Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ KINH HOA NGHIÊM, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 36
PHẨM THẬP ÐỊA
THỨ HAI MƯƠI SÁU
Phật tử đã nghe hạnh rộng lớn
pháp thù thắng thâm
diệu đáng ưa
Lòng đều hớn hở rất mừng vui
Rải khắp hoa thơm cúng dường Phật.
Lúc Bồ Tát diễn diệu pháp này
Ðại địa, biển cả đều chấn động
Tất cả Thiên nữ đều hoan hỷ
Ðều phát diệu âm đồng ca ngợi
Tự Tại Thiên Vương rất vui mừng.
Rải ma ni bửu cúng dường Phật
Khen rằng : Phật vì ta xuất thế
Diễn nói công hạnh pháp
đệ nhứt.
Nghĩa của các Ðịa như đã giải
Trong trăm ngàn kiếp rất khó gặp
Nay tôi bỗng nhiên
mà được nghe
Diệu pháp thắng hạnh của Bồ Tát.
Mong lại diễn nói bực thông huệ
Ðạo hạnh quyết định của Ðịa sau
Lợi ích tất cả hành Trời, người
Ðại chúng hội này đều mong mỏi.
Dũng mãnh đại tâm Giải Thoát
Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng đại Bồ Tát :
Ðệ tam chuyển vào Đệ Tứ Địa
Có hành tướng gì
xin tuyên nói.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát từ Ðệ tam
Phát Quang Ðịa đã
khéo thanh tịnh, muốn vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa, phải tu
hành mười pháp
minh môn.
Ðây là mười pháp :
Quán sát chúng sanh giới, quán
sát pháp giới, quán
sát thế giới, quán
sát hư không
giới, quán
sát thức giới, quán
sát dục giới, quán
sát sắc giới, quán
sát vô sắc giới, quán
sát quảng tâm
tín giải giới, quán
sát đại tâm
tín giải giới, Bồ Tát do
mười pháp
minh môn này mà được vào Ðệ tứ Diệm Huệ Ðịa.
Chư Phật tử ! Bồ tát an trụ nơi Diệm Huệ Ðịa này thời vì có
thể dùng mười pháp
do trí thành thục nên được nội pháp của Đệ Tứ Địa sanh
vào nhà Như Lai.
Ðây là mười pháp
do trí thành thục :
Vì thâm tâm bất thối, vì
trong Tam Bảo sanh tịnh tín rốt ráo chẳng hoại, vì
quán hành pháp sanh diệt, vì
quán các pháp tự tánh vô
sanh, vì quán thế gian
thành hoại, vì
quán nhơn nơi nghiệp mà có
sanh, vì quán sanh tử và Niết Bàn,
vì quán chúng sanh quốc độ nghiệp, vì
quán thời gian
trước thời gian
sau, vì quán vô sở hữu tận.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Đệ Tứ Địa này quán nội thân,
theo thân quán niệm siêng
năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Quán ngoại thân,
theo thân quán niệm siêng
năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Quán nội ngoại thân,
theo thân quán niệm siêng
năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Cũng vậy, quán nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ, theo
thọ quán.
Quán nội tâm,
ngoại tâm, nội ngoại tâm,
theo tâm quán. Quán nội pháp,
ngoại pháp,
nội ngoại pháp,
theo pháp quán niệm siêng
năng dũng mãnh trừ sự tham lo
của thế gian.
Bồ Tát này đối với pháp bất thiện chưa sanh,
vì cho nó chẳng sanh
mà muốn siêng
tinh tấn phát
tâm chánh đoạn. Với pháp bất thiện đã
sanh, vì dứt nó mà
muốn siêng
tinh tấn phát
tâm chánh đoạn. Với pháp
thiện chưa sanh,
vì cho nó sanh mà muốn siêng
tinh tấn phát
tâm chánh hành. Với pháp
thiện đã
sanh, vì cho nó còn mãi không mất càng
thêm rộng lớn, mà muốn siêng
tinh tấn phát
tâm chánh hành.
