Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ KINH HOA NGHIÊM, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên-đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
ÁN LAM (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN
Tu rị Tu rị ma ha tu rị tu tu rị ta-bà-ha (3 lần)
TỊNH BA NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần)
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Hoa-Nghiêm
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật-pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như-Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-Mô Hoa-Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
ÐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH
QUYỂN 79
PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI
THỨ BA MƯƠI CHÍN
Thiện-Tài Ðồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa rằng:
Xin Ðại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào.
Lúc ấy Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa lâu các đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở. Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào.
Thiện-Tài rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại.
Thiện-Tài thấy trong lâu các rộng vô-lượng đồng như hư-không. Vô-số chất báu làm đất. Vô-số cung điện, vô-số cửa cái, vô-số cửa sổ, vô-số thềm bậc, vô-số lan-can, vô-số đường sá, tất cả đều bằng thất-bửu.
Vô-số tràng, vô-số phan, vô-số lọng hàng liệt khắp nơi.
Vô-số chuỗi báu, vô-số chuỗi chân châu, vô-số chuỗi xích-chân-châu, vô-số chuỗi sư-tử châu, thòng rũ khắp nơi.
Vô-số bán-nguyệt, vô-số dải lụa, vô-số lưới báu dùng đề trang-sức.
Vô-số lục-lạc báu gió động thành tiếng.
Rải vô-số hoa trời đẹp.
Treo vô-số dải tràng báu cõi trời.
Vô-số lư-hương báu trang-nghiêm.
Rưới vô-số bột chân kim.
Treo vô-số gương báu.
Thắp vô-số đèn báu.
Trải vô-số y báu.
Giăng vô-số trướng báu.
Trần thiết vô-số tòa báu, vô-số lụa báu trải trên tòa.
Vô-số tượng đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn.
Vô-số hình tượng bằng chiều thứ báu.
Khắp nơi có vô-số tượng Bồ-Tát bằng diệu-bửu.
Vô-số chim hót tiếng hòa nhã.
Vô-số hoa sen xanh báu, vô-số hoa sen vàng báu, vô-số hoa sen đỏ báu, vô-số hoa sen trắng báu, dùng để trang-nghiêm.
Vô-số cây báu thứ đệ hàng liệt.
Vô-số ma-ni-bửu phóng đại quang-minh.
Lại thấy trong đó có vô-lượng trăm ngàn lâu các đẹp, đều nghiêm-sức như trên. Mỗi mỗi lâu các đều rộng rãi nghiêm-lệ, đồng như hư-không chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau.
Thiện-Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.
Thiện-Tài thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có bất-tư-nghì cảnh-giới tự-tại như vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân tâm nhu nhuyến, rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại giải-thoát, vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp.
Vừa mới cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự thấy thân của mình ở khắp trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại bất-tư-nghì:
Những là thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng-tộc như vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy.
Chư Phật Như-Lai ấy, những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận cúng-dường đều thấy rõ cả.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ đó đến nay hiệu là từ-thị.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tu những diệu-hạnh, thành mãn tất cả môn ba-la-mật.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát đắc nhẫn, trụ địa, thành-tựu quốc-độ thanh-tịnh, hô-trì phật-pháp, làm đại Pháp-Sư, được vô-sanh-nhẫn.
Hoặc thấy thời-gian ấy, tại xứ ấy, Ðức Phật ấy thọ ký thành Phật cho Di-Lặc
Bồ-Tát.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Chuyển-Luân-Vương khuyên các chúng-sanh an trụ nơi thập-thiện-đạo.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Hộ-Thế lợi ích chúng sanh, hoặc làm Ðế-Thích quở trách ngũ-dục, hoặc làm Dạ-Ma Thiên-Vương tán dương hạnh bất-phóng-dật, hoặc làm Ðâu-Suất Thiên-Vương khen ngợi công-đức của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ, hoặc làm Hóa-Lạc Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà hiện những sự biến-hóa trang-nghiêm của chư Bồ-Tát, hoặc làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà diễn thuyết tất cả phật-pháp, hoặc làm Ma-Vương tuyên nói tất cả pháp thảy đều vô-thường, hoặc làm Phạm-Vương tuyên nói chư thiền-định có vô-lượng hỉ-lạc, hoặc làm A-Tu-La Vương vào biển đại-trí rõ pháp như huyễn vì chúng A-Tu-Ta mà thường thuyết pháp dứt trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ở xứ Diêm-La cứu khổ địa-ngục, hoặc thấy ở xứ ngạ-quỷ bố-thí đồ uống ăn cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc-sanh dùng những phương-tiện điều-phục chúng-sanh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát vì chúng hội Hộ-Thế Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ðao-Lợi Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Ma Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ðâu-Suất Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Hóa-lạc Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Tha-hóa Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ðại-Phạm Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Long-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Xoa-Vương, La-Sát-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Càn-Thát-Bà Vương và Khẩn-Na-La Vương mà thuyết pháp hoặc thấy vì chúng-hội A-Tu-La Vương và Ðà-Na-Bà Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ca-Lâu-La Vương và Ma-Hầu-La-Già Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì những chúng-hội nhân phi-nhân khác mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Thanh-Văn Duyên-Giác mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Bồ-Tát sơ-phát-tâm nhẫn đến Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ trụ quán-đảnh vị mà thuyết pháp.
Hoặc lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát khen nói những công đức của sơ-địa nhẫn đến thập-địa.
Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả ba-la-mật.
Hoặc thấy khen nói pháp môn nhập các nhẫn.
Hoặc thấy khen nói những môn đại tam-muội.
Hoặc thấy khen nói những môn giải-thoát thậm-thâm.
Hoặc thấy khen nói cảnh-giới của những tam-muội thần-thông.
Hoặc thấy khen nói những bồ-tát-hạnh.
Hoặc thấy khen nói những thệ nguyện lớn.
Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát đồng hành khen nói những phương-tiện lợi ích chúng-sanh.
Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ khen nói tất cả môn Phật quán đảnh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát trong trăm ngàn năm kinh hành, đọc tụng, thơ tả kinh quyển, siêng cầu quán sát vì đại-chúng mà thuyết pháp.
Hoặc nhập tứ-thiền, tứ vô-lượng tâm.
Hoặc nhập biến-xứ và những giải-thoát.
Hoặc nhập tam-muội dùng sức phương-tiện hiện những thần-biến.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát nhập biến-hóa tam-muội, nơi mỗi lỗ lông trên thân hiện ra tất cả biến-hóa thân-vân. Hoặc hiện ra thiên-chúng thân-vân. Hoặc hiện ra long-chúng thân-vân. hoặc hiện ra bát-bộ-chúng thân-vân. Hoặc hiện ra Thích, Phạm, Hộ-Thế, Chuyển-Luân Thánh-Vương, Tiều-Vương, Vương-Tử, Ðại-Thần, Quan-Thuộc, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ thân-vân. Hoặc hiện ra Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát, Như-Lai thân-vân. Hoặc hiện ra tất cả chúng-sanh thân-vân. Hoặc phát ra tiếng vi-diệu khen những pháp-môn của chư Bồ-Tát. Hoặc khen nói môn công-đức của đàn-ba-la-mật nhẫn đến công-đức của trí-ba-la-mật. Khen nói các nhiếp pháp, các thiền, các vô-lượng-tâm, các tam-muội chánh-quán, các thông, các minh, tổng-trì, biện-tài, các đế, các trí, chỉ, quán, giải-thoát, các duyên, các y, các thuyết, các pháp-môn. Khen nói niệm-xứ, chánh-cần, thần-túc, căn, lực, bảy phần bồ-đề, tám thánh-đạo, những thanh-văn-thừa, những duyên-giác-thừa, những bồ-tát-thừa, những địa, những nhẫn, những hạnh, những nguyện, tất cả những công-đức-môn như vậy.
Hoặc ở trong những lỗ lông ấy lại thấy chư Như-Lai có đại-chúng vây quanh. Cũng thấy chư Phật nầy: chỗ sanh, chủng-tánh, thân hình, thọ-mạng, quốc-độ, kiếp-số, danh-hiệu, thuyết pháp lợi ích, chánh-pháp ở đời mau hay lâu, nhẫn đến đạo-tràng chúng-hội đều thấy rõ cả.
Lại ở nơi những lâu các trong phạm-vi Trang-Nghiêm-Tạng nầy, mỗi lâu các đều cao rộng trang-nghiêm tối thượng, trong đó đều thấy Ðại-Thiên thế-giới, trăm ức Tứ-Thiên-Hạ, trăm ức Ðâu-Suất-Thiên. Mỗi mỗi đều có Di-Lặc Bồ-Tát giáng thần đản-sanh. Thích, Phạm và Thiên-Vương ẫm bồng cung kính. Bồ-Tát sơ sanh kinh hành bảy bước, nhìn xem mười phương, tuyên bố độc tôn, làm đồng-tử, ở cung-điện, dạo chơi viên-uyển, vì cầu nhất-thiết-trí mà xuất-gia khổ-hạnh, thị hiện thọ cháo sữa, đến ngồi đạo-tràng hàng phục ma-quân, thành Ðẳng-Chánh-Giác, quán-sát bồ-đề-thọ. Phạm-Vương thỉnh chuyển pháp-luân. Lên cung trời mà thuyết pháp. Kiếp số thọ-lượng, chúng-hội trang-nghiêm, nghiêm tịnh quốc-độ, thật hành hạnh nguyện, phương-tiện giáo-hóa thành-thục chúng-sanh, phân chia xá-lợi, trụ-trì giáo-pháp, những sự việc chẳng đồng như vậy thảy đều thấy rõ.
Thiện-Tài lại thấy thân mình ở tại chỗ chư Phật Như-Lai ấy, cũng dự trong chúng-hội ấy, đều nhớ rõ tất cả phật-sự và thông đạt vô-ngại.
Lại nghe tất cả lưới, linh, nhạc-khí trong tất cả lâu-các ấy đều diễn sướng bất-tư-nghì pháp-âm vi-diệu: hoặc nói Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm, hoặc nói tu hành các môn ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, các địa, hoặc nói cung kính cúng-dường Như-Lai, hoặc nói trang-nghiêm phật-độ, hoặc nói chư Phật thuyết pháp sai biệt.
Lại nghe xứ đó có Bồ-Tát nghe pháp-môn như vậy. Thiện-tri-thức ấy khuyên phát tâm bồ-đề ở cõi ấy, kiếp ấy, chỗ đức Phật ấy, trong đại-chúng ấy, phát tâm, khởi nguyện, gieo thiện-căn quảng đại như vậy, trải qua bao nhiêu kiếp tu bồ-tát-hạnh, bao nhiêu thời gian sẽ thành chánh-giác danh hiệu như vậy, thọ lượng như vậy, quốc-độ trang-nghiêm như vậy, mãn nguyện như vậy, giáo-hóa chúng-sanh như vậy, chúng Thanh-Văn Bồ-Tát như vậy. Sau khi nhập niết-bàn, chánh-pháp ở đời bao lâu năm lợi ích vô-lượng chúng-sanh.
Hoặc lại nghe xứ ấy có Bồ-Tát tu lục ba-la-mật.
Hoặc nghe xứ ấy có bồ-tát vì cầu pháp mà rời bỏ ngôi vua, cung-điện, vợ con quyến-thuộc, tài-sản, nhẫn đến xả thí tay, chân, đầu, mắt, thân thể.
Hoặc nghe xứ ấy có Bồ-Tát thủ hộ chánh-pháp làm đại Pháp-Sư rộng hành pháp-thí, dựng pháp-tràng, thổi pháp-loa đánh pháp-cổ, mưa pháp-vũ, xây phật tháp miếu, làm hình tượng Phật, bố-thí tất cả đồ an vui cho chúng-sanh.
Hoặc nghe xứ ấy có đức Như-Lai ở kiếp ấy thành Ðẳng-Chánh-Giác thuyết pháp độ sanh.
Thiện-Tài nghe bất-tư-nghì vi-diệu pháp-âm như vậy, thân tâm hoan-hỉ nhu-nguyến liền được vô-lượng môn tổng-trì, vô-lượng môn biện-tài, các thiền, các nhẫn, các nguyện, các độ, các thông, các minh và các giải-thoát, các môn tam-muội.
Lại thấy những hình tượng trong các gương báu: những là chư Phật chúng-hội đạo-tràng, Bồ-Tát chúng-hội đạo-tràng, Thanh-Văn chúng-hội đạo-tràng, Duyên-Giác chúng-hội đạo-tràng, những tịnh thế-giới, những uế thế-giới, hoặc những tịnh uế thế-giới, những thế-giới có Phật, những thế-giới không Phật, những tiểu thế-giới, những trung thế-giới, những đại thế-giới, những nhân-đà-la-võng thế-giới những thế-giới úp, những thế-giới ngửa, những thế-giới bình-thản, những thế-giới của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh ở, những thế-giới đầy chúng nhân thiên.
Ở trong những thế-giới như vậy, thấy có vô-số chúng đại Bồ-Tát hoặc đi hoặc ngồi làm nhiều sự-nghiệp:
Những là hoặc khởi đại-bi thương xót chúng sanh, hoặc soạn những bộ luận lợi ích chúng-sanh, hoặc thọ, hoặc trì, hoặc biên, hoặc tụng, hoặc hỏi, hoặc đáp, ba thời sám-hối hồi-hướng phát nguyện.
Thiện-Tài lại thấy trong tất cả cột báu phóng lưới đại quang-minh ma-ni-vương, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc trắng, hoặc màu pha-lê, hoặc màu thủy-tinh, hoặc màu đế-thanh, hoặc màu hồng-nghệ, hoặc màu vàng diêm-phù-đàn, hoặc làm thành màu tất cả quang-minh.
Lại thấy những bửu-tượng và hình đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn, hoặc tay cầm hoa-vân, y-vân, tràng-phan, táng
cái. Hoặc cầm những hương thoa, hương bột. Hoặc cầm thượng-diệu ma-ni-bửu võng. Hoặc thòng xích vàng, hoặc mang anh-lạc. Hoặc dơ cánh tay bưng đồ trang-nghiêm. hoặc cúi đầu trút mão ma-ni khom mình chiêm ngưỡng mắt chẳng tạm rời.
Lại thấy chuỗi chân-châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám công-đức. Thấy chuỗi lưu-ly phóng trăm ngàn quang-minh đồng thời chiếu sáng. Những tràng phan bửu-cái, bửu võng tất cả đều trang-nghiêm với những châu bửu.
Lại thấy bốn màu hoa sen, mỗi mỗi đều sanh vô-lượng hoa: hoặc bằng cánh tay, hoặc bằng bánh xe. Trong mỗi hoa thảy đều thị-hiện nhiều thứ hình tượng để trang-nghiêm:
Như là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng-nam, tượng đồng-nữ, tượng Thích, Phạm, Hộ-Thế, Thiên, Long, Dạ-Xoa, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-La,
Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, tượng Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát.
Tất cả những sắc tượng trên đây đều khom mình chắp tay kính lễ.
Cũng thấy đức Như-Lai ngồi kiết-già, thân ba mười hai tướng trang-nghiêm.
Lại thấy nơi đất tịnh lưu-ly, trong khoảng mỗi bước hiện bất-tư-nghì những sắc-tượng:
Như là sắc-tượng thế-giới, sắc-tượng Bồ-Tát, sắc-tượng Như-Lai, sắc-tượng những lâu các trang-nghiêm.
Lại nơi nhưng nhánh lá bông-trái của bửu-thọ, đều thấy những sắc-tượng bán-thân:
Như là sắc-tướng bán-thân của Phật, của Bồ-Tát, của Thiên, Long, bát-bộ. Sắc tượng bán thân của Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương, của Chuyển-Luân-Vương, của Tiểu Vương, Vương Tử, Ðại-Thần, Quan-Trưởng và của tứ chúng.
Những sắc-tượng bán-thân nầy hoặc cầm tràng hoa, hoặc cầm anh-lạc, hoặc cầm những đồ trang-nghiêm, hoặc khom mình chắp tay lễ kính, nhất tâm chiêm-ngưỡng mắt chẳng tạm rời. Hoặc ca ngợi, hoặc nhập tam-muội nơi thân đều dùng tướng hảo trang-nghiêm phóng những quang-minh nhiều màu:
Như là quang-minh màu chân-kim, màu bạch-ngân, màu san-hô, màu đâu-sa-la,
màu đế-thanh, màu tỳ-lô-giá-na bửu, màu châu bửu, màu bông chiêm-ba-ca.
Lại thấy trong tượng bán nguyệt phóng ra vô-số quang-minh của nhật nguyệt tinh tú chiếu khắp mười phương.
Lại thấy bốn phía vách trong mỗi bước đều dùng châu bửu để trang-nghiêm.
Trong mỗi châu bửu đều hiện hình Di-Lặc Bồ-Tát thuở kiếp xưa tu hành bồ-tát-đạo: hoặc bố-thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, mũi, máu, thịt, da thứa, xương tủy, nhẫn đến móng, tóc. Hoặc bố-thí vợ con, thành ấp, tụ lạc, quốc-độ, ngôi vua. Làm cho người ở lao ngục thời được ra khỏi, kẻ bị trói buộc thời được cởi mở, người bệnh tật thời được lành, người vào đường tà thời chỉ cho đương chánh.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm lái thuyền đưa qua biển lớn. Hoặc làm mã-vương cứu hộ ác nạn. Hoặc làm đại-tiên khéo giảng-luận. Hoặc làm Luân-Vương khuyên tu thập thiện. Hoặc làm y-vương khéo chữa các bệnh. Hoặc hiếu thuận cha mẹ. Hoặc thân cận thiện-hữu. Hoặc làm Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát. Hoặc làm Như-Lai giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh. Hoặc làm Pháp-Sư phụng hành phật-giáo, thọ-trì, độc tụng, tư-duy đúng lý. Lập phật-tháp, tạo phật-tượng. Hoặc mình cúng dường, hoặc khuyên người cúng, thoa hương, rải hoa, cung kính lễ bái. Những sự như trên thật hành luôn không dứt.
Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ngồi tòa sư-tử thuyết pháp khuyên chúng-sanh an-trụ thập-thiện, nhất tâm quy hướng Tam-Bửu, thọ-trì năm giới và tám giới, xuất gia nghe pháp, thọ-trì đọc tụng, tu hành đúng pháp.
Nhẫn đến hoặc thấy những sắc-tượng của Di-Lặc Bồ-Tát tu hành các môn ba-la-mật trong trăm ngàn ức na-do-tha vô-số kiếp.
Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát từng kính thờ chư thiện-tri-thức đều dùng tất cả công-đức trang-nghiêm.
Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát tại chỗ của mỗi thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, tuân hành lời dạy, nhẫn đến trụ bực Quán-Ðảnh.
Bấy giờ chư thiện-tri-thức ấy bảo Thiện-Tài rằng:
Lành thay Ðồng-Tử! Ngươi nhìn xem những sự bất-tư-nghì của Di-Lặc Bồ-Tát chớ có nhàm mỏi.
Lúc đó vì được sức ghi nhớ chẳng quên, vì được mắt thanh-tịnh thấy mười phương, vì được trí vô-ngại khéo quán-sát, vì được trí tự-tại của Bồ-Tát, vì được quảng-đại-giải của chư Bồ-Tát đã nhập trí-địa, nên Thiện-Tài ở trong mỗi vật của tất cả lâu các đều thấy vô-lượng cảnh-giới bất-tư-nghì như vậy.
Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thức dậy bèn biết là cảnh mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực gia-trì của Di-Lặc Bồ-Tát, vì biết những pháp trong tam-giới như mộng, vì diệt được tâm tưởng hèn kém của chúng-sanh, vì được tri-giải rộng lớn vô-ngại, vì an trụ cảnh-giới thù-thắng của Bồ-Tát, vì nhập trí phương-tiện bất-tư-nghì, nên Thiện-Tài thấy được cảnh-giới tự-tại như vậy.
Như người sắp mạng-chung, thấy tướng thọ báo theo nghiệp của họ: người gây ác-nghiệp thời thấy tất cả cảnh-giới khổ nơi địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh. Hoặc thấy lính ngục tay cầm binh khí sân mắng trói bắt dẫn đi. Cũng nghe những tiếng kêu khóc than van. Hoặc thấy sông tro, vạc nước sôi, núi dao, cây gươm, rồi bị bức vào chịu khổ.
Người làm lành thời thấy cung-điện trời, vô-lượng thiên-chúng, thiên-nữ, y-phục trang-nghiêm, cung-điện viên lâm đều đẹp tốt.
Dầu thân chưa chết, nhưng do nghiệp-lực thấy những sự như vậy.
Cũng vậy, do sức bất-tư-nghì của bồ-tát-nghiệp nên Thiện-Tài được thấy tất cả cảnh-giới trang-nghiêm.
Như có người bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc tùy nơi người hỏi đều đáp được cả.
Cũng vậy, do bồ-tát trí-huệ nhiếp-trì nên Thiện-Tài được thấy tất cả sự trang-nghiêm, nếu có ai hỏi đều đáp được cả.
Như có người bị rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng rồi vào long-cung, trong thời-gian ngắn tự cho là đã trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm.
Cũng vậy, vì trụ bồ-tát trí-huệ, vì Di-Lặc Bồ-Tát da-trì, nên trong một ít thời-gian mà Thiện-Tài cho là vô-lượng kiếp.
Như Phạm-Thiên-Cung tên là Trang-Nghiêm-Tạng, trong đó hiện tất cả sự vật trong Ðại-Thiên thề-giới chẳng tạp loạn nhau.
Cũng vậy, Trong lâu các nầy, Thiện-Tài thấy khắp tất cả cảnh-giới trang-nghiêm, nhiều thứ sai khác chẳng tạp loạn nhau.
Như Tỳ-Kheo nhập biến-xứ-định, khi đi đứng ngồi nằm, tùy theo định đã nhập, cảnh-giới ấy hiện tiền.
Cũng vậy, Thiện-Tài nhập lâu-các nầy, tất cả cảnh-giới đều hiện rõ.
Như có người ở không-trung thấy thành Càn-Thát-Bà đủ sự trang-nghiêm đều thấy biết rõ không chướng ngại.
Như cung-điện của thần Dạ-Xoa cùng cung-điện của người đồng ở một chỗ mà chẳng tạp loạn nhau, đều tùy theo nghiệp nên chỗ thấy chẳng đồng.
Như nơi đại-hải, tất cả sắc tượng của thế-giới đều hiện trong đó.
Như nhà ào-thuật, dùng ảo-lực hiện những ảo-sự.
Cũng vậy, do sức oai-thần của Di-Lặc Bồ-Tát, do sức huyễn-trí bất-tư-nghì, do có thể dùng huyễn-trí biết các pháp, do được sức tự-tại của Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy tất cả cảnh giới tự-tại trang-nghiêm trong lâu các.
Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát nhiếp thần-lực vào trong lâu-các, đàn-chỉ ra tiếng bảo Thiện-Tài rằng:
Thiện-nam-tử dậy! Pháp-tánh như vậy. Ðây là những tướng của trí biết các pháp của Bồ-Tát làm nhơn-duyên tụ tập mà hiện ra. Tự-tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như-ảnh, như tượng, đều chẳng thành-tựu.
Nghe tiếng đàn-chỉ, Thiện-Tài liền từ tam-muội dậy.
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi ở trong giải-thoát tự-tại bất-tư-nghì của Bồ-Tát thọ những hỉ-lạc tam-muội của Bồ-Tát, có thể thấy cung-điện trang-nghiêm của Bồ-Tát thần-lực gia-trì, của trợ-đạo lưu xuất, của nguyện-trí hiển hiện. Ngươi thấy bồ-tát-hạnh, nghe bồ-tát-pháp, biết bồ-tát-đức, rõ như-lai nguyện.
Thiện-Tài thưa:
Bạch Ðại-Thánh! Ðây là sức oai-thần gia hộ ghi nhớ của thiện-tri-thức.
Bạch Ðại-Thánh! Môn giải-thoát nầy tên là gì?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là tạng trí trang-nghiêm nhập tất cả cảnh-giới ba đời chẳng quên mất.
Nầy Thiện-nam-tử! Trong môn giải-thoát nầy có bất-khả-thuyết bất khả-thuyết môn giải-thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ.
Thiện-Tài hỏi:
Sự trang-nghiêm nầy đi về đâu?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Ði về nơi chỗ đến.
Thiện-Tài hỏi:
Từ chỗ nào đến?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Từ trong trí-huệ thần-lực của Bồ-Tát mà đến, nương thần-lực của Bồ-Tát mà an-trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa rời tất cả.
Nầy Thiện-nam-tử! Như Long-Vương làm mưa: chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức tâm-niệm của Long-Vương mà mưa tuôn khắp thiên-hạ.
Cảnh-giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy Thiện-nam-tử! Cũng vậy, những sự trang-nghiêm trong lâu-các nầy chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, mà chẳng phải là không thấy. Chỉ do thần-lực của Bồ-Tát và sức thiện-căn của ngươi, mà ngươi được thấy như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử! Như nhà ảo-thuật làm những ảo-sự: không từ đâu lại, không đi đến đâu. Dầu không lại không đi, nhưng do ảo-lực mà thấy rõ ràng.
Cũng vậy, sự trang-nghiêm nầy không từ đâu lại, cũng không chỗ đi. Dầu không lại không đi, nhưng do quen tập sức huyễn-trí bất-tư-nghì và do sức đại-nguyện thuở xưa mà hiển- hiện như vậy.
Thiện-Tài thưa:
Ðại-Thánh từ-xứ nào đến đây?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Chư Bồ-Tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ, không chấp, không mất, không sanh, chẳng ở, chẳng dời, chẳng động, chẳng khởi, không luyến, không nhiễm, không nghiệp, không báo, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, như vậy mà đến.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát từ chỗ đại-bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng-sanh.
Từ chỗ đại-từ mà đến, vì muốn cứu hộ các chúng-sanh.
Từ chỗ tịnh-giới mà đến, vì tùy sở-thích mà thọ sanh.
Từ chỗ đại-nguyện mà đến, vì nguyện-lực thuở xưa gia-trì.
Từ chỗ thần-thông mà đến, vì nơi tất cả xứ, tùy thích mà hiện.
Từ chỗ không lay động mà đến, vì hằng chẳng bỏ rời tất cả Phật.
Từ chỗ không thủ xả mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải qua lại.
Từ chỗ phương-tiện trí-huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng-sanh.
Từ chỗ thi-hiện biến-hóa mà đến, vì dường như ảnh tượng mà hóa hiện.
Nhưng nầy Thiện-nam-tử! Ngươi hỏi ta từ chỗ nào mà đến?
Nầy Thiện-nam-tử! Ta từ sanh-quán, nước Ma-La-Ðề mà đến nơi đây.
Nầy Thiện-nam-tử! Nước ấy có tụ-lạc tên là Phòng-xá. Trong tụ-lạc có Trưởng-Giả-Tử tên là Cù-Ba-La, ta vì hóa độ người ấy vào phật-pháp mà ở nơi đó. Lại vì tất cả nhân-dân đáng được hóa-độ nên sanh nơi đó để thuyết pháp. Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc nói pháp đại thừa cho được xu nhập nên ở nơi đó, rồi từ đó đến đây.
Thiện-Tài thưa:
Bạch Ðại-Thánh! Những gì là sanh-xứ của Bồ-Tát?
Di-Lặc Bồ-Tát nói:
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát có mười thứ sanh-xứ:
Bồ-dề-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh ra Bồ-Tát.
Thâm-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-tri-thức.
Chư-địa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh các môn ba-la-mật.
Ðại-nguyện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh diệu-hạnh.
Ðại-bi là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tứ-nhiếp-pháp.
Quán-sát đúng lý là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh bát-nhã ba-la-mật.
Ðại-thừa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-xảo phương-tiện.
Giáo-hóa chúng-sanh là
sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh chư Phật.
Trí-huệ phương-tiện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh vô-sanh pháp-nhẫn.
Tu hành tất cả pháp là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tam thế tất cả Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát dùng bát-nhã ba-la-mật làm mẹ, phương-tiện thiện-xảo làm cha, thí-ba-la-mật làm nhũ-mẫu, giới-ba-la-mật làm dưỡng-mẫu, nhẫn-ba-la-mật làm đồ-trang-nghiêm, tinh-tấn ba-la-mật làm ông gìa dưỡng-dục, thiền ba-la-mật làm người rửa giặt, thiện-tri-thức làm thầy dạy, tất cả phần bồ-đề làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến-thuộc, tất cả Bồ-Tát làm huynh đệ, bồ-đề-tâm làm nhà, tu hành đúng lý làm
gia-pháp, chư địa làm gia-xứ, chư nhẫn làm gia-tộc, đại-nguyện làm gia-giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận gia-pháp, khuyên phát đại-thừa làm nối gia-nghiệp, pháp-thủy rưới đầu nhất-sanh bổ-xứ Bồ-Tát làm Thái-Tử, thành-tựu bồ-đề là hay tịnh gia-tộc.
Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát siêu phàm-phu-địa, nhập bồ-tát-vị, sanh nhà Như-Lai, trụ chủng-tánh Phật như vậy, có thể tu các hạnh chẳng dứt Tam-Bảo, khéo giữ được chủng-tộc Bồ-Tát, tịnh bồ-tát-chủng, chỗ sanh tôn-thắng, không lỗi ác, tất cả thế-gian, thiên, nhơn, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn cung-kính ngợi khen.
Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát sanh nhà tôn-thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như ảnh tượng nên đối với thế-gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến-hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu-lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo-hóa
chúng-sanh lòng không nhàm mỏi. Vì dùng đại-từ-bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng-sanh chẳng biết lao khổ. Vì liễu đạt sanh tử dường như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không e sợ. Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không nhàm mỏi. Vì biết các giới, xứ, đồng pháp-giới nên nơi các cảnh-giới không bi hoại diệt. Vì biết tất cả tưởng như dương-diệm nên vào trong các loài mà chẳng sanh điên-đảo mê hoặc. Vì đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh-giới ma chẳng sanh nhiễm trước. Vì biết pháp-thân nên tất cả phiền-não chẳng khi dối được. Vì được tự-tại nên nơi tất cả loài đều thông đạt vô-ngại.
Nầy Thiện-nam-tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp-giới, đồng sắc tướng sai-biệt với tất cả chúng-sanh, đồng ngôn âm sai khác với tất cả chúng-sanh, đồng những danh hiệu với tất cả chúng-sanh, đồng những cử chỉ sở thích của tất cả chúng-sanh để tùy thuận thế-gian giáo-hóa điều-phục, thị-hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng-sanh thanh-tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với tất cả phàm-phu chúng-sanh.
Ðồng với tâm tưởng của tất cả chúng-sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ-Tát mà hiện thân mình đầy khắp pháp-giới.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta đồng tu công-hạnh mà nay thối thất tâm bồ-đề. Cũng vì giáo-hóa cha mẹ thân thuộc. Cũng vì giáo-hóa các Bà-La-Môn khiến họ bỏ tánh kiêu-mạn để được sanh trong chủng-tánh Như-Lai, nên ta sanh tại nhà bà-la-môn nơi tụ-lạc Phòng-Xá trong nước Ma-La-Ðề ở Diêm-Phù-Ðề nầy.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở trong đại-lâu-các nầy tùy tâm sở-thích của các chúng-sanh dùng nhiều phương-tiện để giáo-hóa đều-phục.
Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì tùy thuận tâm chúng-sanh, ta vì thành-thục chư Thiên đồng hành nơi cung Ðâu-Suất, ta vì thị-hiện bồ-tát phước trí biến-hóa trang-nghiêm siêu quá tất cả dục-giới cho họ bỏ rời những dục lạc, vì cho họ biết hữu-vi đều vô-thường, vì cho họ biết chư Thiên hễ thạnh tất có suy, vì muốn thị-hiện lúc sắp giáng sanh dùng đại-trí pháp-môn cùng chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ cùng nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa những người đồng hành, vì muốn giáo-hóa những kẻ mà đức Thích-Ca Như-Lai để sót lại cho họ đều được khai ngộ như hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Ðâu-Suất.
Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta viên-mãn bổn-nguyện thành nhất-thiết-trí, chứng vô-thượng bồ-đề, thời ngươi và Văn-Thù Sư-Lợi đều được thấy ta.
Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi thiện-tri-thức mà hỏi rằng: Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào nhập Phổ-Hiền hạnh-môn, thế nào thành-tựu, thế nào quảng đại, thế nào tùy thuận, thế nào thanh-tịnh, thề nào viên-mãn?
Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà phân-biệt diễn nói.
Tại sao vậy?
Vì những đại-nguyện của Văn-Thù Sư-Lợi, chẳng phải vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát khác có được.
Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi có hạnh quảng đại, nguyện vô-biên, xuất sanh tất cả Bồ-Tát công-đức không thôi dứt.
Văn-Thù Sư-Lợi thường làm mẹ của vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Thường làm thầy của vô-lương trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát. Giáo hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Tiếng đồn vang khắp mười phương thế-giới. Thường làm Thuyết-Pháp-Sư trong tất cả chúng hội của chư Phật. Ðược tất cả Như-Lai khen ngợi, trụ nơi trí thậm-thâm, có thể thấy tất cả pháp như thiệt, thông đạt tất cả cảnh-giới giải-thoát, rốt ráo những hạnh của Phổ-Hiền.
Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi là thiện-tri-thức của ngươi, làm cho ngươi được sanh nhà Như-Lai, trưởng dưỡng tất cả thiện-căn, phát khởi tất cả pháp trợ-đạo, gặp thiện-tri-thức chơn thiệt khiến người tu tất cả công-đức, nhập tất cả nguyện võng, trụ tất cả đại-nguyện, vì ngươi mà nói tất cả pháp bí-mật của Bồ-Tát, hiện tất cả hạnh bất-tư-nghì của bồ-tát, thuở xưa cùng người đồng sanh đồng hành.
Vì thế nên nguơi phải đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi chớ có nhàm mỏi.
Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà nói tất cả công-đức.
Tại sao vậy? Vì trước kia ngươi thấy thiện-tri-thức, nghe bồ-tát-hạnh, nhập môn giải-thoát, đầy đủ đại-nguyện, đều do thần-lực của Văn-Thù Sư-Lợi.
Văn-Thù Sư-Lợi đều được rốt ráo tất cả xứ.
Lúc đó Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân Di-Lặc Bồ-Tát, hữu-nhiễu vô-lượng vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.
Comments
Post a Comment