Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 23
PHẨM ĐÂU SUẤT KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI
BỐN
Lúc đó do thần lực của Ðức Phật, Mười Phương ngoài vạn Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có một đại Bồ Tát cùng vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội :
Kim Cang Tràng Bồ Tát từ Diệu Bửu thế giới của Ðức Phật Vô Tận Tràng;
Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ Diệu Lạc thế giới của Ðức Phật Phong
Tràng; Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát từ Diệu Ngân thế giới của Ðức Phật Giải Thoát Tràng; Quang Minh Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim thế giới của Ðức Phật oai Nghi
Tràng; Trí Tràng Bồ Tát từ Diệu Ma Ni thế giới của Ðức Phật Minh Tường Tràng; Bửu Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim Cang
thế giới của Ðức Phật Thường Tràng; Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ Diệu Ba Ðầu Ma thế giới của Ðức Phật Tối Thắng Tràng; Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ Diệu Ưu Bát La thế giới của Ðức Phật Tự Tại Tràng; Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ Diệu Chiên Ðàn thế giới của Ðức Phật Phạm Tràng; Pháp Tràng Bồ Tát từ Diệu Hương thế giới của Ðức Phật Quan Sát
Tràng.
Chúng Bồ Tát khi đến trước Ðức Phật và đảnh lễ Phật xong, tùy theo phương của mình đến, đều hóa hiện tòa sư tử Diệu Bửu Tạng rồi ngồi kiết già trên đó.
Thân của chư Bồ Tát đều phóng
trăm ngàn ức na do tha
vô số quang minh
thanh tịnh cùng đại nguyện rời lìa những lỗi ác mà phát khởi, hiển thị pháp tự tại thanh tịnh của tất cả Phật.
Bởi chư Bồ Tát có nguyện lực có thế cứu hộ khắp tất cả chúng sanh, tất cả thế gian đều thích thấy. Ai thấy Bồ Tát đều được lợi ích được điều phục.
Chúng Bồ Tát này đều đã thành tựu vô lượng công đức. Những là đi khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại, thấy pháp thân
thanh tịnh không nương đỗ, dùng trí huệ thân hiện vô lượng thân, đến khắp Mười Phương phụng thờ Chư Phật, vào nơi vô lượng vô biên
bất tư nghì pháp tự tại của Chư Phật, trụ nơi vô lượng môn Nhất thiết trí, dùng trí quang minh khéo rõ các pháp, ở trong các pháp được vô úy biện tài thuyết pháp vộ tận, dùng đại trí huệ khai môn tổng trì, huệ nhãn thanh tịnh thâm nhập pháp giới cảnh giới trí huệ không ngằn mé, rốt ráo thanh
tịnh như hư không.
Tất cả Ðâu Suất Thiên cung trong thập phương thế giới đều có chư Bồ Tát đồng số lượng, đồng danh hiệu, thế giới và Chư Phật cũng đồng như nơi đây cả.
Bấy giờ đức Thế Tôn từ hai gối phóng trăm ngàn ức na do tha quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới.
Chúng Bồ Tát ở các cõi kia đều thấy thần biến của Ðức Phật ở đây. Chúng
Bồ Tát ở cõi đây đều thấy biến của tất cả Chư Phật kia.
Tất cả chúng Bồ Tát như vậy, cùng với đức Tỳ Lô Giá
Na Như Lai, từ thuở xưa, đồng trồng căn lành tu Bồ Tát hạnh, đều đã ngộ nhập thậm thâm giải thoát tự tại của Chư Phật, được pháp giới thân bình đẳng, vào tất cả thế giới mà vô trụ, thấy vô lượng Phật đều qua kính thờ, trong một niệm đi khắp pháp giới tự tại vô ngại, tâm ý thanh tịnh như bửu châu vô giá, vô lượng vô số Chư Phật thường hộ niệm và đồng ban cho thần lực, đến nơi bờ rốt ráo đệ nhứt kia luôn dùng tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm luôn vào chỗ Nhứt thiết trí, đem nhỏ vào lớn, đem lớn vào nhỏ đều tự tại, thông đạt vô ngại đã được Phật thân,
cùng Phật đồng an trụ, được Nhứt thiết trí, từ Nhứt thiết trí mà sanh ra thân, đều có thể theo vào
chỗ sở hành của tất cả Như Lai mà khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ, đến bờ Kim Cang
tràng đại trí kia,
được Kim Cang
định dứt các điều nghi hoặc, đã được tự tại thần thông của Chư Phật, vào khắp tất cả quốc độ mười phương, giáo hóa điều phục trăm ngàn muôn ức vô số chúng sanh,
dầu không
tham trước nơi tất cả số lượng mà có thể tu học thành tựu cứu cánh, phương tiện an lập các pháp.
Trăm ngàn ức na do tha
bất khả thuyết vô lượng tạng công đức thanh tịnh vô tận như vậy, chúng Bồ Tát này đều được thành tựu.
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát
khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Như Lai chẳng xuất thế
Cũng chẳng nhập Niết Bàn
Dùng sức bổn nguyện lớn
Thị hiện pháp tự tại.
Pháp này khó nghĩ bàn
Tâm không duyên đến được
Trí huệ đến bời kia
Mới thấy cảnh giới Phật.
Sắc thân chẳng phải Phật.
Âm thinh cũng chẳng phải
Nhưng chẳng lìa sắc, thinh
Thấy thần lực của Phật.
Trí kém chẳng biết được.
Cảnh giới thiệt của Phật
Tu hạnh thanh tịnh lâu
Mới thấy được cảnh Phật.
Chánh giác không chỗ lại
Ði cũng chẳng từ đâu
Sắc thân diệu thanh tịnh
Do thần lực hiển hiện.
Trong vô lượng thế giới
Thị hiện thân Như Lai
Nói rộng pháp vi
diệu
Trong tâm không trụ trước.
Trí huệ không ngằn mé
Rõ thấu tất cả pháp
Vào khắp các pháp
giới
Thị hiện sức tự tại.
Chúng sanh và các pháp
Rõ thấu đều vô ngại
Khắp hiện các sắc tượng
Cùng khắp tất cả cõi.