Bồ Tát này tu hành dục định, dứt hành
pháp thành tựu thần túc, y
chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả. Tu
hành tinh tấn định, tâm
định, quán
định, dứt hành
pháp thành tựu thần túc, y
chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành tín căn, tinh tấn căn,
niệm căn, định căn,
huệ căn, y
chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành tín lực, tinh
tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành niệm giác
phần, trạch pháp
giác phần, tinh tấn giác
phần, hỷ giác phận, khinh
an giác phần, định giác
phần, xả giác phần, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát này tu hành chánh kiến, chánh
tư duy,
chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh
mạng,
chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh
định, y chỉ nơi yểm, y chỉ nơi ly, y
chỉ nơi diệt, hồi hướng nơi xả.
Bồ Tát tu hành những công
đức như vậy, vì chẳng bỏ chúng
sanh, vì bổn nguyện giữ gìn, vì
đại bi làm
đầu, vì đại từ thành tựu, vì tư niệm Nhứt thiết chủng trí,
vì thành tựu trang
nghiêm Phật độ, vì
thành tựu đầy đủ lực, vô
úy, bất động, tướng hảo, âm
thanh của Như Lai, vì
cầu đạo thượng thượng thù
thắng, vì
tùy thuận Phật pháp
giải thoát
thậm thâm
đã nghe, vì tư duy đại trí
thiện xảo phương tiện.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Diệm Huệ Ðịa này, xuất nhập nơi tất cả chấp trước thân
kiến, ngã,
nhơn, chúng
sanh, thọ giả, uẩn, xứ, giới, để tu duy
quán sát đối trị, tất cả sự chấp trước đều xa rời.
Bồ Tát này nếu thấy những nghiệp nào bị đức Như Lai quở trách,
bị phiền não
nhiễm ô thời đều xa
lìa. Thấy những nghiệp nào được đức Như Lai
khen ngợi, thuận đạo Bồ Tát, thời đều tu
hành.
Chư Phật tử ! Bồ tát này tùy phát khởi huệ phương tiện đều tu tập đạo và trợ đạo. Vì vậy mà được tam
nhuận trạch, tâm
nhu nhuyến, tâm
điều thuận, tâm lợi ích an
lạc, tâm
không tạp nhiệm, tâm cầu pháp
thù thắng thượng thượng, tâm
cầu trí huệ thù thắng, tâm
cứu tất cả thế gian,
tâm cung kính bực Tôn Ðức không
trái lời dạy bảo, tâm
khéo tu hành nơi pháp
đã được nghe.
Bồ Tát này biết ơn, biết báo ơn, rất hòa
lành đồng ở an vui,
chất trực dịu dàng,
không tạp loạn, không
ngã mạn, khéo
lãnh lời dạy được lòng của người nói.
Bồ Tát này thành tựu nhẫn như vậy, thành
tựu điều như vậy, thành
tựu tịch diệt như vậy, thành
tựu nhẫn điều nhu tịch diệt như vậy, lúc
tác ý tu tập công hạnh của địa sau,
liền được tinh tấn không
thôi nghỉ, tinh tấn chẳng tạp nhiễm, tinh
tấn chẳng thối chuyển tinh tấn rộng lớn, tinh
tấn vô
biên, tinh tấn hẩy hừng, tinh
tấn vô đẳng đẳng, tinh
tấn vô
năng hoại, tinh
tấn thành
thục tất cả chúng
sanh, tinh tấn khéo phân
biệt là đạo hay
phi đạo.
Bồ Tát này tâm giới thanh
tịnh thâm
tâm chẳng mất, ngộ giải sáng
lành, thiện căn
tăng trưởng, lìa
cấu trược thế gian, dứt nghi lầm, đầy đủ minh
đoán, đầy đủ hỷ lạc, được chính
đức Phật hộ niệm nên vô
lượng chí
nguyện đều được thành
tựu.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở bực đệ tứ Phát Quang Ðịa này do
nguyện lực nên được thấy nhiều đức Phật, nhẫn đến thấy trăm
ngàn ức na do
tha đức Phật, đều kính
trọng, phụng thờ, cúng dường và
cũng cúng dường tất cả chúng
Tăng. Ðem thiện căn
này đều hồi hướng Vô thượng Chánh
giác. Ở chỗ Chư Phật cung
kính nghe pháp, nghe xong thọ trì tu
hành toàn vẹn. Rồi lại ở trong
pháp của đức Phật đó xuất gia tu
hành. Rồi lại tu tập thâm
tâm tín giải, trải qua vô
lượng trăm
ngàn ức na do
tha kiếp, cho
các căn lành càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví như thợ kim
hoàn luyện chơn kim
làm thành đồ trang sức, những kim
khí khác không thể sánh kịp.
