Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 24
PHẨM THẬP HỒI HƯỚNG
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Thưa Chư Phật tử ! Thế nào là
Bồ Tát bất hoại hồi hướng ?
Ðại Bồ Tát này được đức tin bất hoại đối với tam thế Chư Phật, vì
hay trọn phụng thờ tất cả Chư Phật vậy; lại được đức tin bất hoại đối với tất cả chư Bồ Tát, nhẫn đến đối với các Bồ Tát sơ phát
tâm cầu Vô thượng đạo, vì thệ tu tất cả Bồ Tát thiện căn
không mỏi nhàm vậy; được đức tin hoại đối với tất cả Phật pháp,
vì phát chí nguyện sâu vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả Phật giáo,
vì thủ hộ Trụ trì vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả chúng
sanh, vì lòng từ bình đẳng xem
chúng sanh đem thiện căn hồi hướng khắp lợi ích vậy; được đức tin bất hoại đối với tất cả pháp
lành thanh tịnh, vì
khắp họp vô
biên thiện căn vậy; được đức tin bất hoại đối với đạo hồi hướng của tất cả Bồ Tát, vì
đầy đủ những thắng nguyện vậy; được đức tin bất hoại đối với các Bồ Tát
Pháp sư, vì đối với Bồ Tát tưởng là Phật vậy; được đức tin bất hoại đối với thần thông
tự tại của tất cả Phật, vì
thâm tín Chư Phật khó
nghĩ bàn vậy; được đức tin bất hoại đối với phương tiện thiện xảo của tất cả Bồ Tát, vì
nhiếp thủ vô lượng vô số công hạnh vậy.
Ðại Bồ Tát lúc an trụ đức tin bất hoại như vậy, đối với Phật, Bồ Tát, Ðộc Giác,
Thanh Văn, Phật pháp,
Phật giáo,
chúng sanh v.v… đều ở trong
đó khéo vun trồng thiện căn vô
lượng vô
biên, khiến thêm
tâm Bồ đề, lớn lòng từ bi,
quán sát bình đẳng, tùy
thuận tu học chỗ làm của Chư Phật, nhiếp thủ tất cả thiện căn
thanh tịnh vào
nghĩa chơn thật, nhóm
công hạnh phước đức thật hành bố thí lớn, tu
các công đức, xem
tam thế bình đẳng.
Ðại Bồ Tát dùng thiện căn
công đức như vậy hồi hướng Nhứt thiết trí,
nguyện thường thấy Phật, gần bạn lành,
cùng ở với chư Bồ Tát, nhớ Nhứt thiết trí
không rời, thọ trì Phật giáo
siêng thủ hộ, giáo
hóa thành thục tất cả chúng
sanh, tâm thường hồi hướng đạo xuất thế, cúng dường hầu hạ tất cả Pháp sư, hiểu rõ các
pháp ghi nhớ chẳng quên,
tu hành đại nguyện đều khiến đầy đủ.
Ðại Bồ Tát như vậy mà chứa nhóm thiện căn,
thành tựu thiện căn,
tăng trưởng thiện căn, tư duy thiện căn, hộ niệm thiện căn,
phân biệt thiện căn, mến thích
thiện căn,
tu tập thiện căn,
an trụ thiện căn.
Ðại Bồ Tát chứa nhóm những thiện căn như vậy rồi, dùng
những y báo
của thiện căn
này mà tu Bồ Tát hạnh,
trong mỗi niệm thấy vô lượng Phật và phụng thờ cúng dường.
Dùng vô số châu
báu, hoa, tràng hoa, y phục, lọng,
tràng phan, đồ trang
nghiêm vô số lượng thoa,
hương bột, hương hòa
trộn, hương đốt, đồ trán đất, vô số sự hầu hạ, thâm
tín, mến ưa, tâm
thanh tịnh, tôn
trọng, ca
ngợi, lễ kính,
vô số bửu tòa,
hoa tòa, hương tòa,
man tòa, chiên đàn tòa, y tòa, Kim Cang toà, ma ni tòa, bửu tăng
tòa, bửu sắc tòa,
vô số chỗ kinh
hành trải hoa,
trải báu,
trải hương, trải tràng
hoa, trải y phục, trải lụa màu,
vô số chỗ kinh
hành trồng cây bửu đa la,
lan can báu, lưới linh
báu giăng che, vô số cung điện báu,
cung điện hoa,
cung điện tràng
hoa, cung điện hương, cung
điện chiên
đàn, cung điện diệu hương tạng, cung
điện Kim
Cang, cung điện ma ni,
tất cả đều qúy đẹp hơn ở cõi trời, vô số cây
báu, cây hương, cây
bửu y, cây
âm nhạc, cây
diệu âm
thinh, cây đồ trang
nghiêm, cây hàng lụa báu,
cây vòng báu, vô số cây hoa
hương tràng
phan lọng trang
nghiêm che mát các cung điện, lại có vô
số mái
hiên trang nghiêm, vô số cửa chính
cửa song
trang nghiêm, vô số lâu các
trang nghiêm, vô số hình
bán nguyệt trang
nghiêm, vô số màn
trang nghiêm, vô số lưới vàng
giăng che, vô số hương thơm tỏa khắp nơi, vô số thảm báu trải đất, tôn
kính cúng dường tất cả Chư Phật trải qua vô
lượng vô số bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, cúng
dường luôn
không thối chuyển không
thôi nghỉ.
Sau khi mỗi đức Như Lai diệt độ, Bồ Tát
cũng cúng dường Xá lợi như vậy, vì muốn khiến chúng
sanh khởi lòng
tin thanh tịnh, nhiếp thiện căn,
lìa các khổ, hiểu biết rộng, dùng
đại trang
nghiêm để tự trang
nghiêm, chỗ tu hành
được rốt ráo,
biết Chư Phật xuất thế rất khó gặp, được đủ vô lượng trí lực của Như Lai,
trang nghiêm cúng dường tháp
miếu của Chư Phật, trụ trì Phật pháp.
Bồ Tát cúng dường hiện tại Chư Phật và Xá
lợi của Phật như vậy, dầu cả vô số kiếp nói
cũng không thể biết. Bồ Tát tu
tập vô lượng công
đức này đều vì
thành thục tất cả chúng
sanh, không thối chuyển, không
dứt nghỉ, không
nhàm, không chấp, lìa
tâm tưởng,
không y chỉ, tuyệt hẳn sở y, xa
lìa ngã ngã sở, dùng
pháp ấn như thiệt ấn các
nghiệp môn, được pháp
vô sanh, trụ chỗ trụ của Phật, quán
tánh vô sanh, ấn các cảnh giới, Chư Phật hộ niệm, phát
tâm hồi hướng, hồi hướng tương ưng với pháp
tánh, hồi hướng phương tiện nhập pháp
vô tác chỗ làm được thành
tựu, hồi hướng phương tiện bỏ lìa chấp trước, phương tiện hồi hướng an trụ nơi vô lượng thiện xảo, hồi hướng ra khỏi hẳn tất cả cõi hữu lậu, hồi hướng khéo
tu hành chẳng trụ nơi tướng, hồi hướng nhiếp khắp tất cả thiện căn, hồi hướng thanh
tịnh khắp tất cả Bồ Tát hạnh rộng lớn, hồi hướng phát
tâm Vô thượng Bồ đề, hồi hướng đồng trụ tất cả thiện căn, hồi hướng đầy đủ tâm tín
giải vô thượng.
Ðại Bồ Tát lúc đem thiện căn hồi hướng như vậy, dầu theo
sanh tử mà chẳng biến đổi, cầu Nhứt thiết trí chưa từng thối chuyển, ở trong
tam giới tâm
không động loạn, trọn có thể độ thoát tất cả chúng
sanh, chẳng nhiễm pháp hữu vi, chẳng mất trí vô
ngại, Bồ Tát
hàng vì nhơn duyên
vô tận, các
pháp thế gian
không biến động được, thanh
tịnh đầy đủ các Ba
la mật, trọn có thể thành tựu Nhứt thiết trí lực.
Bồ Tát như vậy lìa các si ám, thành tâm Bồ đề, khai
thị quang
minh, tăng trưởng tịnh pháp,
hồi hướng thắng đạo, đầy đủ các hạnh, dùng
ý thanh tịnh khéo
hay phân biệt, rõ tất cả pháp đều tùy
tâm hiện, biết nghiệp như huyễn, báo
như tượng, hành
như hóa,
pháp nhơn duyên
sanh đều như vang, tất cả Bồ Tát hạnh như bóng,
xuất sanh
pháp nhãn thanh tịnh vô trước, thấy cảnh giới vô tác
rộng lớn, chứng tánh
tịch diệt, rõ
pháp không hai được pháp
thiệt tướng, đủ Bồ Tát hạnh, nơi tất cả tướng đều không
chấp trước khéo
hay thật hành
những việc đồng sự, hằng không
rời bỏ các
pháp lành thanh tịnh, lìa
tất cả chấp trước trụ hạnh vô trước.
Bồ Tát như vậy khéo léo tư duy
không mê hoặc, chẳng trái
các pháp, chẳng hoại nghiệp nhơn, thấy rõ chơn thiệt, khéo
hồi hướng, biết pháp
tánh, dùng sức phương tiện thành
tựu nghiệp báo đến bờ kia,
dùng trí huệ quan
sát tất cả pháp được trí thần thông,
vô tác mà thật hành
các nghiệp thiện căn
tùy tâm tự tại.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, vì muốn độ thoát tất cả chúng
sanh, chẳng dứt Phật chủng, lìa
hẳn nghiệp ma, thấy Nhứt thiết trí
không ngằn mé tin
ưa không
bỏ, lìa
các cảnh giới, dứt những tạp nhiễm, cũng
nguyện tất cả chúng
sanh được trí
thanh tịnh, vào
phương tiện sâu,
ra khỏi pháp
sanh tử, được thiện căn của Phật, dứt hẳn tất cả sự nghiệp ma,
dùng ấn bình đẳng ấn khắp các
nghiệp, phát
tâm vào thẳng Nhứt thiết chủng trí,
thành tựu tất cả pháp xuất thế gian.
Ðây là đại Bồ Tát bất hoại hồi hướng thứ hai.
Ðại Bồ Tát lúc trụ nơi hồi hướng này,
được thấy vô số Chư Phật, thành
tựu vô lượng diệu pháp
thanh tịnh, được tâm
bình đẳng với khắp chúng
sanh, với tất cả pháp
không nghi hoặc, được tất cả Chư Phật thần lực gia hộ, hàng
phục chúng
ma lìa hẳn nghiệp ma,
thành tựu sanh
qúy viên mãn Bồ đề tâm, được trí vô
ngại hiểu chẳng do người, khéo
hay khai xiển nghĩa
của tất cả pháp,
có thể tùy
năng lực tư tưởng vào tất cả cõi,
soi sáng khắp chúng
sanh đều khiến thanh
tịnh.
Ðại Bồ Tát dùng sức bất hoại hồi hướng này
nhiếp các
thiện căn.
Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan
sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Bồ Tát đã được ý bất hoại
Tu hành tất cả những nghiệp lành
Nên có thể khiến Phật hoan hỷ
Người trí do đây mà hồi hướng
Cúng dường vô lượng vô biên Phật
Bố thí trì giới phục các
căn
Vì muốn lợi ích các chúng sanh
Khiến khắp tất cả đều thanh tịnh.
Tất cả những hương hoa thượng diệu
Vô lượng sai biệt thắng y phục
Bửu cái nhẫn đến đồ trang
nghiêm
Cúng dường tất cả chư Như Lai.
Như vậy cúng dường lên
Chư Phật.
Vô lượng vô số nan tư kiếp
Cung kính tôn trọng thường hoan
hỷ
Chưa từng một niệm sanh nhàm mỏi.
Chuyên tâm tưởng niệm nơi Chư Phật
Ðèn sáng trong tất cả thế gian
Mười phương tất cả chư Như Lai.
Thảy đều hiện tiền như mắt thấy.
Bất khả tư nghì vô lượng kiếp
Các thứ bố thí tâm không nhàm
Trong trăm ngàn muôn ức kiếp số
Tu những nghiệp lành đều như vậy.
Chư Như Lai kia diệt độ rồi.
Cúng dường Xá lợi không nhàm đủ
Ðều dùng các loại diệu trang
nghiêm
Xây dựng vô lượng những tháp miếu
Tạo lập vô lượng hình tượng Phật.
Châu báu vàng bạc dùng
trang nghiêm
Cao lớn vòi vọi như núi cả
Số đó vô lượng trăm
ngàn ức,
Tịnh tâm tôn trọng cúng
dường rồi
Lại khởi lòng hoan hỷ lợi ích
Bất tư nghì kiếp ở thế gian
Cứu hộ chúng sanh khiến giải thoát
Rõ biết chúng sanh đều vọng tưởng
Nơi kia tất cả vô phân biệt
Mà hay khéo biết căn
chúng sanh
Vì khắp chúng sanh làm lợi ích.
Bồ Tát tu tập các
công đức
Rộng lớn tối thắng không ai sánh
Rõ thấu thể tánh đều chẳng có
Quyết định như vậy đều hồi hướng.
Dùng trí tối thắng quán
các pháp
Trong đó không có một pháp
sanh
Như vậy phương tiện tu hồi hướng
Công đức vô lượng không thể hết.
Dùng phương tiện này khiến tâm tịnh
Ðều cùng tất cả Như Lai đồng
Phương tiện lực này chẳng cùng
tận
Nên phước đức cũng không cùng tận.
Phát khởi tâm Bồ đề vô thượng
Tất cả thế gian vô sở y
Ðến khắp mười phương các thế giới
Mà tất cả nơi đều vô ngại
Tất cả Như Lai xuất thế gian
Vì muốn khải đạo lòng chúng sanh
Như tâm tánh kia mà quán sát
Rốt ráo tìm cầu chẳng thể được.
Tất cả các pháp trọn không
thừa
Ðều vào chơn như không
thể tánh
Dùng tịnh nhãn mà hồi hướng
Mở ngục sanh tử ở thế gian.
Ðều khiến các cõi đều thanh
tịnh
Cũng chẳng phân biệt nơi các
cõi
Biết tánh các cõi đều không
có
Mà khiến ý hoan hỷ thanh tịnh.
Nơi một Phật độ không sở y.
Tất cả Phật độ đều như vậy
Cũng chẳng nhiễm trước pháp hữu vi
Biết pháp tánh kia không y xứ.
Do đây tu thành Nhứt thiết trí
Do đây trí vô thượng trang
nghiêm
Do đây Chư Phật đều hoan hỷ
Ðây là hạnh Bồ Tát hồi hướng.
Bồ Tát chuyên tâm niệm Chư Phật
Trí huệ vô thượng phương tiện khéo
Như Phật tất cả không sở y
Nguyện tôi tu thành công đức này.
Chuyên tâm cứu hộ tất cả chúng
Khiến họ xa lìa các nghiệp ác
Như vậy lợi ích các chúng sanh
Chuyên niệm tư duy chưa từng có.
Trụ nơi pháp thủ hộ trí địa
Chẳng lấy Niết Bàn nơi thừa khác
Chỉ nguyện được Phật đạo vô thượng
Bồ Tát như vậy khéo hồi hướng.
Chẳng chấp lấy ngôn ngữ chúng
sanh.
Tất cả sự hữu vi hư vọng
Dầu chẳng y tựa đường ngôn ngữ.
Cũng lại chẳng chấp không ngôn thuyết
Thập phương tất cả chư Như Lai.
Rõ thấu các pháp không còn sót
Dầu biết các pháp đều không
tịch
Mà chẳng sanh niệm trụ nơi không.
Dùng một trang nghiêm nghiêm tất cả.
Cũng chẳng phân biệt nơi các
pháp
Như vậy khai ngộ các quần sanh
Tất cả vô tánh vô sở quán.
Chư Phật tử ! thế nào là Bồ Tát đẳng Nhứt thiết Phật hồi hướng ?
Ðại Bồ Tát này tùy thuận tu học đạo hồi hướng của tam thế Chư Phật.
Lúc tu học đạo hồi hướng như vậy, Bồ Tát này
thấy tất cả lục trần : sắc,
thinh, hương, vị, xúc,
pháp hoặc tốt hoặc xấu, chẳng sanh
lòng ưa hay
ghét, tâm được tự tại, không
lỗi lầm, rộng lớn thanh
tịnh, hoan
hỷ vui
thích, lìa những ưu não,
tâm ý nhu nhuyến, các
căn thanh lương.
Lúc đại Bồ Tát được An Lạc như vậy, lại phát âm hồi hướng Chư Phật, tự nghĩ rằng :
Nguyện đem thiện căn của tôi
vun trồng hiện nay
làm cho sự vui của Chư Phật càng
thêm. Những là sự vui nơi an trụ bất tư nghì của Phật, sự nơi tam muội vô tỷ của Chư Phật, sự vui đại từ bi vô hạn lượng, sự vui giải thoát
của tất cả Chư Phật, sự vui đại thần thông
ngằn mé, sự vui đại tự tại rất mực tôn trọng, sự vui vô
lượng lực rốt ráo rộng lớn, sự vui tịch tịnh lìa
những tri
giác, sự vui thường chánh
định trụ nơi vô ngại trụ, sự vui thật hành hạnh vô nhị không đổi khác.
Ðại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng Phật xong,
lại đem
thiện căn hồi hướng Bồ Tát.
Nghĩa là người chưa viên
mãn làm cho được viên
mãn, người tâm chưa thanh
tịnh làm
cho được thanh
tịnh, người chưa tròn đủ Ba la mật làm
cho được tròn đủ, an trụ nơi tâm
Kim Cang Bồ đề, nơi Nhứt thiết trí được bất thối chuyển, chẳng bỏ đại tinh tấn, thủ hộ môn Bồ đề, tất cả thiện căn có
thể khiến chúng
sanh bỏ lìa ngã
mạn phát Bồ đề tâm chí
nguyện được thành
tựu viên
mãn, an trụ nơi chỗ trụ của Bồ Tát, được các
căn minh lợi của Bồ Tát, tu
tập thiện căn chứng Phật chủng trí.
Ðại Bồ Tát đem thiện căn hồi hướng Bồ Tát như thế rồi, lại đem hồi hướng tất cả chúng
sanh, nguyện cho tất cả chúng
sanh có bao nhiêu thiện căn nhẫn đến rất ít chừng khoảng khảy ngón
tay, đều được thấy Phật nghe
pháp, kính Tăng, những thiện căn
kia đều lìa chướng ngại, niệm Phật viên
mãn, niệm Pháp
phương tiện, niệm Tăng
tôn trọng, chẳng lìa
thấy Phật, tâm được thanh
tịnh được các Phật pháp,
họp vô lượng đức, thanh
tịnh những thần thông,
bỏ niệm nghi
pháp an trụ đúng Phật giáo.
Bồ Tát này vì Thanh Văn và Bích Chi Phật hồi hướng cũng
như vậy.
Lại nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn Ðịa ngục,Ngạ qủy, Súc
sanh, Diêm La Vương v.v…
Tất cả nơi ác khổ, tăng
trưởng tâm
Vô thượng Bồ Ðề, chuyên
ý siêng cầu Nhứt thiết chủng trí,
lìa hẳn hủy báng
chánh pháp Chư Phật được Phật an lạc thân
tâm thanh tịnh chứng Nhứt thiết trí.
Ðại Bồ Tát có bao nhiêu thiện căn đều do đại nguyện phát
khởi, chánh
phát khởi, tích
tập chánh
tích tập, tăng
trưởng chánh
tăng trưởng, đều rộng lớn đầy đủ.
Ðại Bồ Tát tại gia cùng vợ con ở chung
chưa từng tạm bỏ tâm Bồ Ðề, chánh
niệm tư duy cảnh Nhứt thiết chủng trí,
tự độ độ người khiến được rốt ráo.
Dùng thiện phương tiện giao
hóa quyến thuộc của mình,
khiến vào
trí Bồ Tát,
khiến thành
thục giải thoát.
Dầu cùng ở chung
mà không lòng chấp trước. Vì bổn đại bi mà
hiện ở nhà, vì
từ tâm mà
tùy thuận vợ con, nơi đạo thanh
tịnh của Bồ Tát vẫn không
chướng ngại.
Ðại Bồ Tát dầu ở nhà tạo lập sự nghiệp, nhưng chưa từng tạm bỏ tâm Nhứt thiết trí. Nghĩa là trong những lúc mặc y phục, ăn thực phẩm, uống thuốc men, tắm rửa, xoay
ngó, đi, đứng ngồi, nằm, thân,
ngữ, ý hoặc ngủ, hoặc thức v.v…
lòng Bồ Tát
luôn hướng đến đạo Vô thượng Giác
chuyên nhiếp niệm tư duy nơi đây
không lúc nào tạm bỏ rời.
Vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, mà Bồ Tát an
trụ vô lượng đại nguyện Bồ Ðề, nhiếp thủ vô số thiện căn rộng lớn, siêng
thật hành
những đều lành,
cứu độ khắp tất cả mọi loài,
xa tất cả kiêu mạn phóng
dật, quyết định đến bực Nhứt thiết trí,
trọn chẳng để tâm đến những đạo khác,
thường quán
sát Chư Phật Bồ Ðề, bỏ hẳn tất cả những pháp
tạp nhiễm, tu
hành tất cả chỗ sở học của Bồ Tát, nơi đạo Nhứt thiết trí,
không bị chướng ngại, trụ nơi trí địa, ưa thích
tụng tập, dùng
vô lượng trí
huệ họp những thiện căn,
tâm chẳng luyến thích
tất cả thế gian,
cũng chẳng nhiễm trước nơi công hạnh của mình
thật hành,
chuyên tâm thọ trì
giáo pháp của Chư Phật.
Bồ Tát ở tại gia nhiếp khắp những thiện căn khiến được tăng
trưởng mà hồi hướng Chư Phật vô thượng Bồ Ðề như vậy.
Bấy giờ Bồ Tát nhẫn đến thí cho Súc sanh ăn một nắm một hột, đều nguyện rằng : Tôi
sẽ làm cho
các loài này thoát khỏi báo
Súc sanh mà được lợi ích an
vui rốt ráo giải thoát,
khỏi hẳn biển khổ, dứt hẳn khổ thọ, trừ hẳn khổ uẩn, dứt hẳn khổ giác,
khổ tụ, khổ hạnh, khổ nhơn, khổ bổn và các
khổ xứ. Nguyện cho những chúng
sanh kia đều được giải thoát
tất cả khổ.
Bồ Tát chuyên tâm tưởng nhớ tất cả chúng
sanh như vậy, dùng
thiện căn
này làm trên hết, vì họ mà hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
Bồ Tát sơ phát tâm Bồ Ðề nhiếp khắp chúng
sanh tu những thiện căn đều đem hồi hướng cả, muốn cho họ thoát hẳn sanh tử, được sự khoái lạc vô ngại của các Như Lai, ra
khỏi biển phiền não,
tu Phật đạo, từ tâm
cùng khắp, bi lực rộng lớn, khiến khắp tất cả được vui tịch tịnh, gìn
giữ thiện căn, gần gũi Phật pháp,
ra khỏi cảnh ma,
vào cảnh Phật, dứt giống thế gian,
gieo giống Phật, trụ trong
pháp tam thế bình đẳng.
Bao nhiêu thiện căn
đã, sẽ và hiện tập họp đều đem hồi hướng như vậy cả.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : như Chư Phật và Bồ Tát quá
khứ thật hành
những sự cung
kính cúng dường Chư Phật, độ chúng
sanh khiến được giải thoát,
siêng năng tu tập tất cả thiện căn đều đem hồi hướng mà
không chấp trước. Nghĩa
là chẳng tựa nơi sắc, chẳng nhiễm nơi thọ, không
tưởng điên
đảo, chẳng khởi hành,
chẳng theo
thức, bỏ rời sáu trần, chẳng trụ thế pháp,
thích đạo xuất thế, biết tất cả pháp đều như hư không,
không từ đâu đến, bất sanh,
bất diệt, không
chơn thiệt, không
nhiễm trước, xa
lìa tất cả những kiến chấp phân
biệt; động chẳng chuyển, chẳng mất, chẳng hoại, trụ nơi thiệt kế không tướng lìa tướng chỉ là nhứt tướng.
Bồ Tát thâm nhập tất cả pháp
tánh như vậy, thường thích
tu tập thiện căn phổ môn, đều thấy tất cả chúng hội Chư Phật.
Như thiện căn hồi hướng của tất cả Như Lai thời quá khứ, tôi
cũng hồi hướng như vậy hiểu pháp
như vậy, chứng pháp
như vậy, y
pháp như vậy mà
phát tâm tu tập chẳng trái
pháp tướng, biết chỗ tu hành
như huyễn, như ảnh, như trăng
đáy nước, như tượng trong
gương, nhơn duyên
hòa hiệp mà hiển hiện nhẫn đến bực Như Lai rốt ráo.
Bồ Tát lại nghĩ rằng : như Chư Phật thời quá khứ lúc tu
hạnh Bồ Tát đem
những thiện căn hồi hướng như vậy, Chư Phật hiện tại và vị lai đều cũng
như vậy.
Nay tôi cũng nên phát tâm như chỗ phát
tâm của Chư Phật; đem
những thiện căn mà
dùng hồi hướng : hồi hướng đệ nhứt, hồi hướng thắng, hồi hướng tối thắng, hồi hướng thượng, hồi hướng vô thượng, hồi hướng vô đẳng, hồi hướng vô đẳng đẳng, hồi hướng vô tỉ, hồi hướng vô đối, hồi hướng tôn,
hồi hướng diệu, hồi hướng bình
đẳng, hồi hướng chánh
trực, hồi hướng đại công đức, hồi hướng quảng đại, hồi hướng thiện, hồi hướng thanh
tịnh, hồi hướng ly
ác, hồi hướng bất tùy
ác.
Bồ Tát đem những thiện căn
chánh hồi hướng như thế rồi, thời thành
tựu thân,
ngữ, ý nghiệp thanh
tịnh, trụ nơi an trụ của Bồ Tát,
không có các lỗi lầm, tu tập nghiệp lành,
lìa sự ác nơi thân,
ngữ, tâm, ý
không tội lỗi, tu Nhứt thiết trí,
trụ nơi tâm quảng đại, biết tất cả pháp
không sở tác, trụ pháp xuất thế, chẳng nhiễm thế pháp,
phân biệt rõ biết vô lượng các
nghiệp, thành
tựu hồi hướng phương tiện khéo
léo, nhổ hẳn tất cả cội gốc chấp trước.
Thưa Chư Phật tử ! Ðây là đại Bồ Tát nhứt thiết Phật hồi hướng thứ ba.
Ðại Bồ Tát trụ bực hồi hướng này, thâm nhập nghiệp hạnh của tất cả Như Lai, xu
hướng công
đức thắng diệu của Như Lai,
vào sâu trong cảnh giới trí huệ thanh tịnh, chẳng rời hạnh nghiệp của tất cả Bồ Tát,
hay khéo phân biệt phương tiện xảo diệu, nhập thâm
pháp giới, khéo
biết thứ đệ tu hành
của Bồ Tát,
vào chúng tánh của Phật, dùng
phương tiện xảo diệu phân
biệt rõ biết vô lượng vô
biên tất cả các
pháp. Dầu hiện thân
sanh vào thế gian nhưng không
nhiễm trước thế pháp.
Bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán
sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Chư Bồ Tát Ma ha tát đó
Tu pháp hồi hướng Phật quá khứ
Cũng học công hạnh của Chư Phật
Hiện tại cùng Chư Phật vị lai.
Nơi các cảnh giới được an vui
Chỗ ngợi khen của tất cả Phật
Mắt sáng suốt thanh
tịnh rộng lớn
Ðều đem hồi hướng đại trí huệ.
Bồ Tát thân căn các sự vui
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt cũng
như vậy.
Vô lượng sự vui thượng diệu ấy
Ðều đem hồi hướng bực tối thắng.
Những pháp lành của các thế gian
Và chỗ thành tựu của Chư Phật
Nơi đó nhiếp cả không để thừa
Trọn tùy hỷ lợi ích chúng sanh.
Thế gian tùy hỷ vô lượng thứ.
Khiến vì chúng sanh mà hồi hướng
Những sự vui của đấng Nhơn Sư
Nguyện cho chúng sanh đều viên
mãn.
Tất cả quốc độ tất cả Phật
Phàm chỗ thấy biết những sự vui
Nguyện cho chúng sanh đều được cả.
Làm đèn sáng lớn chiếu thế gian.
Bồ Tát chỗ được vui thắng diệu
Ðều đem hồi hướng cho quần sanh
Dầu vì quần sanh nên hồi hướng
Nhưng không chấp trước nơi hồi hướng
Bồ Tát tu hành hồi hướng này
Hưng khởi vô lượng tâm đại bi
Như đức hồi hướng của Phật tu
Nguyện tôi tu hành trọn viên
mãn.
Như chư Như Lai đã Thành tựu
Ðạo Nhứt thiết trí vui vi diệu
Và việc làm ở đời của tôi
Công hạnh Bồ Tát vui vô lượng
Thị hiện vào các loài an vui
Luôn gìn các căn vui tịch tịnh
Ðều đem hồi hướng các quần sanh
Khiến khắp tu thành trì vô thượng.
Chẳng phải thân ngữ, ý, là
nghiệp.
Cũng chẳng rời đây mà có riêng.
Chỉ dùng phương tiện diệt si tối
Như vậy tu thành trí vô thượng.
Bồ Tát tu hành các công hạnh
Chứa họp vô lượng thắng công đức
Tùy thuận Như Lai sanh nhà Phật.
Yên lặng chẳng loạn chánh hồi hướng.
Tất cả thế giới ở mười phương
Bao nhiêu chúng sanh đều nhiếp thọ
Ðều đem thiện căn hồi hướng kia
Nguyện họ đầy đủ vui an ổn.
Chẳng vì thân mình cầu lợi ích
Muốn khiến tất cả đều an vui
Chưa từng tạm khởi tâm hí luận
Chỉ quán các pháp không vô ngã.
Thập phương vô lượng chư Như Lai.
Thấy biết tất cả chơn Phật tử
Ðều đem thiện căn hồi hướng cho
Mong mau được thành
Vô thượng Giác.
Tất cả loài hàm thức thế gian
Bình đẳng nhiếp thủ không bỏ sót
Ðem những nghiệp lành của tôi tu
Khiến chúng sanh kia mau thành Phật
Vô lượng vô biên những đại nguyện
Vô thượng Ðạo Sư đã diễn thuyết
Nguyện các Phật tử đều thanh
tịnh
Tùy tâm họ thích đều thành
tựu
Xem khắp các thế giới mười phương
Ðều đem công đức thí
chúng sanh
Nguyện họ đều đủ diệu trang nghiêm
Bồ Tát tu hồi hướng như vậy.
Lòng chẳng gẫm suy pháp sai biệt
Chỉ luôn rõ thấu pháp
vô nhị
Các pháp hoặc hai hoặc chẳng hai
Trong đó rốt ráo
không chấp trước.
Tất cả thế gian trong mười phương
Ðều là chúng sanh tưởng phân
biệt
Nơi tưởng, phi tưởng không
chỗ được
Với các tưởng rõ thấu như vậy.
Bồ Tát kia thân đã thanh tịnh
Thời ý thanh tịnh không
lỗi lầm
Ngữ nghiệp thanh tịnh không
sai quấy
Phải biết ý thanh tịnh không
nhiễm.
Nhứt tâm chánh niệm Phật quá khứ
Cũng nhớ Chư Phật đời vị lai
Và nhớ hiện tại đấng Thế Tôn
Bồ Tát đều học pháp của Phật.
Tất cả Chư Phật trong ba thời
Trí huệ sáng suốt tâm vô
ngại
Vì muốn lợi ích các chúng sanh
Nên họp công hạnh mà hồi hướng.
Trí huệ đệ nhứt, huệ rộng lớn
Huệ chẳng hư vọng, huệ vô đảo
Thiệt trí bình đẳng, huệ thanh tịnh
Ðấng huệ tối thắng nói như vậy.
Thưa Chư Phật tử ! Thế nào là đại Bồ Tát chí
nhứt thiết xứ hồi hướng ?
Ðại Bồ Tát này lúc tu tập tất cả thiện căn tự nghĩ rằng :
Nguyện năng lực của thiện căn
công đức này đến tất cả chỗ.
Ví như thiệt tế không chỗ nào là
chẳng đến, đến tất cả vật, đến tất cả thế gian, đến tất cả chúng
sanh, đến tất cả quốc độ, đến tất cả pháp, đến tất cả không
gian, đến tất cả thời gian,
đến tất cả hữu vi và
vô vi, đến tất cả ngôn ngữ âm
thinh.
Nguyện thiện căn này cũng như vậy, đến khắp mọi chỗ của tất cả Như Lai,
cúng duờng tất cả Chư Phật trong
ba thời, Chư Phật quá khứ nguyện hạnh đều viên
mãn, Chư Phật vị lai đầy đủ sự trang
nghiêm, chư phật hiện tại cùng
quốc độ đạo tràng
chúng hội cùng
khắp tất cả hư không
pháp giới.
Nguyện do tín giải oai lực lớn, do trí
huệ rộng lớn không
chướng ngại, do tất cả thiện căn đều hồi hướng, nên
dùng những đồ cúng dường như của Chư Thiên để dâng
lên Chư Phật, khắp vô lượng vô
biên thế giới.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng : Chư Phật Thế Tôn
cùng khắp tất cả hư không
pháp giới, những hạnh nghiệp tạo ra bất khả thuyết thế giới ở mười phương, bất khả thuyết Phật độ, Phật cảnh giới, các
loại thế giới, vô lượng thế giới, thế giới xoay
chuyển, thế giới
nghiêng, thế giới úp, thế giới ngửa.
Trong tất cả thế giới như vậy, Chư Phật hiện tại trụ thế thị hiện những thần thông biến hóa.
Trong những thế giới đó, có
Bồ Tát
dùng sức thắng giải vì những chúng
sanh đáng được giáo
hóa mà khắp khai
thị vô lượng thần lực tự tại của Như Lai,
pháp thân đến khắp không
sai biệt, bình
đẳng vào
khắp tất cả pháp giới, thân
Như Lai tạng bất sanh bất diệt, dùng
phương tiện thiện xảo hiện khắp thế gian chứng pháp
thiệt tánh,
vì vượt hơn tất cả vậy, vì được sức bất thối vô ngại vậy, vì
sanh ở trong
tri kiến vô ngại đức tánh rộng lớn của Như Lai.
Thưa Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đem tất cả thiện căn của mình
vun trồng, nguyện ở nơi Chư Phật như vậy, dùng
hoa đẹp, hương thơm, tràng
hoa, lọng,
tràng phan, y phục, đèn
đuốc và tất cả những đồ trang
nghiêm khác đều dâng
lên Ðức Phật. Nơi tượng Phật, tháp
Phật cũng đều cúng dường như vậy.
Ðem thiện căn này hồi hướng như vậy : những là bất loạn hồi hướng, nhứt tâm hồi hướng, tự ý hồi hướng, tôn
kính hồi hướng, bất động hồi hướng, vô
trụ hồi hướng, vô y
hồi hướng,
không tâm chúng sanh hồi hướng,
không tâm đua tranh hồi hướng, tâm
tịch tịnh hồi hướng.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng : Khắp không
gian, tột thời gian,
trong tất cả kiếp, Phật Thế Tôn được Nhứt thiết trí
thành đạo Bồ đề, có vô
lượng danh
tự sai biệt. Trong
những lúc
hiện thành
bực Chánh
Giác trọn đều trụ thọ tận thuở vị lai. Chư Phật đều dùng
pháp giới trang
nghiêm mà trang nghiêm thân mình, đạo tràng chúng hội khắp cùng
pháp giới tất cả quốc độ, tùy
lúc xuất thế mà làm
Phật sự.
Tất cả Chư Phật Như Lai như vậy, tôi đem thiện căn đều hồi hướng khắp cả. Nguyện dùng
vô số lọng thơm, tràng
thơm, phan
thơm, trướng thơm, lưới thơm, tượng thơm, ánh
sáng thơm, ngọn lửa thơm, mây
thơm, toà
thơm, chỗ kinh
hành thơm, chỗ ở thơm, thế giới thơm, núi
thơm, biển thơm, sông
thơm, cây
thơm, y phục thơm, hoa
sen thơm, cung
điện thơm . . .
mỗi thứ đều vô số. Lại dùng
vô biên lọng tràng
hoa nhẫn đến vô
biên cung điện tràng
hoa. Lại dùng
vô đẳng lọng hương thoa
nhẫn đến vô đẳng cung
điện hương thoa.
Lại dùng bất khả sổ lọng hương bột nhẫn đến bất khả sổ cung điện hương bột. Lại dùng bất khả xưng lọng y phục nhẫn đến bất khả xưng cung
điện y phục. Lại dùng bất khả tư lọng báu
nhẫn đến bất khả tư cung điện lọng báu.
Lại dùng bất khả lượng đèn
sáng nhẫn đến bất khả lượng cung
điện đèn
sáng, lại dùng bất khả thuyết lọng đồ trang
nghiêm. Lại dùng bất khả thuyết bất khả thuyết lọng ma ni
bửu nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết cung
điện ma ni
bửu.
Trong mỗi mỗi cảnh giới như vậy đều có vô số lan
can, vô số cung điện. Vô số lâu
các, vô số cửa cái,
vô số cửa song,
vô số hình
bán nguyệt, vô số báu
thanh tịnh, vô số đồ trang
nghiêm.
Ðem những vật cúng dường như vậy mà
cung kính dâng lên tất cả Chư Phật đã kể ở trên.
Nguyện cho tất cả thế gian đều được thanh tịnh, tất cả chúng
sanh đều được giải thoát
trụ bực Thập địa, trong
tất cả pháp được pháp
minh vô ngại, khiến tất cả chúng
sanh đầy đủ thiện căn đều được điều phục, tâm họ quảng đại vô lượng khắp cõi hư không,
qua tất cả cõi mà
không chỗ đến, vào tất cả cõi thật hành
pháp lành, thường được thấy Phật vun trồng căn
lành, thành tựu Ðại thừa chẳng chấp trước các
pháp, đủ các điều lành lập vô lượng hạnh, vào
khắp vô
biên pháp giới, thành
tựu thần lực của Chư Phật, được Phật trí.
Ví như vô ngã nhiếp khắp các
pháp. cũng vậy những căn
lành của tôi
nhiếp khắp tất cả Chư Phật Như Lai vì
đều cúng dường không
sót vậy, nhiếp khắp tất cả vô lượng pháp
vì đều có thể chứng ngộ vô ngại vậy, nhiếp tất cả chúng Bồ Tát vì
rốt ráo đều đồng thiện căn vậy, nhiếp khắp tất cả hạnh Bồ Tát vì
bổn nguyện lực đều viên
mãn vậy, nhiếp khắp tất cả Bồ Tát
pháp minh vì rõ thấu các
pháp đều vô ngại vậy, nhiếp khắp đại thần lực của Chư Phật vì
thành tựu vô lượng thiện căn vậy, nhiếp khắp các Phật lực vô úy
vì phát tâm vô lượng viên
mãn tất cả vậy, nhiếp khắp những tam
muội biện tài đà
la ni của Bồ Tát vì
khéo có thể chiếu rõ
pháp vô nhị vậy, nhiếp khắp phương tiện thiện xảo của Chư Phật vì thị hiện đại thần lực của Như Lai vậy, nhiếp khắp tám tướng thành
đạo của tam thế Phật vì
cung kính cúng dường đều khắp cả vậy, nhiếp khắp tất cả thế giới mười phương vì
nghiêm tịnh Phật sát đều rốt ráo vậy, nhiếp khắp tất cả kiếp rộng lớn vì xuất hiện trong
đó tu Bồ Tát hạnh không
đoạn tuyệt vậy, nhiếp khắp tất cả mọi loài
vì đều hiện thọ sanh
trong đó vậy, nhiếp khắp tất cả chúng
sanh giới vì đủ hạnh Phổ Hiền vậy, nhiếp khắp tất cả phiền não tập khí vì
đều dùng
phương tiện khiến thanh
tịnh vậy, nhiếp khắp tất cả vô lượng căn
tánh sai biệt của chúng
sanh vì đều rõ biết vậy, nhiếp khắp tất cả tri giải sở dục của chúng
sanh vì khiến họ lìa tạp nhiễm được thanh
tịnh vậy, nhiếp khắp tất cả công hạnh giáo
hóa chúng sanh vì tùy chỗ họ đáng được độ mà hiện thân vậy, nhiếp khắp tất cả loài
chúng sanh đáng được độ vì đều vào tất cả chúng
sanh giới vậy, nhiếp khắp tất cả trí
tánh Như Lai vì
hộ trì tất cả Phật giáo vậy.
Lúc đại Bồ Tát đem những thiện căn hồi hướng như vậy, thời dùng
vô sở đắc làm phương tiện, ở trong
nghiệp chẳng phân
biệt báo, ở trong
báo chẳng phân
biệt báo, ở trong
báo chẳng phân
biệt nghiệp. Dầu không
phân biệt mà vào
khắp pháp
giới. Dầu vô sở tác mà
luôn trụ thiện căn. Dầu vô sở khởi mà siêng
tu thắng pháp.
Chẳng tin
các pháp mà có thể thâm nhập các
pháp. Chẳng có nơi pháp
mà thấy biết tất cả pháp.
Hoặc làm
hay chẳng làm đều bất khả đắc. Biết các
pháp tánh luôn chẳng tự tại. Dầu đều thấy các
pháp mà không sở kiến. Dầu biết khắp tất cả mà
không sở trì.
Bồ Tát rõ thấu cảnh giới như vậy, biết tất cả pháp lấy nhơn duyên
làm căn bản, thấy pháp
thân của Chư Phật, hiểu rõ thế gian đều như biến hóa,
thấu rõ
chúng sanh chỉ là một pháp
không có hai tánh, chẳng bỏ nghiệp cảnh, phương tiện thiện xảo nơi hữu vi giới hiển thị vô vi
pháp, mà chẳng hoại diệt tướng hữu vi, nơi vô vi
giới hiển thị hữu vi
pháp mà chẳng phân
biệt tướng vô
vi.
Bồ Tát quán sát tất cả pháp rốt ráo tịch diệt như vậy, thành
tựu tất cả thiện căn
thanh tịnh mà khởi tâm cứu hộ chúng
sanh, trí huệ thấu suốt biển tất cả pháp,
thường thích
tu hành pháp lìa ngu si, đã thành tựu đủ công đức xuất thế, chẳng còn tu học pháp
thế giới, được trí
nhãn thanh tịnh lìa
những si tối, dùng
phương tiện khéo
tu đạo hồi hướng.
Ðại Bồ Tát đem các thiện căn hồi hướng như vậy, làm vừa lòng
Chư Phật,
nghiêm tịnh tất cả Phật độ, giáo
hóa thành tựu tất cả chúng
sanh, thọ trì đầy đủ tất cả Phật pháp,
làm phước điền tối thượng của tất cả chúng
sanh, là Ðạo Sư trí huệ của tất cả người hành đạo, là mặt nhựt sáng tất cả thế gian, mỗi mỗi thiện căn rộng khắp pháp
giới đều có thể cứu hộ tất cả chúng
sanh, đều khiến họ thanh tịnh có đủ công đức.
Lúc đại Bồ Tát hồi hướng như vậy, có thể hộ trì tất cả Phật chủng, có
thể thành
thục tất cả chúng
sanh, có thể chẳng hư hoại tất cả hạnh nghiệp, có thể rõ biết tất cả pháp,
có thể bình đẳng quán
sát các pháp vô nhị, có thể qua khắp thế giới mười phương, có
thể rõ thấu thiệt tế ly dục, có thể thành tựu tín giải thanh
tịnh, có
thể đầy đủ căn
thân minh lợi.
Ðây là đại Bồ Tát chí
nhứt thiết xứ hồi hướng thứ tư.
Lúc đại Bồ Tát trụ bực hồi hướng này được thân
nghiệp đến tất cả chỗ vì có
thể ứng hiện khắp tất cả thế giới vậy, được ngữ nghiệp đến tất cả chỗ, vì
thuyết pháp
trong tất cả thế giới vậy, được nghiệp đến tất cả chỗ vì thọ trì tất cả Phật pháp vậy, được thần túc
thông đến tất cả chỗ vì tùy
theo tâm chúng sanh đều ứng đến vậy, được tùy chứng trí đến tất cả chỗ vì khắp có thể rõ thấu tất cả pháp vậy, được tổng trì
biện tài đến tất cả chỗ vì đều tùy
theo tâm chúng sanh khiến họ hoan hỷ vậy, được nhập pháp
giới đến tất cả chỗ vì
trong một chân
lông vào khắp tất cả thế giới vậy, được biến nhập thân đến tất cả chỗ vì nơi một thân
chúng sanh vậy, được phổ kiến kiếp đến tất cả chỗ vì
trong mỗi mỗi kiếp thường thấy tất cả Phật vậy, được phổ kiến niệm đến tất cả chỗ vì
trong mỗi mỗi niệm tất cả Chư Phật đều hiện tiền vậy.
Ðại Bồ Tát được bực Chí Nhứt Thiết Xứ Hồi Hướng thời có thể đem thiện căn hồi hướng như vậy.
Bấy giờ Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa oai lực của Ðức Phật, quán
sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :
Tất cả những thế gian trong ngoài
Bồ Tát thảy đều không chấp trước
Chẳng bỏ hạnh lợi ích chúng sanh
Ðại Sĩ tu hành trí như vậy.
Tất cả quốc độ ở mười phương
Tất cả vô y và vô trụ
Chẳng lấy những pháp mạng sống thảy
Cũng chẳng vọng khởi những phân biệt
Những chúng sanh trong mười phương cõi
Nhiết khắp tất cả không để sót
Quán thể tánh kia không sở hữu
Chí nhứt thiết xứ khéo hồi hướng
Nhiếp khắp pháp hữu vi vô
vi
Chẳng ở trong đó sanh vọng niệm
Nơi pháp thế gian
cũng như vậy
Bực Chiếu Thế Ðăng được giác ngộ.
Bồ Tát tu hành những nghiệp hạnh
Phẩm thượng, trung, hạ đều sai
khác
Ðều đem thiện căn hồi hướng đến
Tất cả Chư Phật ở mười phương.
Bồ Tát hồi hướng đến bờ kia.
Theo Phật tu học đều thành tựu
Thường dùng diệu trí
khéo tư duy
Thắng pháp nhơn gian đều đầy đủ.
Thiện căn thanh tịnh khắp hồi hướng
Lợi ích chúng sanh thường chẳng bỏ
Ðều khiến tất cả các chúng sanh
Thành đấng Chiếu Thế Ðăng vô thượng.
Chưa từng phân biệt chấp chúng
sanh.
Cũng chẳng vọng tưởng nhớ các pháp
Dầu không nhiễm trước nơi thế gian
Cũng lại chẳng bỏ các hàm thức.
Bồ Tát thường thích pháp tịch diệt
Tùy thuận được đến cảnh Niết Bàn.
Cũng chẳng bỏ rời đạo chúng sanh
Mà được trí vi diệu như vậy.
Bồ Tát chưa từng phân biệt nghiệp
Cũng chẳng chấp lấy các quả báo.
Tất cả thế gian từ duyên sanh
Chẳng rời nhơn duyên thấy các
pháp.
Cảnh giới như vậy đều thâm nhập
Chẳng ở trong đó khởi phân
biệt.
Bực Ðiều Ngự Sư của chúng sanh
Nơi đây sáng tỏ khéo hồi hướng
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment