Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ KINH HOA NGHIÊM, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 53
PHẨM LY THẾ GIAN
THỨ BA MƯƠI TÁM
Bấy giờ đức Thế-Tôn ở nước Ma-Kiệt-Ðề trong đạo-tràng
Bồ-Ðề
A-Lan-Nhã điện Phổ-Quang-Minh,
ngồi tòa
Liên-Hoa-Tạng Sư-Tử diệu ngộ
viên-mãn, tuyệt hẳn hai hạnh, đạt pháp vô-tướng, an
trụ nơi chỗ trụ của Phật, được phật bình-đẳng, đến chỗ không
chướng ngại pháp
chẳng thể chuyển, chỗ làm
vô-ngại lập bất-tư-nghì,
thấy khắp tam-thế, thân hằng đầy khắp tất cả quốc độ, trí hằng sáng
thấu tất cả pháp,
rõ tất cả hạnh, hết tất cả nghi,
thân không thể lường, trí
đồng với chỗ cầu của tất cả Bồ-Tát, đến bỉ-ngạn rốt ráo
không hai của Phật, đầy đủ bình-đẳng giải-thoát
của Như-Lai, chứng bực Phật bình-đẳng không
trung biên, tột nơi
pháp-giới, khắp hư-không-giới, cùng
bất-khả-thuyết trăm ngàn
na-do-tha phật-sát
vi-trần-số đại Bồ-Tát câu
hội.
Chư đại Bồ-Tát nầy đều là bực một đời sẽ được vô-thượng bồ-đề, đều từ những cõi nước phương khác
mà đồng đến tập họp, đều đủ Bồ-Tát phương-tiện trí-huệ: những là
khéo hay quán-sát tất cả
chúng-sanh, dùng sức phương-tiện khiến họ điều-phục trụ nơi pháp Bồ-Tát.
Khéo hay quan-sát tất cả thế-giới, dùng
sức phương-tiện đều khắp qua đến. Khéo
hay quán-sát cảnh-giới niết-bàn, tư duy suy
lường lìa hẳn tất cả hí-luận
phân-biệt mà tu
diệu-hạnh không
có gián-đoạn. Khéo
hay nhiếp thọ tất cả
chúng-sanh. Khéo vào vô-lượng pháp
phương-tiện. Biết các
chúng-sanh rỗng không
chẳng có mà
chẳng hoại nghiệp quả. Khéo
biết tâm sử, chư căn, cảnh-giới, phương-tiện các loại sai-biệt của
chúng-sanh. Ðều hay thọ-trì
tam-thế phật-pháp,
tự được hiểu rõ lại vì người giải-thuyết. Ðều khéo
an-trụ nơi vô-lượng pháp
thế và xuất-thế, biết tánh
chơn-thiệt của tất cả pháp. Nơi tất cả pháp hữu-vi
vô-vi đều khéo
quán-sát biết không
có hai. Ở trong một niệm đều có thể chứng được trí-huệ của tam-thế chư Phật. Ở trong mỗi niệm đều hay thị-hiện thành
đẳng-chánh-giác,
làm cho tất cả
chúng-sanh phát tâm thành-đạo. Nơi cảnh sở-duyên của một
chúng-sanh đều biết cảnh-giới của tất cả
chúng-sanh. Dầu nhập Như-Lai nhứt-thiết-trí-địa mà chẳng bỏ hạnh bồ-tát, cũng
chẳng bỏ sự nghiệp,
trí-huệ, phương-tiện của Bồ-Tát, mà
vẫn không
sở-tác. Vì
mỗi mỗi
chúng-sanh trụ vô-lượng kiếp, mà
trong vô-số kiếp khó gặp được. Chuyển chánh
pháp-luân, điều phục
chúng-sanh đều không
bỏ luống. Hạnh nguyện
thanh-tịnh của tam-thế chư Phật đều đã đầy đủ.
Thành tựu vô-lượng công-đức như vậy. Tất cả Như-Lai
trong vô-biên kiếp nói chẳng hết được.
Tên của các ngài là:
Phổ-Hiền Bồ-Tát, Phỗ-Nhãn Bồ-Tát, Phổ-Hóa Bồ-Tát, Phổ-Huệ Bồ-Tát, Phổ-Kiến Bồ-Tát, Phổ-Quang Bồ-Tát, Phổ-Quán Bồ-Tát, Phổ-Chiếu Bồ-Tát, Phổ-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Giác Bồ-Tát.
Mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức
na-do-tha phật-sát
vi-trần-số chư đại Bồ-Tát như vậy, thảy đều
thành-tựu hạnh nguyện Phổ-Hiền, thâm
tâm đại-nguyện đều đã
viên-mãn. Chỗ của tất cả chư Phật xuất thế đều có thể qua đến thỉnh chuyển
pháp-luân. Khéo hay thọ-trì
pháp-nhãn của chư Phật. Chẳng dứt chủng-tánh
của tất cả chư Phật. Khéo
biết tất cả chư Phật ra đời, thứ đệ thọ ký
danh-hiệu, quốc-độ, thành
Phật chuyển
pháp-luân. Thế-giới không
Phật hiện thân
thành Phật. Hay
khiến
chúng-sanh tạp nhiễm đều được
thanh-tịnh. Hay
diệt tất cả nghiệp-chướng của Bồ-Tát,
vào nơi
pháp-giới
thanh-tịnh vô-ngại.
Bấy giờ Phổ-Hiền đại Bồ-Tát nhập quảng đại tam-muội tên là
phật-hoa-trang-nghiêm.
Lúc Bồ-Tát nhập tam-muội nầy, tất cả thế-giới mười phương chấn động sáu
cách mười tám tướng, pháp
âm-thanh lớn không
đâu chẳng nghe.
Sau đó Bồ-Tát mới từ tam-muội xuất định.
Bấy giờ Phổ-Huệ Bồ-Tát biết đại-chúng đã vân tập, hỏi Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng:
Thưa Phật-tử ! Xin ngài diễn thuyết:
Những gì là y-chỉ của đại Bồ-Tát ?
Những gì là
kỳ-đặc-tưởng ? Những gì là
hạnh ? Những gì là
thiện-tri-thức ? Những gì là
siêng tinh-tấn ? Những gì là
tâm được an-ổn ? Những gì là
thành-tựu
chúng-sanh? Những gì là
giới ? Những gì là
tự biết thọ ký ? Những gì là
nhập Bồ-Tát ?
Những gì là
nhập Như-Lai ?
Những gì là
nhập tâm
hành của
chúng-sanh ? Những gì là
nhập thế-giới ? Những gì là
nhập kiếp ? Những gì là
nói tam-thế ? Những gì là
biết tam-thế ? Những gì là
phát tâm không mỏi nhàm ?
Những gì là
trí sai-biệt ? Những gì là
đà-la-ni ? Những gì là
diễn thuyết Phật ? Những gì là
phát tâm Phổ-Hiền ? Những gì là
Phổ-Hiền hạnh pháp
? Do những cớ gì mà
sanh lòng đại-bi? Những gì là
nhơn-duyên
phát bồ-đề tâm ?
Những gì là
sanh tâm tôn trọng đối với thiện-tri-thức ? Những gì là
thanh-tịnh ? Những gì là
các ba-la-mật ? Những gì là
trí tùy giác ? Những gì là
chứng tri ?
Những gì là
lực ? Những gì là
bình-đẳng ? Những gì là
phật-pháp
thiệt-nghĩa
cú ? Những gì là
thuyết-pháp ?
Những gì là
trì ? Những gì là
biện-tài ?
Những gì là
tự-tại ? Những gì là
tánh vô trước ? Những gì là
tâm bình-đẳng ? Những gì là
xuất sanh
trí-huệ ? Những gì là
biến hóa?
Những gì là
lực-trì ?
Những gì là
được đại hân-ủy ? Những gì là
thâm nhập phật-pháp ?
Những gì là
y-chỉ ? Những gì là
phát tâm vô-úy ? Những gì là
phát tâm không nghi hoặc ? Những gì là
bất-tư-nghì ?
Những gì là
xảo-mật-ngữ ? Những gì là
xảo
phân-biệt trí ?
Những gì là
nhập tam-muội ? Những gì là
biến nhập ? Những gì là
môn giải-thoát
? Những gì là
thần-thông
? Những gì là
minh ? Những gì là
giải thoát
? Những gì là
viên-lâm ? Những gì là
cung-điện ? Những gì là
sở-nhạo ? Những gì là
trang-nghiêm ? Những gì là
phát tâm bất-động ? Những gì là
chẳng bỏ tâm
thâm đại ? Những gì là
quán-sát ? Những gì là
thuyết pháp ?
Những gì là
thanh-tịnh ? Những gì là
ấn ? Những gì là
trí-quang-chiếu? Những gì là
vô-đẳng-trụ ? Những gì là
tâm không hạ liệt? Những gì là
tâm tăng thượng như núi ?
Những gì là
trí như biển nhập vô-thượng bồ-đề ? Những gì là
như-thiệt-trụ ? Những gì là
phát tâm đại-thừa thệ nguyện như
kim-cang ? Những gì là
đại phát
khởi ? Những gì là
cứu-cánh đại-sự ? Những gì là
bất-hoại-tín ?
Những gì là
thọ-ký ? Những gì là
thiện-căn hồi-hướng ? Những gì là
được trí-huệ ? Những gì là
phát tâm vô-biên quảng-đại ? Những gì là
phục-tạng ? Những gì là
luật-nghi ?
Những gì là
tự-tại ? Những gì là
vô-ngại dụng ? Những gì là
chúng-sanh vô-ngại dụng ? Những gì là
quốc-độ vô-ngại dụng ? Những gì là
pháp vô-ngại dụng ? Những gì là
thân vô-ngại dụng ? Những gì là
nguyện vô-ngại dụng ? Những gì là
cảnh-giới vô-ngại dụng ? Những gì là
trí vô-ngại dụng ? Những gì là
thần-thông
vô-ngại dụng ? Những gì là
thần-lực vô-ngại dụng ? Những gì là
lực vô-ngại dụng ? Những gì là
du-hí ? Những gì là
cảnh-giới ? Những gì là
lực ? Những gì là
vô-úy ? Những gì là
pháp bất-cộng ? Những gì là
nghiệp ? Những gì là
thân ? Những gì là
thân-nghiệp ? Những gì là
ngữ ? Những gì là
tịnh tu ngữ-nghiệp ? Những gì là
được thủ hộ ? Những gì là
thành xong việc lớn ? Những gì là
tâm ? Những gì là
phát tâm ? Những gì là
tâm châu-biến ? Những gì là
chư căn ?
Những gì là
thân tâm ? Những gì là
thâm-tâm tăng thượng ? Những gì là
siêng tu ? Những gì là
quyết định giải ? Những gì là
quyết định giải nhập thế-giới? Những gì là
quyết định giải nhập
chúng-sanh-giới ? Những gì là
tập-khí?
Những gì là
thủ ? Những gì là
tu ? Những gì là
thành tựu phật-pháp ?
Những gì là
thối thất phật-pháp-đạo ? Những gì là
ly-sanh-đạo ? Những gì là
quyết-định-pháp
? Những gì là
xuất sanh
phật-pháp-đạo ? Những gì là
đại-trượng-phu
danh-hiệu ? Những gì là
đạo ? Những gì là
vô-lượng-đạo ? Những gì là
trợ-đạo ? Những gì là
tu đạo ? Những gì là
trang-nghiêm đạo ? Những gì là
chưn ? Những gì là
tay ? Những gì là
bụng ? Những gì là
tạng ? Những gì là
tâm ? Những gì là
mặc giáp ?
Những gì là
khí trượng ? Những gì là
đầu ? Những gì là
mắt ? Những gì là
tai ? Những gì là
mũi ? Những gì là
lưỡi ? Những gì là
thân ? Những gì là
ý ? Những gì là
đi ? Những gì là
đứng ? Những gì là
ngồi ? Những gì là
nằm ? Những gì là
chỗ sở-trụ ? Những gì là
chỗ sở-hành ?
Những gì là
quán sát ? Những gì là
khắp
quán-sát ? Những gì là
phấn-tấn ? Những gì là
sư-tử-hống ? Những gì là
thanh-tịnh thí ?
Những gì là
thanh-tịnh giới ? Những gì là
thanh-tịnh-nhẫn ? Những gì là
thanh-tịnh
tinh-tấn ? Những gì là
thanh-tịnh định ? Những gì là
thanh-tịnh huệ ? Những gì là
thanh-tịnh từ ? Những gì là
thanh-tịnh bi ?
Những gì là
thanh-tịnh hỉ ? Những gì là
thanh-tịnh xả ? Những gì là
nghĩa ? Những gì là
pháp? Những gì là
phước-đức trợ-đạo cụ ? Những gì là
trí-huệ trợ-đạo cụ ? Những gì là
minh-túc ? Những gì là
cầu pháp ?
Những gì là
minh-liễu pháp ?
Những gì là
tu hành pháp? Những gì là
ma ? Những gì là
ma-nghiệp ? Những gì là
bỏ rời
ma-nghiệp ? Những gì là
thấy Phật ? Những gì là
phật-nghiệp ? Những gì là
mạn-nghiệp ? Những gì là
trí-nghiệp ? Những gì là
ma nhiếp trì ?
Những gì là
Phật nhiếp-trì ?
Những gì là
pháp nhiếp-trì ?
Những gì là
công-nghiệp trụ Ðâu-Suất-thiên
? Cớ gì nơi Ðâu-Suất-Thiên-Cung
mất? Cớ gì hiện ở thai ?
Những gì là
hiện vi-tế-thú ? Cớ gì hiện sơ-sanh ?
Cớ gì hiện vi-tiếu ? Cớ gì hiện đi bảy bước ? Cớ gì hiện đồng-tử ? Cớ gì hiện ở nội-cung ?
Cớ gì hiện xuất-gia ?
Cớ gì hiện khổ-hạnh ? Qua
đến đạo-tràng
thế nào? Ngồi đạo-tràng
thế nào ?
Những gì là
tướng kỳ-đặc khi ngồi đạo-tràng
? Cớ gì hiện hàng
ma ? Những gì
thành Như-Lai lực? Chuyển
pháp-luân thế nào ? Cớ gì nhơn chuyển
pháp-luân được pháp bạch tịnh ? Cớ gì đức Như-Lai Ðẳng-Chánh-Giác
hiện nhập niết-bàn ?
Lành thay Phật-tử ! Những pháp
như vậy xin
ngài diễn nói
cho.
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Phổ-Huệ và chư Bồ-Tát rằng :
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười chỗ y-chỉ :
Dùng bồ-đề tâm làm y-chỉ, vì hằng chẳng quên
mất.
Dùng thiện-tri-thức làm
y-chỉ, vì hòa
hiệp như một.
Dùng thiện-căn làm
y-chỉ, vì tu
tập
tăng-trưởng.
Dùng ba-la-mật làm
y-chỉ, vì tu
hành đầy đủ.
Dùng nhứt-thiết pháp làm y-chỉ, vì rốt ráo xuất ly.
Dùng đại-nguyện làm y-chỉ, vì
tăng-trưởng bồ-đề.
Dùng các hạnh làm
y-chỉ, vì khắp đều
thành-tựu.
Dùng tất cả Bồ-Tát làm y-chỉ, vì đồng một trí-huệ.
Dùng cúng-dường chư Phật làm
y-chỉ, vì tín
tâm thanh-tịnh.
Dùng tất cả Như-Lai làm y-chỉ, vì như từ-phụ dạy răn chẳng dứt.
Nếu chư Bồ-Tát an trụ nơi pháp
y-chỉ nầy thời được là chỗ sở-y đại trí
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tưởng kỳ-đặc :
Nơi tất cả thiện-căn tưởng là tự thiện-căn.
Nơi tất cả thiện-căn tưởng là chủng-tử bồ-đề.
Nơi tất cả chúng-sanh tưởng là
căn-khí bồ-đề.
Nơi tất cả nguyện tưởng là tự-nguyện.
Nơi tất cả pháp tưởng xuất ly.
Nơi tất cả hạnh tưởng là tư-hạnh.
Nơi tất cả pháp tưởng là phật-pháp.
Nơi tất cả pháp ngữ ngôn tưởng là đạo ngữ ngôn.
Nơi tất cả Phật tưởng là từ-phụ.
Nơi tất cả Như-Lai tưởng không hai.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi mười pháp tưởng nầy thời được tưởng thiện-xảo vô-thượng.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ hạnh :
Tất cả chúng-sanh hạnh, vì
làm cho khắp được
thành-thục.
Tất cả cầu-pháp hạnh, vì
tu học tất cả.
Tất cả thiện-căn hạnh, vì đều khiến tăng
trưởng.
Tất cả tam-muội hạnh, vì nhứt tâm bất loạn.
Tất cả trí-huệ hạnh, vì không chi chẳng biết rõ.
Tất cả tu tập hạnh, vì không chi chẳng tu được.
Tất cả phật-sát hạnh, vì thảy đều
trang-nghiêm.
Tất cả thiện-hữu hạnh, vì cung-kính cúng-dường.
Tất cả Như-Lai hạnh, vì tôn trọng thừa sự.
Tất cả thần-thông hạnh, vì
biến-hóa tự-tại.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi mười hạnh nầy thời được hạnh đại trí-huệ vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười bực thiện-tri-thức :
Thiện-tri-thức khiến an-trụ bồ-đề tâm.
Thiện-tri-thức khiến sanh thiện-căn.
Thiện-tri-thức khiến thật hành
các môn ba-la-mật.
Thiện-tri-thức khiến giải-thoát
tất cả pháp.
Thiện-tri-thức khiến
thành-thục tất cả
chúng-sanh.
Thiện-tri-thức khiến được quyết định biện-tài.
Thiện-tri-thức khiến chẳng nhiễm trước tất cả thế-gian.
Thiện-tri-thức khiến trong
tất cả kiếp tu
hành không nhàm mỏi.
Thiện-tri-thức khiến an-trụ hạnh phổ-hiền.
Thiện-tri-thức khiến nhập nơi trí của chư Phật đã nhập.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười sự siêng
tinh-tấn :
Siêng tinh-tấn
giáo-hóa tất cả chúng-sanh.
Siêng tinh-tấn thâm
nhập tất cả pháp.
Siêng tinh-tấn
nghiêm-tịnh tất cả thế-giới.
Siêng tinh-tấn tu
hành tất cả sở-học của Bồ-Tát.
Siêng tinh-tấn diệt trừ tất cả ác của
chúng-sanh.
Siêng tinh-tấn ngăn dứt tất cả ba ác-đạo khổ.
Siêng tinh-tấn dẹp phá tất cả quân
ma.
Siêng tinh-tấn nguyện vì tất cả
chúng-sanh làm mắt
thanh-tịnh.
Siêng tinh-tấn cúng-dường tất cả chư Phật.
Siêng tinh-tấn khiến tất cả Như-Lai đều hoan-hỷ.
Nếu chư Bồ-Tát an trụ nơi mười pháp
siêng tinh-tấn nầy thời được đầy đủ tinh-tấn
ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tâm được an-ổn :
Mình trụ bồ-đề tâm cũng phải khiến người trụ bồ-đề tâm,
nên tâm được an-ổn.
Mình rốt ráo rời giận hờn đấu tranh cũng phải khiến người rời giận hờn đấu tranh,
nên tâm được an-ổn.
Mình rời pháp phàm ngu cũng khiến người rời pháp
phàm ngu, nên tâm được an-ổn.
Mình siêng tu thiện-căn
cũng khiến người siêng
tu thiện-căn,
nên tâm được an-ổn.
Mình trụ đạo ba-la-mật cũng
khiến người trụ đạo
ba-la-mật, nên
tâm được an-ổn.
Mình sanh tại nhà Phật cũng
phải khiến người sanh tại nhà Phật, nên
tâm được an-ổn.
Mình thâm nhập pháp
chơn-thiệt không
tự-tánh
cũng khiến người nhập pháp
chơn-thiệt không
tự-tánh,
nên tâm được an-ổn.
Mình không phỉ báng tất cả Phật-pháp,
cũng khiến người không
phỉ báng tất cả phật-pháp,
nên tâm được an-ổn.
Mình viên-mãn nhứt-thiết-trí bồ-đề nguyện cũng
khiến người
viên-mãn nhứt-thiết-trí bồ-đề nguyện, nên
tâm được an-ổn.
Mình thâm nhập trí-tạng vô-tận của tất cả Như-Lai
cũng khiến người nhập trí-tạng vô-tận của tất cả Như-Lai,
nên tâm được an-ổn.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi tâm
an-ổn nầy thời được sự an-ổn đại-trí
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười cách
thành-tựu chúng
sanh:
Dùng bố-thí để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng sắc-thân để thành-tựu chúng
sanh.
Dùng thuyết-pháp để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng đồng hạnh để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng không nhiễm trước để thành-tựu chúng
sanh.
Dùng khai-thị bồ-tát hạnh để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng thị-hiện rõ ràng tất cả thế-giới để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng thị-hiện oai-đức lớn của phật-pháp để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng những thần-thông biến hiện để thành-tựu
chúng-sanh.
Dùng những phương-tiện vi-mật thiện-xảo để thành-tựu
chúng-sanh.
Bồ-Tát dùng mười pháp nầy để thành-tựu
chúng-sanh-giới.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười loại giới :
Giới chẳng bỏ bồ-đề tâm.
Giới xa lìa bực nhị-thừa.
Giới quán-sát lợi ích tất cả
chúng-sanh.
Giới khiến tất cả chúng-sanh an trụ nơi phật-pháp.
Giới tu tất cả sở-học của Bồ-Tát.
Giới nơi tất cả pháp vô-sở-sắc.
Giới đem tất cả thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Giới chẳng tham trước tất cả thân Như-Lai.
Giới tư duy tất cả pháp lìa nhiễm trước.
Giới chư căn luật nghi.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi giới nầy thời được giới quảng-đại
ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
thọ ký, Bồ-Tát do
đây mà biết mình
thọ-ký:
Dùng ý thù-thắng phát
bồ-đề tâm, tự biết thọ-ký.
Trọn chẳng nhàm bỏ hạnh bồ-tát, tự biết thọ ký.
Trụ tất cả kiếp thật hành hạnh bồ-tát, tự biết thọ ký.
Tu tất cả phật-pháp, tự biết thọ ký.
Nơi tất cả phật-giáo một bề thâm
tín, tự biết thọ ký.
Tu tất cả thiện-căn đều khiến thành-tựu, tự biết thọ ký.
Ðặt tất cả chúng-sanh nơi phật bồ-đề, tự biết thọ ký.
Với tất cả thiện-tri-thức hòa hiệp không
hai, tự biết thọ ký.
Nơi tất cả thiện-tri-thức tưởng là Phật, tự biết thọ ký.
Hằng siêng thủ hộ bổn-nguyện bồ-đề, tự biết thọ ký.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
nhập Bồ-Tát:
Nhập bổn-nguyện. Nhập hạnh. Nhập tụ. Nhập ba-la-mật. Nhập
thành-tựu. Nhập sai-biệt nguyện. Nhập các thứ tri giải. Nhập
trang-nghiêm phật-độ. Nhập thần-lực tự-tại. Nhập thị-hiện thọ sanh.
Bồ-Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Bồ-Tát.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
nhập Như-Lai :
Nhập vô-biên thành chánh-giác. Nhập
vô-biên chuyển
pháp-luân. Nhập
vô-biên pháp phương-tiện. Nhập
vô-biên âm-thanh sai-biệt. Nhập
vô-biên điều-phục chúng
sanh. Nhập
vô-biên thần-lực tự-tại. Nhập
vô-biên những thân
sai-biệt. Nhập
vô-biên tam-muội. Nhập
vô-biên lực vô-úy.
Nhập
vô-biên thị-hiện niết-bàn.
Bồ-Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
nhập
chúng-sanh hạnh :
Nhập tất cả chúng-sanh quá-khứ hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh vị-lai hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh hiện-tại hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh thiện-hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh bất-thiện-hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh tâm-hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh căn-hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh giải-hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh phiền-não tập-khí hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh giáo-hóa điều-phục thời phi-thời hạnh.
Bồ-Tát dùng pháp nầy vào khắp hạnh của tất cả
chúng-sanh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười cách
nhập thế-giới :
Nhập thế-giới nhiễm. Nhập thế-giới tịnh. Nhập thế-giới nhỏ. Nhập thế-giới lớn. Nhập thế-giới trong vi-trần. Nhập thế-giới vi-tế. Nhập thế-giới úp. Nhập thế-giới ngửa. Nhập thế-giới có Phật. Nhập thế-giới không
Phật.
Bồ-Tát dùng đây vào khắp tất cả thế-giới ở mười phương.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ nhập kiếp :
Nhập kiếp quá-khứ. Nhập kiếp vị-lai. Nhập kiếp hiện-tại. Nhập kiếp đếm được. Nhập kiếp không
đếm được. Nhập kiếp đếm được tức là kiếp không
đếm được. Nhập kiếp không
đếm được tức là kiếp đếm được. Nhập tất cả kiếp tức là
phi-kiếp. Nhập phi-kiếp tức là tất cả kiếp. Nhập tất cả kiếp tức một niệm.
Bồ-Tát dùng pháp nầy vào khắp tất cả kiếp.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
nói tam-thế :
Quá-khứ thế nói quá-khứ thế. Quá-khứ thế nói vị-lai thế. Quá-khứ thế nói hiện-tại thế. Vị-lai thế nói quá
khứ thế. Vị-lai thế nói hiện-tại thế. Vị-lai thế nói
vô-tận. Hiện-tại thế nói
quá-khứ thế. Hiện-tại thế nói vị-lai thế. Hiện-tại thế nói
bình-đẳng. Hiện-tại thế nói
tam-thế tức một niệm.
Bồ-Tát dùng pháp nầy nói khắp tam-thế.
Ðại Bồ-Tát có mười pháp
biết tam-thế :
Biết những an lập. Biết những ngữ ngôn. Biết những luận nghi.
Biết những quy tắc. Biết những xưng tán.
Biết những chế lịnh. Biết kia giả-danh.
Biết kia
vô-tận. Biết kia tịch-diệt. Biết tất cả không.
Bồ-Tát dùng đây biết khắp tất cả những pháp
tam thế.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười thứ tâm
không mỏi nhọc nhàm
chán :
Cúng-dường tất cả chư Phật tâm không mỏi nhàm.
Gần-gũi tất cả thiện-tri-thức tâm
không mỏi nhàm.
Cầu tất cả pháp tâm không mỏi nhàm.
Nghe chánh-pháp tâm không mỏi nhàm.
Tuyên nói chánh-pháp tâm không mỏi nhàm.
Giáo-hóa điều-phục tất cả
chúng-sanh tâm không mỏi nhàm.
Ðặt tất cả chúng-sanh nơi Phật bồ-đề tâm
không mỏi nhàm.
Nơi mỗi mỗi thế-giới trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành bồ-tát hạnh tâm
không mỏi nhàm.
Du hành tất cả thế-giới tâm
không mỏi nhàm.
Quán-sát tư-duy tất cả phật-pháp
tâm không mỏi nhàm.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đại-trí
vô-thượng không
mỏi nhàm của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ sai-biệt-trí :
Trí sai-biệt biết
chúng-sanh. Trí sai-biệt biết các
căn. Trí sai-biệt biết nghiệp báo.
Trí sai-biệt biết thọ sanh.
Trí sai-biệt biết thế-giới. Trí
sai-biệt biết
pháp-giới. Trí
sai-biệt biết chư Phật. Trí
sai-biệt biết các
pháp. Trí sai-biệt biết tam-thế. Trí
sai-biệt biết tất cả đạo ngữ ngôn.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được trí
sai-biệt quảng-đại vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ
đà-la-ni :
Văn-trì đà-la-ni, vì trì tất cả pháp chẳng quên
mất.
Tu-hành đà-la-ni, vì như thiệt khéo
quán tất cả pháp.
Tư-duy đà-la-ni, vì biết rõ
tánh của tất cả pháp.
Pháp quang-minh đà-la-ni, vì chiếu bất-tư-nghì Phật pháp.
Tam-muội đà-la-ni, vì ở khắp chỗ hiện-tại tất cả Phật nghe
chánh-pháp tâm chẳng loạn.
Viên-âm đà-la-ni, vì hiểu rõ bất-tư-nghì âm
thanh ngữ ngôn.
Tam-thế đà-la-ni, vì diễn nói
tam thế những phật-pháp bất-tư-nghì.
Chủng-chủng biện-tài đà-la-ni, vì diễn nói
vô-biên những phật-pháp.
Xuất sanh vô-ngại-nhĩ
đà-la-ni, vì đều có thể nghe được pháp của bất-khả-thuyết chư Phật đã
nói.
Nhứt-thiết-phật-pháp đà-la-ni, vì an-trụ nơi lực vô-úy
của Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát muốn được đà-la-ni nầy phải siêng
tu học.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nói mười Phật :
Thành chánh-giác Phật. Nguyện Phật. Nghiệp báo Phật. Trụ-trì Phật. Niết-bàn Phật.
Pháp-giới Phật. Tâm
Phật.
Tam-muội Phật. Bổn-tánh
Phật. Tùy
nhạo Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười tâm Phổ-Hiền :
Phát tâm đại-từ, vì cứu hộ tất cả
chúng-sanh.
Phát tâm đại-bi, vì
chịu khổ thay
cho tất cả
chúng-sanh.
Phát tâm thí tất cả, vì đều xả bỏ tất cả sở-hữu.
Phát tâm nhớ nhứt-thiết-trí
làm trước nhứt, vì
thích cầu tất cả phật-pháp.
Phát tâm công-đức
trang-nghiêm, vì học tất cả hạnh Bồ-Tát.
Phát tâm như
kim-cang, vì tất cả chỗ thọ sanh
không quên mất.
Phát tâm như biển, vì tất cả pháp trắng trong
đều chảy vào.
Phát tâm như Tu-Di sơn, vì tất cả ác ngôn
đều nhẫn thọ.
Phát tâm an-ổn, vì
ban sự vô-úy
cho tất cả
chúng-sanh.
Phát tâm bát-nhã ba-la-mật cứu-cánh,
vì khéo quán sát tất cả pháp
vô-sở-hữu.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ tâm nầy thời mau được
thành-tựu trí
thiện-xảo của Phổ-Hiền.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười Phổ-Hiền hạnh pháp
:
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện trụ tất cả kiếp vị-lai.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện cúng-dường cung
kính tất cả Phật vị-lai.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện an-trí
tất cả
chúng-sanh nơi hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện chứa nhóm tất cả thiện căn.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện nhập tất cả ba-la-mật.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện đầy đủ tất cả Bồ-Tát hạnh.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện
trang-nghiêm tất cả thế-giới.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện sanh tất cả cõi Phật.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện khéo
quán-sát tất cả pháp.
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện nơi tất cả Phật quốc-độ thành
vô-thượng bồ-đề.
Nếu chư Bồ-Tát siêng tu pháp nầy thời mau được
viên-mãn hạnh nguyện Phổ-Hiền.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát dùng mười pháp
quán sát chúng-sanh mà khởi đại-bi :
Quán-sát chúng-sanh không nương không
dựa mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh nghèo không căn
lành mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh mãi mãi ngủ mê mà
khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh làm pháp bất thiện mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh bị trói bởi dục-phược mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh chìm biển sanh-tử mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh không muốn pháp
lành mà khởi đại-bi.
Quán-sát chúng-sanh mất những phật-pháp
mà khởi đại-bi.
Bồ-Tát hằng dùng tâm nầy
quán-sát chúng-sanh.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười nhơn-duyên
phát bồ-đề tâm :
Vì giáo-hóa điều-phục tất cả
chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Vì trừ diệt tất cả khổ cho chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Vì ban cho tất cả
chúng-sanh đầy đủ sự an-lạc mà
phát bồ-đề tâm.
Vì dứt sự ngu-si của tất cả
chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Vì ban phật-trí
cho tất cả
chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Vì cung-kíng cúng-dường tất cả chư Phật mà
phát bồ-đề tâm.
Vì thuận theo phật-giáo
cho chư Phật hoan-hỉ mà phát
bồ-đề tâm.
Vì thấy sắc thân tướng hảo của tất cả Phật mà
phát bồ-đề tâm.
Vì nhập trí-huệ quảng-đại của tất cả Phật mà
phát bồ-đề tâm.
Vì hiển hiện lực vô-úy của tất cả Phật mà
phát bồ-đề tâm.
Nếu Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề để được ngộ nhập nhứt-thiết-chủng trí,
lúc thân cận cúng-dường thiện-tri-thức phải khởi mười tâm :
Khởi tâm cung cấp hầu hạ. Tâm
hoan-hỉ. Tâm
không trái. Tâm tùy thuận. Tâm
không cầu lạ. Tâm nhứt hướng. Tâm
đồng thiện-căn.
Tâm đồng-nguyện. Tâm
Như-Lai.
Tâm đồng
viên-mãn hạnh.
Nếu đại Bồ-Tát đã khởi tâm như vậy thời được mười thứ thanh-tịnh :
Thâm-tâm thanh-tịnh, vì đến nơi rốt ráo
không mất hư.
Sắc-thân thanh-tịnh, vì
tùy sở-nghi để thị-hiện.
Âm-thanh thanh-tịnh, vì
rõ thấu tất cả ngữ ngôn.
Biện-tài thanh-tịnh, vì
khéo nói vô-biên phật-pháp.
Trí-huệ thanh-tịnh, vì bỏ rời tất cả tối
ngu-si.
Thọ-sanh thanh-tịnh, vì đầy đủ sức tự-tại của Bồ-Tát.
Quyến-thuộc thanh-tịnh, vì
thành-tựu những thiện-căn
cho các chúng-sanh đồng hạnh thuở quá-khứ.
Quả-báo thanh-tịnh, vì
trừ diệt tất cả những nghiệp-chướng.
Ðại nguyện thanh-tịnh, vì
cùng chư Bồ-Tát
tánh không hai.
Công-hạnh thanh-tịnh, vì
dùng hạnh Phổ-Hiền mà xuất ly.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ ba-la-mật :
Thí ba-la-mật, vì xả bỏ tất cả sở-hữu.
Giới ba-la-mật, vì
thanh-tịnh phật-giới.
Nhẫn ba-la-mật, vì
an-trụ phật-nhẫn.
Tinh-tấn ba-la-mật, vì tất cả chỗ làm chẳng thối chuyển.
Thiền ba-la-mật, vì nhớ một cảnh.
Bát-nhã ba-la-mật, vì như thiệt quán sát
tất cả pháp.
Trí ba-la-mật, vì nhập phật-lực.
Nguyện ba-la-mật, vì đầy đủ những đại-nguyện Phổ-Hiền.
Thần-thông ba-la-mật, vì thị-hiện tất cả công-dụng tự-tại.
Pháp ba-la-mật, vì
sao khắp tất cả phật-pháp.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đầy đủ đại-trí
ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười trí
tùy-giác :
Trí tùy giác tất cả thế-giới vô-lượng
sai-biệt.
Trí tùy giác tất cả
chúng-sanh-giới bất-tư-nghì.
Trí tùy giác tất cả pháp, một vào
nhiều pháp,
nhiều vào một pháp.
Trí tùy giác tất cả pháp-giới rộng lớn.
Trí tùy giác tất cả hư-không-giới rốt ráo.
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập quá-khứ thế.
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập vị-lai thế.
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập hiện-tại thế.
Trí tùy giác tất cả Như-Lai
vô-lượng hạnh nguyện đều ở nơi một trí mà
được
viên-mãn.
Trí tùy giác tam thế chư Phật đều đồng một hạnh mà được xuất-ly.
Nếu chư Bồ-Tát an trụ pháp nầy thời được tất cả pháp tự-tại
quang-minh, sở-nguyện đều
viên-mãn, trong khoảng một niệm đều hay hiểu rõ tất cả phật-pháp
thành đẳng
chánh-giác.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười điều chứng tri :
Biết tất cả pháp một tướng.
Biết tất cả pháp vô-lượng tướng.
Biết tất cả pháp tại một niệm.
Biết tất cả chúng-sanh tâm hành vô-ngại.
Biết tất cả chúng-sanh các căn bình-đẳng.
Biết tất cả chúng-sanh phiền-não tập-khí hiện hành.
Biết tất cả chúng-sanh tâm sử hiện hành.
Biết tất cả chúng-sanh thiện và bất-thiện hiện hành.
Biết tất cả Bồ-Tát nguyện hạnh tự tại trụ trì biến-hóa.
Biết tất cả Như-Lai đầy đủ thập-lực thành Ðẳng-Chánh-Giác.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được tất cả phương-tiện thiện-xảo.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ năng-lực :
Năng-lực nhập tự-tánh của tất cả pháp.
Năng-lực nhập tất cả pháp như hóa.
Năng-lực nhập tất cả pháp như huyễn.
Năng-lực nhập tất cả pháp đều là phật-pháp.
Năng-lực nơi tất cả pháp không nhiễm-trước.
Năng-lực nơi tất cả pháp rất hiểu rõ.
Năng-lực nơi tất cả thiện-tri-thức hằng chẳng bỏ rời tâm
tôn trọng.
Năng-lực làm cho tất cả thiện-căn
thuận đến trí-vương vô-thượng.
Năng-lực nơi tất cả phật-pháp thâm tín chẳng hủy báng.
Năng-lực làm cho nhứt-thiết-trí
tâm bất thối thiện-xảo.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời đủ những
năng-lực vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ bình-đẳng :
Nơi tất cả chúng-sanh bình-đẳng. Tất cả pháp
bình-đẳng. Tất cả cõi
bình-đẳng. Tất cả thâm
tâm bình-đẳng. Tất cả thiện-căn
bình-đẳng. Tất cả Bồ-Tát
bình-đẳng. Tất cả nguyện bình-đẳng. Tất cả ba-la-mật bình-đẳng. Tất cả hạnh
bình-đẳng. Tất cả Phật bình-đẳng.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được pháp
vô-thượng
bình-đẳng của chư Phật.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười câu
thiệt nghĩa
phật-pháp :
Tất cả pháp chỉ có
danh. Tất cả pháp dường như huyễn. Tất cả pháp dường như bóng. Tất cả pháp chỉ
duyên-khởi. Tất cả pháp
nghiệp
thanh-tịnh. Tất cả pháp chỉ văn tự làm ra.
Tất cả pháp
thiệt-tế. Tất cả pháp
vô-tướng. Tất cả pháp đệ nhứt nghĩa.
Tất cả pháp là
pháp-giới.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời khéo
nhập nhứt-thiết-chủng trí
vô-thượng chơn-thiệt nghĩa.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nói mười pháp :
Nói pháp thậm-thâm.
Nói pháp quảng-đại. Nói
các loại pháp.
Nói pháp nhứt-thiết-trí.
Nói pháp tùy thuận
ba-la-mật. Nói
pháp xuất sanh
Như-Lai lực. Nói
pháp tam-thế tương-ưng. Nói
pháp làm cho Bồ-Tát chẳng thối. Nói
pháp tán-thán Phật công-đức. Nói
pháp tất cả Bồ-Tát học tất cả Phật bình-đẳng, tương-ưng với cảnh-giới của tất cả Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được pháp xảo thuyết vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
trì :
Trì tất cả phước-đức thiện-căn đã chứa nhóm.
Trì pháp của tất cả Như-Lai diễn-thuyết.
Trì tất cả ví-dụ.
Trì môn lý-thú của tất cả pháp.
Trì tất cả môn xuất sanh đà-la-ni.
Trì tất cả trừ nghi hoặc.
Trì pháp thành-tựu tất cả Bồ-Tát.
Trì môn bình-đẳng
tam-muội của tất cả Như-Lai
nói.
Trì môn chiếu minh của tất cả pháp.
Trì năng-lực thần-thông
du-hí của tất cả chư Phật.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được năng-lực trụ trì đại trí
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ biện-tài :
Biện-tài vô-phân-biệt nơi tất cả pháp.
Biện-tài vô-sở-tác nơi tất cả pháp.
Biện-tài vô-sở-trước nơi tất cả pháp.
Biện-tài thấu rõ
tánh không nơi tất cả pháp.
Biện-tài không nghi tối nơi tất cả pháp.
Biện-tài Phật gia-bị nơi tất cả pháp.
Biện-tài tự giác-ngộ nơi tất cả pháp.
Biện-tài văn cú sai biệt thiện xảo nơi tất cả pháp.
Biện-tài nói chơn-thật nơi tất cả pháp.
Biện-tài tùy theo tâm của tất cả
chúng-sanh làm cho họ hoan-hỷ.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được biện-tài xảo diệu vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tự-tại :
Tự-tại giáo-hóa điều-phục tất cả
chúng-sanh.
Tự-tại chiếu khắp tất cả pháp.
Tự-tại tu tất cả hạnh thiện-căn.
Tự-tại trí quảng-đại.
Tự-tại cấm giới vô-sở-ý.
Tự-tại tất cả thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Tự-tại tinh-tấn bất-thối-chuyển.
Tự-tại trí-huệ dẹp phá tất cả chúng
ma.
Tự-tại tùy sở-thích khiến phát
tâm bồ-đề.
Tự-tại tùy sở-ưng hóa hiện thành
chánh-giác.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được tự-tại đại-trí
vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
vô-trước :
Vô-trước nơi tất cả thế-giới.
Vô-trước nơi tất cả chúng-sanh.
Vô-trước nơi tất cả pháp.
Vô-trước nơi tất cả sở-tác.
Vô-trước nơi tất cả thiện-căn.
Vô-trước nơi tất cả chỗ thọ sanh.
Vô-trước nơi tất cả nguyện.
Vô-trước nơi tất cả hạnh.
Vô-trước nơi tất cả Bồ-Tát.
Vô-trước nơi tất cả Phật.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời có thể mau
chuyển tất cả tưởng được trí-huệ thanh-tịnh vô-thượng.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tâm
bình-đẳng :
Tâm bình-đẳng chứa nhóm tất cả công-đức.
Tâm bình-đẳng phát
tất cả nguyện sai-biệt.
Tâm bình-đẳng nơi tất cả thân
chúng-sanh.
Tâm bình-đẳng nơi nghiệp báo của tất cả
chúng-sanh.
Tâm bình-đẳng nơi tất cả pháp.
Tâm bình-đẳng nơi tất cả quốc-độ tịnh-uế.
Tâm bình-đẳng nơi tất cả tri-giải của
chúng-sanh.
Tâm bình-đẳng nơi tất cả hạnh không
phân-biệt.
Tâm bình-đẳng nơi lực và
vô-úy của tất cả Phật.
Tâm bình-đẳng nơi trí-huệ của tất cả Như-Lai.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong
đây thời được tâm đại bình-đẳng vô-thượng của Như-Lai.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
xuất sanh
trí-huệ :
Biết tất cả chúng-sanh tri-giải xuất sanh
trí-huệ.
Biết tất cả cõi Phật nhiều thứ sai-biệt xuất sanh trí-huệ.
Biết chừng ngằn mười phương xuất sanh trí-huệ.
Biết tất cả thế-giới úp ngửa vân vân xuất sanh
trí huệ.
Biết tất cả pháp một tánh, nhiều tánh,
trụ rộng lớn xuất sanh
trí-huệ.
Biết tất cả nhiều loại thân xuất sanh
trí-huệ.
Biết tất cả thế-gian điên-đảo vọng-tưởng đều vô-sở-trước xuất sanh
trí-huệ.
Biết tất cả pháp rốt ráo đều do một đạo xuất ly xuất sanh trí-huệ.
Biết Như-Lai thần-lực hay nhập tất cả pháp-giới xuất-sanh
trí-huệ.
Biết tam-thế tất cả
chúng-sanh phật-chủng không
dứt xuất sanh
trí-huệ.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp đều hiểu thấu tất cả.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp
biến-hóa :
Tất cả chúng-sanh biến-hóa. Tất cả thân biến-hóa. Tất cả cõi biến-hóa. Tất cả cúng-dường biến-hóa. Tất cả
âm-thanh biến-hóa. Tất cả hạnh nguyện biến-hóa. Tất cả
giáo-hóa điều-phục
chúng-sanh biến-hóa. Tất cả thành
chánh-giác biến-hóa. Tất cả thuyết pháp
biến-hóa. Tất cả gia-trì
biến-hóa.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đầy đủ tất cả pháp biến-hóa
vô-thượng.
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp lực-trì :
Phật lực-trì. Pháp lực-trì.
Chúng-sanh lực-trì.
Nghiệp lực-trì. Hạnh lực-trì.
Nguyện lực-trì. Cảnh-giới lực-trì.
Thời lực-trì.
Thiện lực-trì.
Trí lực-trì.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp được lực-trì tự-tại vô-thượng.
Comments
Post a Comment