Cũng vậy, đại Bô` Tát trụ bực Đệ Tứ Địa này có
bao nhiêu thiện căn,
những thiện căn của các bực dưới không
thể sánh kịp.
Như ma ni bửu thanh
tịnh hay
phóng quang minh, những châu
báu khác không thể sánh kịp, gió mưa không
làm hư được.
Cũng vậy, đại Bồ Tát trụ bực Đệ Tứ Địa này có bao nhiêu thiện căn,
những thiện căn của các bực dưới không
thể so sánh
kịp
Như ma ni bửu thanh
tịnh hay
phóng quang minh, những châu
báu khác không thể sánh kịp, gió mưa không
làm hư được.
Cũng vậy, Ðại bồ tát trụ bực Đệ Tứ Địa này, các bồ tát bực dưới không
thể sánh kịp,các ma
phiền não đều không
thể pháp hoại.
Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này
thiên nhiều về đồng sự,trong mười môn ba
la mật thiên
nhiều về tinh tấn. Với các
pháp môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức mà tu
tập.
Chư Phật tử ! đây là lược nói về bồ tát đệ tứ diệm huệ địa.
Bồ tát trụ bực này phần nhiều làm dạ ma
thiên vương.Dùng
thiện phương tiện hay trừ thân kiến các thứ phiền não
cho chúng sanh, khiến họ ở nơi chánh
kiến.
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngũ, lợi hành,
đồng sự thảy đều không
rời niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng,
nhẫn đến không
rời nhứt thiết chủng trí.
Bồ tát này lại nghĩ rằng :
trong tất cả chúng
sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là
thù thắng, là
diệu, là vi
diệu, là thượng là vô
thượng, nhẫn đến là bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí.
Bồ tát này nếu siêng
tinh tấn thời trong
khoảng một niệm được nhập ức số tam muội, được thấy ức số đức Phật, được biết thần lực của ức số đức Phật, hay
chấn động ức số thế giới, nhẫn đến hay thị hiện ức số thân Phật, mỗi mỗi thân
hiện ức số bồ tát làm
quyến thuộc. Nếu do
nguyện lực thù thắng thời bồ tát này
tự tại thị hiện hơn số trên
đây, trong trăm ngàn ức na do
tha kiếp chẳng tính
đếm mà biết được.
Kim cang tạng bồ tát muốn tuyên
lại nghĩa
này mà nói kệ rằng :
Bồ tát đã tịnh Đệ Tam Địa.
Kế quán chúng sanh, thế, pháp
giới,
Không giới, thức giới và tam
giới
Tâm hiểu thấu rõ hay thẳng vào.
Mới lên diệm địa thêm
thế lực
Sanh nhà như lai trọn bất thối
Với Phật, Pháp, Tăng tin sâu chắc
Quán pháp vô thượng và vô
sanh
Quán thế thành hoại, nghiệp có
sanh
Nghiệp có sanh tử, niết bàn
cõi
Quán tiền hậu tế cũng quán tận
Tu hành như vậy sanh
nhà Phật.
Ðược pháp náy rồi sanh
lòng từ
Càng thêm siêng tu tứ niệm xứ
Thân, thọ, tâm,
pháp, nội ngoại quán
Tham ái thế gian đều trừ dứt.
Bồ tát siêng tu tứ chánh cần
Dứt trừ pháp ác, thêm thiện pháp
Thần túc, căn, lực đều khéo
tu
Giác phần, chánh đạo cũng
tinh tấn.
Vì độ chúng tu trợ đạo
Từ bi làm trước, bổn nguyện gìn
Cầu nhứt thiết trí và Phật độ
Cũng nhớ thập lực của Như Lai
Tứ vô uý, thập bát bất cộng,
Tướng hảo trang nghiêm tiếng thâm
mỹ
Cũng cầu diệu đạo chỗ giải thoát
Và cộng hạnh tu hành đại phương tiện.
Thân kiến làm đầu sáu mươi hai
Ngã và ngã sở vô lượng thứ
Uẩn, xứ, giới thảy những chấp trước
Trong đệ tử địa lìa tất cả.
Như lai quở trách nghiệp phiền não
Là nhơn khổ hoạn đều dứt trừ,
Trí giả tu hành nghiệp thanh
tịnh
Vì độ chúng sanh tu tất cả.
Bồ tát siêng tu chẳng giải đãi.
Liền được đầy đủ cả mười tâm
Chuyên cầu Phật đạo chẳng mỏi nhàm
Chí mong thọ chức độ muôn loại.
Kính trọng Tôn Ðức tuân lời dạy
Biết ơn, dễ bảo không hờn giận
Bỏ mạn, lìa nịnh, lòng
dịu dàng
Lại thêm siêng năng chẳng thối chuyển.
Bồ Tát trụ bực Diệm Huệ này
Tâm Ngài thanh tịnh trọn không
mất
Ngộ giải quyết định, thêm căn lành
Lưới nghi uế trược đều dứt hết.
Bực Tứ Ðịa : tối thắng trong người
Cúng dường na do vô lượng Phật.
Ðược nghe chánh pháp cũng xuất gia
Không phá hoại được như vàng
thiệt.
Bồ Tát Tứ Ðịa đủ công đức
Dùng trí phương tiện tu đạo hạnh
Chẳng bị loài ma tâm thối chuyển
Ví như ma ni không hư hoại.
Tứ Ðịa thường làm Dạ Thiên Vương
Tự tại nơi pháp chúng tôn trọng
Ðộ khắp quần sanh trừ ác kiến
Chuyên cầu Phật trí tu
thiện nghiệp.
Bồ Tát càng thêm sức tinh tấn
Ðược chứng tam muội đều số ức
Nếu dùng nguyện lực tự tại làm
Quá hơn số ức không đếm được.
Như vậy Bồ Tát Diệm Huệ Ðịa
Diệu hạnh thanh tịnh đã thật hành
Công đức nghĩa trí cùng tương ưng
Vì chư Phật tử, tôi đã nói.
Ðại chúng được nghe Diệm Huệ Hạnh
Tỏ ngộ diệu pháp lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không khen ngợi rằng :
Lành thay Ðại Sĩ Kim Cang Tạng !
Tự tại Thiên Vương cùng Thiên chúng
Nghe pháp hớn hở trụ hư không
Khắp phóng những mây sáng vi diệu
Cúng dường Như Lai lòng vui đẹp.
Chúng Thiên nữ hòa tấu Thiên nhạc
Cũng dùng lời ca khen ngợi Phật,
Ðều do Bồ Tát sức oai thần
Trong tiếng đờn ca phát lời này :
Phật nguyện lâu xa nay mới đầy,
Phật đạo lâu xa nay mới được,
Thích Ca Mâu Ni đến Thiên cung
Ðấng Thiên Nhơn Sư nay mới thấy,
Ðại hải lâu xa nay mới động,
Phật quang lâu xa nay mới phóng.
Chúng sanh lâu xa mới an vui,
Tiếng đại từ bi lâu được nghe,
Hạnh Ba la mật đều đã đến
Kiêu mạn tối tăm đều đã trừ
Cùng tột thanh tịnh như hư không
Như hoa sen chẳng nhiễm thế pháp.
Ðấng Ðại Mâu Ni hiện ra đời
Ví như Tu Di vọi trên biển
Cúng Phật có thể dứt các khổ
Cúng dường tất được Như Lai trí,
Chỗ đây đáng cúng, không gì bằng
Thế nên hoan hỷ cúng dường Phật.
Vô lượng Thiên nữ như vậy thảy
Phát diệu âm thanh ca ngợi Phật
Tất cả cung kính rất vui mừng
Chiêm ngưỡng Như Lai, đứng yên lặng.
Bấy giờ Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Lại thỉnh Ðại Sĩ Kim Cang Tạng
Hành tướng của Ðệ Ngũ Ðịa kia
Mong đại Bồ Tát vì tuyên thuyết.
Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát đệ tứ Diệm Huệ Ðịa công hạnh đã khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ Nan Thắng Ðịa, phải dùng mười thứ tâm bình đẳng thanh tịnh.
Ðây là mười tâm :
Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp vị lai, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện tại, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với giới, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với tâm, tâm bình đẳng thanh tịnh dứt trừ kiến nghi hối, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo, tâm bình đẳng thanh tịnh tu hành tri kiến, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi thượng thượng quán sát tất cả pháp Bồ đề phần, tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất cả chúng sanh.
Ðại bồ tát dùng mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được vào bực đệ ngũ nan thắng địa.
Chư Phật tử ! Đại bồ tát đã an trụ bực Đệ Ngũ Địa do khéo tu pháp bồ đề phần, do khéo tịnh thâm tâm, do cầu thêm đạo thượng thắng, do tuỳ thuận chơn như, do nguyện lực chấp trì, do từ mẫn không bỏ tất cả chúng sanh, do chứa nhóm phước trí trợ đạo, do tinh tấn tu tập chẳng nghỉ, do xuất sanh phương tiện thiện xảo, do quán sát chiếu rõ các bực trên, do được như lai hộ niệm, do sức niệm trí chấp trì, mà được tâm bất thối chuyển.
Chư Phật tử ! đại bồ tát này biết như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật là khổ tập thánh đe,?đây là khổ diệt thánh đế, đây là diệt đạo đế.
Bồ tát này khéo biết tục đế, khéo biết tướng đế, khéo biết sai biệt đế, khéo biết thành lập đế, khéo biết sự đế, khéo biết sanh đế, khéo biết tận vô sanh đế, khéo biết nhập đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến khéo biết Như Lai trí thành tựu đế.
Bồ tát này vì tuỳ lòng sở thích của chúng sanh làm cho họ hoan hỷ nên biết tục đế. Vì thông đạt nhứt thiết tướng nên biết đệ nhứt nghĩa đế. Vì tỏ thấu tự tướng cộng tướng của các pháp nên biết tướng đế. Vì rõ phần vị sai biệt của các pháp nên biết sai biệt đế. Vì khéo phân biệt uẩn xứ giới nên thành lập đế. Vì tỏ ngộ các loài sanh tương tục nên biết sanh đế. Vì tất cả nhiệt não rốt ráo diệt nên biết tận vô sanh trí đế. Vì xuất sanh vô nhị nên biết nhập đạo trí đế. Vì chánh giác ngộ tất cả hành tướng nên biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến biết Như Lai trí thành tựu đế.
Ðây là dùng sức tín giải trí mà biết chẳng phải dùng sức cứu cánh trí.
Chư Phật tử! Ðại bồ tát này được các đế trí thời biết như thiệt tất cả pháp hữu vi hư vọng dối trá gạt phỉnh kẻ ngu, vì thế nên đối với tất cả chúng sanh càng tăng thêm quang minh
đại bi và
đại từ.
Chư Phật tử ! đại bồ tát được trí lực như vậy chẳng bỏ một chúng sanh, thường cầu Phật trí, quán sát như thiệt tất cả hạnh hữu vi về tiến tế và hậu tế : rõ biết từ tiền tế vô minh, ái, hữu mà sanh, do đây sanh tử lưu chuyển. Nơi các nhà ngũ uẩn không thể thoát ra, thêm lớn sự khổ, không ngã, không thọ giả, không gì kẻ dưỡng dục, không gì là kẻ luôn thọ lấy than loài sau, rời ngã và ngã sở.
Như tiền tế, hậu tế cũng như vậy. Đều là vô sở hữu, hư vọng tham trước, dứt hết thời được giải thoát. Hoặc có hoặc không điều biết như thiệt.
Chư Phật tử ! Ðại bồ tát này lại nghĩ rằng : hàng phàm phu này ngu si vô trí
thật là
đáng thương. Có
vô số thân đã
mất, nay mất, sẽ mất. Diệt mất như vậy mà chẳng thể đối với thân có quan niệm nhàm lìa, lại thêm lớn cơ quan khổ sở, theo dòng sanh tử chẳng trở lại được. Nơi những nhà ngũ uẩn chẳng cầu thoát khỏi, chẳng biết lo sợ bốn rắn độc lớn, không nhổ đượcnhững mũi tên kiêu mạn kiến chấp, không dập tắt được ngọn lưởi tham, sân, si, không phá tan được màn vô minh, không làm khô cạn được biển lớn ái dục. Họ chẳng biết cầu đấng đại thánh đạo sư đủ mười trí lực, mà vào trong rừng rậm ma ý. Ở trong biển sanh tử họ bị lượng sóng giác quán cuốn trôi nhận chìm.
Chư Phật tử ! Đại bồ tát này lại nghĩ rằng : những chúng sanh này thọ khổ như vậy, có cùng khốn đốn, không chỗ nương, không ai cứu, không đất, không nhà, không mắt, không người dẫn dắt. Họ bị vô minh che loà, màn tối chụp trùm.
Nay tôi vì họ mà tu hành những pháp trợ đạo phước trí. Ðơn độc pháp tâm chẳng cầu bè bạn. Ðem công đức này làm cho chúng sanh được rốt ráo thanh tịnh, nhẫn đến chứng được mười trí lực vô ngại của Như Lai.
Chư Phật tử ! Ðại bồ tát này dùng trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy, đều vì cứu hộ tất cả chúng sanh, lợi ích tất cả chúng sanh, thương xót tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh, thương xót tất cả chúng sanh, thành tựu tất cả chúng sanh, giải thoát tất cả chúng sanh nhiếp thọ tất cả chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh lìa những khổ não, khiến tất cả chúng sanh đều được thanh tịnh, khiến tất cả chúng sanh đều được điều phục, khiến tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn.
Chư Phật tử ! Ðại bồ tát an trụ bực đệ ngũ nan thắng địa, gọi là " niệm" là vì chẳng quên chánh pháp, gọi là " trí " là vì hay khéo
nói quyết rõ, gọi là " hữu trí" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp, gọi là " tàm quý" là vì hộ mình hộ người, gọi la "?kiên cố" là vì chẳng bỏ giới hạnh, gọi là "giác" là vì hay quán
sát thị xứ phi xứ, gọi là " tuỳ trí" là vì chẳng tuỳ nơi khác, gọi là " tuỳ huệ" là vì khéo biết câu sai biệt đúng nghĩa hay chẳng đúng nghĩa, gọi là " thần thông", là vì khéo tu thiền định, gọi là " phương tiện thiện xảo" là vì có thể thật hành theo thế gian, gọi là " vô yểm túc " là vì khéo chứa phước đức, gọi là " bất hưu tức " là vì thường cầu trí huệ, gọi là " bất bì quyện " là vì chứa đại từ bi, gọi là " siêng tu vì người " là vì muốn cho tất cả chúng sanh chứng nhập niết bàn, gọi là " cần cầu chẳng giải đãi" là vì cầu trí lực, vô uý, bất cộng pháp của Như Lai, gọi là " mống ý hay làm" là vì thành tựu trang nghiêm Phật độ, gọi là " siêng tu công hạnh lành" là vì hay đầy đủ tướng hảo, gọi là " thường siêng tu tập" là vì cầu trang nghiêm thân, ngữ, ý Như Lai, gọi là " rất tôn trọng cung kính phá" là vì đúng như lời dạy của tất cả đại bồ tát mà thật hành, gọi là " tâm không chướng ngại" là vì dùng đại phương tiện thường du hành thế gian, gọi là "ngày đêm xa lìa những tâm khác" là vì thích giáo hoá
chúng sanh.
Chư Phật tử ! Lúc đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy, dùng Bố thí để giáo hoá chúng sanh, dùng ái ngữ lợi hành và đồng sự để giáo hoá chúng sanh. Thị hiện sắc thân để giáo hoá chúng sanh, diễn thuyết các pháp để giáo hoá chúng sanh. Khai thị Bồ Tát hạnh để giáo hoá chúng sanh. Hiển thị lỗi lầm khổ sở của sanh tử để giáo hoá chúng sanh. Khen ngợi trí huệ lợi ích của Như Lai để giáo hoá chúng sanh. Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sanh. Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sanh. Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh. Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sanh
Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát này có thể siêng năng phương tiện như vậy để giáo hoá chúng sanh. Lòng luôn tương tục thẳng đến Phật trí. Thiện căn đã tu không hề thối chuyển. Thường siêng tu học những pháp hành thù thắng.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát này vì lợi ích chúng sanh nên gồm học tập tất cả kỹ nghệ thế gian, thông đạt cả những môn văn tự, toán số, đồ thơ, ấn loát, các sách luận về địa, thuỷ, hoả phong. Lại giỏi phương thuốc trị lành các bịnh : điên cuồng, càn tiêu, quỷ mị, cổ độc. lại giỏi những thứ văn bút, tấu vịnh, ca vũ, kỹ nhạc, diễu cười, đàm luận. Biết rành cách thức kiến thiết thành trì,thôn ấp,nhà cửa,vườn tược, suối ao, cây cỏ, hoa trái, dược thảo.Biết những nơi có mỏ vàng, bạc, châu, ngọc. Giỏi xem biết rành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim hót, địa chấn, chiêm bao tốt xấu, thân tướng sang hèn. Những môn trì giới, nhập thiền định,vô lượng thần thông, tứ vô sắc và tất cả việc thế gian khác, nếu là những sự không làm tổn chúng sanh mà đem lại lợi ích thời đều khai thị cho họ,lần đưa họ đến Phật pháp vô thượng.
Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ bực Nan thắng này, do nguyện lực được thấy nhiều Ðức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha đức Phật, đều kính trọng cúng dường,cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề. nơi Chư Phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì tuỳ sức tu hành. Sau đó xuất gia lại nghe Phật pháp được đà la ni làm qua trăm kiếp nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp, những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! ví như chơn kim dùng ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm sáng sạch.
Cũng vậy, Bồ Tát này dùng Phương tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Bồ Tát trụ bực nan thắng địa dùng tiện trí thành tựu công đức,những thiện căn của bực dưới không thể sánh kịp.
Chư Phật tử ! như mặt trời mặt trăng cung điện quang minh do sức gió chấp trì nên không bị chướng ngăn phá hoại, cũng chẳng phải sức gió khác làm khuynh động được.
Cũng vậy, những thiện căn của bực Bồ Tát này, do phương tiện trí theo dõi quán sát nên không bị ngăn hoại, cũng chẳng phải thiện căn của tất cả độc giác, thanh văn và thế gian làm khuynh động được.
Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về thiền ba la mật, với các môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức.
Chư Phật tử ! đây là lược nói về đệ ngũ nan thắng địa Bồ Tát.
Bồ Tát ở bực này thường làm đâu suất thiên vương. Ðối với chúng sanh đều được tự tại.Dẹp trừ tất cả ngoại đạo tà kiến, có thể làm cho chúng sanh trụ trong thiệt đế.
Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : Tôi sẽ ở trong chúng sanh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm vô thượng nhẫn đến làm bực y chỉ của nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được ngàn ức tam muội,thấy ngàn ức Ðức Phật, biết thần lực của ngàn ức Ðức Phật,có thể chấn động ngàn ức thế giới,nhẫn đến thị hiện ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân hiện ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc.
Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn vô số trên đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :
Bồ Tát Tứ Địa đã thanh tịnh
Tư duy tam thế Phật bình đẳng
Giới, tâm, trừ nghi, đạo phi đạo,
Quán sát như vậy vào Ngũ Địa.
Niệm xứ làm cung, căn làm tên.
Chánh cần làm ngựa, xe : thần túc,
Giáp sắt ngũ lực phá oán địch,
Mạnh mẽ bất thối vào Ngũ Địa,
Tàm quý y phục, hoa giác phần
Tịnh giới y phục, hoa giác phần
Tịnh giới làm hương, thiền hương thoa
Trí huệ phương tiện diệu trang nghiêm
Vào rừng tổng trì, vườn tam muội.
Như ý làm chân, cổ chánh niệm,
Từ bi làm mắt, răng trí huệ,
Ðấng sư tử vô ngã rống vang động.
Phá giặc phiền não vào Ngũ Địa
Bồ Tát trụ bực Đệ Ngũ này
Chuyển tu thắng thượng đạo thanh tịnh
Chí cầu Phật pháp chẳng thối chuyển
Gẩm nhớ từ bi không nhàm mõi.
Chứa nhóm phước trí thắng công đức
Tinh tấn phương tiện quán bực trên
Phật lực gia hộ đủ niệm huệ
Rõ biết tứ đế như thiệt.
Khéo biết thế đế, thắng nghĩa đế
Tướng đế, sai biệt thành lập đế,
Sự đế, sanh, tận và đạo đế.
Nhẫn đến Như Lai vô ngại đế.
Quán đế như vậy đầu vi diệu
Chưa được vô ngại thắng giải thoát.
Do đây hay sanh thắng công đức.
Cho nên vượt hơn thế trí huệ.
Ðã quán đế rồi biết hữu vi.
Thể tánh hư dối không bền chắc
Ðược phần từ quang của chư Phật
Vì lợi chúng sanh cầu Phật trí.
Quán pháp hữu vi thuở trước sau
Vô minh tối tăm, ái ràng buộc
Lưu chuyển xoắn trong quả khổ
Không ngã, không nhơn, không thọ mạng.
Ái thủ làm nhơn thọ khổ sau
Muốn tìm ngằn mé không thể được,
Mê vọng trôi chìm không thuở về
Bọn này đáng thương tôi phải độ.
Nhà : uẩn, rắn : cõi, mũi tên : chấp
Tâm hoả hừng hực, si tối nặng
Sông ái cuốn trôi chẳng rảnh xem
Biển khổ dật dờ không người dắt.
Rõ biết như vậy siêng tinh tấn
Chỗ làm đều vì độ chúng sanh
Gọi là người có niệm có huệ
Nhẫn đến có giác giải phương tiện.
Tu tập phước trí không nhàm đủ
Cung kính đa văn chẳng mõi nhàm
Cõi nước tướng hảo đều trang nghiêm
Như vậy đều ví chúng sanh cả
Vì muốn giáo hoá các thế gian
Giỏi biết thơ số cách ấn loát
Và cũng biết rành các phương thuốc
Chữa trị bịnh tật đều được lành.
Văn từ, ca vũ đều khéo giói
Nhà cửa,vườn ao đều an ổn.
Mỏ vàng, bạc ngọc đều phát hiện
Vô lượng chúng sanh nhờ lợi ích.
Nhựt, nguyệt, tinh tú và địa chấn
Nhẫn đến thân tướng cũng quán sát
Tứ thiền,vô sắc và thần thông
Vì lợi thế gian đều hiển thị.
Trí giả trụ bực Nan Thắng này
Cúng vô lượng Phật và nghe pháp
Như dùng diệu bửu trau chơn kim
Thiện căn đã có càng sáng sạch.
Ví như tinh tú ở hư không
Phong lực chấp trì không tổn động.
Cũng như hoa sen không dính nước
Bồ Tát độ đời cũng như vậy.
Bực này thường làm đâu suất vương
Hay dẹp ngoại đạo các Phật trí
Nguyện được thập lực độ tận chúng sanh
Ngài tu hành đại tinh tấn
Liền được cúng dường ngàn ức Phật
Ðắc định, động cõi cũng ngàn ức
Nếu là nguyện lực lại hơn đây.
Bồ Tát đệ ngũ nan thắng địa
Chơn đạo tối thượng trong nhơn gian
Tôi cùng các môn phương tiện lực
Vì Chư Phật đã tuyên thuyết.
Comments
Post a Comment