Muốn cầu Nhứt thiết trí
Chóng thành Vô Thượng Giác
Phải dùng tâm
tịnh diệu
Tu tập hạnh Bồ đề.
Nếu ai thấy Như Lai
Oai thần lực như vậy.
Nơi đức Tối Thắng Tôn
Nên cúng dường chớ nghi.
Kiên Cố Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Phật tối thắng vô tỷ
Rất sâu bất khả thuyết
Vượt khỏi đường ngôn ngữ
Thanh tịnh như hư không.
Quán sát đấng Ðạo Sư
Sức tự tại thần thông
Ðã lìa nơi phân biệt.
Mà khiến phân biệt thấy.
Ðức Phật vì khai diễn
Pháp vi diệu thậm thâm
Vì do nhơn duyên ấy
Hiện thân vô tỷ này.
Ðây là chỗ Chư Phật
Ðại trí huệ sở hành
Nếu ai muốn biết rõ
Phải nên gần gũi Phật.
Ý nghiệp thường thanh tịnh
Cúng dường chư Như Lai
Trọn không lòng
mỏi nhàm
Hay vào nơi Phật đạo.
Ðủ vô tận công đức
Trụ chắc tâm Bồ đề.
Do đây trừ lưới nghi
Quán Phật không
nhàm mỏi.
Thông đại tất cả Pháp
Mới phải chơn Phật tử
Người này rõ biết được
Sức tự tại Chư Phật.
Trí quảng đại đã nói
Làm căn bổn các pháp
Nên sanh lòng hy vọng
Chí cầu Vô Thượng Giác.
Nếu ai tôn
kính Phật
Nhớ báo đáp ơn Phật
Người đó chẳng xa lìa
Chỗ an trụ của Phật.
Ðâu có người trí huệ
Nơi Phật thường thấy nghe
Chẳng tu nguyện thanh tịnh
Nơi đường Phật đã đi ?
Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Ví như mắt tỏ sáng
Ban ngày thấy hình sắc
Tâm thanh tịnh cũng vậy
Nhờ Phật lực thấy Phật.
Như dùng sức tinh tấn
Hay tột nguồn đáy biển
Trí lực cũng như vậy
Thấy được vô lượng Phật.
Ví như ruộng phì nhiêu
Gieo trồng tất tươi tốt
Tâm thanh tịnh như vậy
Xuất sanh các
Phật pháp.
Như người được bửu tạng
Lìa hẳn khổ nghèo cùng
Bồ Tát được Phật pháp
Tâm ly cấu thanh tịnh.
Ví như thuốc Già đà
Tiêu được tất cả độc
Phật pháp dùng
như vậy
Diệt các hoạn phiền não.
Chơn thiệt thiện tri thức
Hạng Như Lai ngợi khen
Vì do oai thần kia
Ðược nghe những Phật pháp.
Giả sử vô số kiếp
Của báu cúng
dường Phật.
Chẳng biết Phật thiệt tướng
Cũng chẳng gọi cúng dường.
Vô lượng những hình sắc
Trang nghiêm nơi thân Phật.
Chẳng phải trong hình sắc
Mà thấy được Ðức Phật.
Như Lai Ðẳng Chánh Giác
Tịch nhiên hằng bất động
Có thể khắp hiện thân
Ðầy khắp mười phương cõi.
Ví như hư không giới
Bất sanh cũng
bất diệt
Phật pháp cũng
như vậy
Rốt ráo không
sanh diệt.
Quang Minh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Nhơn gian và
Thiên thượng
Tất cả các thế giới
Khắp thấy đức Như Lai
Sắc thân diệu thanh tịnh.
Ví như một tâm niệm
Hay sanh các thứ tâm
Như vậy một Phật thân
Khắp hiện tất cả Phật.
Bồ đề không hai pháp
Cũng không có các tướng
Mà ở trong hai
pháp
Hiện thân tướng trang nghiêm.
Rõ pháp tánh không tịch
Sanh khởi như huyễn hóa
Sở hành luôn
vô tận
Ðạo Sư hiện như vậy.
Tam thế tất cả Phật
Pháp thân đều thanh tịnh
Tùy kia chỗ đáng độ
Khắp hiện diệu sắc thân.
Như Lai chẳng nghĩ rằng
Ta hiện thân như vậy
Tự nhiên mà
thị hiện
Chưa từng có phân biệt.
Pháp giới không sai
biệt.
Cũng không chỗ tựa nương
Mà ở trong thế gian
Thị hiện vô lượng thân.
Phật thân chẳng phải hóa
Cũng chẳng phải chẳng hóa
Nơi trong
pháp không hóa
Thị hiện thân biến hóa
Chánh giác chẳng lường được
Ðồng pháp giới hư không
Sâu rộng không bờ đáy
Ðường ngôn ngữ tuyệt hẳn.
Như Lai khéo
thông đạt
Tất cả xứ hành đạo
Pháp giới các quốc độ
Qua đến đều vô ngại.
Trí Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát
khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Nếu người tin thọ được
Nhứt thiết trí vô ngại
Tu tập hạnh Bồ đề
Tâm đó chẳng thể lường.
Trong tất cả quốc độ
Khắp hiện vô lượng thân
Mà thân không chỗ ở
Cũng chẳng trụ nơi pháp.
Mỗi mỗi chư Như Lai
Thần lực thị hiện thân
Bất tư nghì kiếp số
Tính đếm chẳng hết được.
Tam thế các chúng
sanh
Trọn biết được số lượng
Việc thị hiện của Phật
Số lượng chẳng thể được.
Có lúc hiện một hai
Nhẫn đến vô lượng thân
Hiện khắp mười phương cõi
Thiệt ra không
hai thứ.
Ví như trăng tròn
sáng
Hiện khắp các dòng nước
Bóng hình dầu vô lượng
Mặt trăng vẫn không hai.
Trí vô ngại như vậy
Thành tựu bực Chánh Giác.
Hiện khắp tất cả cõi
Phật thể cũng không hai.
Chẳng một cũng chẳng hai.
Cũng chẳng phải vô lượng
Tùy chỗ đáng hóa độ
Thị hiện vô lượng thân.
Phật thân chẳng quá khứ
Cũng chẳng phải vị lai.
Một niệm hiện xuất sanh
Thành đạo và Niết Bàn.
Hiện hình sắc như huyễn
Không sanh cũng không khởi
Phật thân cũng
như vậy
Thị hiện không có sanh.
Bửu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát
khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Phật thân vốn vô lượng
Thiện hiện thân hữu lượng
Tùy chúng chỗ nân thấy
Ðạo Sư hiện như vậy.
Phật thân
không nơi chỗ
Ðầy khắp tất cả chỗ
Như hư không vô biên
Khó nghĩ bàn như vậy.
Chẳng phải chỗ tâm duyên
Tâm chẳng khởi trong đó
Trong cảnh giới Chư Phật
Rốt ráo không
sanh diệt.
Như mắt lòa xem thấy
Chẳng trong
cũng chẳng ngoài
Thế gian thấy Chư Phật
Phải biết cũng như vậy.
Vì lợi ích chúng
sanh.
Nên Phật hiện ra đời
Chúng sanh thấy có hiện
Thiệt thì không
có hiện.
Chẳng thể dùng quốc độ
Ngày đêm mà thấy Phật
Năm tháng một sát na
Phải biết đều như vậy.
Chúng sanh nói như vậy
Ngày đó Phật thành đạo
Như Lai được Bồ đề.
Thiệt chẳng thuộc thời gian.
Như Lai lìa
phân biệt
Rời thời gian, không gian
Tam thế chư Như Lai
Xuất hiện đều như vậy.
Ví như mặt trời sáng
Chẳng hiệp cùng đêm tối
Mà nói ngày đêm ấy
Phật pháp đều như vậy.
Tam thế tất cả kiếp
Chẳng cùng Như Lai hiệp
Mà nói tam thế Phật
Phật pháp đều như vậy.
Tinh tấn Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả các Ðạo Sư
Thân đồng nghĩa
cũng đồng
Khắp cả mười phương cõi
Tùy nghi mà thị hiện.
Quan sát đấng Mâu Ni.
Chỗ làm rất kỳ đặc.
Ðầy khắp cả pháp giới
Tất cả đều không thừa.
Phật thân chẳng ở trong
Cũng chẳng ở nơi ngoài
Thần lực nên hiển hiện
Ðạo Sư pháp như vậy.
Theo các loài chúng sanh.
Nghiệp đã họp đời trước
Những loại thân như vậy.
Thị hiện đều chẳng đồng.
Thân Chư Phật như vậy
Vô lượng chẳng đếm được
Chỉ trừ đấng Ðại Giác
Không ai nghĩ bàn được.
Như ngã nan tư kia
Tâm nghiệp chẳng đến được
Phật nan tư cũng vậy
Chẳng phải tâm nghiệp hiện.
Như quốc độ nan tư
Mà thấy tịnh trang nghiêm
Phật nan tư cũng vậy
Diệu tướng đều hiện đủ.
Ví như tất cả pháp
Do các duyên sanh khởi
Thấy Phật cũng như vậy
Tất nhờ ác thiện nghiệp.
Ví như châu như ý
Hay thoả mãn lòng
chúng
Chư Phật pháp như vậy
Thỏa mãn tất cả nguyện.
Trong vô lượng quốc độ.
Ðạo Sư hiện ra đời
Vì tùy theo nguyện lực
Ứng hiện khắp mười phương
Ly Cấu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Như-Lai đại trí-quang
Thanh-tịnh khắp thế gian
Thế-gian đã
thanh tịnh
Khai-thị các phật-pháp
Như có người muốn thấy
Phật đồng số chúng sanh
Đều ứng như tâm kia
Mà thiệt không chỗ đến.
Dùng Phật làm cảnh-giới
Chuyên niệm mà chẳng dứt
Người này được thấy Phật
Số đó cùng
tâm đồng.
Thành-tựu pháp lành
trong
Đầy đủ các công đức
Đối với nhứt-thiết-trí
Chuyên niệm tâm chẳng bỏ.
Đạo-sư vì chúng sanh
Tùy nghi mà thuyết pháp
Theo chỗ đáng hóa độ
Khắp hiện thân tối-thắng.
Phật thân và
thế gian
Tất cả đều vô ngã
Ngộ đây thành
chánh-giác
Lại đem dạy chúng-sanh.
Tất cả đấng Như-Lai
Vô-lượng sức tự-tại
Hiện thân đồng tâm niệm
Thân ấy đều chẳng đồng.
Thế-gian thân
như vậy
Chư Phật thân cũng vậy
Rõ biết tự-tánh kia
Đây thời nói là Phật.
Như-Lai thấy biết khắp
Thấu rõ tất cả pháp
Phật-pháp và Bồ-đề
Cả hai bất-khả-đắc.
Đạo-Sư không lai khứ
Cũng lại không sở trụ.
Xa lìa các điên đảo
Đây hiệu Đẳng-Chánh-Giác.
Tinh-Tú-Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Như Lai không
sở trụ
Mà trụ tất cả cõi
Tất cả cõi đều qua
Tất cả nơi đều thấy,
Phật tùy tâm chúng
sanh
Hiện khắp tất cả thân
Thành đạo chuyển Pháp luân
Và cùng nhập Niết Bàn.
Chư Phật bất tư nghì
Ai tư nghì được Phật.
Ai thấy được Chánh Giác.
Ai hiện được tối thắng.
Tất cả pháp đều "Như"
Cảnh giới Phật cũng vậy.
Nhẫn đến không một pháp
Trong "Như" có
sanh diệt.
Chúng sanh vọng phân biệt.
Là Phật là thế giới
Người liễu đạt pháp tánh
Không Phật không thế giới.
Như Lai khắp hiện tiền
Khiến chúng
sanh tin mừng
Phật thể bất khả đắc.
Cũng lại không sở kiến.
Nếu được nơi thế gian
Trọn xa lìa chấp trước
Vô ngại lòng hoan
hỷ
Nơi pháp được khai ngộ.
Thần lực tự tại hiện
Chính đây gọi là Phật
Trong tất cả thế giới
Tìm cầu trọn không có.
Nếu biết được như vậy
Tâm ý và các pháp
Thấy biết trọn tất cả
Chóng được thành Như Lai,
Trong ngôn ngữ hiển thị
Tất cả Phật tự tại
Chánh giác siêu ngôn ngữ
Giả mượn ngôn ngữ nói.
Pháp Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát
khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Thà nên luôn thọ đủ
Tất cả khổ thế gian
Trọn chẳng xa Như Lai
Chẳng rời đấng Tự Tại.
Nếu có những chúng sanh
Chưa phát tâm
Bồ đề
Ðược nghe danh
hiệu Phật
Quyết định thành Chánh Giác.
Nếu có bực trí huệ
Một niệm phát đạo tâm
Quyết thành đấng Vô thượng
Cẩn thận chớ sanh nghi.
Như Lai đấng Tự Tại
Vô lượng kiếp khó gặp
Nếu sanh một niệm tin
Mau chứng đạo Vô thượng.
Giả sử trong mỗi niệm
Cúng dường vô lượng Phật
Chưa biết pháp chơn thật
Chẳng gọi là cúng dường.
Nếu nghe pháp
như vậy
Chư Phật từ đây sanh
Dầu bị vô lượng khổ
Chẳng bỏ hạnh Bồ đề,
Một lần nghe đại trí
Pháp sở nhập của Phật
Khắp ở trong pháp giới
Thành tam thế Ðạo Sư,
Dầu tận vị lai tế
Ði khắp các cõi
Phật
Chẳng cầu diệu pháp này
Trọn chẳng thành Bồ đề.
Chúng sanh vô thủy lại
Mãi lưu chuyển sanh tử
Chẳng rõ pháp
chơn thật
Nên Chư Phật ra đời.
Các pháp chẳng thể hoại
Cũng không ai hoại được
Tự tại đại quang minh
Hiện khắp nơi thế gian.
PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật nhập Bồ Tát trí
quang tam muội.
Nhập tam muội này rồi, mười phương đều quá mười vạn Phật sát vi
trần số thế giới, có mười vạn Phật sát vi
trần số Phật đồng một hiệu Kim
Cang Tràng hiện ra trước Bồ Tát mà
đồng khen
rằng :
Lành thay ! Ông có thể nhập Bồ Tát trí
quang tam muội này !
Thiện nam tử ! Ðây là mười phương đều mười vạn Phật sát vi
trần số Chư Phật dùng
thần lực cùng
gia hộ ông. Mà
cũng là oai lực bổn nguyện của đức Tỳ Lô
Giá Na Như Lai. Và
vì ông được trí huệ thanh tịnh, cùng
chư Bồ Tát thiện căn
tăng thắng, khiến ông nhập tam muội này để thuyết pháp.
vì khiến chư Bồ Tát được thanh
tịnh vô
úy, vì để đủ vô ngại biện tài,
vì nhập trí địa vô ngại, vì trụ đại tâm Nhứt thiết trí,
vì thành tựu vô tận thiện căn,
vì đầy đủ pháp
lành vô ngại, vì nhập phổ môn
pháp giới, vì hiện thần lực tất cả Phật, vì niệm trí về thời quá khứ chẳng dứt, vì được tất cả Phật hộ trì các
ăn, vì dùng vô lượng môn
nói rộng các
pháp, vì nghe rồi trọn hiểu rõ thọ trì chẳng quên,
vì nhiếp tất căn
lành của chư Bồ Tát, vì
trọn nên những pháp
trợ đạo xuất thế, vì chẳng dứt Nhứt thiết chủng trí,
vì khai phát đại nguyện, vì giải thích
thiệt nghĩa,
vì rõ biết pháp
giới, vì
khiến chư Bồ Tát đều trọn hoan hỷ, vì tu
tất cả Phật bình đẳng thiện căn,
vì hộ trì
chúng tánh Phật.
Sẽ diễn thuyết pháp gì ? Chính là diễn nói Thập Hồi Hướng của chư Bồ Tát vậy.
Thiện nam tử ! Ông nên thừa thần lực của Phật mà diễn pháp ấy, vì để được Phật hộ niệm, vì an
trụ nhà Phật, vì
thêm lớn công đức xuất thế, vì được đà la
ni quang minh, vì nhập Phật pháp
vô ngại, vì đại quang
chiếu khắp pháp
giới, vì hợp pháp
thanh tịnh không
lỗi, vì trụ cảnh giới trí quảng đại, vì được pháp
quang vô ngại.
Chư Phật liền ban cho Kim Cang Tràng Bồ Tát vô
lượng trí
huệ cùng vô
ngại biện, ban
cho thiện phương tiện phân
biệt cú
nghĩa, ban cho pháp quang minh vô ngại, ban cho thân Như Lai
bình đẳng, ban
cho vô lượng âm
thinh thanh tịnh sai
biệt, ban
cho Bồ Tát bất tư nghì
thiện quán
sát tam muội, ban
cho thiện căn hồi hướng trí
kiên cố, ban
cho quan sát Nhứt thiết pháp
thành tựu xảo phương tiện, ban
cho biện tài ở tất cả chỗ, thuyết tất cả pháp vô
đoạn.
Tại sao vậy ? vì do sức căn
lành nhập tam muội này từ được như vậy.
Chư Phật đều đưa tay hữu xoa đảnh Kim Cang Tràng Bồ Tát.
Ðược Chư Phật xoa đảnh xong, Kim Cang Tràng Bồ Tát xuất định nói với chúng
Bồ Tát rằng :
"Thưa Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có
đại nguyện bất tư nghì đầy khắp pháp
giới cứu hộ đuợc tất cả chúng
sanh. Chính là tu học tam thế Chư Phật hồi hướng.
Thưa Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát hồi hướng có mấy thứ ?
Ðại Bồ Tát hồi hướng có mười thứ sau đây, tam thế Chư Phật đồng diễn thuyết :
Một là Cứu hộ tất cả chúng sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng.
Hai là Bất hoại hồi hướng.
Ba là Ðẳng nhứt thiết Chư Phật hồi hướng.
Bốn là Chí nhứt thiết xứ hồi hướng.
Năm là Vô tận công đức tạng hồi hướng.
Sáu là Nhập nhứt thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng.
Bảy là Ðẳng tùy thuận nhứt thiết chúng
sanh hồi hướng.
Tám là Chơn như tướng hồi hướng.
Chín là Vô phược, Vô trước giải thoát
hồi hướng.
Mười là Nhập pháp giới vô lượng hồi hướng.
Thưa Chư Phật tử ! Thế nào là đại Bồ Tát cứu hộ nhứt thiết chúng
sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng ?
Ðại Bồ Tát này thật hành
Ðàn Ba la mật, thanh
tịnh Thi
Ba la mật, tu Nhẫn nhục Ba la
mật, khởi Tinh tấn Ba la
mật, nhập Thiền Ba la
mật, trụ Bát nhã
Ba la mật, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, tu vô
lượng thiện căn như vậy.
Lúc tu thiện căn tự nghĩ rằng :
Nguyện những thiện căn
này có thể khắp lợi ích tất cả chúng
sanh đều làm
cho thanh tịnh đến nơi rốt ráo,
lìa hẳn vô lượng khổ não Ðịa ngục, Ngạ qủy, Súc
sanh, Diêm La Vương v.v…
Ðại Bồ Tát lúc trồng thiện căn,
đem thiện căn của mình hồi hướng như vầy : Tôi
sẽ làm nhà
cho tất cả chúng
sanh để họ khỏi tất cả sự khổ; tôi sẽ làm chỗ cứu hộ của tất cả chúng
sanh khiến họ đều được giải thoát
phiền não;
tôi sẽ làm chỗ quy y của tất cả chúng
sanh khiến họ đều được lìa sự bố úy; tôi
sẽ làm chỗ xu hướng của tất cả chúng
sanh khiến họ được đến nơi Nhứt thiết trí;
tôi sẽ làm chỗ an ỗn cho tất cả chúng
sanh khiến họ được chỗ an ổn rốt ráo;
tôi sẽ làm ánh
sáng cho tất cả chúng
sanh khiến họ được trí
quang diệt si ám;
tôi sẽ làm ngọn đuốc cho tất cả chúng
sanh để phá tất cả tối vô
minh cho họ; tôi sẽ làm đèn
cho tất cả chúng
sanh khiến họ an trụ nơi rốt ráo
thanh tịnh; tôi
sẽ là Ðạo Sư cho tất cả chúng
sanh dẫn dắt họ vào
pháp chơn thật; tôi sẽ làm đại Ðạo Sư của tất cả chúng
sanh ban cho họ trí huệ lớn vô ngại.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, bình
đẳng lợi ích tất cả chúng
sanh, rốt ráo đều khiến được Nhứt thiết trí.
Ðại Bồ Tát lợi ích hướng cho hàng chẳng phải thân hữu đồng như đối với hàng
thân hữu của mình.
Vì đại Bồ Tát đã
nhập tánh
bình đẳng của tất cả pháp, với các chúng
sanh không có một quan
niệm là chẳng phải thân hữu. Giả sử có
chúng sanh nào đem lòng oán hại Bồ Tát, Bồ Tát này
cũng vẫn thương mến họ trọn không
hờn giận.
Bồ Tát này làm thiện tri thức cho khắp tất cả chúng
sanh, đem chánh pháp diễn thuyết khiến họ tu tập.
Ví như biển cả, tất cả chất độc, không làm biến hoại được.
Bồ Tát này cũng vậy. Tất cả kẻ ngu
mông vô trí, vô ân, sân độc, kiêu
mạn, mê tối không
biết pháp
lành, những kẻ ác này
đủ cách
làm bức hại vẫn không
làm động loạn tâm Bồ Tát này
được.
Ví như mặt nhựt hiện ra thế gian, chẳng do vì
kẻ sanh
manh kia mà lại ẩn đi
không sáng. Lại cũng
chẳng vì sương mù,
tay A Tu La, cây Diêm phù đề, gộp cao,
hang sâu, bụi khói
mây mù che chướng mà ẩn đi
không sáng. Lại cũng
chẳng vì thời tiết biến đổ mà ẩn đi
không sáng.
Ðại Bồ Tát cũng như vậy. Có phước đức lớn, tâm
sâu rộng chánh
niệm quán
sát không thối khuất. Vì muốn rốt ráo
công đức trí huệ nên đối với pháp
thắng thượng lập chí
nguyện pháp
quang chiếu khắp thấy tất cả nghĩa,
nơi các
pháp môn trí huệ tự tại, thường vì lợi ích
chúng sanh mà tu pháp lành, chẳng bao
giờ lầm sanh
lòng tổn hại chúng
sanh. Chẳng vì
chúng sanh tệ ác tà
kiến khó điều phục mà rời bỏ chẳng tu hồi hướng. Chỉ dùng
giáp trụ đại nguyện để tự trang
nghiêm, luôn cứu hộ chúng
sanh không thối chuyển. Chẳng vì
chúng sanh vô ân mà thối Bồ Tát hạnh, bỏ Bồ đề đạo, chẳng vì ở chung với kẻ phàm
ngu mà lìa bỏ tất cả thiện căn như thiệt, chẳng vì
chúng sanh thường sanh
lỗi ác khó
nhẫn thọ được mà
sanh lòng nhàm mỏi. Như mặt nhựt kia chẳng vì có
một sự nào che
chướng mà lại ẩn đi
không chiếu sáng.
Ðại Bồ Tát chẳng phải chỉ vì cứu hộ một chúng sanh mà tu các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề, mà
chính vì khắp cứu hộ tất cả chúng
sanh vậy. Chẳng phải chỉ vì
thanh tịnh một Phật độ, tin một Ðức Phật, thấy một Ðức Phật, rõ một pháp,
nhưng chính
vì thanh tịnh khắp tất cả Phật độ, tin khắp tất cả Chư Phật, thấy khắp tất cả Chư Phật, hiểu tất cả Phật pháp
mà phát khởi đại nguyện tu các
thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Ðại Bồ Tát dùng các Phật pháp
mà làm duyên khởi, phát
tâm quảng đại, tâm bất thối, trong
vô lượng kiếp tu tập tâm bửu hy hữu nan đắc, trọn đều bình đẳng với tất cả Chư Phật.
Ðại Bồ Tát quán sát các thiện căn như vậy, tín
tâm thanh tịnh, đại bi
kiên cố, dùng
thâm tâm, hoan hỷ tâm,
thanh tịnh tâm,
tối thắng tâm,
nhu nhuyến tâm, từ bi tâm,
lân mẫn tâm,
nhiếp hộ tâm, lợi ích
tâm, An Lạc tâm,
mà khắp vì
chúng sanh hồi hướng chơn thiệt, chẳng phải chỉ là lời suông.
Ðại Bồ Tát lúc đem các thiện căn hồi hướng tự nghĩ rằng : Do
thiện căn của tôi
đây, nguyện tất cả loài, tất cả chúng
sanh đều được thanh
tịnh, công
đức viên
mãn, chẳng bị trở ngại hư hoại, không
cùng tận, thường được tôn trọng chánh
niệm chẳng quên,
được trí huệ quyết định, đủ vô lượng trí,
thân, khẩu, ý ba
nghiệp tất cả công đức viên
mãn trang nghiêm.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng : Do
căn lành này khiến tất cả chúng
sanh thừa sự cúng dường tất cả Chư Phật không
bỏ qua, khởi lòng
tin Chư Phật thanh
tịnh không
hư hoại, được nghe
chánh pháp dứt các sự nghi hoặc, và
ghi nhớ không
quên, tu hành đúng pháp, cung kính Chư Phật, thân nghiệp thanh
tịnh an trụ vô lượng thiện căn rộng lớn, lìa hẳnsự nghèo
cùng, đầy đủ bảy Thánh
tài, thường theo
Chư Phật tu học, thành
tựu vô lượng thiện căn thắng diệu, tỏ ngộ bình đẳng trụ Nhứt thiết trí,
dùng vô ngại nhãn
bình đẳng nhìn
chúng sanh, các tướng hảo nghiêm
thân không tỳ vết, lời nói
tinh diệu, công
đức viên
mãn, các căn điều phục, thành
tựu thập lực, tâm
lành đầy đủ, không
chỗ y trụ, khiến tất cả chúng
sanh đều được sự vui của Phật, trụ nơi chỗ Phật an trụ.
Ðại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo ác
nghiệp, chịu nhiều khổ, bị đây làm
chướng mà
không thấy được Phật, chẳng được nghe
pháp, chẳng biết Tăng,
Bồ Tát bèn
nghĩ rằng :
Tôi sẽ ở trong các ác đạo kia,
thay thế các
chúng sanh chịu các sự khổ, khiến họ được giải thoát.
Lúc Bồ Tát chịu khổ thế chúng sanh như vậy càng
tinh tấn hơn, chẳng bỏ chẳng
tránh, chẳng kinh
chẳng sợ, không
nhàm mỏi. Vì
đúng như bổn nguyện : Quyết muốn đảm nhiệm chúng
sanh khiến họ được giải thoát.
Bồ Tát
nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh ở trong
chỗ sanh,
già, bệnh, chết các khổ nạn, theo
nghiệp mà lưu chuyển, tà kiến vô trí
mất các
pháp lành, tôi phải cứu họ, cho họ được xuất ly.
Lại các chúng sanh bị lưới ái vấn, lọng si
che, mà nhiễm trước cõi hữu lậu theo
mãi không rời bỏ, vào
trong lồng cũi
khổ não, thật hành
nghiệp ma, phước trí đều hết thường ôm
lòng nghi hoặc, chẳng thấy chỗ an ổn, chẳng biết đạo xuất ly, ở trong
sanh tử luân hồi mãi,
luôn bị ngập chìm
trong khổ bùn lầy.
Bồ Tát thấy chúng sanh như vậy nên khởi tâm đại bi,
tâm lợi ích,
muốn làm
cho chúng sanh đều được giải thoát
nên đem tất cả thiện căn hồi hướng, dùng
tâm quảng đại hồi hướng, như chỗ tu hành
của tam thế Bồ Tát hồi hướng, như lời dạy trong
kinh Ðại Hồi Hướng mà hồi hướng. Nguyện các
chúng sanh đều khắp được thanh
tịnh, rốt ráo thành
tựu Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Chỗ tu hành
của tôi,
muốn làm
cho chúng sanh đều được thành
bực trí huệ vô thượng. Tôi
chẳng vì tự thân mà
cầu giải thoát,
chỉ vì cứu tế tất cả chúng
sanh, khiến họ đều được Nhứt thiết trí,
qua khỏi vòng
sanh tử thoát tất cả khổ.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tôi
sẽ vì khắp tất cả chúng
sanh chịu đủ sự khổ, khiến họ ra khỏi hố sanh tử khổ. Tôi vì
khắp tất cả chúng
sanh mà tận vị lai kiếp chịu tất cả khổ trong
các đạo nơi tất cả thế giới, nhưng vẫn luôn
vì chúng sanh mà tu thiện căn.
Tôi thà riêng mình chịu mọi sự khổ, đem
thân chuộc tất cả ác đạo chúng
sanh khiến họ được giải thoát,
chớ chẳng để chúng
sanh đoạ nơi Ðịa ngục, Súc
sanh, Ngạ qủy, Diêm
La Vương các
ác đạo.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tôi
nguyện bảo hộ tất cả chúng
sanh trọn chẳng rời bỏ. Ðây là
lời nguyện thành
thật không
hư vọng. Tại sao vậy ? Tôi
vì cứu độ tất cả chúng
sanh mà phát Bồ đề tâm, chớ chẳng phải vì tự thân mà
cầu đạo Vô thượng. Cũng
chẳng phải vì cầu hưởng phước lạc trong
ba cõi mà tôi tu Bồ đề hạnh. Tại sao vậy ? Vì
phước lạc thế gian
không gì chẳng phải là khổ, là cảnh giới ma, Chư Phật luôn
quở trách,
chỉ có kẻ ngu mới tham
trước, tất cả khổ hoạn đều nhơn đó mà
có. Những ác đạo Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh, chỗ Diêm La
Vương, giận thù kiện cáo hủy nhục nhau
v.v… đều do
tham trước ngũ dục mà gây
nên. Kẻ tham
ngũ dục thời xa lìa
Chư Phật, chướng ngại sanh
lên cõi trời, huống là được Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát quán sát thế gian như vậy, vì
tham chút ít dục lạc mà bị vô lượng sự khổ, nên trọn chẳng vì cảnh ngũ dục mà cầu Bồ đề Bồ Tát hạnh, chỉ vì an lạc tất cả chúng
sanh mà phát tâm tu tập thành
tựu viên
mãn đại nguyện, cắt đứt những dây
khổ của chúng
sanh khiến họ được giải thoát.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tôi
phải đem
căn lành hồi hướng như vậy khiến tất cả chúng
sanh được vui rốt ráo,
vui lợi ích,
vui bất thọ, vui tịch tịnh, vui
vô động, vui
vô lượng, vui
bất xả bất thối, vui bất diệt, vui
Nhứt thiết trí.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tôi
sẽ vì tất cả chúng
sanh mà làm Ðiều Ngự Sư, làm chủ binh thần, cầm đuốc đại trí,
chỉ đường an ổn khiến họ lìa hiểm nạn, dùng
thiện phương tiện khiến họ biết thiệt nghĩa.
Nơi biển sanh tử làm
thuyền trưởng khéo
giỏi đủ trí đưa các
chúng sanh đến bờ kia.
Thưa Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem các thiện căn hồi hướng như vậy. Chính
là tùy nghi cứu hộ tất cả chúng
sanh khiến họ thoát
sanh tử, thờ cúng tất cả Chư Phật; được trí vô
ngại, lìa
các ma, xa bạn ác, gần bạn lành Bồ Tát, dứt trừ tội lỗi, thành
tựu tịnh nghiệp, đầy đủ hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát và
vô lượng thiện căn.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn
chánh hồi hướng rồi, tự nghĩ rằng : Chẳng vì tứ châu
thiên hạ đông
chúng sanh mà có nhiều mặt nhựt hiện, chỉ một mặt nhựt mọc lên đủ soi
sáng khắp tất cả chúng
sanh. Lại các
chúng sanh chẳng phải từ mình có
ánh sáng để biết ngày
đêm, đứng đi
hành động, mà đều do mặt nhựt mọc lên. Mặt nhựt kia chỉ có một.
Cũng thế, đại Bồ Tát lúc tu tập thiện căn hồi hướng, nghĩ
rằng : Các
chúng sanh kia chẳng thể tự cứu, đâu
có thể cứu người khác.
Riêng một mình
tôi tập chí
nguyện tu tập thiện căn hồi hướng như vậy. Những là :
Vì muốn quảng độ tất cả chúng
sanh, vì chiếu khắp tất cả chúng
sanh, vì chỉ dẫn tất cả chúng
sanh, vì khai ngộ tất cả chúng
sanh, vì đoái lại tất cả chúng
sanh, vì nhiếp thọ tất cả chúng
sanh, vì thành tựu tất cả chúng
sanh, vì khiến tất cả chúng
sanh hoan hỷ, vì khiến tất cả chúng
sanh vui đẹp, vì
khiến tất cả chúng
sanh dứt nghi.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tôi
phải như mặt nhựt, chiếu khắp tất cả mà chẳng cầu báo
ân; chúng sanh có kẻ ác hại tôi,
tôi đều dung
thọ trọn chẳng do
đây mà bỏ thệ nguyện; chẳng vì một chúng
sanh ác mà bỏ tất cả chúng
sanh, tôi chỉ riêng
tu tập thiện căn hồi hướng, khiến khắp chúng
sanh đều được an lạc. Thiện căn dầu ít, nhưng vì
nhiếp khắp chúng
sanh tôi dùng tâm hoan hỷ hồi hướng quảng đại. Nếu có thiện căn mà
chẳng muốn lợi ích tất cả chúng
sanh thời chẳng gọi là hồi hướng. Tùy
một thiện căn
dùng khắp chúng
sanh làm cảnh sở duyên mới gọi là hồi hướng. Hồi hướng đặt để chúng
sanh nơi pháp
tánh vô trước. Hồi hướng thấy chúng
sanh bất động bất chuyển. Hồi hướng vô y
vô thủ đối với sự hồi hướng. Hồi hướng chẳng chấp lấy tướng thiện căn. Hồi hướng chẳng phân
biệt nghiệp báo thể tánh. Hồi hướng chẳng tham
trước tướng ngũ uẩn. Hồi hướng chẳng phá
hoại tướng ngũ uẩn. Hồi hướng chẳng chấp lấy nghiệp. Hồi hướng chẳng cầu báo. Hồi hướng chẳng nhiễm trước nhơn duyên.
Hồi hướng chẳng phân
biệt nhơn duyên
khởi. Hồi hướng chẳng chấp xứ sở. Hồi hướng chẳng chấp pháp hư vọng. Hồi hướng chẳng chấp tướng chúng
sanh, tướng thế giới, tướng tâm
ý. Hồi hướng chẳng khởi tâm
điên đảo, tưởng điên
đảo, kiến điên đảo. Hồi hướng chẳng chấp đường ngôn
ngữ. Hồi hướng quán
tánh chơn thật của tất cả pháp. hồi hướng quán
tánh bình đẳng của tất cả chúng
sanh. Hồi hướng dùng ấn pháp
giới ấn các
thiện căn. Hồi hướng quán
các pháp lìa tham dục. Hiểu tất cả pháp
không gieo trồng, thiện căn
cũng như vậy. Quán
các pháp không hai, không sanh, không diệt, hồi hướng cũng như vậy. Dùng
những thiện căn hồi hướng như vậy mà tu
hành pháp đối trị thanh tịnh. Bao
nhiêu thiện căn thảy đều tùy
thuận pháp
xuất thế, chẳng làm
hai tướng. Chẳng phải tức nghiệp tu tập Nhứt thiết trí.
Chẳng phải lìa
nghiệp hồi hướng Nhứt thiết trí.
Nhứt thiết trí chẳng phải tức nghiệp, nhưng cũng
chẳng phải lìa
nghiệp mà được Nhứt thiết trí. Bởi nghiệp thanh
tịnh như bóng
sáng. Báo như bóng
sáng thanh tịnh bóng
sáng, lìa ngã ngã sở tất cả động loạn tư duy
phân biệt. Rõ biết như vậy, đem
các thiện căn phương tiện hồi hướng.
