó, quá mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Kim-Cang-Tràng, có thế-giới tên Bửu-Võng-trang-nghiêm, mười phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Vô-Lượng-Hoan-Hỷ-Quang.
Trên đó, quá ba phật-sát vi-trần-số thế-giới, ngang với thế-giới Ta-Bà, có thế-giới tên Bửu-liên-hoa-sư-tử-tòa, mười ba phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, Phật hiệu Tối-Thanh-Tịnh-Bất-Không-Văn.
Trên đó, quá bảy phật-sát vi-trần-số thế-giới, phương trên nhứt của thế-giới-chủng này, có thế-giới tên Bửu-Sắc-Long-Quang-Minh, hai mươi phật-sát vi-trần-số thế-giới bao quanh, thuần thanh-tịnh, Phật hiệu Biến-Pháp-Giới-Phổ-Chiếu-Minh.
Chư Phật-tử ! Trong mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số hương-thủy-hải như vậy, có mười bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới-chủng, đều y hiện-nhứt-thiết-Bồ-Tát-hình-ma-ni-vương-tràng-trang-nghiêm-liên-hoa mà trụ, đều riêng bửu-tế trang-nghiêm không gián đoạn, đều riêng phóng bửu-sắc-quang-minh, đều riêng quang-minh-vân giăng che, đều riêng trang-nghiêm, đều riêng kiếp sai khác, đều riêng Phật xuất-hiện, đều riêng diễn pháp-hải, đều riêng chúng-sanh khắp đầy dẫy, đều riêng vào đến khắp mười phương, đều riêng sự gia trì của thần lực chư Phật. Trong mỗi thế-giới-chủng này, tất cả thế-giới đều y các loại trang-nghiêm mà trụ, liên tiếp lẫn nhau thành thế-giới-võng, kiến lập nhiều loại sai khác khắp cùng nơi Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải.
Lúc đó, Phổ-Hiền Bồ-Tát muốn tuyên lại nghĩa này, thừa oai-lực của Phật, mà nói kệ rằng :
Hoa-Tạng thế-giới-hải
Pháp-giới đồng không khác
Trang-nghiêm rất thanh-tịnh
An-trụ nơi hư-không.
Trong thế-giới-hải này
Sát-chủng khó nghĩ bàn
Mỗi mỗi đều tự-tại
Đều riêng không tạp loạn.
Biển Hoa-Tạng-Thế-Giới
Sát-chủng khéo an bày
Hình khác, trang-nghiêm
khác
Các loại tướng không đồng.
Chư Phật biến-hóa-âm
Nhiều loại làm thể đó
Tùy nghiệp-lực mà thấy
Sát-chủng nghiêm-sức đẹp.
Hình Tu-Di, thành, lưới,
Nước xoáy, hình tròn, vuông
Hoa sen nở rộng lớn
Cõi cõi bao quanh nhau.
Hình sơn-tràng, lâu-các
Hình kim-cang xây vòng
Những sát-chủng quảng-đại
Bất-tư-nghì như vậy.
Đại-hải, lửa chơn-châu
Quang-võng bất-tư-nghì
Những sát-chủng như vậy
Đều trụ nơi liên-hoa.
mỗi mỗi những sát-chủng
Quang-võng bất-khả-thuyết
Trong quang hiện các cõi
Khắp cả mười phương biển.
Tất cả những sát-chủng
Bao nhiêu đồ trang-nghiêm
Quốc-độ hiện trong đó
Thấy khắp vô-cùng tận.
Sát-chủng bất-tư-nghì
Thế-giới-vô-biên-tế
Nhiều thứ trang-nghiêm đẹp
Đều do oai-lực Phật.
Trong tất cả sát-chủng
Thế-giới bất-tư-nghì
Hoặc thành, hoặc hư hoại
Hoặc cõi đã hư hoại
Ví như lá trong rừng
Có mọc cũng có rụng
Trong sát-chủng như vậy
Thế-giới có thành hoại.
Ví như trong rừng cây
Các thứ quả sai khác
Như vậy y sát-chủng
Các loài chúng-sanh trụ.
Ví như chủng-tử khác
Sanh quả đều sai khác
Vì nghiệp-lực sai khác
Cõi chúng-sanh không đồng.
Ví như tâm-vương bửu
Tùy tâm thấy màu sắc
Vì tâm chúng-sanh tịnh
Được thấy cõi thanh-tịnh.
Ví như đại long-vương
Nổi mây khắp hư-không
Như vậy Phật nguyện-lực
Xuất sanh các quốc-độ.
Như thuật-sĩ ảo-thuật
Hiển được các đồ vật
Vì nghiệp-lực chúng-sanh
Quốc-độ bất-tư-nghì.
Ví như những tượng màu
Của họa-sĩ sáng tác
Như vậy tất cả cõi
Tâm họa-sĩ làm thành.
Thân chúng-sanh khác
nhau
Tùy tâm phân-biệt khởi
Như vậy các cõi nước
Không gì chẳng do nghiệp.
Ví như thấy chư Phật
Nhiều hình sắc sai khác
Tùy tâm hành chúng-sanh
Thấy các cõi cũng khác.
Ngàn đắy của các cõi
Bủa giăng lưới liên-hoa
Những tướng trạng không đồng
Trang-nghiêm rất thanh-tịnh.
Những lưới liên-hoa kia
Nơi sát-võng an-trụ
Bao nhiêu sự trang-nghiêm
Các loài
chúng-sanh ở.
Hoặc có trong cõi nước
Hiểm trở không bình-thản
Do chúng-sanh phiền não
Thấy trong đó như vậy.
Tạp-nhiễm và thanh-tịnh
Vô-lượng thế-giới-chủng
Tùy tâm chúng-sanh khởi
Bồ-Tát-lực gia-trì
Hoặc có trong cõi nước
Tạp nhiễm và thanh-tịnh
Hoặc do nghiệp-lực khởi
Bồ-Tát chỗ hóa-độ.
Có cõi phóng quang-minh
Ly-cấu-bửu làm thành
Các thứ nghiêm-sức đẹp
Chư Phật khiến thanh-tịnh.
Trong mỗi thế-giới-chủng
Kiếp thiêu bất-tư-nghì
Hiện bày đầy hư ác
Nơi đó thường kiên cố.
Do nghiệp-lực chúng-sanh
Xuất sanh nhiều quốc-độ
Nương trụ nơi phong luân
Và nương thủy-luân trụ.
Thế-giới tự như vậy
Thấy nhiều loại không đồng
Như thiệt không có sanh
Cũng lại không diệt hoại.
Trong mỗi mỗi tâm niệm
Xuất-sanh vô-lượng cõi
Do oai-thần của Phật
Đều thấy tịnh không nhơ.
Có cõi bùn đất thành
Thể-chất rất cứng rắn
Đen tối không ánh sáng
Kẻ ác-nghiệp ở đó.
Có cõi kim-cang thành
Tạp nhiễm nhiều lo sợ
Khổ nhiều mà vui ít
Kẻ phước mỏng ở đó.
Có cõi toàn bằng sắt
Hoặc cõi xích-đồng thành
Núi đá hiểm đáng sợ
Kẻ tội ác đầy dẫy.
Trong cõi có địa ngục
Chúng-sanh khổ khó cứu
Luôn ở trong đen tối
Biển lửa thường thiêu đốt.
Hoặc lại có súc-sanh
Biết bao hình xấu-xí
Do nơi tự ác-nghiệp
Thường thọ các khổ-não
Hoặc có cõi Diêm-La
Luôn khổ nỗi đói khát
Trèo lên núi lửa to
Chịu những khổ rất nặng.
Hoặc có các quốc-độ
Bảy báu hiệp lại thành
Bao nhiêu là cung-điện
Do tịnh-nghiệp tạo nên.
Các Ngài xem thế-gian
Trong đó Trời và Người
Quả tịnh-nghiệp thành-tựu
Tùy thời hưởng khoái lạc.
Trong mỗi mỗi chơn lông
Ức cõi bất-tư-nghì
Các thứ tướng trang-nghiêm
Chư từng có chật hẹp.
Chúng-sanh nghiệp sai khác
Thế-giới nhiều vô-lượng
Trong đó sanh thủ-trước
Thọ khổ vui chẳng đồng.
Có cõi thuần châu báu
Thường phóng vô-biên-quang
Kim-cang diệu liên-hoa
Trang-nghiêm tịnh vô-cấu
Có cõi bằng ánh-sáng
Y quang-luân an-trụ
Kim-sắc hương chiên-đàn
Diệm-vân khắp sáng soi.
Có cõi bằng nguyệt-luân
Hương-y trải khắp nơi
Nơi trong một liên-hoa
Bồ-Tát ngồi đầy khắp.
Có cõi bằng châu báu
Hình sắc không bợn nhơ
Ví như lưới Thiên-đế
Quang-minh thường chiếu sáng.
Có cõi bằng chất hương
Hoặc là hoa Kim-cang
Ma-ni quang hiện bóng
Nhìn xem rất thanh-tịnh.
Hoặc có nan-tư-cõi
Hoa xoay kết hợp thành
Trong đó đầy Hóa-Phật
Bồ-Tát khắp sáng rực.
Hoặc có cõi thanh-tịnh
Toàn là những cây hoa
Nhánh đẹp che đạo-tràng
Mây ma-ni giăng khắp.
Có cõi tịnh-quang chiếu
Hoa Kim-Cang làm thành
Có âm-thinh Hóa-Phật
Vô-biên giăng thành lưới.
Có cõi như Bồ-Tát
Mão tốt đẹp ma-ni
Hoặc cõi hình bửu-tòa
Từ quang-minh biến hóa.
Hoặc là mạt chiên-đàn
Hoặc là bạch-hào-quang
Hoặc tiếng trong Phật-quang
Mà thành cõi đẹp đó.
Hoặc thấy cõi thanh-tịnh
Dùng một quang trang-nghiêm
Hoặc thấy nhiều trang-nghiêm
Các cõi đều kỳ-diệu.
Hoặc dùng mười quốc-độ
Vật đẹp để trang-sức
Hoặc dùng ngàn quốc-độ
Tất cả để trang-nghiêm.
Hoặc dùng ức quốc-độ
Trang-nghiêm nơi một cõi
Những hình tướng chẳng đồng
Đều như bóng tượng hiện.
Bất-khả-thuyết quốc-độ
Trang-nghiêm mơi một cõi
Mỗi vật phóng quang-minh
Do nguyện-lực của Phật.
Hoặc có những quốc-độ
Do nguyện-lực thanh-tịnh
Trong các vật trang-nghiêm
Khắp thấy những sát-hải.
Người tu nguyện Phổ-Hiền
Cảm thành cõi thanh-tịnh
Tam-thế cõi trang-nghiêm
Trong đây hiện đủ cả.
Phật-tử nên quán-sát
Sát-chủng oai-thần-lực
Những quốc-độ vị-lai
Như mộng đều khiến thấy.
Những thế-giới mười phương
Những quốc-độ quá-khứ
AĐều ở trong một cõi
Hiện tượng như huyễn-hóa.
Tất cả Phật tam-thế
Và quốc-độ chư Phật
Ở trong một sát-chủng
Đều xem thấy tất cả.
Thần-lực của chư Phật
Trong trần hiện các cõi
Các loại đều thấy rõ
Như bóng không chơn thiệt.
Hoặc có nhiều cõi nước
Hình trạng như biển cả
Hoặc như núi Tu-Di
Thế-giới bất-tư-nghì.
Có cõi an-trụ tốt
Hình như lưới Thiên-Đế
Hoặc hình như rừng cây
Chư Phật đầy trong đó.
Hoặc hình như bửu-luân
Hoặc trạng như liên-hoa
Tám góc trang-nghiêm đẹp
Mọi nơi đều thanh-tịnh
Hoặc như hình bửu-tòa
Hoặc có cõi ba góc
Hoặc như Khư-lặc-ca
Thành-quách, thân Phạm-Vương.
Hoặc như tóc Thiên-chủ
Hoặc như hình bán-nguyệt
Hoặc như núi ma-ni
Hoặc như hình mặt nhựt.
Hoặc có những thế-giới
Hình như hương-hải xây
Hoặc làm vòng quang-minh
Xưa Phật đã nghiêm-tịnh.
Hoặc như hình trục xe
Hoặc hình đàn cúng tế
Hoặc như tướng bạch-hào
Nhục-Kế, mắt rộng dài.
Có cõi hình Phật-thủ
Hoặc như chày Kim-cang
Hoặc như hình Diệm-sơn
Bồ-Tát ở đầy khắp
Hoặc hình như sư-tử
Hoặc như hình con ngao
Thể-tánh đều sai khác.
Ở trong một sát-chủng
Hình các cõi vô-tận
Đều nhờ nguyện-lực Phật
Hộ-niệm nên an-trụ.
Có cõi trụ một kiếp
Có cõi trụ mười kiếp
Nhẫn đến hơn trăm ngàn
Thế-giới vi-trần-số.
Hoặc ở trong một kiếp
Thấy cõi có thành hoại
Hoặc vô-lượng vô-số
Nhẫn đến bất-tư-nghì.
Hoặc có cõi có Phật
Hoặc có cõi không Phật
Hoặc có chỉ một Phật
Hoặc có vô-lượng Phật.
Cõi nào nếu không Phật
Thời có Phật cõi khác
Biến-hóa đến cõi đó
Để thị-hiện phật-sự :
Từ trời giáng thần xuống
Trụ-thai và đản sanh
Hàng ma thành chánh-giác
Chuyển vô-thượng pháp-luân.
Tùy lòng chúng ưa thích
Thị-hiện nhiều tướng mạo
Vì họ chuyển pháp-luân
Hạp căn tánh của họ.
Trong mỗi mỗi cõi Phật
Một Phật hiện ra đời
Trải qua ngàn ức năm
Diễn thuyết pháp vô-thượng.
Chúng chẳng phải pháp-khí
Không thấy được chư Phật,
Nếu ai tâm mến thích
Mọi nơi đều thấy Phật.
Trong mỗi mỗi sát-độ
Đều có Phật ra đời
Chư Phật trong các cõi
Ức số bất-tư-nghì.
Mỗi mỗi Phật trong đây
Hiện vô-lượng thần-biến
Đều khắp trong pháp-giới
Điều-phục các chúng-sanh.
Có cõi không ánh sáng
Đen tối nhiều lo sợ
Đau khổ tợ dao đâm
Kẻ thấy tự đau xót.
Hoặc ánh sáng chư Thiên
Hoặc ánh sáng cung-điện
Hoặc ánh sáng nhựt-nguyệt
Sát võng khó nghĩ bàn.
Có cõi tự chiếu sáng
Hoặc cây báu chói rực
Chưa từng có khổ não
Do phước-lực chúng-sanh.
Hoặc có núi chiếu sáng
Hoặc ánh sáng ma-ni
Hoặc dùng đèn soi sáng
Đều do nghiệp-lực cả.
Hoặc quang-minh của Phật
Trong đó đầy Bồ-Tát
Hoặc liên-hoa chiếu sáng
Màu rực-rỡ rất xinh.
Có cõi bông chiếu sáng
Hoặc dùng hương-thủy chiếu
Hương đốt, hương thoa sáng
Đều do nguyện-lực tốt.
Có cõi mây sáng chiếu
Ngọc ma-ni chiếu sáng
Hoặc Phật-quang sáng soi
Tuyên thuyết tiếng đẹp dạ.
Hoặc châu báu chiếu sáng
Hoặc kim-cang sáng chiếu
Tiếng thanh-tịnh vang xa
Dứt trừ các sự khổ.
Hoặc có sáng ma-ni
Hoặc đồ trang-nghiêm sáng
Hoặc ánh sáng đạo-tràng
Chiếu sáng khắp chúng-hội.
Phật phóng đại quang-minh
Hóa-Phật đầy trong đó
Quang-minh chiếu mọi nơi
Khắp cùng cả pháp-giới.
Có cõi rất đáng sợ
Tiếng gào thét kêu khổ
Tiếng rên rỉ não nùng
Ai nghe cũng ghê sợ.
Đường địa-ngục súc-sanh
Và đến cõi Diêm-La
Thế-giới trược ác này
Thường vang tiếng đáng vui
Đẹp ý thuận chánh-pháp
Đây do tịnh-nghiệp được.
Hoặc có những quốc-độ
Thường nghe tiếng Đế-Thích
Hoặc nghe tiếng Phạm-Thiên
Và tiếng các Thế-Chủ.
Hoặc có những quốc-độ
Trong mây vang tiếng diệu
Biển báu cây ma-ni
Và tiếng nhạc đầy khắp.
Trong viên-quang chư Phật
Hóa-thinh vô cùng tận
Và Bồ-Tát tiếng diệu
Nghe khắp mười phương cõi.
Quốc-độ bất-tư-nghì
Tiếng pháp-luân thường chuyển
Nguyện-hải vang ra tiếng
Tiếng diệu-âm tu hành.
Tam-thế tất cả Phật
Xuất-sanh các thế-giới
Danh-hiệu đều đầy đủ
Thinh-âm vô cùng tận.
Có cõi thường được nghe
Lực-âm của chư Phật
Địa, độ và vô-lượng
Diễn nói những pháp đó.
Sức thệ-nguyện Phổ-Hiền
Ức cõi diễn diệu-âm
Tiếng đó như sấm vang
Trụ kiếp cũng vô-tận.
Phật ở cõi thanh-tịnh
Thị-hiện tiếng tự-tại
Trong pháp-giới mười phương
Tất cả đều được nghe.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment