Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 19
PHẨM THĂNG DẠ MA THIÊN CUNG
THỨ MƯỜI CHÍN
Lúc bấy giờ do thần lực của đức Phật, khắp thập phương thế-giới, trong Diêm-Phù-Ðề và trên đảnh Tu-Di đều thấy Như-Lai ngự giữa chúng-hội. Chư Bồ-Tát thừa oai-thần của Phật mà diễn thuyết diệu-pháp. Tất cả chúng đều cho rằng đức Phật luôn ở trước.
Lúc đó, đức Thế-Tôn không rời cội Bồ-đề và đảnh núi
Tu-Di mà hướng đến điện Bửu-Trang-Nghiêm
nơi Dạ-Ma Thiên-Cung.
Dạ-Ma Thiên-Vương vọng thấy đức Phật đến, liền dùng thần-lực, nơi giữa điện, hóa ra
tòa sư-tử bửu-liên-hoa-tạng trăm vạn từng cấp, trăm vạn lưới vàng, trăm vạn màn hoa,
trăm vạn màn
tràng-hoa, trăm vạn màn hương, trăm vạn màn báu che giăng trên bửu-tòa. Lọng hoa, lọng tràng, lọng hương, lọng báu đều số trăm vạn bố liệt bốn phía, chiếu sáng với trăm vạn quang-minh.
Trăm vạn Dạ-Ma Thiên-Vương cung-kính đảnh lễ, trăm vạn Phạm-Vương vui mừng hớn-hở, trăm vạn Bồ-Tát xưng-dương ca ngợi, trăm vạn kỹ-nhạc hòa tấu, trăm vạn pháp-âm không dứt tiếng.
Trăm vạn thứ mây hoa, trăm vạn thứ mây tràng,
trăm vạn đồ trang-nghiêm, trăm vạn thứ mây y-phục giăng
giáp vòng, trăm vạn thứ mây ma-ni chói sáng, từ trăm vạn thiện-căn sanh
ra, được trăm vạn Phật hộ-trì, trăm
vạn thứ phước-đức làm
tăng-trưởng, trăm vạn thâm-tâm và trăm vạn thệ-nguyện làm
trang-nghiêm thanh-tịnh, trăm vạn công-hạnh làm sanh-khởi, trăm vạn pháp kiến-lập, trăm vạn thần-thông biến-hiện, luôn vang ra trăm vạn ngôn-âm hiển-thị các pháp.
Sắp đặt bửu-tòa xong, Dạ-Ma Thiên-Vương nghinh-tiếp đức Thế-Tôn, chấp tay cung kính bạch đức Phật rằng : 'Lành
thay đức Thiện-Thệ ! Lành thay đức Như-Lai Ứng-Cúng Chánh-Ðẳng-Chánh-Giác
! Xin từ-mẫn ngự trong cung-điện này.'
Ðức Phật thọ thỉnh, liền ngự lên bửu-tòa. Thập-phương Thế-giới, tất cả Dạ-Ma Thiên-Cung đều như thế cả.
Lúc đó Thiên-Vương liền tự nhớ thiện-căn đã vun trồng nơi chư Phật thời quá-khứ, thừa oai-lực của đức Phật mà nói kệ rằng :
Danh-Xưng Như-Lai khắp mười phương
Trong những cát-tường vô-thượng nhứt
Phật từng vào điện Ma-ni này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Bửu-Vương Như-Lai đèn thế-gian
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện thanh-tịnh này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Hỷ-Mục Như-Lai thấy vô-ngại
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện trang-nghiêm này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Nhiên-Ðăng Như-Lai chiếu thế-gian
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện vô-cấu này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Nhiêu Ích Như Lai lợi thế gian
Trong
những cát tường vô thượng nhất
Phật từng vào điện vô-cấu này
Vì
thế chỗ này rất cát-tường.
Thiện-Giác Như-Lai không có thầy
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện bửu-hương này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Thắng-Thiên Như-Lai đèn trong đời
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện diệu-hương này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Vô-Khứ Như-Lai hùng-biện nhứt
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện phổ-nhãn này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Vô-Thắng Như-Lai đủ công-đức
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện thiện-nghiêm
này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Khổ-Hạnh Như-Lai lợi thế-gian
Trong những cát-tường vô-thượng-nhứt
Phật từng vào điện phổ-nghiêm này
Vì thế chỗ này rất cát-tường.
Khắp thập-phương thế-giới, tất cả Dạ-Ma Thiên-Vương đều ca-ngợi công-đức của Phật như vậy cả.
Lúc đức Thế-Tôn vào điện Ma-Ni ngồi kiết-già trên bửu-tòa sư-tử, điện này bỗng rộng-rãi bao-la bằng tất cả chỗ ở của thiên-chúng. Thập phương thế-giới cũng như vậy.
PHẨM DẠ MA CUNG KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI
Lúc đó do thần-lực của đức Phật, mười phương đều có một đại Bồ-Tát, mỗi vị đều cùng
phật-sát
vi-trần-số Bồ-Tát câu
hộI, từ những thế-giới ngoài
mười vạn phật-sát
vi-trần-số quốc-độ mà đến.
Tên của mười vị Bồ-Tát đó là :
Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát, Huệ-Lâm Bồ-Tát, Thắng-Lâm Bồ-Tát,
Vô-Úy-Lâm Bồ-Tát,
Tàm-Quý-Lâm Bồ-Tát,
Tinh-Tấn-Lâm Bồ-Tát, Lực-Lâm Bồ-Tát, Hạnh-Lâm Bồ-Tát,
Giác-Lâm Bồ-Tát,
Trí-Lâm Bồ-Tát.
Quốc-độ của các Ngài từ đó mà đến theo
thứ-tự là :
Thân-Huệ thế-giới, Tràng-Huệ thế-giới, Bửu-Huệ thế-giới, Thắng-Huệ thế-giới,
Ðăng-Huệ thế-giới,
Kim-Cang-Huệ thế-giới, An-Lạc-Huệ thế-giới, Nhựt-Huệ thế-giới, Tịnh-Huệ thế-giới, Phạm-Huệ thế-giới.
Chư Phật Thế-Tôn nơi thế-giới đó theo thứ tự là :
Thường-Trụ-Nhãn Phật, Vô-Thắng-Nhãn
Phật, Vô-Trụ-Nhãn Phật, Bất-Ðộng-Nhãn
Phật,
Thiên-Nhãn Phật, Giải-Thoát-Nhãn
Phật, Thẩm-Ðế-Nhãn Phật,
Minh-Tướng-Nhãn
Phật, Tối-Thượng-Nhãn
Phật,
Cám-Thanh-Nhãn Phật.
Chư Bồ-Tát này đến dưới bửu-tòa đảnh lễ Phật, rồi theo
phương của mình đến đều riêng
hóa hiện tòa sư-tử
liên-hoa-tạng mà ngồi kiết-già
trên đó.
Tất cả Dạ-Ma thiên ở thập-phương thế-giới đều như thế cả. Bồ-Tát, quốc-độ và Như-Lai
cũng đồng danh,
đồng hiệu như trên.
Lúc đó đức Thế-Tôn, từ trên
hai bàn chân, phóng ra trăm ngàn ức quang-minh màu đẹp chiếu khắp thập phương thế-giới. Tất cả đạo-tràng,
Phật và Bồ-Tát đều hiển hiện cả.
Bấy giờ, Công-Ðức-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật,
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Phật phóng đại
quang-minh
Chiếu khắp nơi mười phương
Ðều thấy Thiên-Nhơn-Tôn
Thông đạt không chướng-ngại.
Phật ngồi cung Dạ-Ma
Khắp cùng mười phương cõi
Việc này rất lạ lùng
Thế-gian rất hi-hữu.
Trời Dạ-Ma Thiên-Vương
Ca ngợi mười Như-Lai
Như hội này đã thấy
Tất cả hội cũng vậy.
Những chúng Bồ-Tát kia
Ðồng hiệu với chúng tôi
Thập phương tất cả chỗ
Diễn thuyết-pháp vô-thượng.
Bổn-quốc của các ngài
Danh-hiệu cũng không khác
Ðều riêng nơi bổn-Phật
Tịnh tu các phạm-hạnh.
Các đức Như-Lai kia
Danh-hiệu cũng đều đồng
Quốc-độ đều giàu vui
Thần-lực đều tự-tại.
Tất cả chúng mười phương
Ðều thấy Phật ở đây
Hoặc thấy ở nhơn-gian
Hoặc thấy ở Thiên-cung.
Như-Lai an-trụ khắp
Tất cả các quốc-độ
Nay chúng tôi thấy Phật
Ở tại
Thiên-cung này.
Xưa phát nguyện bồ-đề
Khắp đến mười phương cõi
Nên oai-lực của Phật
Cùng khắp khó nghĩ bàn.
Lìa sự tham thế-gian
Ðầy đủ vô-biên đức
Nên được sức thần-thông
Chúng-sanh đều thấy cả.
Du hành mười phương cõi
Như hư-không vô-ngại
Một thân vô-lượng thân
Thân-tướng bất-khả-đắc.
Phật công-đức
vô-biên
Thế nào lường biết được
Không dừng cũng không đi
Vào khắp trong pháp-giới.
Huệ-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật, quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ðấng đạo-sư thế-gian
Ðấng ly-cấu vô-thượng
Bất-khả-tư-nghị kiếp
Khó được gặp gỡ Phật.
Phật phóng đại
quang-minh
Thế-gian đều khắp thấy
Vì chúng rộng diễn bày
Lợi ích những quần-sanh.
Như-Lai xuất thế-gian
Vì đời trừ si tối
Là đèn sáng thế-gian
Hi-hữu khó thấy được.
Ðã tu thí, giới, nhẫn
Tinh-tấn và thiền-định
Bát-nhã ba-la-mật
Dùng đây chiếu thế-gian.
Như-Lai không ai bằng
Muốn sánh chẳng thể được
Chẳng rõ pháp chơn-thiệt
Thời không thể thấy Phật.
Thân Phật và thần-thông
Tự-tại khó nghĩ bàn
Không đi cũng không đến
Thuyết-pháp độ
chúng-sanh.
Nếu ai được thấy nghe
Ðấng đạo-sư thanh-tịnh
Thoát hẳn các ác-đạo
Xa lìa tất cả khổ.
Vô-lượng vô-số kiếp
Tu tập hạnh bồ-đề
Chẳng thể biết nghĩa này
Chẳng thể được thành Phật.
Bất-khả-tư-nghị kiếp
Cúng-dường vô-lượng Phật
Nếu biết được nghĩa này
Công-đức hơn công kia.
Cúng Phật với trân bửu
Ðầy cả vô-lượng cõi
chẳng biết được nghĩa này
Trọn chẳng thành bồ-đề.
Lúc đó Thắng-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật,quan-sát
mười phương rồi nói kệ rằng:
Ví như tháng mạnh-hạ
Không tịnh không mây mù
Mặt trời phóng quang-huy
Thập phương đều sáng chói.
Quang-minh không hạn lượng
Không ai lường biết được
Người mắt sáng còn vậy
Huống là kẻ mù lòa.
Chư Phật cũng như vậy
Công-đức vô-biên-tế
Bất-khả-tư-nghị kiếp
Chẳng thể phân-biệt biết.
Các pháp không lai-xứ
Cũng không có tác giả
Cũng không từ đâu
sanh
Chẳng thể phân-biệt được.
Tất cả pháp không đến
Vì thế nên không sanh
Vì đã không có sanh
Nên cũng không có diệt.
Tất cả pháp vô-sanh
Tất cả pháp vô-diệt
Nếu biết được như vậy
Người này thấy được Phật.
Vì các pháp vô-sanh
Nên không có tự-tánh
Phân-biệt biết như vậy
Người này đạt thâm nghĩa.
Do vì pháp vô-tánh
Không thể rõ biết được
Nơi pháp hiểu như vậy
Rốt ráo không chỗ hiểu.
Nói rằng có sanh đó
Bởi hiện các quốc-độ
Biết được tánh quốc-độ
Thời tâm không mê-hoặc.
Tánh quốc-độ thế-gian
Quan-sát đều như thật
Nếu nơi đây biết được
Khéo nói tất cả nghĩa.
Vô-Úy-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật,
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Thân Như-Lai rộng lớn
Rốt ráo nơi pháp-giới
Chẳng rời bửu-tòa này
Mà khắp tất cả chỗ.
Nếu ai nghe pháp này
Mà cung-kính tin ưa
Rời hẳn ba ác-đạo
Tất cả những khổ nạn.
Giả-sử như có người
Qua vô-lượng thế-giới
Chuyên tâm muốn được nghe
Sức tự-tại của Phật.
Những phật-pháp như vậy
Là vô-thượng bồ-đề
Giả-sử muốn tạm nghe
Không ai có thể được.
Nếu ai thời quá-khứ
Tin phật-pháp như vậy
Ðã thành Lưỡng-Túc-Tôn
Làm đèn sáng thế-gian.
Nếu ai sẽ được nghe
Sức tự-tại của Phật
Nghe rồi có lòng tin
Người này sẽ thành Phật.
Nếu có người hiện-tại
Tin được phật-pháp này
Cũng sẽ thành chánh-giác
Thuyết-pháp vô-sở-úy.
Vô-lượng vô-số kiếp
Pháp này rất khó gặp
Nếu có người được nghe
Là do bổn-nguyện-lực.
Nếu ai thọ-trì được
Những phật-pháp như vậy
Trì xong rộng tuyên
thuyết
Người này sẽ thành Phật.
Huống là siêng tinh-tấn
Lòng kiên-cố chẳng bỏ
Nên biết người như vậy
Quyết định thành bồ-đề.
Lúc đó Tàm-Quý-Lâm Bồ-Tát, thừa oai-lực của đức Phật,
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Nếu ai được nghe pháp
Hi-hữu tự-tại này
Sanh được lòng hoan-hỷ
Chóng trừ lưới si lầm.
Bực thấy biết tất cả
Tự nói lời như vầy
Phật không gì chẳng biết
Vì thế khó nghĩ bàn.
Không có từ vô-trí
Mà sanh ra trí-huệ,
Thế-gian thường tối tăm
Nên không thể sanh được.
Như sắc và phi-sắc
Hai đây chẳng là một
Trí vô-trí cũng vậy
Thể nó đều sai biệt.
Như tướng cùng vô-tướng
Sanh tử với niết-bàn
Phân biệt đều chẳng đồng
Trí, vô-trí cũng vậy.
Thế-giới mới thành lập
Không có tướng bại hoại
Trí, vô-trí cũng vậy
Hai thứ chẳng đồng thời.
Như Bồ-Tát sơ-tâm
Chẳng chung với hậu-tâm
Trí, vô-trí cũng vậy
Hai tâm chẳng đồng thời.
Ví như những thức-thân
Ðều riêng không hòa hiệp
Trí, vô-trí cũng vậy
Rốt ráo không hòa hiệp.
Như thuốc a-già-đà
Hay diệt tất cả độc
Có trí cũng như vậy
Hay diệt sự vô-trí.
Như-Lai không ai trên
Cũng không ai sánh bằng
Tất cả không so được
Thế nên khó gặp gỡ.
Tinh-Tấn-Lâm Bồ-Tát,thừa oai-lực của đức Phật,quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Các pháp vô-sai-biệt
Không ai biết được đó
Chỉ Phật cùng Phật biết
Vì trí-huệ rốt ráo.
Như vàng và màu vàng
Tánh nó vô-sai-biệt
Pháp phi-pháp cũng vậy
Thể tánh vốn chẳng khác.
Chúng-sanh phi-chúng-sanh
Hai đều không chơn thật
Như vậy các pháp-tánh
Thật nghĩa đều chẳng có.
Ví như thời vị-lai
Không có tất cả tướng.
Các pháp cũng như vậy
Không có tất cả tướng.
Ví như tướng sanh diệt
Các thứ đều chẳng thiệt.
Các pháp đều cũng vậy
Tự-tánh vốn không có.
Niết-bàn bất-khả-thủ
Thời-gian nói có hai
Các pháp cũng như vậy
Phân-biệt có sai khác.
Như nương vật bị đếm
Mà có cái hay đếm
Tánh kia vốn không
có
Nên rõ pháp như vậy.
Ví như pháp toán số
Thêm một đến vô-lượng
Phép đếm không thể-tánh
Vì trí nên sai khác.
Ví như các thế-gian
Kiếp hỏa có hư diệt
Hư-không chẳng tổn hư
Phật-trí cũng như vậy.
Như thập phương chúng-sanh
Ðều lấy tướng hư-không,
Chư Phật cũng như vậy
Thế-gian vọng phân-biệt.
Lúc đó Lực-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của Phật
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả chúng-sanh-giới
Ðều ở trong ba thời,
Những chúng-sanh ba thời
Ðều ở trong ngũ-uẩn.
Nghiệp là gốc của uẩn
Tâm là gốc các
nghiệp
Tâm đó dường như huyễn
Thế-gian cũng như vậy.
Thế-gian chẳng tự làm
Chẳng phải cái khác làm
Mà nó được có thành
Cũng lại được có hoại.
Thế-gian dầu có thành
Thế-gian dầu có hoại
Người rõ thấu thế-gian
Chẳng nên nói hai việc.
Thế nào là thế-gian
Thế nào phi-thế-gian
Thế-gian phi-thế-gian
Chỉ là tên sai khác !
Tam-thế và ngũ-uẩn
Nói gọi là thế-gian
Nói diệt là phi-thế
Như vậy chỉ giả danh.
Sao gọi là các uẩn
Các uẩn có tánh gì
Tánh uẩn chẳng diệt được
Vì vậy nói vô-sanh.
Phân-biệt các uẩn này
Tánh nó vốn không
tịch
Vì không, nên chẳng diệt
Ðây là nghĩa vô-sanh.
Chúng-sanh đã như vậy
Chư Phật cũng như vậy
Phật và các phật-pháp
Tự-tánh vốn không có.
Biết được các pháp này
Như thật không điên-đảo.
Người thấy biết tất cả
Thường thấy ở nơi trước.
Hạnh-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ví như mười phương cõi
Tất cả những địa-chủng
Tự-tánh vốn không có
Không chỗ nào chẳng khắp.
Thân Phật cũng như vậy
Cùng khắp các thế-giới
Những sắc tướng sai khác
Không dừng, không chỗ đến.
Chỉ do vì các nghiệp
Nói tên là chúng-sanh
Cũng chẳng lìa chúng-sanh
Mà có được các nghiệp.
Nghiệp-tánh vốn không
tịch
Chúng-sanh chỗ y-chỉ
Khắp làm các hình sắc
Cũng lại không chỗ đến.
Những hình sắc như vậy
Nghiệp-lực khó nghĩ bàn
Liễu đạt căn-bổn kia
Nơi trong, không chỗ thấy.
Thân Phật cũng như vậy
Chẳng thể nghĩ bàn được
Những sắc-tướng sai khác
Hiện khắp mười phương cõi.
Thân chẳng phải là Phật
Phật cũng chẳng phải thân
Chỉ lấy pháp làm thân
Thông đạt tất cả pháp.
Nếu thấy được thân Phật
Thanh-tịnh như pháp-tánh
Với tất cả phật-pháp
Người này không nghi lầm.
Nếu thấy tất cả pháp
Bổn-tánh như niết-bàn
Ðây thời thấy Như-Lai
Rốt ráo vô-sở-trụ.
Nếu tu tập chánh-niệm
Sáng tỏ thấy chánh-giác
Vô-tướng, vô-phân-biệt
Ðây gọi Pháp-Vương-Tử.
Lúc đó Giác-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật,
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Ví như họa-sư kia
Phân bố những màu sắc
Hư-vọng lấy dị-tướng
Ðại-chủng không sai khác.
Trong đại-chủng không sắc
Trong sắc không đại-chủng
Cũng chẳng ngoài đại-chủng
Mà có được màu sắc.
Trong tâm, không màu vẽ
Trong màu vẽ, không
tâm
Nhưng chẳng rời nơi tâm
Mà có được màu vẽ.
Tâm đó luôn chẳng trụ
Vô-lượng khó nghĩ bàn
Thị-hiện tất cả sắc
Ðều riêng chẳng biết nhau.
Ví như nhà họa-sư
Chẳng biết được tự-tâm
Mà do tâm nên vẽ
Các pháp-tánh như vậy.
Tâm như nhà họa-sư
Hay vẽ những thế-gian
Ngũ-uẩn từ tâm sanh
Không pháp gì chẳng tạo.
Như tâm, Phật cũng
như vậy
Như Phật, chúng-sanh đồng
Phải biết Phật cùng tâm
Thể-tánh đều vô-tận.
Nếu người biết tâm hành
Bảo khắp các thế-gian
Người này thời thấy Phật
Rõ Phật chơn-thật-tánh.
Tâm chẳng trụ nơi thân
Thân chẳng trụ nơi tâm
Mà làm được phật-sự
Tự-tại chưa từng có.
Nếu người muốn rõ biết
Tất cả Phật ba đời
Phải quán pháp-giới-tánh
Tất cả duy tâm tạo.
Trí-Lâm Bồ-Tát thừa oai-lực của đức Phật,
quan-sát mười phương rồi nói kệ rằng :
Sở-thủ chẳng thể lấy
Sở-kiến chẳng thể thấy
Sở-văn chẳng thể nghe
Nhứt-tâm bất-tư-nghị.
Hữu-lượng và vô-lượng
Cả hai chẳng thể lấy
Nếu có ai muốn lấy
Rốt ráo chẳng thể được.
Chẳng nên nói mà nói
Ðây là tự khi dối
Việc mình chẳng
thành-tựu
Chẳng khiến chúng vui mừng.
Có người muốn khen Phật
Vô-biên diệu-sắc thân
Tận cả vô-số kiếp
Không kể thuật hết được.
Vì như châu như-ý
Hay hiện tất cả màu
Không màu mà hiện màu
Chư Phật cũng như vậy.
Lại như hư-không sạch
Phi-sắc, chẳng thấy được
Dầu hiện tất cả sắc
Không ai thấy hư-không.
Chư Phật cũng như vậy
Hiện khắp vô-lượng sắc
Chẳng phải cảnh của tâm
Tất cả chẳng thấy được.
Dầu nghe tiếng Như-Lai
Âm-thinh chẳng phải Phật
Cũng chẳng ngoài âm-thinh
Biết được đấng Chánh-Giác.
Bồ-đề không lai khứ
Lìa tất cả phân-biệt
Thế nào ở trong đó
Tự nói là thấy được.
Chư Phật không có pháp
Phật chỗ nào có nói,
Chỉ theo tự-tâm chúng
Cho rằng Phật nói pháp.
PHẨM THẬP HẠNH
THỨ HAI MƯƠI MỐT
Lúc bấy giờ, thừa thần-lực của đức Phật, Công-Đức-Lâm Bồ-Tát nhập Bồ-Tát thiện-tư-duy
tam-muội. Nhập tam-muội này rồi, mười phương đều quá
ngoài vạn phật-sát
vi-trần-số thế-giới, có vạn phật-sát
vi-trần-số chư Phật đều hiện Công-Đức-Lâm hiện ra nơi trước mà bảo Công-Đức-Lâm Bồ-Tát rằng :
Lành thay Phật-tử ! Ông
có thể nhập thiện-tư-duy
tam-muội này !
Đây mười phương đều vạn phật-sát
vi-trần-số Như-Lai
cùng một
danh-hiệu đồng gia-hộ ông. Và
cũng là nguyện-lực thần-lực của Phật
Tỳ-Lô-Giá-Na và thiện-căn-lực của chúng
Bồ-Tát khiến ông nhập tam-muội này để diễn thuyết pháp :
Vì tăng-trưởng phật-trí,
vì thâm-nhập
pháp-giới, vì rõ
chúng-sanh-giới, vì sở-nhập vô-ngại, vì sở-hành
vô-chướng, vì được vô-lượng phương-tiện, vì
nhiếp-thủ nhứt-thiết-trí
tánh, vì giác-ngộ tất cả pháp,
vì biết tất cả
căn-tánh, vì có thể thọ-trì giảng-thuyết tất cả pháp.
Nghĩa là phát khởi mười hạnh của Bồ-Tát.
Này Phật-tử ! Ông nên thừa oai-lực của Phật mà diễn thuyết pháp
thập hạnh này.
Chư Phật khuyên cáo xong, liền ban
cho Công-Đức-Lâm Bồ-Tát
vô-ngại-trí,
vô-trước-trí,
vô-đoạn-trí,
vô-sư-trí,
vô-si-trí, vô-dị-trí,
vô-thất-trí,
vô-lượng-trí,
vô-thắng-trí,
vô-giải-đãi-trí,
vô-đoạt-trí.
Tại sao vậy ? Vì công-lực của tam-muội này là
như vậy.
Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh của Công-Đức-Lâm Bồ-Tát.
Lúc đó Công-Đức-Lâm Bồ-Tát xuất định nói với chư Bồ-Tát rằng :
Thưa Phật-tử ! Hạnh của Bồ-Tát chẳng thể nghĩ bàn được. Hạnh đó đồng với
pháp-giới hư-không-giới. Vì Bồ-Tát học theo
tam-thế chư Phật mà tu
hành vậy.
Những gì là hạnh của Bồ-Tát ?
Thưa chư Phật-tử ! Đại Bồ-Tát có mười hạnh sau
đây, mà tam-thế chư Phật đều tuyên
nói :
Một là Hoan-hỷ-hạnh; hai
là Nhiêu-ích-hạnh; ba
là Vô-vi-hạnh, bốn là
Vô-khuất-nhiễu-hạnh; năm
là Vô-si-loạn-hạnh; sáu
là Thiện-hiện-hạnh; bảy là
Vô-trước-hạnh; tám
là Nan-đắc-hạnh; chín
là Thiện-pháp-hạnh; mười là Chơn-thiệt-hạnh.
Thế nào là Bồ-Tát
hoan-hỷ-hạnh ?
Bồ-Tát này làm đại-thí-chủ, phàm
có vật gì đều bố-thí được cả, lòng
bình-đẳng không
hề hối tiếc, chẳng trông
quả báo, chẳng cầu tiếng tăm,
chẳng tham
lợi-tức, chỉ vì cứu-hộ tất cả
chúng-sanh, vì nhiếp-thọ
chúng-sanh, vì lợi-ích
chúng-sanh, vì học tập bổn-hạnh của chư Phật, vì nhớ đến bổn-hạnh của chư Phật, vì
thích mến bổn-hạnh của chư Phật, vì
thanh-tịnh bổn-hạnh của chư Phật, vì
tăng-trưởng bổn-hạnh của chư Phật, vì trụ-trì bổn-hạnh của chư Phật, vì hiển-hiện bổn-hạnh của chư Phật, vì diễn thuyết bổn-hạnh của chư Phật, vì
khiến
chúng-sanh thoát khổ được vui.
Lúc đại Bồ-Tát tu hạnh này,
khiến tất cả
chúng-sanh hoan-hỷ mến thích.
Chốn nào,
cõi nào nghèo thiếu, Bồ-Tát
dùng nguyện-lực sanh nơi đó,
làm nhà hào quý giàu có vô-tận; Giả-sử trong mỗi niệm có
vô-lượng
chúng-sanh đến chỗ Bồ-Tát, vì
đói khát mà xin thịt nơi thân Bồ-Tát để ăn, Bồ-Tát liền móc thịt nơi thân
mình để dưng cho họ, khiến lòng họ thỏa mãn
vui mừng,
không hề khiếp sợ từ chối, chỉ càng
tăng-trưởng tâm từ-bình-đẳng. Vì
thế nên
chúng-sanh đều đến để xin cầu. Bồ-Tát thấy họ đến xin,
lòng thêm hoan-hỷ, vì
nghĩ rằng tôi được lợi lớn, các
chúng-sanh này là phước-điền của tôi,
là thiện-hữu của tôi.
Tôi chẳng cầu chẳng thỉnh mà họ đến dạy tôi
vào trong phật-pháp.
Tôi phải tu học thật-hành
như vậy không
để trái ý
chúng-sanh.
Bồ-Tát lại nghĩ rằng :
nguyện những căn
lành mà tôi đã, sẽ, hay đương thật hành
là cho tôi thọ thân
hình to lớn trong
tất cả thế-giới để được đem thịt nơi thân
cung cấp cho tất cả
chúng-sanh bị đói khổ, thịt còn mãi
cắt lấy vô-tận, nhẫn đến còn một
chúng-sanh nhỏ chưa no đủ thời tôi
nguyện không
xả mạng. Do
thiện-căn
này nguyện được vô-thượng bồ-đề, chứng đại-niết-bàn.
Nguyện cho những
chúng-sanh đã ăn thịt tôi,
cũng đều được vô-thượng bồ-đề, được trí
bình-đẳng, đủ những phật-pháp,
rộng làm
phật-sự, nhẫn đến nhập vô-dư niết-bàn. Nếu còn một
chúng-sanh lòng chưa thỏa-mãn,
tôi trọn chẳng chứng vô-thượng bồ-đề. Bồ-đề lợi-ích
chúng-sanh như vậy mà
không ngã-tưởng,
chúng-sanh-tưởng, hữu-tưởng, mạng-tưởng, các
thứ tưởng, bổ-đặc-già-la-tưởng, nhơn-tưởng, ma-nạp-bà-tưởng,
tác-giả-tưởng, thọ-giả-tưởng. Chỉ quán
pháp-giới
chúng-sanh-giới
vô-biên-tế, quán
không-pháp, vô-sở-hữu pháp,
vô-tướng-pháp,
vô-thể-pháp,
vô-xứ-pháp,
vô-y-pháp, vô-tác-pháp.
Lúc quán như vậy, chẳng thấy tự thân,
chẳng thấy vật-bố-thí, chẳng thấy người thọ, chẳng thấy phước-điền, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy báo,
chẳng thấy quả, chẳng thấy đại-quả, chẳng thấy tiểu-quả.
Lúc bấy giờ Bồ-Tát quán thân của tất cả tam-thế
chúng-sanh đều liền hoại-diệt, mà
nghĩ rằng : lạ thay
cho chúng-sanh ngu-si, vô-trí, ở trong
sanh tử, thọ vô-số thân mỏng manh
chẳng tạm dừng, mau
về nơi hoại diệt, hoặc đã, hoặc hiện, hoặc sẽ hoại-diệt, mà họ chẳng thể đem
thân chẳng bền để cầu thân
kiên-cố.
Tôi phải học tập những điều mà chư Phật đã học tập, để được chứng nhứt-thiết-trí, biết nhứt-thiết-pháp,
rồi vì
chúng-sanh diễn thuyết tam-thế bình-đẳng tùy
thuận
pháp-tánh tịch-tịnh bất-hoại, khiến họ được
vĩnh-viễn an-ổn
khoái-lạc.
Đây gọi là Bồ-Tát Hoan-Hỷ-Hạnh thứ nhứt.
Chư Phật-tử ! Những gì là Bồ-Tát
Nhiêu-Ích-Hạnh ?
Bồ-Tát này hộ-trì tịnh-giới, lòng
không nhiễm trước sắc thinh
hương vị xúc.
Cũng đem sự vô-trước ấy nói với
chúng-sanh, chẳng cầu oai-thế, chẳng cầu chủng-tộc, chẳng cầu giàu
có, chẳng cầu sắc-tướng, chẳng cầu ngôi
vua, tất cả đều không
nhiễm trước. Chỉ bền giữ tịnh-giới. Tự nghĩ :
tôi trì tịnh-giới, quyết sẽ bỏ lìa tất cả triền phược, tham
cầu, nhiệt não
các nạn bức ngặt, hủy báng
loạn trược, mà được
chánh-pháp bình-đẳng của Phật khen
ngợi.
Lúc Bồ-Tát trì tịnh-giới như vậy, trong
một ngày,
giả-sử có vô-số đại ác-ma
đem vô-số thiên-nữ tuyệt đẹp
trang-sức lộng lẫy vũ nhạc đờn cát-tường đến muốn làm mê
loạn đạo-tâm của Bồ-Tát
này. Bồ-Tát này
liền suy
nghĩ rằng : cảnh ngũ-dục này là
thứ chướng đạo, nhẫn đến chướng vô-thượng bồ-đề. Do đây
nên Bồ-Tát chẳng có một niệm dục-tưởng, lòng
thanh-tịnh như Phật. Chỉ trừ phương-tiện
giáo-hóa chúng-sanh, nhưng vẫn không
rời tâm nhứt-thiết-trí.
Bồ-Tát không vì nhơn-duyên
ngũ-dục mà làm
não hại một
chúng-sanh, thà bỏ thân mạng chớ trọn không
làm sự não
chúng-sanh.
Bồ-Tát từ khi được thấy Phật đến nay, chưa từng có một niệm dục-tưởng, huống là
làm theo.
Bồ-Tát thường nghĩ : các chúng-sanh mãi tưởng nhớ ngũ-dục, xu hướng ngũ-dục, tham
trước ngũ-dục, lòng
họ quyết phải say mê
chìm đắm, rồi theo
đó mà lưu-chuyển không
được tự-tại.
Nay tôi phải nên
khiến bọn ma này
cùng các thiên-nữ trụ nơi tịnh-giới, không
thối-chuyển nơi nhứt-thiết-trí, được vô-thượng bồ-đề nhẫn đến vào
vô-dư-niết-bàn.
Vì đây là việc mà tôi
phải thật hành.
Tôi phải học tập theo
Phật, phải rời bỏ ác-hạnh, chấp-ngã,
si-mê. Dùng trí-huệ vào tất cả phật-pháp.
Giảng thuyết cho
chúng-sanh khiến họ trừ điên-đảo. Nhưng biết không
ngoài chúng-sanh có điên-đảo, không
ngoài điên-đảo có
chúng-sanh, chẳng ở trong
điên-đảo có chúng-sanh,
chẳng ở trong
chúng-sanh có điên-đảo. Cũng
chẳng phải điên-đảo là
chúng-sanh, chẳng phải
chúng-sanh là điên-đảo.
Điên-đảo chẳng phải nội- pháp
ngoại-pháp,
chúng-sanh cũng chẳng phải nội-pháp
ngoại-pháp.
Tất cả các
pháp đều hư-vọng chẳng thiệt, chóng
sanh chóng diệt không
kiên-cố như mộng, như huyễn, như bóng,
như vang,
nói dối phỉnh kẻ ngu.
Hiểu được như vậy liền giác-ngộ được tất cả
hành-pháp, thông đạt sanh tử và niết-bàn,
chứng Phật bồ-đề, tự được độ và khiến người được độ, tự được độ và khiến người được độ, tự giải-thoát
và khiến người giải-thoát,
tự điều-phục và khiến người điều-phục, được tịch-tịnh và
khiến người tịch-tịnh, tự an-ổn và khiến người an-ổn, tự ly-cấu và khiến người ly-cấu, tự thanh-tịnh và
khiến người
thanh-tịnh, tự niết-bàn và
khiến người niết-bàn, tự khoái-lạc và khiến người
khoái-lạc.
Bồ-Tát này lại tự nghĩ rằng : tôi
phải tùy
thuận tất cả Như-Lai, rời tất cả hành-vi
thế-gian,
trọn nên tất cả phật-pháp,
trụ nơi vô-thượng
bình-đẳng, xem
chúng-sanh bình-đẳng, rõ
suốt cảnh-giới lìa lỗi, dứt phân
biệt, bỏ chấp-trước, khéo
xuất-ly,
tâm luôn an-trụ nơi thậm-thâm
trí-huệ vô-thượng
vô-thuyết vô-y
vô-động vô-lượng
vô-biên vô-tận vô-sắc.
Đây gọi là Bồ-Tát Nhiêu-Ích-Hạnh thứ hai.
Những gì là Bồ-Tát
Vô-Vi-Nghịch-Hạnh ?
Bồ-Tát này thường tu nhẫn pháp :
khiêm hạ
cung-kính, chẳng tự hại, chẳng hại người, chẳng hại mình
người, chẳng tự thủ-trước, chẳng thủ-trước người, chẳng thủ-trước cả hai,
cũng chẳng tham
cầu danh
tiếng lợi lộc.
Chỉ nghĩ rằng : tôi phải luôn
thuyết-pháp
cho chúng-sanh, khiến họ lìa tất cả sự ác, dứt phiền-não,
khiến họ luôn nhẫn-nhục nhu
hòa.
Bồ-Tát thành-tựu nhẫn-pháp
như vậy, giả-sử có vô-số
chúng-sanh ác, đến chỗ Bồ-Tát,
đem vô-số lời ác mắng nhiếc trêu
chọc nguyền rủa, đồng thời cầm dao gậy đập chém
trải qua
vô-số kiếp không
thôi. Bồ-Tát bị sự bức khổ vô cùng
này, sắp phải chết, tự nghĩ rằng : tôi
nhơn sự khổ nhục này, nếu lòng động loạn thời là tự chẳng điều-phục, tự chẳng giữ-gìn, tự chẳng sáng
suốt, tự chẳng tu-tập, tự chẳng
chánh-định, tự chẳng tịch-tịnh, tự chẳng ái-tích,
tự sanh chấp-trước, thời đâu có
thể làm cho
người khác
lòng được
thanh-tịnh.
Lúc đó Bồ-Tát lại nghĩ :
tôi từ vô-thỉ kiếp trụ nơi sanh-tử chịu nhiều khổ não.
Suy nghĩ như vậy rồi càng tự khích lệ thêm,
khiến lòng
thanh-tịnh mà được vui mừng, khéo
tự điều-nhiếp, tự có thể tự an-trụ nơi trong
phật-pháp,
cũng khiến
chúng-sanh đồng được pháp
này. Lại suy
nghĩ : thân này không tịch,
không ngã, ngã-sở, không
thiệt, tánh
trống rỗng không
hai, đều không
có hoặc khổ hoặc vui,
vì tất cả pháp đều trống không
vậy. Tôi
phải hiểu rõ để nói rộng cho
người, khiến các
chúng-sanh diệt trừ kiến-chấp này.
Vì thế nên dầu nay
tôi bị khổ nhục, tôi
phải nhẫn thọ, vì thương xót
chúng-sanh, vì lợi-ích
chúng-sanh, vì an vui chúng-sanh, vì nhiếp-thọ chúng-sanh, vì chẳng bỏ
chúng-sanh, vì để tự giác-ngộ và khiến người
giác-ngộ, vì
lòng không thối-chuyển xu-hướng phật-đạo.
Đây là Bồ-Tát
Vô-Vi-Nghịch-Hạnh thứ ba.
Chư Phật-tử ! Những gì là Bồ-Tát
Vô-Khuất-Nhiễu-Hạnh ?
Bồ-Tát này tu hạnh
tinh-tấn : đệ nhứt tinh-tấn, đại tinh-tấn, thắng
tinh-tấn,
thù-thắng
tinh-tấn, tối-thắng
tinh-tấn, tối-diệu tinh-tấn, thượng
tinh-tấn, vô-thượng
tinh-tấn, vô-đẳng
tinh-tấn, phổ-biến tinh-tấn.
Tánh không tham sân si, tánh không
kiêu-mạn,
phú-tàng, xan-tật, siểm-cuống, tánh
tự
tàm-quý. Trọn chẳng vì
não chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì dứt tất cả phiền-não mà
tinh-tấn, chỉ vì nhổ gốc phiền-não mà
tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả
chúng-sanh-giới mà
tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả
chúng-sanh chết đây
sanh kia mà tinh-tấn, chỉ vì biết phiền-não của tất cả
chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết cảnh-giới của tất cả
chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết căn-cơ thắng liệt của tất cả
chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết tâm
hành của tất cả
chúng-sanh mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả pháp-giới mà
tinh-tấn, chỉ vì biết tánh
căn-bổn của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì biết tánh
bình-đẳng của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì biết tánh
tam-thế bình-đẳng mà
tinh-tấn, chỉ vì được trí
quang-minh của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì chứng trí của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì biết nhứt thiệt-tướng của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì biết tất cả phật-pháp
vô-biên-tế mà
tinh-tấn, chỉ vì được trí
thiện-xảo quyết-định quảng-đại của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn, chỉ vì được trí diễn thuyết cú
nghĩa của tất cả phật-pháp
mà tinh-tấn.
Bồ-Tát trọn nên hạnh tinh-tấn như vậy rồi, có thể vì mỗi mỗi
chúng-sanh trong vô-số thế-giới mà chịu khổ ở vô-gián
địa-ngục trọn vô-số kiếp, để những chúng-sanh
đó được gặp Phật, được hưởng vui,
nhẫn đến được vô-dư niết-bàn, rồi mình sẽ chứng vô-thượng bồ-đề.
Giả-sử có người bảo : có vô-lượng vô-số đại-hải, ông sẽ lấy đầu sợi lông
chấm từ giọt đến khô cạn, và
nghiền vô-lượng vô-số thế-giới làm bụi, đếm biết rõ số giọt số bụi ấy, ông
vì chúng-sanh trải qua kiếp số bằng số giọt số bụi ấy mà chịu khổ chẳng dứt.
Bồ-Tát dầu nghe lời trên
đây, nhưng không
hề có một niệm thối khiếp. Chỉ càng
thêm hớn hở vui mừng : tôi
may mắn được lợi lành lớn. Vì do
sức của tôi mà
vô-lượng
chúng-sanh kia thoát khổ hẳn.
Bồ-Tát này đem phương-tiện thật hành
trong tất cả thế-giới, làm
cho tất cả
chúng-sanh được rốt ráo
vô-dư niết-bàn.
Đây gọi là Bồ-Tát Vô-Khuất-Nhiễu-Hạnh thứ tư.
Những gì là Bồ-Tát
Ly-Si-Loạn-Hạnh.
Chư Phật-tử ! Bồ-Tát này thành-tựu
chánh-niệm, tâm
không tán loạn kiên-cố bất-động tối-thượng
thanh-tịnh rộng lớn vô-lượng không
có mê-hoặc.
Vì do chánh-niệm này
nên khéo hiểu tất cả ngôn ngữ thế-gian,
hay trì ngôn thuyết của các
pháp xuất-thế, như là hay
trì ngôn thuyết sắc-pháp
phi-sắc-pháp,
hay trì ngôn thuyết kiến lập sắc-tự-tánh,
nhẫn đến hay
trì ngôn thuyết thọ-tưởng-hành-thức tự-tánh mà
tâm không si-loạn.
Ở trong
thế-gian,
chết đây
sanh kia tâm không si-loạn. Nhập thai
xuất thai
tâm không si-loạn. Phát
tâm bồ-đề tâm không
si-loạn. Thờ thiện-tri-thức tâm
không si-loạn, siêng
tu phật-pháp
tâm không si-loạn. Rõ biết ma-sự tâm
không si-loạn. Lìa
những
ma-nghiệp tâm
không si-loạn. Trong
bất-khả-thuyết kiếp tu bồ-tát-hạnh tâm
không si-loạn.
Bồ-Tát này thành-tựu vô-lượng chánh-niệm như vậy. Trong
vô-lượng vô-số-kiếp được nghe
chánh-pháp nơi chư Phật, Bồ-Tát,
thiện-tri-thức. Như là thậm-thâm
pháp, quảng-đại pháp,
trang-nghiêm pháp, những thứ
trang-nghiêm pháp, pháp diễn thuyết các loại danh
cú văn thân, pháp Bồ-Tát
trang-nghiêm, pháp Phật thần-lực
quang-minh vô-thượng, pháp
chánh-thắng-giải
thanh-tịnh, pháp
chẳng nhiễm-trước tất cả thế-gian,
pháp phân-biệt tất cả thế-gian,
pháp rất quảng-đại, pháp
rời mê-si
chiếu rõ tất cả cả
chúng-sanh, pháp cùng đồng với tất cả thế-gian,
pháp chẳng cùng
đồng với tất cả thế-gian,
pháp Bồ-Tát trí
vô-thượng, pháp
nhứt-thiết-trí tự-tại.
Bồ-Tát được nghe những pháp
như vậy rồi trải qua
vô-số kiếp chẳng quên
chẳng mất, tâm
thường ghi
nhớ không
gián-đoạn.
Tại sao vậy ? Vì trong vô-lượng kiếp, lúc
tu hành, Bồ-Tát trọn chẳng làm
não loạn một
chúng-sanh khiến họ mất
chánh-niệm, chẳng hoại
chánh-pháp, chẳng đọan thiện-căn,
tâm luôn tăng-trưởng
trí-huệ rộng-lớn.
Lại với Bồ-Tát này, những thứ
âm-thinh không làm hoặc loạn được. Như là tiếng cao
thần-thông,
tiếng thô
trược, tiếng khiến người cả sợ, tiếng đẹp lòng,
tiếng chẳng đẹp lòng,
tiếng
huyên-loạn nhĩ-thức, tiếng trở hoại
nhĩ-căn.
Bồ-Tát này dầu nghe
vô-lượng vô-số âm
thinh hay dở như vậy, nhưng chưa từng có một niệm tán-loạn. Nghĩa
là chánh-niệm chẳng loạn, cảnh-giới chẳng loạn,
tam-muội chẳng loạn, vào
pháp thậm-thâm
chẳng loạn, hành
bồ-đề-hạnh chẳng loạn, phát
bồ-đề-tâm chẳng loạn, nhớ niệm chư Phật chẳng loạn, quán
pháp chơn thật chẳng loạn, trí
hóa độ
chúng-sanh chẳng loạn, trí
thanh-tịnh
chúng-sanh chẳng loạn, quyết rõ
nghĩa thậm-thâm
chẳng loạn. Vì chẳng làm
nghiệp ác nên
không ác-nghiệp-chướng, vì
chẳng khởi phiền-não
nên không phiền-não-chướng, vì
chẳng khinh
mạn pháp
nên không pháp-chướng, vì
chẳng hủy báng
chánh-pháp nên không có báo-chướng.
Bồ-Tát này nhập
chánh-định trụ nơi
thành-pháp, tư-duy
quan-sát tất cả
âm-thinh, khéo biết tướng
sanh-trụ-dị-diệt của
âm-thinh, khéo biết tánh
sanh-trụ-dị-diệt của
âm-thinh. Nghe âm-thinh Bồ-Tát này
không sanh lòng tham, sân, không mất chánh-niệm, khéo
lấy tướng mà
kh6ng nhiễm trước, biết tất cả
âm-thinh đều là
không chỗ có, thiệt chẳng thể được, không
có tác-giả, cũng
không bổn-tế, đồng với
pháp-giới không
sai khác.
Bồ-Tát này thành-tựu hạnh thân
ngữ ý tịch-tịnh như vậy thẳng đến nhứt-thiết-trí
không thối-chuyển, khéo
vào tất cả môn thiền-định, biết các
tam-muội đồng một thể-tánh,
rõ tất cả pháp
không có biên-tế, được tất cả pháp chơn-thiệt trí-huệ, được thậm-thâm
tam-muội ly
âm-thinh, được vô-số môn
tam-muội, thêm
lớn vô-lượng tâm đại-bình-đẳng.
Bấy giờ trong khoảng một niệm, Bồ-Tát này
được vô-số trăm
ngàn tam-muội. Nghe
những tiếng như vậy tâm chẳng hoặc loạn, khiến tam-muội lần lần càng
thêm rộng.
Bồ-Tát này nghĩ rằng : tôi
phải làm
cho tất cả
chúng-sanh an-trụ trong
niệm
thanh-tịnh vô-thượng, nơi nhứt-thiết-trí được bất-thối-chuyển rốt ráo
thành-tựu vô-dư niết-bàn.
Đây gọi là Bồ-Tát Ly-Si-Loạn-Hạnh thứ năm.
Những gì là Bồ-Tát Thiện-Hiện-Hạnh ?
Bồ-Tát này ba nghiệp
thân-ngữ-ý đều
thanh-tịnh, trụ và thị-hiện đều vô-sở-đắc. Biết được ba
nghiệp đều vô-sở-hữu. Vì không
hư-vọng nên
không hệ-phược. Phàm
chỗ thị-hiện đều
vô-tánh vô-y. Trụ tâm như-thiệt, biết vô-lượng-tâm tự-tánh,
biết tất cả pháp tự-tánh,
vô-đắc vô-tướng rất sâu
khó vào, trụ nơi
chánh-vị chơn-như
pháp-tánh. Phương-tiện xuất-sanh
mà không nghiệp-báo, bất-sanh bất-diệt, trụ niết-bàn-giới, trụ tánh tịch-tịnh, trụ nơi tánh
chơn-thiệt
vô-tánh, đường ngữ ngôn dứt, siêu
các thế-gian
không sở-y, nhập pháp
ly phân-biệt không
phược-trước, nhập pháp
trí tối-thắng chơn thật, nhập pháp
chẳng phải thế-gian có
thể rõ biết xuất-thế-gian.
Đây là phương-tiện thiện-xảo thị-hiện sanh-tướng của Bồ-Tát
này.
Bồ-Tát này nghĩ rằng : tất cả
chúng-sanh vô-tánh làm tánh, tất cả các
pháp vô-vi làm tánh, tất cả quốc-độ vô-tướng làm
tánh, tất cả tam-thế chỉ có ngôn
thuyết, tất cả ngôn
thuyết ở trong
các pháp không có y-xứ, tất cả các
pháp ở trong
ngôn-thuyết cũng
không y-xứ.
Như vậy, Bồ-Tát này hiểu tất cả pháp thảy đều rất sâu, tất cả thế-gian thảy đều tịch-tịnh, tất cả phật-pháp
không chỗ thêm,
phật-pháp
không khác pháp thế-gian,
pháp thế-gian
không khác phật-pháp.
Phật-pháp
và thế-gian-pháp
không có tạp loạn, cũng
không sai khác. Rõ biết
pháp-giới thể-tánh
bình-đẳng. Vào
khắp tam-thế,
vĩnh-viễn chẳng bỏ lìa tâm
đại-bồ-đề. Luôn
chẳng thối-chuyển tâm
giáo-hóa chúng-sanh, càng thêm tăng-trưởng tâm đại từ-bình-đẳng, làm
chỗ sở-y cho tất cả
chúng-sanh.
Bấy giờ Bồ-Tát lại nghĩ rằng : tôi
không thành-thục
chúng-sanh thời ai sẽ
thành-thục ? Tôi
chẳng điều-phục
chúng-sanh thời ai sẽ điều-phục ? Tôi
chẳng
giáo-hóa chúng-sanh thời ai sẽ
giáo-hóa ? Tôi chẳng giác
ngộ
chúng-sanh thời ai sẽ giác-ngộ ? Tôi
chẳng thanh-tịnh
chúng-sanh thời ai sẽ thanh-tịnh ? Đây
là những điều đáng
cho tôi phải thật hành.
Bồ-Tát này lại nghĩ rằng : nếu tôi tự hiểu pháp
thậm-thâm
này, thời chỉ một tôi
riêng được giải-thoát
chứng vô-thượng bồ-đề, mà các
chúng-sanh mù tối sa vào
đường hiểm lớn bị những phiền-não
triền-phược, như người bệnh nặng luôn
thọ khổ thống, ở trong
ngục
tham-ái không tự ra khỏi, chẳng rời địa-ngục, ngạ-quỷ,
sús-sanh, cõi vua Diêm-La, chẳng diệt được khổ, chẳng bỏ nghiệp ác, thường ở si-ám
chẳng thấy chơn-thiệt,
luân-hồi sanh-tử không
ra khỏi được, trụ nơi bát-nạn, những cấu nhiễm vấy nhơ, những phiền-não
che chướng tâm họ, tà-kiến làm chẳng thật hành
chánh-đạo.
Bồ-Tát này quán-sát những
chúng-sanh rồi nghĩ rằng : nếu những
chúng-sanh này chưa
thành-thục, chưa điều-phục, tôi bỏ họ mà chứng vô-thượng bồ-đề thời không
nên. Tôi sẽ trước giáo
hóa chúng-sanh trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ-Tát. Kẻ chưa
thành-thục trước làm
cho được
thành-thục, kẻ chưa điều-phục trước làm
cho được điều-phục.
Bồ-Tát này lúc trụ hạnh trên
đây, hàng chư Thiên,
Ma, Phạm,
Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả thế-gian, Càn-thát-bà,
A-tu-la v.v... Nếu có ai
được thấy và tạm thời đồng ở chung với Bồ-Tát
này, rồi kính
trọng
cúng-dường, và tạm nghe
qua tai một phen để tâm, đều không
luốn uổng, tất định sẽ thành
vô-thượng bồ-đề.
Đây gọi là Bồ-Tát Thiện-Hiện-Hạnh thứ sáu.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment