Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ KINH HOA NGHIÊM, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 35
PHẨM THẬP ÐỊA
THỨ HAI MƯƠI SÁU
Chúng Bồ Tát đã nghe
Ðịa tối thắng vi diệu
Tâm các Ngài thanh tịnh
Tất cả đều vui mừng
Ðồng rời tòa đứng dậy
Vọt bay dừng trên không
Khắp rải hoa báu đẹp
Ðồng thời chung khen ngợi :
Lành thay Kim Cang Tạng
Bực đại trí vô úy
Khéo nói những pháp
lành
Của Sơ Địa Bồ Tát.
Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt
Biết lòng chúng thanh tịnh
Thích nghe những hành
tướng
Của đệ nhị "Ly Cấu"
Liền thỉnh Kim Cang Tạng :
Ðại trí xin diễn thuyết
Phật tử đều thích nghe
Ðệ nhị Ly Cấu Ðịa.
Bấy giờ Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát rằng : Thưa Phật Tử ! Ðại Bồ Tát đã
tu Sơ Địa muốn vào Đệ Nhị Địa thời phải phát
khởi mười thứ thâm
tâm.
Ðây là mười thứ thâm
tâm :
Tâm chánh trực, tâm
nhu nhuyến, tâm
kham năng, tâm điều phục, tâm tịch tịnh, tâm
thuần thiện, tâm
chẳng tạp, tâm
không cố luyến, tâm rộng, tâm
lớn.
Bồ Tát dùng mười thâm
tâm này thời được vào bực Ly Cấu Ðịa thứ hai.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ Ly Cấu Ðịa thời tánh tự xa rời tất cả sát
sanh, chẳng chứa dao gậy, chẳng có
lòng oán hận, có
tàm có quý, đầy đủ lòng nhơn thứ. Với tất cả chúng sanh
có mạng sống thời thương, sanh
lòng từ làm lợi ích.
Bồ Tát này còn chẳng có
lòng ác não hại chúng
sanh, huống là với họ mà có
chúng sanh tưởng cố ý làm
việc giết hại.
Tánh tự chẳng trộm cắp. Với của cải mình Bồ Tát thường biết vừa đủ, với người thời thương yêu
tha thứ chẳng hề xâm tổn. Nếu đồ vật thuộc người khác
thời tưởng là của người khác,
trọn không
sanh lòng trộm cắp, nhẫn đến lá cây
của người không
cho thời không
lấy, huống là đồ vật dụng khác.
Tánh tự chẳng tà
dâm. Với tự thê, Bồ Tát tri
túc chẳng mong
vợ người. Với thê
thiếp của người cùng
con gái của người, trọn không
móng lòng tham nhiễm, huống là
tùng sự dâm dục, huống là nơi phi đạo.
Tánh tự chẳng vọng ngữ. Bồ Tát luôn thật ngữ, chơn ngữ, thời ngữ, nhẫn đến trong
chiêm bao cũng còn chẳng nói lời phú
tàng, vô tâm, vọng ngữ, huống là cố ý nói dối.
Tánh tự chẳng lưỡng thiệt. Bồ Tát đối với chúng sanh không tâm ly gián, không
tâm não hại, chẳng đem lời người này đến nói với người kia để pháp người kia,
chẳng đem lời người kia đến nói với người này để phá người này,
người chưa ly phá
thời chẳng cho
ly phá, người đã ly
phá thời chẳng cho
thêm hơn. Chẳng mừng sự ly
gián, chẳng ưa sự ly
gián, chẳng nói lời ly
gián. Chẳng cho lời ly
gián là thiệt hay chẳng thiệt.
Tánh tự chẳng ác khẩu, như là lời độc hại, lời thô tục, lời làm khổ người khác,
lời làm người khác
sân hận, lời hiện tiền, lời chẳng hiện tiền, lời xấu ác, lời dung
tiện, lời bất nhã, lời làm người nghe
không ưa, không
vui, lời giận dữ, lời như lửa đốt lòng,
lời oán kết, lời nhiệt não, lời có thể làm hại mình
và người. Những ác khẩu như vậy đều bỏ lìa cả. Thường nói lời lợi ích, lời mềm mỏng, lời đẹp dạ, lời thích
nghe, lời làm người nghe
vui mừng, lời khéo
vào tâm người, lời phong
nhã điển tắc, lời nhiều người mến thích,
lời nhiều người vui đẹp, lời thân
tâm hớn hở.
Tánh tự chẳng ỷ ngữ. Bồ Tát thường thích nói lời chín
chắn, lời phải thời, lời thiệt, lời đúng
nghĩa, lời đúng
pháp, lời thuận đạo lý, lời khéo
điều phục, lời tùy thời tính lường quyết định. Bồ Tát này
nhẫn đến chơi cười còn
luôn suy nghĩ kỹ, huống là cố ý nói
ra lời tán loạn.
Tánh tự chẳng tham lam. Bồ Tát này
đối với tài vật đồ dùng của kẻ khác chẳng móng
tâm tham, chẳng mong
cầu.
Tánh tự rời giận hờn. Bồ Tát này đối với tất cả chúng
sanh luôn khởi tâm từ mẫn, tâm lợi ích,
tâm đau xót, tâm hoan hỷ, tâm
hoà thuận, tâm
nhiếp thọ, bỏ hẳn sân hận oán hại nhiệt não,
thường nghĩ
đến thật hành
nhơn từ lợi ích.
Tánh tự lìa tà khiến. Bồ Tát trụ nơi chánh
đạo, chẳng coi
bói, chẳng thọ lấy cấm giới tà ác,
tâm kiến chánh
trực, không
dua dối, quyết định tin nơi Phật, Pháp,
Tăng.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát hộ trì mười nghiệp đạo lành như vậy không
hề gián đoạn. Lại tự nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh sa đọa nơi ác đạo đều do mười nghiệp ác. Vì
thế nên tôi
phải tự tu
chánh hạnh, cũng
khuyên người khác tự tu
chánh hạnh. Vì
mình không tự tu thời không
thể bảo kẻ khác
tu.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác là
nhơn thọ sanh nơi địa ngục, súc
sanh và ngạ quỷ. Mười nghiệp đạo lành
là nhơn thọ sanh nơi loài
người cõi Trời. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này dùng trí huệ để tu tập, vì
tâm hẹp kém,
vì sợ sanh tử, vì thiếu đại bị, vì
theo người Thanh
Văn khác mà tỏ ngộ thời thành
Thanh Văn thừa. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này tu tập thanh
tịnh, chẳng do người khác dạy mà tự giác ngộ, vì chẳng đủ đại bi phương tiện, mà tỏ ngộ pháp nhơn duyên
thậm thâm
thời thành
Ðộc Giác
thừa. Lại thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này tu tập thanh
tịnh, vì
tâm rộng vô lượng, vì đầy đủ bi mẫn, vì phương tiện nhiếp thọ, vì
phát sanh đại nguyện, vì chẳng bỏ chúng
sanh, vì mong cầu Phật trí,
vì tu tập trí địa của Bồ Tát, vì
tịnh tu tất cả Ba la mật, mà
thành hạnh quảng đại của Bồ Tát. Lại thượng thượng phẩm mười nghiệp đạo lành
này, vì Nhứt thiết chủng thanh
tịnh nhẫn đến chứng Thập lực, Tứ vô úy
nên tất cả Phật pháp đều được thành
tựu. Vì những lẽ trên
đây nên tôi bình đẳng thật hành mười nghiệp lành
làm cho tất cả đều thanh
tịnh đầy đủ.
Những phương tiện như vậy Bồ Tát phải học.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này lại nghĩ rằng : Mười nghiệp đạo ác : Thượng phẩm là nhơn địa ngục, trung
phẩm là nhơn súc
sanh, hạ phẩm là nhơn ngạ quỷ.
Trong đây về tội sát
sanh có thể làm cho
chúng sanh đọa địa ngục, súc
sanh, ngạ qủy. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo : Mạng vắn và nhiều bịnh.
Tội trộm cắp cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
Nghèo cùng và tài sản chung
không được tự do
dùng.
Tội tà dâm cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo : Vợ không
trinh lương và
quyến thuộc không
được tùy ý.
Tội vọng ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo : Bị phỉ báng và
bị khi dối.
Tội lưỡng thiệt cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
Quyến thuộc trái
lìa và thân tộc tệ ác.
Tội ác khẩu cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
Thường nghe
tiếng ác và
lời nói
nhiều tranh
cãi.
Tội ỷ ngữ cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo : Lời nói người không
lãnh thọ và lời không
rõ ràng.
Tội tham dục cũng
làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
Lòng không biết đủ và quá
tham muốn không
nhàm.
Tội sân hận cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
Thường bị người khác
tìm chỗ hay dở và luôn
bị người khác
não hại.
Tội tà kiến cũng làm cho chúng sanh đọa ba ác
đạo. Nếu sanh
trong loài người thời mắc hai quả báo :
sanh nhà tà kiến và tâm
dua vạy.
Chư Phật tử ! Mười nghiệp đạo ác có thể sanh vô
lượng vô
biên những quả khổ. Do đây
Bồ Tát
nghĩ rằng : Tôi
phải xa rời mười nghiệp ác.
Làm vườn pháp
an ổn thích
thú tự ở trong
đó, cũng khuyên người khác
cùng ở trong
đó.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát này với tất cả chúng
sanh phát sanh tâm lợi ích,
tâm an lạc, tâm từ, tâm
bi, tâm lân mẫn, tâm
nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm tự kỷ, tâm Sư, tâm Ðại Sư.
Bồ Tát nghĩ rằng :
chúng sanh đáng thương đọa nơi rừng rậm tà kiến, trí
ác, muốn ác, đạo ác.
Tôi phải làm
cho họ trụ nơi chánh
kiến tu
hành đạo hành đạo chơn thiệt.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh phân biệt bỉ ngã phá
hoại lẫn nhau,
đấu tranh
sân hận hẩy hừng không
ngớt, tôi
phải làm
cho họ an trụ trong
vô thượng đại từ.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng
sanh tham lấy không
biết nhàm,
chỉ cầu của cải tự sống bằng cách
tà mạng. Tôi
phải làm
cho họ an trụ trong
chánh pháp thân, ngữ, ý
thanh tịnh chánh
mạng.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh thường theo
tham, sân, si, các thứ phiền não nhơn đó mà
hẩy hừng, họ chẳng biết lập chí cầu phương tiện giải thoát.
Tôi phải làm
cho họ dứt trừ tất cả lửa lớn phiền não, đặt họ vào chỗ Niết Bàn
thanh lương.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh bị màn đầy ngu si
vọng kiến tối tăm
che đậy mà phải vào
trong rừng rậm tối lòa, mất ánh
sáng trí huệ, đi đường hiểm đồng hoang
sanh ác kiến. Tôi
phải làm
cho họ được trí
nhãn thanh tịnh không
chướng ngại, biết tường như thật của các
pháp, chẳng theo
người khác dạy.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : tất cả chúng
sanh ở trong đường hiểm sanh tử, sắp đọa địa ngục, súc
sanh, ngạ quỷ, vào
trong lưới ác khiến, bị rừng tậm ngu si
làm mê, theo dõi đạo tà,
làm hạnh điên
đảo, ví như người mù
không kẻ dắt đường. Chẳng phải đạo giải thoát
mà cho là đạo giải thoát.
Vào cảnh giới ma, bị bọn giặc ác nhiếp lấy, thuận theo
tâm mà, xa lìa ý Phật. Tôi
phải cứu họ ra khỏi nạn hiểm như vậy, cho họ an trụ nơi thành
Nhứt thiết trí vô
úy.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng
sanh bị dòng nước chảy xiết sóng lớn nhận chìm
vào dòng dục, dòng
sanh tử, dòng
vô minh, dòng tà kiến, xoay
lăn trong sanh tử, trôi nổi trong
sông ái nhiễm, mãi bị dồi giập không
rảnh để quan
sát, rồi bị quan niệm tham dục, sân hận, độc hại không
rời tâm họ, nên họ bị quỷ La sát
thân kiến bắt đem nhốt hẳn trong
rừng rậm ái dục. Họ lại quá
nhiễm trước nơi chỗ tham
ái, ở nơi gò ngã
mạn, ngụ trong tụ lạc sáu
căn. Nếu không
người cứu giỏi, thời không
thể độ họ được.
Tôi phải phát khởi tâm đại bi đối với họ, dùng
những thiện căn để cứu tế họ, cho họ khỏi tai hoạn lìa
nhiễm ô được thanh
tịnh, mà ở an nơi thành
báu Nhứt thiết trí.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng
sanh ở trong
lao ngục thế gian bị nhiều khổ não, thường ôm
lòng yêu ghét, tự mang lấy gông
xiềng lo sợ tham dục, rừng rậm vô
minh che chướng họ, không
thể thoát khỏi ba
cõi. Tôi phải làm
cho họ ra khỏi hẳn ba cõi
mà ở an nơi đại Niết Bàn vô
ngại.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tất cả chúng
sanh chấp trước nơi ngã và
ngã sở, chẳng có ý
muốn ra khỏi nhà tù
ngũ uẩn, nương nơi tụ lạc trống rỗng, sáu
căn phát khởi bốn hạnh điên
đảo, bị bốn rắn độc tứ đại cắn mổ, bị giặc thù
ngũ uẩn giết hại chịu vô lượng đau
khổ.
Tôi phải làm cho họ ở an nơi chỗ tối thắng vô trước, chính
là Vô thượng Niết Bàn dứt hết mọi chướng ngại.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Tâm
của chúng
sanh hèn kém, chẳng chịu thật hành đạo có thể Nhứt thiết trí. Dầu họ muốn giải thoát,
nhưng họ chỉ thích
hai thừa Thanh
Văn và Bích Chi Phật. Tôi
phải làm
cho họ an trụ nơi Phật pháp
quảng đại, nơi trí huệ quảng đại.
Bồ Tát này hộ trì giới cấm như vậy khéo
có thể thêm lớn tâm từ bi.
Chư Phật tử ! Bồ tát ở bực Ly Cấu Ðịa này, do nguyện lực mà được thấy nhiều Phật. Như là thấy trăm Ðức Phật, ngàn
đức Phật, trăm
ngàn Ðức Phật, nhẫn đến thấy trăm
ngàn ức na do
tha đức Phật.
Ở chỗ Chư Phật, Bồ Tát này
dùng tâm quảng đại thâm
tâm cung kính tôn trọng phụng thờ, cúng dường những thứ y phục, ăn uống, thuốc men,
ngọa cụ, tất cả đồ dùng.
Và cũng cúng dường tất cả chúng
Tăng. Ðem công đức này hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Ở chỗ Chư Phật, do
tâm tôn trọng, Bồ Tát này
lại thọ hành mười đạo pháp
lành, tùy chỗ đã thọ nhẫn đến Bồ đề trọn không
quên mất.
Bồ Tát này từ vô lượng trăm
ngàn ức na do
tha kiếp vì đã
xa rời tội tham
giận phá giới nên hạnh bố thí,
trì giới được thanh
tịnh toàn
vẹn.
Ví như chơn kim để trong phàn thạch, đúng
theo cách thức luyện xong
thời lìa tất cả cấu nhơ càng
sáng sạch hơn.
Bồ Tát trụ bực Ly Cấu Ðịa này cũng như vậy. Trải qua vô
lượng trăm
ngàn ức na do
tha kiếp, vì xa
lìa bợn nhơ tham
sân phá giới, nên hạnh bố thí,
trì giới được thanh
tịnh đầy đủ.
Chư Phật tử ! Trong bốn nhiếp pháp,
Bồ tát này
thiên về ái ngữ nhiều. Trong
mười môn Ba
la mật Bồ Tát này
thiên nhiều về trì giới. Với các
pháp khác thời tùy phần tùy sức.
Chư Phật tử ! Ðây là lược nói về bực Ly Cấu Ðịa.
Ðại Bồ Tát trụ bực này, phần nhiều hiện thân
làm Chuyển Luân
Thánh Vương, làm
Ðại pháp
chủ, đầy đủ thất bửu, có sức tự tại, có thể trừ cấu nhiễm tham,
sân, phá giới của tất cả chúng
sanh. Dùng phương tiện khéo
làm cho họ an trụ trong mười nghiệp đạo lành.
Làm vị đại thí chủ châu ấp vô tận. Bao
nhiêu công hạnh như bố thí, ái
ngữ, lợi hành,
đồng sự đều không
rời niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng,
nhẫn đến chẳng rời niệm Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng
sanh tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là tối thắng, là
diệu, là vi
diệu, là thượng, là
vô thượng, nhẫn đến là chỗ y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lúc muốn bỏ nhà để ở trong
Phật pháp
tinh tấn tu
hành. Liền có thể rời nhà vợ con,
quyến thuộc, ngũ dục. Khi
đã xuất gia thời siêng
năng tu tập, khoảng một niệm được ngàn
tam muội, được thấy ngàn Ðức Phật, biết thần lực của ngàn Ðức Phật, có thể chấn động ngàn
thế giới, nhẫn đến có thể thị hiện ngàn
thân, mỗi thân
thị hiện ngàn Bồ Tát làm
quyến thuộc. Nếu dùng
nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn số này,
trong trăm ngàn ức na do
tha kiếp cũng
chẳng đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên
lại nghĩa
này bèn nói kệ rằng :
Chất trực, nhu nhuyến và
kham năng
Ðiều phục, tịch tịnh và thuần thiện
Ý rộng lớn mau thoát sanh tử
Do mười tâm vào Đệ Nhị Địa.
Ở đây
thành tựu giới công đức
Xa lìa sát sanh chẳng não hại
Cũng lìa trộm cắp và tà
dâm
Lìa hẳn vọng, ác, ly, ỷ ngữ.
Chẳng tham của cải thường xót
thương
Chánh đạo, trực tâm không siểm ngụy
Rời hiểm, bỏ mạn, rất điều nhu
Y giáo thật hành
chẳng phóng
dật.
Ðịa ngục, súc sanh chịu khốn khổ
Ngạ quỷ đói khát miệng tuôn
lửa
Tất cả đều do tội ác gây
Tôi phải lìa xa trụ thật pháp
Nhơn gian tùy ý được thọ sanh
Nhẫn đến thiền định Sắc, Vô sắc
Thanh Văn, Ðộc Giác đến thành
tựu.
Tư duy như vậy chẳng phóng dật
Tự gìn tịnh giới dạy người trì
Lại thấy quần sanh chịu đau khổ
Lại càng thêm lớn tâm đại bi.
Phàm phu tà kiến hiểu bất chánh
Thường giận hay hờn nhiều tranh cãi.
Tham cầu nhiễm trước không nhàm đủ
Tôi phải độ họ trừ ba độc
Ngu si đen tối che
trùm lấp
Vào đường hiểm lớn lưới tà kiến
Nhà giam sanh tử bị nhốt bắt
Tôi phải khiến họ dẹp giặc ma.
Bốn dòng đẩy trôi
tâm chìm đắm
Ba cõi đốt thui
vô lượng khổ
Chấp uẩn làm nhà : ngã ở trong
Vì muốn độ họ siêng hành đạo.
Dầu muốn giải thoát tâm lại kém
Bỏ xa vô thượng Phật trí huệ
Tôi muốn khiến họ trụ Ðại thừa
Chuyên cần tinh tấn không
nhàm đủ.
Bồ Tát ở đây chứa công đức
Thấy vô lượng Phật đều cúng dường
Ức kiếp tu
hành thêm sáng sạch
Như dùng thuốc tốt luyện chơn kim,
Bồ Tát ở đây hiện Luân Vương
Ðộ khắp chúng sanh tu thập thiện
Bao nhiêu pháp lành đều tu tập
Ðể thành Thập lực cứu thế gian
Muốn bỏ Vương vị và tài bửu
Liền lìa nhà tục nương Phật giáo
Dũng mãnh tinh tấn trong
một niệm
Ðược ngàn tam muội, thấy ngàn
Phật.
Bao nhiêu tất cả sức thần thông
Bồ Tát Nhị Địa đều hiện được
Nguyện lực đã làm lại hơn đây
Vô lượng tự tại độ quần sanh.
Người làm lợi ích khắp thế gian
Ðã tu Bồ Tát hạnh tối thắng
Công đức Đệ Nhị Địa như vậy
Vì các Phật tử đã khai
diễn.
Phật tử được nghe công hạnh này
Cảnh giới Bồ Tát khó nghĩ bàn
Thảy đều cung kính lòng hoan hỷ
Rải hoa hư không để cúng dường.
Khen rằng : lành thay đấng Ðại Sĩ
Lòng từ thương xót các chúng sanh
Khéo nói luật nghi của trí giả
Và hành tướng trong
Đệ Nhị Địa.
Ðây diệu hạnh của chư Bồ Tát
Chơn thiệt không lạ không
sai biệt.
Vì muốn lợi ích các quần sanh
Diễn nói như vậy rất thanh
tịnh.
Tất cả Nhơn, Thiên đến cúng dường
Mong được nghe giảng Đệ Tam Địa
Những trí hạnh cùng
pháp tương ưng
Cảnh giới như vậy mong nói đủ.
Phật có tất cả pháp : thí, giới,
Nhẫn nhục, tinh tấn, thiền, trí
huệ.
Cùng với phương tiện đạo từ bi
Phật hạnh thanh tịnh xin
nói hết.
Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát lại thưa :
Mong Kim Cang Tạng đại Bồ Tát
Giảng nói tiến vào Đệ Tam Địa
Tất cả công đức của bực này.
Kim Cang Tạng Bồ Tát nói
với Giải Thoát
Nguyệt Bồ Tát :
"Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát đã
thanh tịnh Đệ Nhị Địa muốn vào Đệ Tam Địa, phải phát
khởi mười thâm
tâm".
Ðây là mười thâm
tâm :
Tâm thanh tịnh, tâm
an trụ, tâm
nhàm bỏ, tâm
lìa tham, tâm bất thối, tâm
kiên cố, tâm
minh thạnh, tâm
dũng mãnh, tâm rộng, tâm
lớn. Bồ Tát do
mười tâm
này mà được vào Đệ Tam Địa.
Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát đã an trụ nơi Đệ Tam Địa quán
sát tất cả pháp hữu vi
đúng với tướng chơn thật của nó.
Chính là : Vô thường, khổ, bất tịnh, chẳng an ổn, bại hoại, chẳng ở lâu,
sát na sanh diệt, chẳng phải từ thuở trước sanh,
cũng chẳng phải theo
thuở sau diệt, và chẳng phải trụ ở hiện tại.
Bồ Tát lại quan sát những pháp
này không được cứu, không
chỗ tựa, mà đồng ở với lo, buốn, khổ, não,
ràng buộc bởi yêu
ghét, sầu thảm càng
nhiều không
hề dừng,
tham, sân, si hẩy hừng chẳng hề dứt, những họa hoạn vấn vít
ngày đêm thêm lớn, toàn
là như huyễn hóa
không thiệt.
Bồ Tát quan sát thấy như thế rồi, đối với pháp hữu vi
càng thêm nhàm lìa mà hướng đến Phật trí huệ. Thấy Phật trí chẳng thể nghĩ
bàn, vô đẳng vô lượng khó được, không
tạp, không
não, không lo, đến thành
trì vô úy không còn lui lại, có thể cứu thoát
vô lượng chúng
sanh khổ nạn.
Bồ Tát thấy Phật trí vô lượng lợi ích,
thấy tất cả pháp hữu vi vô
lượng tội lỗi, thời đối với tất cả chúng
sanh phát sanh mười tâm
xót thương.
Ðây là mười tâm xót
thương :
Thấy chúng sanh cô độc không
chỗ tựa nương mà
sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh nghèo cùng khốn thiếu mà
sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh bị lửa tam độc đốt cháy
mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh bị lao tù
mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh bị rừng rậm phiền não
luôn che chướng mà
sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh chẳng khéo
quan sát mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh không thích muốn pháp
lành mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh bỏ mất Phật pháp
mà sanh lòng thương. Thấy chúng
sanh theo dòng sanh tử mà sanh
lòng thương. Thấy chúng
sanh mất phương tiện giải thoát
mà sanh lòng thương.
Bồ Tát thấy chúng sanh giới vô lượng khổ não như vậy phát đại tinh tấn mà
nghĩ rằng : Với tất cả chúng
sanh này tôi phải cứu, tôi
phải giải thoát,
tôi phải thanh
tịnh, tôi
phải độ, tôi phải đặt họ ở chỗ lành,
phải làm
cho họ ở an, cho
họ hoan hỷ, cho họ thấy biết, cho họ điều phục, cho họ tịch diệt.
Bồ Tát nhàm lìa pháp hữu vi như vậy, lòng
thương như vậy. Biết Nhứt thiết chủng trí
có lợi ích
thù thắng, muốn nương Phật trí để cứu độ chúng
sanh.
Bồ Tát suy nghĩ rằng : Những chúng
sanh này đọa trong
khổ lớn phiền não,
dùng phương tiện gì để có thể cứu tế, cho họ an trụ trong sự vui cứu cánh
Niết Bàn ?
Bồ Tát lại nghĩ rằng : Muốn độ chúng
sanh cho họ an trụ nơi Niết Bàn
quyết không
thể rời trí giải thoát
vô ngại. Trí
này không rời như thiệt giác
ngộ tất cả pháp.
Giác ngộ này
không rời huệ quang của hạnh vô
hành vô sanh. Huệ quang
này không rời thiền trí
thiện xảo quyết định quán
sát. Thiền trí
này chẳng rời đa văn
hay khéo.
Bồ Tát suy gẫm như vậy rồi, đối với chánh
pháp càng thêm siêng năng tu tập. ngày
đêm chỉ mong
nghe được pháp,
vui nơi pháp,
nương với pháp,
thuận theo
pháp, hiểu nơi pháp,
đến pháp,
trụ tại pháp
và thật hành
chánh pháp.
Bồ Tát cần cầu Phật pháp như vậy, bao
nhiêu của báu đều không
lẫn tiếc, chẳng thấy có vật khó được đáng
trọng. Chỉ ở nơi người hay giảng thuyết Phật pháp
thời sanh
lòng kính ngưỡng. Vì
thế nên đối với tài vật và
thân thể của mình,
Bồ Tát đều có thể xả thí để cầu Phật pháp.
không có sự cung
kính nào mà chẳng làm được, không
có sự kiệu mạn nào mà
không bỏ được, không
có sự phụng thờ nào mà
không làm được, không
có sự cần khổ nào mà
không chịu được.
Nếu được nghe một câu
chánh pháp chưa từng nghe,
lòng Bồ Tát rất vui mừng hơn là được trân bửu đầy cả cõi Ðại Thiên.
Nếu nghe được một kệ chánh
pháp chưa từng nghe
thời Bồ Tát rất vui mừng hơn là được ngôi
Chuyển Luân Vương. Nếu được nghe một kệ chánh
pháp có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, thời xem hơn là được trăm
ngàn vô lượng kiếp ở ngôi Ðế Thích
Phạm Vương.
Nếu có người bảo : Tôi có một câu Phật pháp
có thể thanh tịnh hạnh Bồ Tát, nếu Ngài
có thể vào hầm lửa chịu nổi sự nóng
cháy thời tôi sẽ cho
Ngài.
Bấy giờ Bồ Tát tự nghĩ rằng : Tôi do một câu
pháp của Phật nói mà
được thanh
tịnh Bồ Tát hạnh, thời dầu ngọn lửa lớn đầy cõi Ðại Thiên,
tôi còn muốn từ trên trời Phạm Thiên
nhảy xuống lửa để lấy được câu Phật pháp,
huống là hầm lửa nhỏ này mà
vào không được. Hiện tại tôi vì
Phật pháp
đáng lẽ phải lãnh lấy tất cả sự khổ nơi địa ngục, huống là sự khổ nhỏ mọn nơi nhơn gian.
Bồ Tát này phát tâm tinh tấn cần cầu Phật pháp
như vậy, như chỗ đã được nghe
mà suy gẫm tu
hành.
Bồ Tát này khi đã nghe pháp liền nhiếp tâm an
trụ nơi chỗ vắng lặng suy
nghĩ rằng : Như lời Phật dạy tu
hành mới chứng được Phật pháp,
chẳng phải chỉ miệng nói
mà thanh tịnh được.
Chư Phật tử ! Lúc Bồ Tát này
an trụ nơi Phát
Quang Ðịa liền xa lìa
dục ác, có
giác có quán, ly dục sanh hỷ lạc, trụ nơi Sơ thiền. Diệt giác
quán, nhứt tâm
thanh tịnh không
giác quán, định sanh
hỷ lạc, trụ nơi đệ Nhị thiền. Lìa hỷ trụ nơi xả, có niệm chánh
biết thân
thọ lạc Chư Phật đã
nói, hay bỏ có niệm, thọ lạc trụ đệ Tam thiền. Dứt lạc, trước trừ sự khổ mừng lo,
diệt bất khổ, bất lạc, xả niệm thanh
tịnh trụ đệ Tứ thiền. Siêu
tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, chẳng nhớ các thứ tưởng, vào
hư không
vô biên, trụ hư không
vô biên xứ. Siêu tất cả hư không
vô biên xứ nhập vô
biên thức, trụ thức vô
biên xứ. Siêu tất cả thức vô
biên xứ, nhập vô thiểu sở hữu, trụ vô sở hữu xứ. Siêu tất cả vô sở hữu xứ, trụ phi hữu tưởng phi
vô tưởng xứ. Ðây chỉ do tùy
thuận theo
pháp lành, trọn không
thích không chấp.
Chư Phật tử ! Bồ tát này tâm tùy nơi đức từ duy nhứt rộng lớn vô lượng,
không oán, không đối, không
chướng,
không não, đến khắp tất cả chỗ, khắp pháp
giới hư không
giới, khắp tất cả thế gian.
An trụ đức bi, hỷ và xả cũng như vậy.
Chư Phật tử ! Bồ tát này được vô lượng sức thần thông,
có thể chấn động đại địa. Một thân
hiện nhiều thân,
nhiều thân
làm một thân,
hoặc ẩn hoặc hiển, núi
vách đá các vật chướng đều qua lại vô ngại như hư không. Ở giữa hư không
ngồi kiết già
bay đi như chim
bay. Vào đất như vào nước, đi
trên nước như trên đất. Thân
phát khói lửa như đám lửa lớn, lại tuôn nước mưa như mây lớn. Mặt trời, mật trăng ở hư không
có oai lực lớn mà có
thể lấy tay rờ rẫm bưng nắm. Thân
thể tự tại cao đến Phạm Thiên.
Thiên nhĩ của Bồ Tát này
thanh tịnh hơn tai người, nghe
được cả tiếng trời, người nhẫn đến tiếng muỗi mòng
không luận gần hay
xa.
Bồ Tát này dùng tha tâm trí, biết tâm
chúng sanh khác đúng như thật. Như chúng
sanh có tâm tham thời biết là có
tâm tham, lìa tâm tham thời biết là lìa
tâm tham, có tâm sân hay tâm si, thời biết là có tâm sân hay tâm si, lìa tâm
sân hay lìa tâm si thời biết là lìa
tâm sân, lìa tâm si. Nhẫn đến tán
tâm, định tâm,
quảng đại tâm,
vô lượng tâm,
vô thượng tâm đều biết đúng
như thiệt.
Bồ Tát này nhớ biết vô lượng đời trước sai
khác nhau. Như là nhớ biết một đời, hai đời, nhẫn đến vô lượng trăm
ngàn đời; kiếp thành,
kiếp hoại, vô lượng kiếp thành
hoại. Thuở đó tôi
từng ở xứ đó, tên
họ đó, dòng
họ như vậy, ăn uốngnhư vậy, sống bao
lâu khổ vui như vậy. Từ xứ đó chết sanh đến xứ này,
hình dạng như vậy, tướng mạo như vậy, tiếng nói
như vậy. Quá
khứ vô lượng đời sai
khác như vậy đều có thể nhớ biết.
Bồ Tát này Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người. Thấy các
chúng sanh lúc sống lúc
chết, sắc tốt sắc xấu, đường lành
đường dữ theo
nghiệp mà đi.
Nếu chúng
sanh đó gây tạo nghiệp ác nơi thân,
nơi lời, nơi ý tưởng, chế nhạo Hiền Thánh,
đầy đủ tà kiến và
nghiệp nhơn duyên
tà kiến, sau
khi chết tất đọa ác đạo, sanh
vào địa ngục. Nếu chúng
sanh thân tạo nghiệp lành,
lời và ý
cũng lành, chẳng khinh
Hiền Thánh,
đầy đủ chánh
kiến và
nghiệp nhơn duyên
chánh kiến, sau
khi chết tất sanh
thiện đạo trong
loài trời, loài
người. Thiên
nhãn của Bồ Tát đều thấy biết như thiệt.
Bồ Tát này đối với các
Thiền, Tam
muội, Tam
ma bát đề, có thể nhập, có thể xuất, nhưng chẳng nương sức thiền định để thọ sanh,
mà chỉ theo chỗ có thể viên
mãn Bồ đề phần, dùng
sức ý nguyện mà thọ sanh
trong đó.
Chư Phật tử ! Bồ tát này trụ bực Phát Quang
Ðịa, do
nguyện lực mà được thấy nhiều đức Phật, được thấy trăm đức Phật, ngàn
đức Phật, trăm
ngàn đức Phật, nhẫn đến thấy trăm
ngàn ức na do
tha đức Phật. Ðều dùng
quảng đại tâm,
thâm tâm để cung
kính, tôn trọng, phụng thờ, cúng dường và
cũng cúng dường chúng
Tăng. Bồ Tát đem
thiện căn
này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Ở chỗ Ðức Phật, cung
kính nghe pháp nghe xong thọ trì rồi tùy sức mà tu
hành.
Bồ Tát này quán sát tất cả pháp nhơn duyên
bất sanh bất diệt mà có
kiến phược. Trước dứt trừ tất cả dục phược, sắc phược và hữu phược, cả vô minh
phược đều càng yếu mỏng. Vì
trong vô lượng trăm
ngàn ức na do
tha kiếp chẳng tích
tập nên
tham, sân, si đều được trừ diệt. Tất cả căn
lành càng thêm sáng sạch.
Chư Phật tử ! Ví như chơn kim
khéo luyện thời cân chẳng giảm mà
càng thêm sáng sạch.
Cũng vậy, Bồ Tát trự bực Phát Quang Ðịa này,
vì chẳng tích
tập nên
tham, sân, si đều dứt trừ, bao
nhiêu thiện căn
càng thêm sáng sạch.
Bồ Tát này về những tâm
nhẫn nhục, nhu
hòa, thuận hiệp, vui đẹp, chẳng sân,
chẳng động, chẳng trược, không
cao hạ, chẳng mong
đền đáp,
lòng báo ân, tâm chẳng dua vạy, chẳng phỉnh dối, không
thâm hiểm, càng
thêm thanh tịnh.
Trong bốn nhiếp pháp, Bồ Tát này
thiên nhiều về lợi hành,
và thiên nhiều về nhẫn nhục trong
mười môn Ba
la mật. Với những pháp
môn khác tùy phần, tùy sức mà tu
tập.
Chư Phật tử ! Bồ tát trụ bực Phát Quang Ðịa thứ ba này
phần nhiều hiện thân
làm Ðao Lợi Thiên
Vương, có
thể dùng phương tiện làm
cho chúng sanh lìa bỏ tham dục. Những công
hạnh bố thí, ái
ngữ, lợi hành,
đồng sự đều không
rời niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng,
nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này lại nghĩ rằng : Nơi tất cả chúng
sanh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, là
thù thắng, là
diệu, là vi
diệu, là thượng, là
vô thượng, nhẫn đến là người y chỉ của Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát này nếu chuyên
cần tinh tấn, trong
khoảng một niệm được trăm
ngàn tam muội, được thấy trăm
ngàn đức Phật, biết thần lực của trăm
ngàn đức Phật, có thể chấn động trăm
ngàn thế giới, nhẫn đến thị hiện trăm
ngàn thân Phật, mỗi mỗi thân
Phật hiện trăm
ngàn Bồ Tát làm
quyến thuộc. Nếu dùng
nguyện lực thù thắng, Bồ Tát này
tự tại thị hiện hơn số trên,
trăm kiếp, ngàn
kiếp, nhẫn đến trăm
ngàn ức na do
tha kiếp không
thể tính đếm biết được.
Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên
lại nghĩa
này mà nói kệ rằng :
Thanh tịnh an trụ tâm
sáng thạnh
Tâm nhàm lìa, không tham, không hại
Tâm kiên cố, dũng
mãnh, rộng lớn
Bực trí dùng đây vào Tam Ðịa
Bồ Tát trụ bực Phát Quang Ðịa
Quán thấy hữu vi : khổ, vô thường
Bất tịnh, bại hoại mau tan diệt
Không bền, không dừng,
không qua lại.
Xem pháp hữu vi như bịnh nặng
Buộc ràng bởi ưu bi, khổ não
Lửa mạnh tam độc hằng cháy
hực
Từ vô thủy đến nay chẳng dứt
Nhàm lìa ba cõi chẳng tham
chấp
Chuyên cầu Phật trí
không niệm lạ
Khó nghĩ khó lường không
sánh kịp
Vô lượng vô biên không bức não
Thấy Phật trí rồi thương chúng sanh
Cô độc không chỗ nương cứu hộ
Ba độc cháy hừng thường thiếu khốn
Ở ngục ba cõi
luôn chịu khổ.
Phiền não cột trói mê không trí
Chí nguyện hạ liệt mất pháp bửu
Tùy thuận sanh tử sợ Niết Bàn
Tôi phải cứu họ siêng tinh tấn.
Toan cầu trí huệ lợi chúng
sanh
Nghĩ phương tiện gì khiến giải thoát.
Chẳng rời Như Lai trí vô ngại
Kia lại phát khởi huệ vô
sanh.
Nghĩ rằng huệ này do nghe pháp
Suy nghĩ như vậy tự siêng gắng
Ngày đêm nghe tu không xen hở
Chỉ dùng chánh pháp làm tôn trọng.
Quốc thành, tiền của, các
trân bửu
Vợ con, quyến thuộc và
ngôi vua
Bồ Tát vì pháp tâm cung kính
Tất cả như vậy đều thí xả
Ðầu, mắt, tai, mũi, lưỡi và
răng
Tay, chân, xương, tủy, tim,
máu, thịt
Thí xả tất cả chưa là khó
Chỉ cho nghe pháp là rất khó.
Dầu có ai đến nói Bồ Tát.
Nếu nhảy vào được trong hầm lửa
Tôi sẽ truyền cho Phật pháp bửu
Nghe nói vào lửa không
khiếp sợ.
Dầu cho lửa đầy cõi Ðại Thiên
Thân từ trời Phạm mà nhảy vào
Vì cầu Phật pháp xem không khó
Huống là nhơn gian
những khổ nhỏ.
Từ sơ phát tâm đến thành
Phật
Tất cả sự khổ ngục A Tỳ
Vì nghe Phật pháp đều chịu được
Huống là sự khổ của nhơn gian.
Nghe Phật pháp rồi Chánh
tư duy
Lại được Tứ thiền, Vô sắc định
Tứ đẳng, Ngũ thông lần lượt khởi
Chẳng theo định lực để thọ sanh.
Bồ Tát ở đây thấy nhiều Phật
Cúng dường nghe pháp tâm quyết định
Dứt các tà hoặc càng
thanh tịnh
Như luyện chơn kim chất không
giảm.
Bực này thường làm
Thiên Ðế Thích
Hóa đạo vô lượng chúng cõi Trời
Khiến bỏ tâm tham ở đạo lành
Một bề chuyên cầu công đức Phật
Phật tử ở đây siêng tinh tấn
Trăm ngàn tam muội đều đầy đủ
Thấy trăm ngàn Phật thân
oai nghiêm
Nếu dùng nguyện lực hơn vô lượng
Lợi ích khắp tất cả chúng
sanh
Công hạnh tối thượng của Bồ Tát
Phát Quang Ðịa có như vậy thảy
Tôi y theo nghĩa đã giải thích.
Comments
Post a Comment