Lúc Bồ Tát hồi hướng như vậy, Bồ Tát luôn độ thoát
chúng sanh không thôi, chẳng trụ pháp tướng. Dầu biết các
pháp không nghiệp, không
báo, mà khéo hay xuất sanh tất cả nghiệp báo
không trái nghịch. Bồ Tát phương tiện khéo
tu hồi hướng như vậy.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy lìa tất cả lỗi, được Chư Phật khen ngợi.
Ðây là đại Bồ Tát cứu hộ nhứt thiết chúng
sanh ly chúng sanh tướng hồi hướng thứ nhứt.
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan
sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tu hành trong bất tư nghì kiếp
Tinh tấn kiên cố tâm vô
ngại
Vì muốn lợi ích các quần sang
Thường cầu khắp công đức của Phật.
Bực thế gian không ai sánh bằng
Tu sửa tâm ý rất sáng sạch
Phát tâm cứu khắp các
hàm thức
Bực này khéo vào tạng hồi hướng.
Dũng mãnh tinh tấn sức đầy đủ.
Trí huệ thông đạt ý
thanh tịnh
Cứu khắp tất cả các quần sanh
Lòng kia kham nhẫn chẳng
khuynh động,
Tâm khéo an trụ không
ai sánh
Ý thường thanh tịnh rất vui
thích
Như vậy vì người siêng tu hành
Ví như mặt đất khắp dung thọ.
Chẳng vì tự thân cầu khoái lạc
Chỉ muốn cứu hộ các chúng sanh
Như vậy phát khởi tâm đại bi
Chóng được vào nơi bực vô ngại.
Tất cả thế gian ở mười phương
Bao nhiêu chúng sanh đều nhiếp thọ
Vì cứu họ nên khéo trụ tâm
Như vậy tu học các hồi hướng
Tu hành bố thí rất vui
thích
Hộ trì tịnh giới không sai phạm
Dũng mãnh tinh tấn tâm chẳng động
Hồi hướng Nhứt thiết trí của Phật.
Tâm đó rộng lớn không
ngằn mé
Nhẫn lực an trụ chẳng lay động
Thiền định rất sâu luôn chiếu rõ
Trí huệ vi diệu khó nghĩ bàn.
Trong tất cả thế giới mười phương
Tu tập đầy đủ hạnh thanh tịnh
Công đức như vậy đều hồi hướng.
Vì muốn an lạc các chúng sanh.
Ðại sĩ siêng tu những thiện nghiệp
Vô lượng vô biên chẳng đếm được
Ðều đem lợi ích các chúng sanh
Khiến trụ nơi trí huệ vô thượng
Khắp vì tất cả các chúng sanh
Mà ở địa ngục vô số kiếp
Nhưng vẫn không có lòng nhàm mỏi
Dũng mãnh quyết định thường hồi hướng.
Chẳng cầu sắc, thinh, hương cùng
vị
Cũng chẳng mong cầu các diệu xúc
Chỉ vì cứu độ các quần sanh
Thường cầu trí tối thắng vô thượng.
Trí huệ thanh tịnh như hư không
Tu tập vô biên hạnh Ðại Sĩ
Như những công hạnh Phật đã làm
Bực này luôn tu học như vậy.
Ðại Sĩ du hành các thế giới
Ðều hay an ổn các quần sanh
Khiến khắp tất cả đều vui mừng
Tu Bồ Tát hạnh không nhàm đủ.
Dứt trừ tất cả những tâm độc
Tư duy tu tập trí vô
thượng
Chẳng vì tự mình cầu an lạc
Chỉ nguyện chúng sanh được lìa khổ.
Bực này hồi hướng được rốt ráo
Tâm thường thanh tịnh lìa
các độc
Tam thế Chư Phật phó chúc cho
Trụ nơi thành đại pháp
vô thượng
Chưa từng nhiễm trước nơi các sắc
Thọ, tưởng, hành, thức cũng
chẳng nhiễm
Tâm đó thoát hẳn nơi ba cõi
Tất cả công đức đều hồi hướng.
Những chúng sanh mà Phật thấy biết
Ðều trọn nhiếp thủ không thừa sót
Thệ nguyện đều khiến được giải thoát
Vì kia tu hành rất hoan hỷ,
Lòng kia niệm niệm luôn
an trụ
Trí huệ rộng lớn không ai sánh
Rời si, chánh niệm thường vắng lặng
Tất cả các nghiệp đều thanh
tịnh.
Như Bồ Tát kia ở thế gian
Chẳng nhiễm nội pháp như ngoại pháp
Như gió trong hư không
vô ngại !
Ðại Sĩ dụng tâm cũng như vậy.
Bao nhiêu thân nghiệp đều thanh
tịnh.
Tất cả ngôn ngữ không lỗi lầm
Tâm thường quy hướng nơi Như Lai.
Hay khiến Chư Phật đều hoan hỷ.
Thập phương vô lượng các quốc độ
Nơi tất cả Phật đều qua đến
Trong đó xem thấy đấng đại bi
Người đều cung kính mà thờ phụng.
Lòng thường thanh tịnh lìa
các lỗi
Vào khắp thế gian không e sợ
Ðã trụ đạo Vô thượng của Phật
Làm ao pháp lớn cho ba
cõi.
Tinh tấn quán sát tất cả pháp
Tùy thuận tư duy hữu phi hữu.
Như vậy thẳng đến lý chơn thật
Ðược vào chỗ vô
tránh rất sâu.
Do đây tu thành đạo kiên cố
Tất cả chúng sanh chẳng hoại được
Khéo hay rõ thấu các
pháp tánh
Khắp trong tam thế không
chấp trước.
Như vậy hồi hướng đến bờ kia
Khiến khắp quần sanh lìa cấu nhiễm
Lìa hẳn tất cả những sở y.
Ðược vào chỗ vô y rốt ráo.
Ngôn ngữ của tất cả chúng sanh
Tùy theo chủng loại đều sai
khác
Bồ Tát trọn hay phân biệt nói
Mà lòng vẫn vô trước vô ngại.
Bồ Tát tu hồi hướng như vậy
Công đức phương tiện bất khả thuyết
Hay khiến trong thế giới mười phương
Tất cả Chư Phật đều khen ngợi.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment