ẤN QUANG ĐẠI SƯ
(Liên Tông Thập Tam Tổ)
Ấn Quang Đại Sư, húy Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối đời nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Hiệp Tây. Thuở bé ngài học Nho, lớn lên lấy việc duy trì đạo Khổng làm trách nhiệm, nên theo thuyết cúa Hàn Dũ, Âu Dương Tu, bài bác Phật Pháp. Sau khi bịnh mấy năm, tự xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước.
Niên hiệu Quang Chữ thứ bảy đời Thanh, vừa sang hai mươi mốt tuổi, căn lành thuần thục, ngài xuất gia với Đạo Thuần hòa thượng tại chùa Liên Hoa Động ở núi Chung Nam. Ít lâu sau, lại được duyên thọ đại giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An, với luật sư Ấn Hải Định.
Ngài từng bị đau mắt khi sanh ra vừa sáu tháng, sau tuy lành bịnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi đỏ, thì chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và viết chữ khéo, nên được cử làm chức Thơ ký. Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt lại phát đỏ như huyết. Lúc trước nhân khi phơi kinh được xem bộ Long Thơ Tịnh Độ, biết rõ công đức Niệm Phật, nên kỳ thọ giới này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ ngài vẫn ngồi niệm Phật. Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời Phật. Nhờ đó tuy đôi mắt phát đỏ, vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn bịnh đau mắt cũng được lành. Do đây, ngài biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân duyên này cũng là đầu mối khiến ngài quy hướng Tịnh độ, và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Đại sư tiến bước trên đường tu học trải qua các danh lam: Từ Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự, và sau cùng đến chùa pháp võ ở Phổ Đà Sơn.
Trong thời gian ấy, khi thì tham học, lúc duyệt Tam tạng kinh, khi lại nhập thất, nên ngài Ngộ sâu đến thượng thừa, lý sự đều vô ngại, Đại sư kiến thức cao siêu, làm việc cẩn thận nên hai phen được Hóa Văn Hòa Thượng và Đế Nhàn Pháp Sư mời làm đồng bạn đến đế đô thỉnh ba tạng kinh cho Pháp Võ Tự ở Phổ Đà Sơn và Đầu Đà Tự Tại Ôn Châu. Cảm mến hạnh đức, Hóa Văn hòa thượng thỉnh ngài về ở lầu Tàng Kinh tại chùa Pháp Võ để tĩnh tâm tu niệm. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn ba mười năm xuất gia, Đại sư trước sau tới lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội.
Nhưng chuông trống tuy đánh bên trong, tiếng thanh vẫn vang ra ngoài. Cao Tăng dù muốn ẩn mình, Thiên long cũng đưa duyên phổ hóa. Niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc năm đầu, cư sĩ Cao Hạt Niên nhân khi hành hương đến chùa Pháp Võ, lúc trở về đem vài bài văn của Đại sư đăng lên Phật Học Tòng Báo ở Thượng Hải, dưới đề tên là Thường Tâm. Tuy chưa biết đó là ai, nhưng văn tự Bát Nhã đã khiến cho độc giả phát khởi căn lành, nhiều người đua nhau dò hỏi chỗ ở. Lúc ấy, Đại sư vừa đúng năm mươi hai tuổi. Mấy năm sau, tung tích cũng bị người tìm biết được; lần lượt kẻ vượt bể lên non cầu lời khai thị, người mượn tin hồng nhạn hỏi lối nam châm. Cư sĩ Từ Huất Như sưu tầm văn tín của ngài in thành bộ Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, tái bản và tăng đính nhiều lượt, truyền bá cả trong đến ngoài nước.
Ban sơ, khi họ Từ cư sĩ đem mẹ lên núi cầu xin quy y, Đại sư còn bền chí ẩn tu không chịu chấp nhận, bảo sang quy y với Đế Nhàn Pháp Sư ở chùa Quán Tông tại Ninh Ba. Đến năm Dân Quốc Thư tám, cư sĩ Châu Mạnh Do đem quyến thuộc lên núi, ba bốn phen đảnh lễ cầu khẩn, xin thâu làm đệ tử tại gia. Đại sư quán xét cơ duyên, lý khó khước từ, bất đắc dĩ phải chấp thuận. Tính đến năm ấy, ngài được năm mươi chín tuổi, mới thâu đệ tử quy y lần đầu. Từ đó,hàng thiện tín kẻ viết thư cầu làm đệ tử, người lên non xin được quy y, tất cả đều y giáo phụng hành, ăn chay niệm Phật. Trong một đời giáo hóa, đệ tử tại gia của Đại sư từ hạng quyền qúy giàu sang, danh nhân học sĩ đến kẻ thôn giã thường dân, số lên đến gần ba trăm ngàn người. Có nhiều vị niệm Phật tu hành được sanh về Cực Lạc.
Đại sư trì giới tinh nghiêm, giữ mình rất kiêm ước. Đồ phục dụng tốt đẹp, cùng thức ăn ngon qúi người đem đến dâng, nếu không từ khước được, cũng chuyển tặng cho những vị xuất gia khác. Còn phẩm vật thông thường, thì đều chuyển giao cho nhà kho của chùa, để dại chúng cùng thọ hưởng. Bao nhiêu số tiền của dân tín cúng dường riêng cho mình, ngài đều đem in kinh sách, hoặc cứu tế các nạn tai, hay giúp vào những cơ quan từ thiện. Riêng mình chỉ giữ phần cơm thô áo vải đến trọn đời. Đại sư tánh không thích phô trương, có vài Phật tử mến đức tìm tới tận quê nhà, sưu tập sự tích từ khi ngài còn bé qua giai đoạn xuất gia và ra đời hoằng hóa, viết thành tuyệt ký, rồi gởi đến xin hiệu chính, để ấn tống lưu truyền rộng ra. Ngài đều khước từ, gởi nguyên bản trả lại, khuyên xin vì mình mà dẹp bỏ đi. Hai vị hiển quan: Đào Tại Đông và Hoàng Hàm Chi có viết thư đem đạo hạnh của Đại sư trình lên Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Ngài được Từ Tổng Thống phong tặng tấm biển đề “Ngộ Triệt Viên Minh”. Sai đoàn đại biểu đem đến tận chùa Phổ Đà, cùng hiến dâng nhiều hương hoa phẩm vật, song riêng ngài vẫn thản nhiên dường không hay biết. Đại sư có ba điểm đặc biệt khác hơn những vị xuất gia đương thời. Một là không lãnh làm trụ trì tự viện lớn, vì cho mình kém đức, e chướng ngại đến sự thanh tu. Hai là không thâu đệ tử xuất gia, vì xét thấy vào thời mạt pháp đã sâu, người xứng đáng với bổn phận xuất gia rất ít, nên không muốn gây nhiều hệ lụy. Ba là không quyên mộ khuyến hóa, bởi thẹn thấy nhiều kẻ vì lợi danh mà làm mất sự thanh khiết của nhà tu.
Về duyên hoằng hóa, Đại sư, quán xét vào thời mạt vận đạo đức lần suy, nhân căn hầu hết đều kém yếu. Phần đồng chỉ ở trình độ giữ Tam Quy, Ngũ Giới, niệm Phật ăn chay mà thôi. Như thế cũng gọi là đã có nhiều căn lành rồi. Còn hạng siêu xuất thì thật ra tuyệt ít. Vì thế, đại khái ngài chỉ khuyên giữ trọn luân thường, tin chắc nhân qủa, lánh dữ làm lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Người đáng chiết phục, dù bậc thiền túc cự nho, đạt quan danh sĩ, cũng thẳng thắng chỉ trích. Kẻ đáng nhiếp thọ, tuy hàng sơ học hậu sanh, nông công nô bộc, cũng từ ái khuyên dậy. Cách giáo hóa của Ngài, chỉ đem những sự lý thuyết thật bình thường để khuyến ích, tuy chính mình hiểu sâu tông giáo, song không chuộng huyền luận cao đàm. Đại sư thường tán trợ vào các hội niệm Phật phóng sanh, khuyên giúp vào các viện Từ „u, Dưỡng lão. Ngài cũng sáng lập ra hoằng Hóa Xã, giao cho người coi sóc, mình lãnh phần chỉ đạo, để ấn tống hoặc phát hành kinh sách và tượng Phật, Bồ Tát và hơn năm triệu bộ kinh sách thích ứng với thời cơ.
Về công trình hộ pháp, lúc Âu chiến lần thứ nhất, chính quyền có nghị định cho đời những kiều dân người Đức vào ở các chùa. Đại sư cố gắng vận động với các bậc quyền thế, khiến cho bỏ qua việc đó. Từ năm Dân Quốc thứ hai đến năm Dân Quốc thư hai mươi lăm, đã nhiều phen chính phủ theo lời đệ nghị của những nhà đương quyền có óc duy vật, lần lượt đăng báo muốn sung tài sản chùa chiền vào công qũy, chiếm các tự viện làm trường học. Đại sư họp sứ cùng chư Tăng sĩ và các cư sĩ hộ pháp, lập cách giải cứu, khiến cho đều được nạn thoát tai qua. Ngoài ra, các tiểu tiết khác, ngài chỉ tuỳ thời dùng đôi lời nói, hoặc một phong thơ đều tiêu kiếp nạn.
Về phần linh cảm, năm Đại sư bảy mươi tuổi được Tăng chúng thỉnh về chùa Báo Quốc. Và cuối mùa hạ, nơi đây sanh ra loài rệp rất nhiều. Từ gối chăn màn nệm, đến cửa sổ án kinh, đâu đâu cũng thấy chúng bò lai vãng. Hàng đệ tử thương ngài tuổi già sợ không kham chịu sự quấy nhiễu, xin vào để tìm cách thâu nhập. Đại sư không chấp thuận, chỉ yên tâm niệm Phật cầu nguyện cho chúng đi, không bao lâu loài rệp đều tuyệt tích. Ngoài thời niệm Phật, ngài thường tụng chú Đại Bi vào tàn hương, gạo, hoặc nước, để cứu những bịnh nặng mà các y sĩ đều bó tay. Mỗi lần như thế đều ứng nghiệm kỳ lạ. Một hôm, nơi lầu Tàng Kinh chùa Báo Quốc, phát hiện ra vô số mối trắng. Ngài hay được liền trì chú Đại Bi trong nước, bảo đem đến vẩy vào chúng. Loài mối đều kéo nhau bỏ đi nơi khác. Cư sĩ Cao Hạt Niên có lời tự thuật: Sở dĩ ông biết Ấn Quang Đại Sư là bậc cao Tăng, bởi ngài nói những lời rất thông thường, nhưng càng suy ngẫm càng thấy đúng với hiện cảnh và sau đó đều ứng nghiệm. Kỳ lên núi Phổ Đà lần thứ nhất, lúc nhà Thanh hãy còn, nhân ngụ tại chùa lâu ngày, cư sĩ có hỏi Đại Sư về cuộc diện mai sau. Ngài ứng khẩu đáp bằng một bài thi:
Tuần hoàn kiếp số rất bi thương!
Thoát khổ đâu hơn Cực Lạc bang?
Gắng niệm Di Đà về bản cảnh
Đừng mê trần lụy lạc tha hương
Bụi hồng nghiệp trước đời hư mộng
Lửa đỏ ngày sau nước họa ương
Khuyên sớm xa nơi nhiều kiếp nạn
Cùng nhau dạo bước đến Liên phương.
Trong bài thi, ngài ám chỉ nạn binh hỏa về sau, và khuyên người niệm Phật vậy.
Năm Dân Quốc thứ mười bảy, Đại sư thành lập Tịnh Độ đạo tràng tại chùa Linh Nham, soạn ra chương trình quy củ giao cho Chân Đạt hòa thượng nhiếp chúng trụ trì. Từ đó ngài về ở Tịnh thất tại Tô Châu. Sau thời niệm Phật, Đại sư họp cùng cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh, tu chỉnh bốn quyển Danh Sơn Chí, nói về linh tích các núi: “Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa”. Năm bảy mươi tuổi, vì chiến cuộc bức bách, ngài từ Tô Châu dời về Linh Nham, an cư niệm Phật ba năm.
Năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ngày 24 tháng 10, Đại sư dự biết kỳ vãng sanh, cho triệu tập chư Tăng và cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi hội đàm, ngài suy cử Diệu Chơn hòa thượng kế nhiệm trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”. Qua ngày mùng 4 tháng 11, Đại sư cảm bịnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Đà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi đây. Đại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây Phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già, chấp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Đại sư tăng lạp được sáu mươi, thế thọ tám mươi tuổi.
Rằm tháng hai năm sau, nhằm thánh tiết Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Đại sư vãng sanh được một trăm ngày. Hàng đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai mươi ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ. Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Đạt hòa thượng cầm đuốc cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc. Hôm sau Diệu Chơn hòa thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng trong thanh. Đại chúng lựa chia thành sáu phần:
Nha sỉ xá lợi, gồm ba mươi hai cái răng.
Ngũ sắc xá lợi châu, nhiều hạt tròn sáng.
Ngũ sắc tiểu xá lợi hoa, hình như các đóa hoa nhỏ.
Ngũ sắc đại xá lợi hoa, hình như những đóa hoa lớn.
Ngũ sắc huyết xa lợi, do huyết nhục hóa thành.
Ngũ sắc xá lợi khối, gồm những khối có nhiều hình dáng, màu sắc.
Tất cả đều để vào lồng kiếng, trân tàng tại bản sơn.
Kế tiếp hàng Tăng Ni và đệ tử lễ bái thỉnh cầu, vị nào có thành tâm khi bới tro tìm kiếm đều được xá lợi. Như Quảng Hiệp Pháp Sư ở Tân Gia Ba, Pháp Độ Thượng Nhân ở Ngũ Đài, cư sĩ Ngô Quốc Anh ở Phi Luật Tân, cư sĩ Nhạc Huệ Võ ở Thượng Hải, mỗi vị đều được xá lợi màu xanh, màu vàng, huyết sắc hoặc ngũ sắc. Đại sư lúc bình thời, ngôn hạnh chân thật, không biểu thị điều chi kỳ lạ, nên chẳng thể biết ngài chứng đắc đến đâu. Song hàng Tăng tục xét qua đạo hạnh, sự hoằng hóa thuở còn sanh tiền, đến việc quy Tây và lưu xá lợi khi viên tịch, đều nhận định ngài là bậc Thánh nhân tái lai để tùy cơ độ sanh và hộ trì chánh Pháp. Vì thế, nhân ngày kỷ niệm một năm viên tịch, các liên hữu Tăng tục đồng suy tôn Đại Sư làm vị tổ thứ mười ba của Liên tông.
THIỀN TỊNH
QUYẾT NGHI
Thuật giả: ẤN QUANG Đại sư
Việt dịch: Hòa Thượng THÍCH TRÍ TỊNH
LỜI ĐẦU QUYỂN
Từ
xưa, trong những xứ mà Đại thừa giáo được lưu hành, nhứt là
Trung Hoa, tự lực môn và Phật lực môn thường khi
thành đối lập, rất chướng ngại cho người học đạo, mặc
dầu đều từ kim khẩu của Đức Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết và
đều là của Đại đức Ma Ha Ca Diếp và A Nan Đà kiết tập.
Vì
chỗ lợi ích riêng cho một nhóm người đại căn đến cầu pháp, chư Tổ
trong Thiền tông dùng trực chỉ chơn tâm kiến tánh thành Phật để
khai thị đôi khi in như bài xích Liên Tông. Nhưng chính những lời ấy
là chuyển ngữ đối với đương cơ chớ chẳng phải là lời thường
dùng đối với tất cả.
Một
hạng người tăng thượng mạn tự cao tự phụ, theo kiến thức hẹp
hòi của mình, vin theo tiếng vang văng vẳng ấy, đường hoàng đứng
ra công kích môn Tịnh độ cùng khinh hủy người tu tịnh
nghiệp, để rồi chuốc lấy tội báng Phật, hủy Pháp, khinh Tăng. Vì
môn niệm Phật vãng sanh là gốc từ Phật A Di Đà lập nguyện,
Đức Thích Ca Mâu Ni chỉ giáo và lục phương chư Phật tán
dương, nay bác môn Tịnh độ thời là hủy báng chư Phật vậy. Đã từ nơi
Phật tuyên dạy thời môn Tịnh độ là giáo pháp chơn chính,
bác Tịnh độ chính là hủy báng chánh pháp vậy. Nơi hội Hoa
Nghiêm đức Phổ Hiền, trong hội Bát Nhã đức Văn Thù,
cùng vô lượng đại Bồ Tát đều có lời phát nguyện vãng
sanh Cực Lạc; Mã Minh Đại sĩ có lời khuyên tu niệm
Phật trong luận Khởi Tín; Long Thọ Bồ Tát được Phật thọ ký vãng
sanh nơi pháp hội Lăng Già, cùng vô số bậc đại Tổ
Sư của các Tông Đại thừa, chẳng những Liên Tông mà cả Thiền
Tông, Hoa Nghiêm Tông, nhứt là Pháp Hoa Tông([1]), cho đến trong Duy
Thức Tông, ngài Thiên Thân, ngài Khuy Cơ v.v... đều cực lực tán
dương và hoằng truyền môn Tịnh độ. Nay bác Tịnh độ hay
khinh hủy người niệm Phật thời chính là hủy báng chư Hiền Thánh
Tăng vậy. Hủy báng Tam Bảo là nghiệp nhơn của quả
báo địa ngục A Tỳ.
Ấn
Quang Đại sư, một cao Tăng của cận đại xót thương những
kẻ nông nổi ấy, nương khẩu khí của Mộ Liên Pháp sư ở Hồng Loa Sơn mà
thuật ra tập thuyết nghi này, để lấp bít cửa địa ngục cho họ([2]).
Nguyên
bản đề là TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI LUẬN. Nơi bản Việt dịch này tôi sửa
lại là THIỀN TỊNH QUYẾT NGHI.
Nơi
tập này trong khi chỉ trích chỗ nhận lầm của các nhà
tu Thiền về Pháp môn Tịnh độ với một lối lập luận chặt
chẽ sâu sắc. Đại sư căn cứ vào giáo lý mà giảng giải tông
thú của môn niệm Phật một cách rành rẽ.
Tập
này có thể là kim chỉ nam cho người còn bâng khuâng nơi hai nẻo đường : tu
Thiền hay tu Tịnh ? Và là lèo lái vững chắc cho người
đã phát tâm Phật rồi.
Với
người tu Thiền, tập này chỉ cho biết rằng có ngại gì kiêm
tu niệm Phật để được bảo đảm cho quả giải thoát ở
tương lai. Với người tu Tịnh, tập này sẽ hướng dẫn đến mục đích liên
hoa hóa sanh và phá tan những tà thuyết bài bác của ma
ngoại.
Người
học Phật phải tu Phật, nghĩa là phải nhắm mục đích : CHỨNG PHẬT
QUẢ, mới phải thật là đệ tử Phật.
Nên tế
tâm tự xét : ta có thể cứ tự lực vượt khổ luân hồi để
đến quả viên mãn Bồ-đề hay cần phải nương Phật lực ?
Ta
phải bình tĩnh cân nhắc lấy sự lợi hại, không nên quá tự phụ
mà thành nông nổi.
Người
có chút trí khôn chẳng bao giờ chịu phí sức thì giờ nhúm lửa
bằng cách cọ gỗ trước ngọn đuốc đang cháy bùng.
Kẻ
quá ngông cuồng mới tự phụ cặp chân của mình, rồi lội bộ băng rừng trèo núi để
qua xứ Thiên Trúc trong khi tàu thủy đang chờ ở bến, phi cơ chực sẵn
tại sân bay!
Kinh
Đại Tập Nguyệt Tạng, Phật dạy : “Trong thời mat pháp, chúng
sanh chỉ nương sức niệm Phật mà ra khỏi luân hồi thôi”.
Kinh Bát
Nhã Đức Phật đem sự chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của
Phật để đáp lời hỏi của đức Văn Thù Bồ Tát về vấn đề : thế
nào màu đặng Vô thượng Chánh giác ?
Kinh
A Di Đà, Đức Phật nhiều lần lập lại câu : “Các chúng
sanh nên phải phát nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc của
Phật A Di Đà...”
Kinh
Hoa Nghiêm ngài Phổ Hiền, Kinh Bát Nhã ngài Văn
Thù đồng phát nguyện : “Nguyện con đến lúc sắp lâm chung, tận
mặt thấy Phật A Di Đà, liền được vãng sanh về Cực Lạc”.
Văn
Thù Bồ Tát bảo Pháp Chiếu Đại sư : “Muốn mau thành Phật không
gì bằng chuyên niệm Phật A Di Đà...”. Và Quan Thế Âm Bồ
Tát khuyên Từ Mẫn Tam Tạng : “Ông muốn truyền pháp để
độ mình, độ người thời nên chuyên niệm Tây phương Cực Lạc thế
giới A Di Đà và phát nguyện vãng sanh...” (Xem toàn truyện ở
bộ Đường Về Cực Lạc tập nhứt).
Hỡi
các pháp hữu! Các đạo hữu! Hỡi những người có lòng muốn thoát
ly cõi ngũ trược ác thế, những vị mong ra khỏi nẻo luân hồi,
những bậc lập chí độ sanh!
Các
ngài còn chần chờ gì mà không kíp tuân lời của Phật dạy, của đại Bồ
Tát khuyên mà chuyên tu niệm Phật!
Các
ngài còn do dự gì mà không noi gương chư Tổ Sư, các Cổ Đức để
liền phát nguyện cầu về Cực Lạc Tịnh Độ! Và các bạn
còn nghi ngờ gì khi đã hiểu giáo lý, khi đã biết rõ rằng trước
ta đã có vô số người được vãng sanh, đã được siêu
phàm nhập Thánh nhờ tu tịnh nghiệp!
PL 2500 (1956) Đạo tràng Vạn Đức
Ngày thành đạo của Đức THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Hân Tịnh Tỳ
kheo Thích Trí Tịnh
I.- TỰ THUẬT
Thuốc không luận đắt hay rẻ, chữa lành bệnh
là thuốc hay.
Pháp môn không luận ưu hay liệt, hợp
thời hợp cơ là diệu pháp.
Ngày xưa, bậc trí thức đông, căn
tánh của người học đạo lại thù thắng([3]), nên tu theo một môn nào đều có thể chứng
đạo cả.
Hiện nay, bậc trí thức ít, căn
tánh của người học đạo lại lậu liệt, ngoài môn Tịnh độ([4]) thật khó mong giải
thoát được.
Tôi([5]) thầm hổ lấy mình đời trước ít
trồng căn lành, phước huệ thời mỏng cạn, nghiệp chướng lại
sâu nặng. Trong thời tuổi ham học không sớm gặp thầy sáng bạn lành, không được
nghe đạo lý của Thánh Hiền, chỉ tranh đua uống lấy thuốc
độc bài bác Phật pháp của Hàn Dũ và Âu Dương Tu([6]). Ít lúc nghiệp báo hiện
ra, phải bệnh trầm trệ luôn cả mấy năm gần như phế nhơn, không kham được việc
gì.
Trong khi nằm bệnh tôi tự tỉnh tự xét :
Thiên địa, quỷ thần rất sáng suốt, những bậc Hiền
Thánh từ xưa tới nay rất nhiều. Nếu Phật pháp quả thật là tệ
hại cho nhân loại như lời của hai họ Hàn, Âu, thời chẳng những các bậc
vua Thánh, quan hiền không dung cho truyền bá, mà thiên địa quỷ thần cũng
đã tru diệt từ lâu, đâu chờ đến họ Hàn họ Âu luận suông bàn khống để bài
bác. Phật pháp lại vốn không dùng quyền lực để ép người phục
tùng, nếu không nhờ thật đức để cảm lòng người, chơn lý để phục trí
người, thời đâu dễ còn được lưu thông vĩ đại đến ngày nay!
Sách Trung Dung nói : Đạo của
bậc quân tử, dầu là hạng người ngu dại cũng có thể cùng biết được
cùng làm được, nhưng đến từng chí cực thời Thánh nhơn (thế gian Thánh
nhơn) còn có chỗ chẳng biết được chẳng làm được.
Họ Hàn họ Âu dầu có thông minh,
nhưng chưa phải Thánh, làm sao thấu được chí lý, chỗ mà Thánh nhơn([7]) tự nhận là còn có chỗ chưa biết
được chưa làm được. Thế phải chăng Phật pháp thâm diệu, phàm
tình thế trí chẳng thể suy lường thấu đáo.
Xét đến đây tôi ăn năn sự nông
nổi của mình mà để tâm đến Phật pháp, và cũng từ ngày đó bệnh
tình của tôi lần lần thuyên giảm.
Tôi phát tín tâm, xuất
gia làm Tăng.
Sau một thời gian nghiên tầm giáo
lý của Đức Phật dạy, tôi tự lượng lấy mình : nếu
không nhờ nương nơi sức bi nguyện rộng lớn của Phật tất
khó được giải thoát ở đời này. Bắt đầu từ ấy, tôi chuyên
tâm niệm Phật, chí quyết cầu sanh Cực Lạc. Mặc dầu trải
qua nhiều năm đi nghe Kinh nghe giảng, học Thiền học Luật, chẳng
qua để phát minh lý tánh Tịnh độ, hầu làm tư lương Thượng phẩm vãng
sanh mà thôi.
Hờn vì thân thể suy yếu, sức
khỏe kém thiếu, nên không thể dũng mãnh hành đạo, nhưng tín và
nguyện của tôi rất kiên cố, chẳng những các vị Thiền sư, Giảng
sư không thể lay chuyển được chí hướng của tôi, dầu cho
chư Phật hiện thân bảo tôi tu pháp môn khác, tôi
cũng lạy Phật mà tạ lỗi, chớ quyết không đổi chí bỏ đây theo
kia, trái bổn nguyện của mình. Ngặt vì túc nghiệp của tôi quá nặng,
nên mãi chưa được niệm Phật Tam muội([8]). Càng nghĩ càng tự hổ!
II.- GIÁ TRỊ CỦA PHÁP MÔN TỊNH
ĐỘ
Có một vị Thượng tọa nhiều
năm tham cứu Thiền tông lại thông cả giáo lý, mắt ngài xem
bốn biển trống không, tự thệ chứng Nhứt thừa viên quả.
Thượng tọa theo gương ngài Thiện
Tài Bồ Tát đi tham phỏng khắp các bậc Thiện tri thức.
Một hôm, Thượng tọa đến Hồng
Loa Sơn vấn đạo nơi tôi. Nhằm lúc tôi đang muốn sưu tập giáo
lý Thiên Thai đặng chú thích quyển A Di Đà Kinh Yếu Giải([9]), để cho người sơ cơ học
Phật có phần tiến bộ. Chứ nguyên bản Yếu Giải, văn thời sâu, ý lại kín rất
không tiện cho hạng mông học.
Tôi kính tặng Thượng tọa một tập
Yếu Giải và ngỏ ý mình muốn soạn chú thích trình Thượng tọa.
Thượng tọa bảo : “A Di
Đà Kinh Yếu Giải tôi đã từng xem, thấy trong ấy nhiều đoạn nói : Áo tạng của Hoa
Nghiêm, bí tủy của Pháp Hoa, tâm yếu của chư Phật, chỉ nam của Bồ
Tát đều không ngoài nơi đây. Những lời ấy rõ là đè bẹp Thiền
tông cùng giáo lý mà khen tặng Tịnh độ một
cách quá đáng. Thật là hủy báng Chánh pháp luân, đưa chúng
sanh vào chỗ nghi lầm.
Bất ngờ Ngẫu Ích Đại sư là bậc tri
thức mà chẳng trực chỉ chơn tâm cùng hoằng dương chỉ quán,
trở đi viết tập Yếu Giải này để làm lá bùa hộ thân cho hạng ngu
phu ngu phụ. Khiến cho bao nhiêu người tại gia cũng như xuất
gia giữ chặt một môn mà bỏ vạn hạnh, gìn nước vũng mà quên biển cả,
đua nhau chạy vào đường mê trái hẳn giác lộ, đoạn diệt Phật chủng.
Thật là tội lỗi dẫy trời. Những ai có chí muốn báo Phật ân,
nên mau thủ tiêu tập Yếu Giải mới phải, có đâu lại muốn soạn chú
thích để giúp tập ấy lưu thông ?”
Chờ cho Thượng tọa khí bình, Mộ
Liên Pháp sư chậm rãi nói : “Ông cho rằng Ngẫu Ích Đại
sư soạn tập Yếu Giải này là có tội rất nặng, đó là ông chỉ biết ngọn
ngành mà không rõ nguồn gốc. Phải biết tội ấy thiệt không phải nơi bộ Yếu
Giải của Ngẫu Ích Đại sư, mà chính là tại nơi Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức A
Di Đà, thập phương chư Phật cùng Tịnh Độ Tam Kinh và tại
nơi các Kinh giáo Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bửu
Tích, Bi Hoa v.v... cùng tại nơi các đại Bồ Tát Tổ
Sư như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Trí
Giả, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh ([10]) v.v...
Nếu quả thiệt ông là vị đại Pháp
Vương([11]) tuyên bố trị tội ấy, mọi
người mới có thể tuân theo lời của ông. Bằng không thời nào khác
gì gã dân ngu ở thôn dã tự xưng Hoàng đế, tự đặt pháp luật, trái nghịch
chỉ dụ của chính phủ, tất khó khỏi tội chết. Lời kết tội của ông quả
là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng tất sẽ đọa địa ngục chịu
khổ nhiều kiếp, thật đáng thương thay!”.
Pháp sư nói đến đây, Thượng tọa chẩm
hẩm bảo : “Sao Sư lại trái với lệ thường mà nói tội tại nơi Phật, Bồ
Tát và Tổ Sư. Xin Sư biện rõ duyên cớ. Nếu lời lẽ của Sư đúng
lý, tôi đâu dám chẳng tuân theo”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Đức Như
Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời. Đại
sự nhân duyên là chi ? Là muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ
nhập Phật tri kiến để thành Phật mà thôi.
Đó là mục đích độ
sanh duy nhứt của Đức Phật.
Ngặt vì chúng sanh căn tánh
không đồng, có bậc đại căn, có hạng tiểu căn([12]), chỗ mê chướng lại kẻ sâu người cạn. Đức
Phật không thể thực hành sự giáo hóa theo chủ định tối
tiên, phải theo trình độ từng lớp người mà dạy dỗ, theo bệnh mà cho
thuốc. Vì THẬT mà khai QUYỀN rồi khai QUYỀN mà hiển THẬT([13]). Nơi trên pháp Nhứt thừa nói
ra nhiều giáo thuyết. Với hạng người căn lành thuần thục thời làm cho
thẳng lên bờ giác. Với hạng nghiệp chướng sâu dày thời đưa lần ra khỏi trần
lao. Đức Phật chịu khó dạy bảo, theo dõi từng người để
dắt dìu. Thật là ơn lớn đức dày, trên đời không ơn gì sánh kịp.
Lại vì tất cả pháp môn đều
nương tự lực, dầu là hạng người thiện căn sâu dày triệt ngộ tự
tâm, nhưng nếu kiến hoặc và tư hoặc([14]) còn có đôi chút chưa sạch thời
vẫn y nhiên là chúng sanh trong vòng luân hồi sanh tử; huống lại
khi đã thọ thai có thân ngũ ấm tất sẽ xúc cảnh móng tình;
người từ tỏ ngộ đến tỏ ngộ thời ít, mà kẻ từ mê đi sâu vào mê lại nhiều. Bậc thượng
căn còn nguy nan như thế, kể chi đến hạng trung và hạ.
Phải biết tự lực đoạn kiến hoặc
khó như đoạn dòng sông rộng bốn mươi dặm, đoạn tư hoặc lại muôn vạn lần
khó hơn. Giải thoát sanh tử đâu phải là vấn đề dễ dàng.
Vì thế nên những pháp
môn chuyên thuộc tự lực, chưa thỏa mãn ý muốn độ
sanh của Đức Phật, vì chưa có thể lợi ích khắp cả cho hết
thảy ba hạng chúng sanh.
Duy có một môn NIỆM PHẬT CẦU
SANH TỊNH ĐỘ nương nguyện lực rộng lớn của Đức Phật A
Di Đà, tất cả lục đạo chúng sanh không luận căn lành thành
thục hay chưa thành thục, không luận ác nghiệp nặng hay nhẹ
nếu ai bằng lòng TIN CHẮC PHÁT NGUYỆN TRÌ NIỆM HỒNG
DANH A DI ĐÀ PHẬT, thời quyết định được Đức Phật tiếp
dẫn VÃNG SANH CỰC LẠC TỊNH ĐỘ : là hạng thiện
căn thành thục tất chóng viên mãn Phật quả, nhẫn đến kẻ ác
nghiệp nặng cũng đặng dự hàng Thánh.
Nên biết pháp môn niệm Phật là yếu
đạo độ sanh của chư Phật, và là diệu pháp mà trên thì Thánh
nhơn đại Bồ Tát, dưới đến phàm phu đều đồng tu. Vì thế nên trong
các Kinh liễu nghĩa Đại thừa luôn nhắc đến, mà lịch đại Tổ
Sư không ai chẳng tuân hành.
Ông tự phụ là thông Thiền tông
giỏi giáo lý, mà lại nói quấy rằng người hoằng truyền môn Tịnh độ là
báng chánh pháp đoạn diệt Phật chủng. Rõ ràng ông đã mắc
phải ma quỷ dựa, loạn tâm điên cuồng mà tự gây lấy tội địa
ngục. Sao ông lại nhận mê lầm làm giác ngộ chỉ chánh nhơn
cho là tà vạy như thế ?
Xét về Đức Thích Ca Mâu Ni và
Phật A Di Đà, từ nơi kiếp xưa từng phát đại nguyện độ thoát
chúng sanh([15]). Đức Thích Ca thị hiện ở uế
độ dùng uế dùng khổ để chiết phục và thúc đẩy chúng sanh tiến
tu. Còn Đức A Di Đà thời an tọa nơi Tịnh Độ dùng tịnh dùng
vui để nhiếp thọ và đào luyện cho mọi người nên Thánh
quả.
Ông thấy dân quê người hèn
cũng niệm Phật được rồi vội miệt thị Tịnh độ, sao không xem
kỹ lại Kinh Hoa Nghiêm về phẩm Nhập Pháp Giới, đức Thiện
Tài sau khi chỗ ngộ chỗ chứng đã sánh kề với chư Phật, Phổ Hiền Bồ
Tát bèn dạy cho pháp mười điều đại nguyện để hồi hướng vãng
sanh Tây phương Cực Lạc thế giới hầu chóng viên mãn Phật
quả, và cũng khuyên khắp cả hải chúng trong Hoa Tạng ([16]). Xét về hải
chúng trong Hoa Tạng không có một ai là phàm
phu hay nhị thừa cả, chỉ ròng là 41 bậc Pháp thân Bồ Tát, đồng
phá vô minh đồng chứng pháp tánh, tất cả đều có thể hiện thân làm
Phật độ sanh nơi thế giới không Phật. Trong Hoa Tạng Hải
có vô số Tịnh Độ, mà chí chuyên quyết hồi hướng cầu
sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, đủ thấy rằng VÃNG SANH CỰC
LẠC LÀ HUYỀN MÔN THOÁT KHỔ, LÀ ĐƯỜNG TẮT THÀNH PHẬT.
Vì lẽ ấy nên từ xưa tới nay bao
nhiêu tự viện, tòng lâm thuộc Thiền, thuộc Giáo, hay Luật, tất cả
nơi nơi đều sớm tối niệm Phật phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.
Ông là người ở trong Thiền
môn đi tham phỏng các tòng lâm, hàng ngày tất cũng có niệm Phật phát
nguyện sao trở lại hủy báng Tịnh độ ?
Kinh Hoa Nghiêm là vua trong các
Kinh mà cũng là vua cả Tam tạng, không tin Hoa Nghiêm thời là
hàng nhứt xiển đề([17]), thọ tận ắt khó khỏi khổ quả nơi địa
ngục.
Tôi muốn thoát khổ mà cầu sanh Tịnh
Độ, còn ông muốn chác khổ mà hủy báng Hoa Nghiêm. Thôi ông cứ gìn lấy chí
của ông, tôi thời giữ lấy đạo của tôi. Xin ông đi đi, tôi không muốn cùng
ông biện luận thêm nữa!
III.- ĐEM THIỀN GẠN TỊNH
Thượng tọa nói : “Chánh pháp quý
nơi hoằng thông, có nghi cần phải hỏi để giải quyết, sao Sư
nỡ xua đuổi như thế.
Tôi từng nghe : Tỳ Lô Giá Na([18]) khắp tất cả, chỗ Phật ngự gọi
là Thường Tịch Quang. Thế thời chỉ cần chứng pháp thân, đương xứ
tức là Tịch Quang Tịnh Độ. Hà tất dùng tâm sanh diệt bỏ
Đông (Ta Bà) cầu Tây (Cực Lạc) ư ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Sao ông
nói dễ dàng thế; Tịch Quang Tịnh Độ dầu rằng đương xứ tức là đó.
Nhưng nếu chưa phải là bậc trí đức đoạn đức cứu cánh([19]), chưa viên chứng Tỳ Lô Pháp
thân, thời chưa có thể triệt để thọ dụng. Trong Viên giáo, bậc Thập
địa, Đẳng giác còn là phần chứng. Nếu ngài đã viên chứng Tỳ
Lô Pháp thân, thời tha hồ mà nói đương xứ là Tịch Quang.
Còn nếu chưa phải viên chứng mà nói, thời rõ là nói ăn cùng đếm của([20]), tất khó khỏi chết
đói chết rét”.
Thượng tọa nói : “Câu Duy tâm
Tịnh độ tự tánh Di Đà là lời thường nói của nhà Thiền lẽ đâu lại sai
lầm ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Lời của
nhà Thiền nói đó chính là chuyên luận về lý tánh, chớ không phải bàn đến sự tu.
Như thế là vì muốn cho người trước ngộ lý tánh rồi sau y theo tánh khởi
hạnh tu tập để đạt đến sự siêu phàm nhập Thánh, tức chúng
sanh mà thành Phật đạo. Sao chỗ tri kiến của ông lại điên
đảo, nhận sự với lý lộn lạo như thế!
Vừa rồi ông cho rằng bỏ Đông cầu Tây
là sanh diệt, mà ông không ngờ rằng chấp lấy Đông bác bỏ Tây lại
sa vào lỗi đoạn diệt. Lúc chưa chứng Phật quả có ai ở
ngoài phạm vi thủ xả (lấy bỏ) ? Đức Phật ta từ
lúc phát Bồ-đề tâm trải ba vô số kiếp tu Bồ Tát hạnh,
trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sanh, dứt nghiệp
hoặc chứng chơn thừa, có điều nào không phải là sự thủ xả ?
Phải biết Đức Như Lai muốn
cho chúng sanh sớm chứng Tịch Quang và Pháp thân,
nên đặc biệt hết lời khuyên mọi người niệm hồng
danh cầu sanh Cực Lạc.
Thượng tọa gạn : “Ngài Tào Bá phán
pháp Pháp môn Tịnh độ là quyền giáo chớ không phải thật
giáo. Cớ sao Hoa Tạng hải chúng lại đồng nguyện vãng
sanh ? Ngài Tào Bá hiện đời chứng Thánh thần thông trí huệ chẳng
thể nghĩ lường. Tất là Bồ Tát thị hiện. Không lẽ ngài phán sai ?
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Trong Kinh
Hoa Nghiêm về phẩm Nhập Pháp giới, quyển thứ 80, sau khi
ngài Thiện Tài chứng bậc Đẳng giác, đức Phổ Hiền liền
nói kệ tán thán công đức thắng diệu của Như Lai. Rồi
tiếp đến quyển thứ 81, tức là phẩm Hạnh Nguyện, đức Phổ Hiền
thuyết mười điều nguyện vương, khuyên Thiện Tài cùng chư đại Bồ
Tát đều phát nguyện hồi hướng cầu sanh Tây phương Cực
Lạc thế giới. Lúc Phổ Hiền dứt lời, Đức Phật hai lần
khen ngợi. Toàn thể đại chúng trong pháp hội đều phụng
hành.
Cố đức từng bảo : Pháp môn niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, duy Phật cùng Phật mới thấu đáo, bậc đại Bồ Tát vẫn
chưa hiểu trọn hết. Ngài Tào Bá dầu có là Bồ Tát thị hiện, song
vì thời kỳ ngài, bộ Kinh Hoa Nghiêm dịch chưa xong nên
ngài không thể đoán trước được. Sau khi ngài tịch hơn 50
năm, toàn bộ Hoa Nghiêm 81 quyển mới được phiên dịch hoàn
mãn([21]).
Xét theo Kinh Hoa Nghiêm thời
bậc thượng căn đại trí đều nhiếp cả về Tịnh Độ.
Kinh Đại Tập nói : “Thời mạt
pháp ức ức người tu hành khó có một người được giải thoát.
Chỉ nương pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân hồi”.
Xem đây thời Tịnh Độ gồm trùm cả lục đạo chúng sanh.
Ông tin ngài Tào Bá mà không
tin Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Tập, như thế khác nào người tin
theo chỉ thị của quan huyện mà không tuân sắc dụ của Tổng thống.
Thượng tọa hỏi : “Ngài Tào Bá đã
là Bồ Tát thị hiện, thời cần gì đợi đến xem Kinh rồi mới biết ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Vấn đề hoằng
dương Phật pháp không phải là sự dễ. Nói đâu phải có văn
Kinh làm chứng đến đó, mới thủ tín được. Kinh Hoa
Nghiêm lại vượt hẳn các Kinh khác nên không do đâu để suy luận, trong
khi Kinh Hoa Nghiêm chưa lưu hành”.
Thượng tọa lại gạn : “Khi Kinh
Niết Bàn chưa truyền sang, sao ngài Đạo Sanh tuyên bố trước rằng
hạng nhứt xiển đề đều có Phật tánh. Có lẽ nào ngài Tào Bá lại
sút ngài Đạo Sanh ?”
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, nhứt xiển đề là chúng
sanh tất cũng có Phật tánh. Phàm người trí thức đều có thể
suy hiểu mà đoán trước. Còn về vấn đề vãng sanh Cực Lạc để
chóng viên mãn Phật quả, ngoài Hoa Nghiêm, các Kinh khác tuyệt
chưa nói đến. Ai dám tự phụ kiến thức của riêng mình để lập
nghĩa!
Vả lại chỗ tu chứng của hai
ngài, chúng ta làm sao rõ được. Đâu nên đem hai ngài so
sánh để bàn suông.
Phải biết chư Bồ Tát hoằng
pháp có nhiều cách : hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc ẩn hoặc hiển, kiến
thức phàm phu không thể hiểu thấu. Biết chừng đâu ngài Tào Bá thị hiện không
rõ thấu để thúc đẩy thêm sự tín hướng của người sau!”.
Thượng tọa hỏi : “Các Sư
trong Thiền tông thường có lời bác Tịnh độ đó là lẽ gì
?”.
Mộ Liên Pháp sư : “Các Sư
trong Thiền tông chỉ truyền Phật tâm. Lời của các Sư nói ra đều
thẳng đến lý tánh. Ông đã nhiều năm tham thiền mà còn chưa hiểu
ý đó, thời đủ thấy rằng chỗ kiến giải của ông tất là những ác
kiến phá hoại Thiền tông thôi”.
Thượng tọa nói : “Tôi đâu dám tự
mình bịa ra, chỉ vì lời của chư vị Tổ Sư quyết có thể y cứ. Nay
xin thuật vài điều :
Lục Tổ bảo : Người phương Đông tạo
tội cầu sanh Tây phương. Còn người Tây phương tạo tội cầu sanh
cõi nào ?
Triệu Châu nói : Một chữ Phật ta
không thích nghe. Và lại nói : Lão Tăng mà niệm Phật một tiếng thời
súc miệng ba ngày.
Các Sư trong Thiền tông thường
nói ra những lời như thế là lẽ gì ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : Lục
Tổ trực chỉ lý tánh để người đối diện nhận lấy tự tâm. Ông
lại đem phân tích chữ nghĩa biện luận về phần tu trì, thế
là nhận lấy yên lừa làm càm của kỵ nhơn. Sao ông quá sai lầm đến thế
?
Ông nên biết người ở Cực Lạc đều
sạch kiến tư phiền não, tiến phá trần sa hoặc cùng vô
minh để chứng pháp thân, chỉ có tiến tu tuyệt
không có sự tạo tội. Nhưng nay cứ luận coi họ sẽ sanh về
cõi nào ?
Người ở Ta Bà đây niệm Phật nếu
chưa đoạn kiến tư phiền não, nhờ nguyện lực của Phật
mà được vãng sanh thời sanh về cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh
Độ. Một khi đã sanh Cực Lạc thời kiến tư phiền não sẽ triệt
để tiêu diệt, khác nào chút tuyết ném vào lò lửa đỏ lập tức liền
tan. Kiến tư sạch hết thời sanh về cõi Phương Tiện Hữu
Dư Tịnh Độ. Bậc phần phá vô minh thời sanh về cõi Thật
Báo Vô Ngại Trang Nghiêm Tịnh Độ. Vô minh sạch hết, phước
và huệ đã viên mãn thời sanh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Sao ông lại quá lo cho họ không chỗ sanh
để rồi chướng mình ngăn người không chịu cầu sanh ? Khác nào kẻ quá khờ khạo
nghe nói ăn cơm mắc nghẹn, rồi sợ quá mà không dám ăn để cam đói chết!
Ông thuật rằng ngài Triệu
Châu nói : Một chữ Phật ta không thích nghe. Sao ông không thuật luôn câu
dưới : Có người hỏi Hòa thượng có độ người không ? Triệu
Châu đáp : Phật! Phật!
Ông lại chỉ muốn nắm lấy câu : Hễ
ta niệm Phật một tiếng thời súc miệng ba ngày. Mà ông quên sót đoạn :
Có người hỏi Hòa thượng thọ sự cúng dường của nhà vua như
thế sẽ dùng gì để báo đáp ? Triệu Châu bảo : Ta niệm Phật!
Ông lại quên cả đoạn có người hỏi : Thập phương chư Phật có thầy hay
không ? Triệu Châu đáp : Có. Hỏi : Thế nào là thầy của chư Phật
? Triệu Châu đáp : A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Ông lại hỏi tại sao chư Sư
trong Thiền tông thường nói ra những lời như thế ? Ông nên biết rằng
chư Sư khi đối cơ người mà có thốt lời ra, gọi là Cơ phong,
là Chuyển ngữ. Hỏi ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Nếu người học đạo không
biết hồi quang phản chiếu tự tâm, mà lại một bề suy xét chữ
nghĩa, thời là ăn lấy bã hèm, đuổi theo đất cục, bao giờ thấy tánh được!
Tôi trong vòng xuất
gia đã hơn ba mươi năm, luôn nghe miệng chư Tăng truyền câu : Một
chữ Phật ta không thích nghe..., mà những câu DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ ĐỘ
NGƯỜI, DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ BÁO ƠN VUA, A DI ĐÀ PHẬT LÀ
THẦY CỦA CHƯ PHẬT thời ít nghe chư Tăng nói đến.
Và tất cả những câu trên đều từ miệng
ngài Triệu Châu thốt ra, nếu tin thời phải tin cả, sao lại tự mâu
thuẫn lựa câu tổn mà bỏ câu ích.
Xét về lời của Triệu Châu đều
quy nơi phần của tự mình. Câu không thích nghe chữ Phật cùng
câu niệm Phật để báo ơn v.v... đều là chuyển ngữ cả,
nếu người nghe trực hạ thấy được tự tâm, mới biết rằng đạo
pháp của Triệu Châu vượt hẳn thường tình, lời của Hòa thượng là
xuất cách, tất sẽ siêng lo niệm Phật suốt ngày không ngớt tiếng.
Bằng không được thấy nghe như trên, thời
chỉ nên nương theo câu niệm Phật mà dè dặt nơi câu bác Phật.
Theo niệm Phật thời hiện đời thoát khỏi luân hồi. Còn theo
bác Phật tất sẽ sa địa ngục.
Những người theo câu tổn mà bỏ câu
ích, phải chăng do vì nghiệp trọng phước khinh, chướng sâu huệ cạn nó
khiến như thế ư! (Cứ nơi người nghe không tỏ ngộ hiểu lầm mà gọi là tổn
với ích, chớ không phải lời của Tổ Sư có tổn có ích).
Ông lại nói lời của chư vị Tổ
Sư quyết có thể y cứ, sao ông không y cứ nơi Tổ
Bách Trượng dạy : TU HÀNH NƯƠNG NIỆM PHẬT LÀ ỔN
ĐÁNG. Quy tắc của Tổ phàm kỳ đảo bệnh Tăng cùng tống
táng vong Tăng đều hồi hướng cầu sanh Cực Lạc.
Tổ thứ 14, đức Long Thọ Bồ
Tát chứng Sơ địa vãng sanh Cực Lạc. Trong các bộ luận của Tổ
soạn ra nhiều chỗ tán dương Tịnh Độ. Như Tỳ Bà Sa Luận khen pháp
môn niệm Phật cầu vãng sanh là con đường dễ đi mà chóng đến([22]).
Đức Mã Minh Đại sĩ, Tổ thứ 12, cuối
Luận Khởi Tín dạy phương tiện tối thắng, bảo người niệm
Phật cầu sanh Tây phương, thường hầu Phật A Di Đà để được
trụ bậc bất thoái chuyển(2).
Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Nhị Tổ A
Nan Đà kiết tập các Kinh về Tịnh độ. Nếu các Kinh về Tịnh độ không lợi
ích mà có hại cho người đời sau, lẽ đâu các ngài mù quáng để
cho lưu thông!
Trong những Kinh về Đại thừa luận thuật
và tán dương Tịnh độ. Còn tạng Tiểu thừa thời tuyệt
không nói đến. Ông toan muốn tin Tiểu thừa mà bác bỏ Đại
thừa giáo ư!
Lúc Đức Thích Ca thuyết
Kinh A Di Đà, lục phương hằng sa chư Phật đều hiện tướng lưỡi
rộng dài khuyên chúng sanh nên tín thọ. Ông lại toan cho rằng
chư Phật muốn làm hại chúng sanh ư!
Nếu cho rằng với Lục Tổ, Triệu
Châu v.v... không thể không tin, thế thời với các ngài Ca
Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, Thích Ca Mâu Ni, A Di
Đà, lục phương chư Phật lại càng không thể không tin. Thấy
gần không rõ xa, biết nhỏ không hiểu lớn, khác nào dân quê chỉ mộ thế
lực của quan huyện, quan quận, mà không biết đến oai đức của Tổng
thống, Hoàng đế. Như trẻ nhỏ ham tấm gương đồng mà không đoái
hoài đến viên bảo châu như ý.
IV.- THIỀN KHÔNG BẢO ĐẢM GIẢI THOÁT BẰNG TỊNH.
TỨ LIỆU GIẢN
Ngừng một giây, Mộ Liên Pháp
sư nói tiếp : “Ông có biết ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Trí
Giác Thiền sư khai thị bốn bài kệ liệu giản, trong ấy chỉ
rõ sự lợi hại đắc thất của Thiền, của Tịnh. Vĩnh Minh là bậc Tổ
Sư tông tượng của Thiền Tông và Liên Tông, có lý nào nỡ
di hại cho người ư ?”
Thượng tọa nói : “Liệu giản của
Vĩnh Minh không đủ cho người noi theo. Vì trong ấy nói ai có thiền có
tịnh thời như cọp thêm sừng, hiện đời làm nhơn sư đời sau làm Phật Tổ. Xem
như hiện nay người tu thiền tham cứu câu : Niệm Phật đó
là Ai ? Có người mãn năm trụ niệm Phật đường để niệm Phật, những
vị ấy có được hiện đời làm nhơn sư đời sau làm Phật Tổ chăng ?”.
Trong liệu giản lại nói :
“Không thiền mà có tịnh thời mười người tu mười vãng sanh, nếu được gặp Phật A
Di Đà lo gì không khai ngộ. Xem như hiện nay vô số người niệm
Phật, chưa thấy được mấy người lúc lâm chung hiện các thoại tướng nhờ
Phật tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ. Thế nên biết rõ ràng liệu
giản của Tổ Vĩnh Minh không có chứng nghiệm cụ thể”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Sao ông
lại trệu trạo nuốt trộng trái táo mà không chịu nhai nếm vị ngọt của trái như
thế”.
Nghiên cứu kỹ lời liệu giản của
Tổ Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại tạng, là quy giám của sự tu
trì, trước nên nhận chơn thế nào là Thiền là Tịnh, thế nào là Có là Không, rồi
sau mới gẫm xét toàn văn, sẽ thấy rằng trong liệu giản ấy, mỗi chữ vững
như trời tạo đất lập. Không chữ nào không hiệp đúng, không một chữ có thể thay
đổi. Ông vội phê bình liệu giản một cách mù mờ, vu vơ. Từ mấy
mươi năm nay, tôi thấy các Thiền sư, Giảng sư phần đông cũng đồng kiến
thức như ông, trách nào Thiền lẫn Tịnh mỗi ngày mỗi suy tàn!
Thượng tọa yêu cầu : “Xin
Sư hoan hỷ giải rành thế nào là THIỀN là TỊNH và thế nào là CÓ là
KHÔNG”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “THIỀN
chính là chơn như Phật tánh sẵn có của chúng ta. Thiền
tông gọi là bổn lai diện mục trước khi cha mẹ sanh, mà
không nói rõ ra, cố muốn cho người tự tham cứu tự ngộ lấy. Kỳ thật
chính là : TÂM THỂ THUẦN CHƠN, LINH TRI LY NIỆM KHÔNG NĂNG KHÔNG SỞ TỨC TỊCH TỨC
CHIẾU vậy.
TỊNH chính là TIN SÂU NGUYỆN THIẾT CHUYÊN
TÂM TRÌ DANH CẦU SANH CỰC LẠC. Chẳng phải thiên chỉ duy tâm
Tịnh độ, tự tánh Di Đà.
Người hành thiền khi sức tham cứu đã
tột vọng niệm dừng, vọng tình dứt, suốt thấy bổn
lai diện mục, minh tâm kiến tánh đó gọi là CÓ THIỀN.
Còn người tu Tịnh độ chơn thật phát
Bồ-đề tâm, tin sâu nguyện thiết chuyên trì hồng danh cầu
sanh Tây phương Cực Lạc, thế gọi là CÓ TỊNH.
THIỀN và TỊNH là ước về giáo lý.
Còn CÓ THIỀN cùng CÓ TỊNH là cứ nơi người tu. Về giáo lý thời hằng nhiên
không đổi, Phật không thể thêm, phàm không thể giảm. Còn người tu thời cần
phải y cứ nơi giáo mà lập hạnh, công hạnh cao tột chứng lý.
Làm sao nơi mình thiệt được thiệt có. Hai điều ấy (THIỀN TỊNH cùng với CÓ
THIỀN CÓ TỊNH), văn dầu tương tợ mà ý rất không đồng nhau, phải suy
xét kỹ, chớ nên mù mờ lộn lạo.
Hoặc như người tham thiền mà
chưa ngộ, hay ngộ mà chưa thấu triệt đều không được gọi là CÓ THIỀN.
Còn như người niệm Phật mà thiên
chấp duy tâm, không có tín nguyện, hay có tín nguyện mà tín
không sâu, nguyện không thiết, làm lấy lệ lấy có, hoặc dầu tinh
tấn mà tâm tham luyến cảnh dục trần, hoặc cầu đời
sau sanh giàu hay sanh lên cõi trời, hoặc cầu đời sau làm
Tăng để hoằng dương Phật pháp phổ lợi quần sanh, tất cả đều
không được gọi là TỊNH”.
Thượng tọa ngắt lời gạn : “Xuất gia
làm Tăng hoằng pháp lợi sanh có lỗi gì mà cũng bị khai trừ ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Nếu là
bậc đã dứt sạch nghiệp chướng cùng phiền não, đã thoát sanh
tử, rồi nương sức đại nguyện thị hiện có thân nơi cõi trược ác để cứu
độ chúng sanh thời được.
Trái lại, nếu là hạng chưa chứng quả giải
thoát mà sanh vào đời trược, khó bảo đảm không mê. Dầu có thể hoằng
pháp mà tự mình chưa chứng quả Vô sanh tất bị hoàn cảnh chi
phối, trần duyên sai sử. Người mê mà may mắn được ngộ rất
hiếm. Kẻ mê rồi đi sâu vào cõi mê muôn kiếp trầm luân thời phần nhiều.
Đức Bổn Sư Thích Ca ta vì cớ
này nên hết lời khuyên đại chúng hiện thời cũng như mạt
pháp chúng sanh, phải cầu sanh Cực Lạc để được thấy Phật nghe
pháp mau chứng Vô sanh nhẫn, rồi sau sẽ tùy nguyện vào Ta
Bà để cứu độ chúng sanh. Như thế thời có tiến mà không thoái, có
lợi mà không tổn.
Vấn đề chưa chứng quả Vô
sanh giải thoát mà ở mãi nơi Ta Bà, các tông khác có chỗ cho,
còn tông niệm Phật thời cấm hẳn. Nhiều người cho rằng tham thiền là
có Thiền, niệm Phật là có Tịnh. Đó là chẳng những không rõ Thiền với
Tịnh, mà đến văn nghĩa cũng không biết nốt. Thế là cô phụ tâm đại từ
bi của Tổ Vĩnh Minh, làm trở ngại con đường tắt thoát khổ của
người tu hành. Chính là nhận lầm hướng địa bàn, sai một ly lạc
ngàn dặm!”.
V.- CHÁNH
GIẢI TỨ LIỆU GIẢN
Thượng tọa nói : “Đã nhờ Sư lược giải
về THIỀN TỊNH cùng CÓ KHÔNG, xin Sư từ bi giảng rõ toàn văn
cho”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Bài kệ liệu
giản thứ nhứt, Tổ nói :
Có
Thiền lại có Tịnh Độ
Cũng
như cọp mọc thêm sừng
Hiện
đời làm thầy của người
Đời
sau sẽ làm Phật, Tổ.([23])
Nhà hành đạo này triệt ngộ Thiền
tông minh tâm kiến tánh, đó là CÓ THIỀN. Lại suốt thấu Kinh tạng hiểu
rành cả các pháp môn quyền thật, rồi chọn lấy môn Tín Nguyện Niệm
Phật để mình thực hành cùng khuyến hóa người, đó là CÓ
TỊNH.
Trong Thập Lục Quán Kinh nói bậc Thượng
phẩm Thượng sanh đọc tụng Đại thừa hiểu đệ nhứt
nghĩa khuyến tấn hành giả chính là người này đấy. Vị này
có đại trí huệ đại biện tài. Tà ma ngoại đạo nghe danh
vỡ mật. Như hổ mọc sừng còn thú nào dám đối địch!
Có ai đến cầu pháp liền
theo cơ giáo hóa. Kẻ đáng học môn Thiền Tịnh song tu thời dạy
cho môn Thiền gồm tu Tịnh, người đáng học môn chuyên tu Tịnh độ thời
dạy cho môn chuyên tu Tịnh độ. Không luận là hạng thượng
căn hay là hạ trí, một khi đến cầu đạo liền đặng lợi
ích lớn. Thế chẳng phải là hiện đời làm đạo sư của người ư! Đến
khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh thượng phẩm,
hoa nở thấy Phật chứng Vô sanh, bậc cao thời siêu Thập địa Đẳng
giác Bồ Tát, thấp nhứt
cũng ở bậc Viên sơ trụ Bồ Tát. Bậc Viên sơ trụ Bồ
Tát còn có thể hiện làm Phật độ sanh trong một
trăm thế giới không Phật, huống là 40 bậc Bồ Tát trên. Thế
chẳng phải là đời sau làm Phật Tổ ư!
Bài kệ liệu giản thứ hai, Tổ bảo
:
Không Thiền
chỉ có Tịnh Độ
Muôn
người tu, muôn vãng sanh
Khi
gặp Phật A Di Đà
Lo
gì không được khai ngộ.([24])
Người chưa minh tâm kiến tánh,
nhưng lại quyết chí cầu sanh Tây phương Cực Lạc, hạng tinh
tấn tu định huệ chắc được vãng sanh đã đành, nhẫn đến
kẻ cả đời tạo ác, lúc sắp chết mà có tâm rất ăn năn hổ thẹn, chí
thành khẩn thiết, xưng Nam mô A Di Đà Phật, dầu chỉ được trong mười
tiếng liền tắt hơi, đều nhờ nguyện lực của Phật nhiếp thọ vãng
sanh Tịnh Độ. Như chương Cửu Phẩm Vãng Sanh trong Kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật đã nói rõ. Thế chẳng phải là muôn người tu muôn người vãng
sanh là gì! Nhưng nơi đây nên nhận thêm rằng : Phật A Di
Đà phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh niệm
Phật thiết tha chí thành như con nhớ mẹ, thời cùng Phật cảm
cách. Không luận niệm Phật lâu mau nhiều ít đều được tiếp độ cả. Chẳng
nên đem sự niệm Phật một cách lơ là lây lất mà so
sánh. Sau khi vãng sanh Cực Lạc thế giới, dầu rằng sự thấy Phật nghe
pháp có sớm muộn khác nhau, song đều đồng dự Thánh lưu, chóng
hay chầy đồng chứng Thánh quả. Đã chứng Thánh quả thời cần gì
bàn đến vấn đề khai ngộ. Đó là khi gặp Phật A Di Đà lo gì
không được khai ngộ!
Bài kệ liệu giản thứ ba, Tổ
nói :
Có
Thiền mà không Tịnh Độ
Mười
người hết chín chần chờ
Đến
lúc ấm cảnh hiện tiền
Chớp
mắt theo nó mà đi.([25])
Hạng này dầu triệt ngộ Thiền
tông minh tâm kiến tánh nhưng kiến tư phiền
não chưa dễ đoạn trừ, phải trải qua nhiều công phu tu
trì gột rửa cho sạch cả mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu còn một
phần phiền não thời lục đạo luân hồi vẫn y
như cũ, nói chi đến người chưa đoạn được phần nào!
Biển sanh tử rộng sâu, đường Bồ-đề
xa vời, chưa kịp quy gia mà tử thần đã đến, mười người đại ngộ hết
chín người như thế. Đó là trong mười người hết chín người chần chờ.
Chữ TA trong nguyên văn là TA ĐÀ tục gọi
chần chờ. Còn ẤM CẢNH là TRUNG ẤM THÂN CẢNH, chính là
lúc lâm chung, những cảnh thiện hay ác đã gây tạo trong đời này
hay đời trước đều tuần tự hiện ra, trong chớp mắt liền theo cảnh nào
mạnh nhứt mà đi thọ sanh không thể tự chủ được. Quy
Sơn bảo : như người mắc nợ chủ mạnh kéo trước, đầu tâm nhiều mối
chỗ nặng riêng sa. Gương của Giới Tổ và Thảo Đường nên phải biết.([26])
Có người phải chữ TA là LẦM, còn ẤM
CẢNH là NGŨ ẤM MA CẢNH. Đó là vì chẳng hiểu nghĩa chữ THIỀN cùng
chữ CÓ nên mới cắt nghĩa sái quấy đến thế. Bao giờ có bậc đại triệt đại
ngộ lại trong mười người hết chín người lạc đường đi
theo ngũ ấm ma mà bị ma dựa, là toàn những hạng tăng thượng mạn,
không thông giáo lý không ngộ tự tâm, tu mù luyện đui mà bị
hại thôi. Sao lại đem gá cho bậc đại triệt đại ngộ. Vấn đề này
quan hệ rất lớn, không nên không biện rõ.
Bài kệ thứ tư, Tổ nói :
Không
Thiền cũng không có Tịnh
Giường
sắt nóng cùng cột đồng
Trải
muôn kiếp đến ngàn đời
Không
nương cậy vào ai được.([27])
Có người nhận lầm rằng : không
Thiền không Tịnh là những kẻ vùi đầu tạo nghiệp ác không
tu hạnh lành, hiểu như thế là sai lắm!
Nên biết pháp môn của Phật dạy
nhiều vô lượng, chỉ có Thiền cùng Tịnh độ là đúng cơ
hơn hết. Người tu hành mà chưa đại triệt đại ngộ là không
Thiền, lại cũng không có tín nguyện niệm Phật là không Tịnh.
Đã không định huệ huân tu đoạn hoặc chứng chơn, lại
không do đâu nhờ nguyện lực của Phật nhiếp thọ để đới nghiệp vãng
sanh. Hiện đời tu hành có phước đức, cảm được phước báu nhơn
thiên ở đời kế, chưa chứng Thánh trí tất bị phước nghiệp xoay
chuyển sẽ mê say nơi cảnh trần dục lạc mà tạo nhiều tội. Đã tạo tội ắt
khó trốn khỏi ác quả nơi địa ngục ở đời sau, cả kiếp
chịu khổ trên giường sắt nóng, bên cột đồng đỏ để đền tội tham dâm hại
vật. Chư Phật, chư Bồ Tát dầu luôn thương xót, nhưng vì ác
nghiệp của họ tự chướng lấy nên không được độ, nên bài kệ nói
muôn kiếp ngàn đời không nương cậy vào ai được.
Người xưa có nói : Phàm người tu
hành mà không có chánh tín cầu sanh Cực Lạc, đi tu
các thiện pháp khác, thời gọi là oan gia đời thứ ba, chính
là một ý với bài kệ này. Bởi vì đời này tu hành đời kế hưởng
phước, rồi ỷ phước lực mà tạo nghiệp ác, tất đời sau sẽ
bị đọa lạc. Được hưởng phước giả tạm nơi đời kế mà nhiều kiếp thọ khổ ở
tương lai. Dầu cho mãn tội địa ngục, nhưng còn phải trải qua quỷ
súc. Biết đâu rồi sẽ không tạo nghiệp ác thêm mà đọa xuống nữa([28]). Mong thoát tam đồ được
thân người lại là điều rất khó trong các điều khó([29]).
Đức Phật ta từng lấy ngón tay chấm
đất rồi đưa ra hỏi Tôn giả A Nan đất dính trên tay là nhiều hay đất của quả
địa cầu nhiều ? A Nan bạch đất của địa cầu nhiều. Đức Phật liền
phán dạy : Được thân làm người như đất dính trên tay, còn mất thân người như đất
của toàn quả địa cầu.
Cứ theo chỗ so sánh tỷ lệ của Đức
Phật, thời lời Tổ nói muôn kiếp ngàn đời vẫn còn là lời luận gần, vì cuộc nơi
văn kệ.
Xét về các pháp môn khác
chuyên nương tự lực, còn pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh, thời
chuyên nương Phật lực. Các môn khác khi sạch hết phiền não mới thoát
ly sanh tử, còn môn Tịnh độ thời đới nghiệp vãng
sanh liền dự hàng Thánh([30]).
Tổ Vĩnh Minh sợ người đời không nhận được chỗ lợi ích rất rộng lớn của pháp môn niệm Phật vãng sanh nên đặc biệt làm kệ liệu giản để chỉ dạy. Đáng gọi kệ liệu giản là chiếc thuyền báu nơi bến mê, là vị Đạo sư nơi đường hiểm. Rất tiếc rằng người đời chỉ đọc phớt qua chẳng chịu nghiên cứu cho kỹ. Phải chăng chúng sanh đồng phận ác nghiệp nó khiến thế ư!
VI.- THƯỢNG TỌA PHÁT NGUYỆN
Thượng tọa nghe Mộ Liên Pháp
sư giảng đến đây, đứng dậy chắp tay thưa, với một giọng run
run đầy cảm động : “Tôi đời trước tạo tội gì mà đến nỗi mê muội chơn
thuyên. Hôm nay may mắn được nghe Sư giảng dạy chắc cũng do
nơi túc phước. Tôi thành thật xin dự
vào hàng Tăng chúng ở đây, để được hầu hạ Sư sớm tối”.
Mộ Liên Pháp sư khiêm tốn nói
: “Bần tăng đây có tài đức gì mà dám lãnh lời của Thượng tọa. Những
lời tôi vừa giảng giải ở trên, chỉ là thể theo ý của Phật Tổ. Nếu Thượng
tọa có thể ngưỡng tin nơi Phật Tổ mà hoằng dương môn Tịnh độ,
thời tất báo được ơn, tiêu được tội. Xưa kia, ngài Thiên Thân hoằng
dương Đại thừa để chuộc tội trót lỡ hủy báng([31]). Thượng tọa nếu có thể noi
theo gương Thiên Thân Bồ Tát, thời bần tăng này xin xả
thân cúng dường.
Thượng tọa liền lễ Phật niệm
hương phát nguyện rằng : “Con là M. M. Bắt đầu hôm nay chuyên
tu tịnh nghiệp. Trông mong lúc lâm chung được vãng
sanh thượng phẩm, thấy Phật nghe pháp liền chứng vô sanh,
sau rồi dùng sức thần thông tự tại, không rời Cực Lạc, phân
thân ở khắp thập phương thế giới, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc ẩn hoặc
hiển, dùng đủ phương tiện hoằng thông môn Tịnh độ để cứu
khổ chúng sanh, mãi đến cùng tận thuở vị lai không ngừng
không nghỉ. Hư không dầu có tận, chí nguyện của con vẫn vô
cùng. Cúi mong Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Từ
Phụ A Di Đà thập phương Tam Bảo đồng bủa đức từ nhiếp
thọ chứng minh cho con”.
Mộ Liên Pháp sư khuyên : “Về sự Tịnh
độ là đại nhân duyên. Về Lý Tịnh độ là tạng bí mật.
Nếu Thượng tọa có thể tín thọ phụng hành, đó là
đem công đức trang nghiêm của Phật mà trang nghiêm cho
chính mình đấy”.
Thượng tọa liền vâng dạ vái
chào mà lui ra.
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức việc dịch
này
Hồi hướng trang nghiêm tịnh Phật độ
Cầu cho kẻ thấy cùng người nghe
Đồng tu niệm Phật sanh Cực
Lạc
Hoa nở thấy Phật nghe pháp âm
Nghiệp chướng tiêu trừ phiền
não sạch
Thần thông trí huệ độ muôn
loài
Đồng về Cực Lạc đồng thành
Phật.
HÂN TỊNH
[1] Xem lược sử của chư Tổ ở bộ Đường Về Cực
Lạc tập I và tập II.
[2] Nguyên bản đề Hồng Loa Sơn Mộ
Liên Pháp Sư Di Cảo Phổ Đà Sơn Ấn Quang Đại Sư Thuật.
[3] Bậc trí thức là những vị
có đại trí huệ, đại biện tài có thể làm đạo sư cho người.
Hạng người phước dầy nghiệp nhẹ, trí sâu chướng cạn đó là căn
tánh thù thắng. Trái lại người nghiệp nặng, phước mỏng, trí
cạn chướng sâu đó là căn tánh lậu liệt.
[4] Tín nguyện niệm Phật cầu
vãng sanh đó là “tông Tịnh độ”
[5] Mộ Liên Pháp sư tự xưng
[6] Đây là theo Nho bác Phật.
[7] Thánh nhơn đây là chỉ cho Khổng
Phu Tử
[8] Niệm Phật chánh định : tâm
và Phật hiệp nhứt, Phật cảnh hiện tiền.
[9] Quyển này của Tri Húc Đại sư hiệu Ngẫu
Ích soạn ra để giải chỗ yếu lãnh của kinh A Di Đà. Đại sư là bậc triệt
ngộ Thiền tông và là Tổ thứ 9 Liên tông (xem lược sử của Tổ
bộ Đường Về Cực Lạc tập nhứt
[10] Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ, Thiện Đạo, Vĩnh Minh là bậc đại Bồ Tát cùng
đại Tổ sư hoằng dương môn niệm Phật. Lược tích của các ngài ở bộ
Đường Về Cực Lạc tập I. Trí Giả Đại sư, Tổ của tông
Pháp Hoa có lược sử ở bộ Đường Về Cực Lạc tập II. Thanh
Lương Đại sư, Tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm.
[11] Bậc viên mãn Phật quả, là
vua của tất cả pháp, ở nơi tất cả pháp được hoàn toàn tự tại.
[12] Căn khí Đại thừa là đại
căn, người căn khí Tiểu thừa là tiểu căn.
[13] Chỉ thẳng đến Phật tri kiến là Thật
giáo; phương tiện khác là Quyền giáo.
[14] Kiến hoặc có 88 phẩm,
do mê lý tứ đế mà ra, thấy lý tứ đế thời diệt, nên gọi
là kiến sở đoạn hoặc.
Tu hoặc có 81 phẩm, sau khi tỏ ngộ
đế lý, (kiến đạo) rồi tư duy, tu tập mà dứt lần lần. Khi dứt sạch hết
thời giải thoát sanh tử luân hồi trong tam giới, nên gọi nó
là tư sở đoạn hoặc hay tu sở đoạn hoặc.
[15] Vua Vô Tránh Niệm và Phụ
tướng Bảo Hải (xem toàn sử ở bộ Đường Về Cực Lạc tập I).
[16] Mười đại nguyện : một
là lễ kính chư Phật, hai là xưng tán Như Lai, cho đến mười
là phổ giai hồi hướng. Xem toàn văn nơi phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện.
[17] Hạng cực ác, bất cụ tín, đoạn
thiện căn.
[18] Thanh tịnh Pháp thân Phật
[19] Trí đức cứu cánh là đại
Bồ-đề. Đoạn đức cứu cánh là đại Niết-bàn.
[20] Luận nói suông về sự ăn thời không
no được. Kẻ nghèo ngồi tính đếm của tiền các nhà giàu tất không hết nghèo được.
[21] Ngài Tào Bá ở vào thời vua Đường Huyền
Tông. Phẩm Hạnh Nguyện dịch xong vào thời Đường Đức Tông.
[22] Xem Đường Về Cực
Lạc tập I
[23] Nguyên âm : Hữu Thiền hữu Tịnh
Độ. Du như đới giác hổ. Hiện thế vi nhơn sư. Lai sanh tác
Phật Tổ.
[24] Nguyên âm : Vô Thiền hữu Tịnh Độ.
Vạn tu vạn nhơn khứ. Nhược đắc kiến Di Đà. Hà sầu bất khai ngộ.
[25] Nguyên âm : Hữu Thiền vô Tịnh Độ.
Thập nhơn cửùu ta lộ. Ấm cảnh nhược hiện tiền. Miết nhĩ tùy tha
khứ
[26] Ngũ Tổ Giới Diễn chuyển
sanh làm Tô Đông Pha. Thanh Thảo Đường chuyển thân làm Tăng
Lỗ Công. Hai vị này là bậc đại ngộ nhập thâm thiền định.
Ngài Thảo Đường mỗi lần ngồi Thiền 49 ngày mới xuất định.
Hai ngài nếu kiêm tu Tịnh Độ quyết định thượng phẩm vãng
sanh thành đại Bồ Tát, nhưng vì chỉ chuyên một mặt tu Thiền nơi
đời kế phải sa đọa. Rất tiếc! Rất tiếc!
[27] Vô Thiền, vô Tịnh Độ. Thiết
sàng tính đồng trụ. Vạn kiếp dữ thiên sanh. Một cá nhơn y hộ.
[28] Tôi còn nhớ một đêm nọ đương tụng
kinh dưới ngọn đèn dầu, chợt có con thằn lằn trắng bò nằm bên
đèn ngước đầu nhìn thẳng. Tôi ngỡ là nó nghe kinh, lòng mừng cho con vật biết phát
tâm, tôi to tiếng tụng và nhìn nó. Bỗng một con bướm đáp xuống, nó đớp lấy rồi
tha chạy lên vách. À té ra là nó rình mồi chớ không phải có ý nghe kinh. Bất
giác tôi sa nước mắt.
[29] Giữa lúc cùng ông Cấp Cô Độc cân
nền để dựng tịnh xá Ký Hoàn, Tôn giả Xá Lợi Phất bỗng bùi
ngùi than thở. Ông Cấp Cô Độc bạch hỏi, Tôn giả lấy
tay chỉ con kiến đen đang bò trên đất mà bảo ông Cấp Cô Độc : “Ta nhờ huệ
nhãn mà biết rằng, hồi thời Phật Tỳ Ba Thi về quá khứ nơi đây có
con kiến đen, trải qua thời Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù,
Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm, Phật Ca Diếp, và hiện nay Phật Thích
Ca Mâu Ni, con kiến ấy cứ mãi luân hồi, và bây giờ vẫn đáo hoàn thân
kiến, chính là con kiến đen đang bò trên đất đấy. Nghĩ mà xót
thương cho chúng sanh mê muội muôn kiếp trầm luân, nên
ta than thở”. Nghe xong ông Cấp Cô Độc cũng ngậm ngùi ứa lụy.
[30] Xuống nước hòn sỏi nhỏ vẫn chìm. Nhờ
ghe chở, một trăm cục đá lớn cũng qua sông được.
[31] Ngài Thiên Thân ban đầu xuất
gia theo phái Tiểu thừa, soạn 500 bộ luận để truyền Tiểu thừa mà công
kích Đại thừa. Sau khi được hiểu Đại thừa giáo, ngài rất ăn
năn sự sai lầm của mình, tự muốn cắt bỏ lưỡi mình đi. Anh
là Vô Trước Bồ Tát khuyên ngăn. Ngài liền soạn 500 bộ luận về Đại
thừa để chuộc tội. Ngài là một vị Tổ của tông Duy Thức. Bộ Tịnh
Độ Luận là của ngài soạn.
[32] Người ta quen gọi ngài là Linh
Chi Hòa thượng hay Linh Chi Luật sư.
Lá Thư Tịnh Ðộ
Ấn Quang Ðại Sư
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm
Một
Bức
Thơ Phúc Đáp Khắp
Nơi
(Lời văn tuy
quê thật, nhưng nghĩa
lý vẫn căn cứ trong kinh. Nếu có ai y
theo đây mà làm, sự lợi ích sẽ rộng lớn vô cùng!
- Ấn Quang Pháp sư)
1. Pháp môn Tịnh
độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như Lai, để mở phương tiện cho tất cả Thánh phàm đều được giải thoát sanh tử, lên ngôi Bất thối ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt này mà không tin không tu, thật là đáng thương,
đáng tiếc!!
Pháp môn Tịnh
độ lấy tín, nguyện, hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải
tin cõi Ta bà có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực lạc có vô lượng điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp
lực, quyết không thể nương cậy vào sức mình để dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di Đà có lời thề nguyền rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu
Ngài, cầu về nước Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.
Nguyện
là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới này, nguyện sớm sanh về cõi vui kia.
Hạnh
là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi
thời mỗi khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp
hoãn lập một khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước bàn Phật. Ngoài thời khóa tụng, những khi đi đứng nằm ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ
niệm bốn chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp tâm. Lại, những khi y phục không chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, đại tiểu tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch
sẽ, cũng đều phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Trong những lúc ấy nếu niệm ra tiếng
thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi không cung kính. Không luận niệm
lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hoặc niệm thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ rành rẽ
rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng và hai tai nghe rành rẽ rõ ràng. Niệm
như thế thì tâm không còn dong ruổi theo cảnh ngoài, vọng tưởng lần dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất lớn.
2. Người
niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (Thân không sát sanh, trộm cướp,
tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý không tham dục, giận
hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương
kính, chồng vợ thuận hòa, chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn thiên chức, đó là người
lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ có cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật
tiếp dẫn sanh về Tây phương vì tâm hạnh hợp với Phật. Trái lại, những ai miệng tuy niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo,
đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè làng xóm không tròn bổn phận,
thì tâm hạnh trái với Phật, khó được vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không điềm tịnh thuần hòa, tự sanh ra mối não phiền chướng ngại, nên khó được cảm thông với Phật, đó cũng là lẽ tất nhiên.
3. Người
niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến
thuộc và tất cả đồng nhân đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế
Âm Bồ tát. (Mỗi ngày như niệm Phật 1.000 câu thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm
Phật 10.000 câu thì niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm
nhiều ít so theo đây mà gia giảm). Ta đã tìm được
con đường giải thoát yên ổn, lại nỡ nào để cho đấng sanh thành, người quyến
thuộc cùng tất cả đồng nhân mất sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn, khó tránh sự hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và Quán Âm, tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì niệm, cũng sẽ
được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết
phước nhiều. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây phương, tức là thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh tất sẽ mãn nguyện.
4. Người
niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây phương, không nên cầu
hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại hoặc đời sau. Nếu có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh và phải bị
chìm
đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết, hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn, qua một đời sau nữa quyết khó khỏi đọa vào đường Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Chừng ấy muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh độ, còn khó hơn lên trời. Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về Tây phương, là vì chúng sanh mà giải quyết
vấn đề sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi nhân thiên tức là trái với
lời Phật dạy, như đem hạt bảo châu vô giá đổi lấy một thẻ đường để ăn, há chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm Phật không cầu vãng sanh mà cầu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.
5. Người
niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà tu thiền. Vì kẻ tu thiền hầu hết đều không chú trọng về việc tín nguyện vãng sanh. Dù có niệm Phật,
họ chỉ chú trọng vào câu “Niệm Phật đó là ai?”để cầu
khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu sanh Tây phương, khi được thấy đức A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu
ở cõi này tu thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể thoát sanh tử; thảng như hoặc nghiệp chưa dứt thì đã không thể cậy
vào sức mình để giải thoát, lại vì không tín nguyện nên không được
nương nhờ sức Phật ra khỏi luân hồi. Hai bên tự lực và Phật lực đều không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào thoát khỏi trần lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ tát khi chưa thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là phàm phu đầy nghiệp
chướng mà ưa luận về sức mình, không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi thật
là thấp kém! Sự hơn kém của Phật lực và tự lực khác xa nhau như trời
vực, nguyện đồng nhân nên thể tất nghĩa này!
6. Người
niệm Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi sự hoàn thọ sanh, trong Kinh Phật không có nói, do người
sau bày đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình khi chết rồi
thành quỉ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỉ dùng. Đã có tâm niệm muốn
làm quỉ thì khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phải
bạch rõ trước bàn Phật như vầy: “Đệ tử là... chỉ cầu vãng sanh, những đồ minh khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.” Như
thế mới không chướng ngại cho sự sanh về cõi Phật.
Lại
những thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai Cốt,
Phân Châu, Diệu Sa... đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của Phật nói, không nên trì tụng. Những
kẻ quê tối, không chịu tụng Kinh Đại thừa (như các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ,
Quán Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa, Dược Sư,
Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) mà chỉ tin các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ sanh, phá Địa ngục, phá huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người hiểu Phật pháp khuyên bảo nói đó là những kinh ngụy tạo, họ cũng không nghe lời. Nên biết,
làm các Phật sự, chỉ có niệm Phật là công đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá Địa ngục, phá huyết hồ ấy, thỉnh những vị Tăng chơn chánh niệm Phật cho, thì được lợi ích rất nhiều.
7. Người
niệm Phật nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục trai hoặc thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Lục trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu
thêm vào đó mấy ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày thập
trai. Những tháng thiếu, nên ăn trước một ngày. Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyệt,
nên ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn,
chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi
ngày sát sanh thì cái nhà ấy đã thành lò sát sanh, là chỗ oan quỉ
tụ hội, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điều rất
cấm kị.
8. Người
niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm
Phật cầu sanh Tây phương. Muốn cho cha mẹ khi lâm chung quyết định
được vãng sanh, thì phải dặn
trước người quyến thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những
điều vô ích. Lại, lúc bình thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm Phật khiến cho song thân thường niệm
không quên. Thế thì chẳng những cha mẹ được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh hưởng giải thoát an lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ,
đều phải làm đúng như thế.
9. Người
nữ khi sắp sanh thường bị đau khổ không kham, có khi vài ngày sanh không được,
hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và nhiều bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị các chứng
cấp nạn, kinh phong v.v... Cho nên, người nữ
lúc sanh sản, nên chí thành khẩn thiết
niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm, vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm, quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh phong, và các chứng nguy hiểm khác. Dù gặp
trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến
tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác, đều phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế, không đầy giây phút, sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Kẻ ngoại đạo không rõ lý này, chấp chặt
một việc cung kính, chẳng biết căn cứ theo sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống
chi là niệm Quán Âm? Nên biết Bồ
tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy lõa lồ
không sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự
ý buông lung, nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa này trong Kinh Dược
Sư đã có nói, không phải tự
tôi đưa ra điều ức kiến. Ấn Quang này chỉ là người đề xướng mà thôi.
10. Người
nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi, đều có nguyệt kinh. Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng
nên lễ bái trì tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến
sáu bảy ngày mới dứt; người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời
tu niệm ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên lễ bái ít (lễ bái ít chớ chẳng phải tuyệt
nhiên không lạy), còn sự tụng kinh niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Trong Phật pháp, pháp pháp đều Viên thông, hàng ngoại
đạo chỉ chấp một bên lý, người đời phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ chánh lý Phật giáo, nên không được
thấm nhuần pháp lợi.
11. Quán Thế
Âm Bồ tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn,
cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn
độc, ác quỉ, yêu mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v... nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế Âm không xen hở, thì quyết định sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là gieo chút căn lành về sau, không được
sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ tát thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như không phát tâm sửa lỗi
làm
lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ tát, để cầu cho việc ác của mình thành tựu thì quyết không được cảm ứng. Rất không nên phát tâm điên đảo ấy.
Đã niệm
Phật, cần phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dứt các điều
dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Việc nào mình làm được thì thiết thật mà làm, như không làm được cũng nên phát lòng lành ấy, hoặc
khuyên người có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh tâm vui đẹp. Thốt
lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng. Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng ganh ghét, đó là tâm hạnh
của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa. Rất không nên giả mặt hiền lương để
mua danh chuốc lợi, tâm hạnh ấy quỉ thần đều ghét, có thì mau cải, không thì nên cố
gắng làm lành.
12. Có nhiều
người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc bất
hiếu với cha mẹ chồng, khi dể chồng, quá cưng yêu chiều chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ ghẻ hiếp đáp hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng: hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ,
an ủi nuôi dạy con riêng của chồng, chính là đạo Thánh hiền ở thế gian mà cũng là phép tắc đầu
tiên
của đạo Phật. Nếu có đủ công đức ấy mà tu Tịnh độ, thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền vững, khi mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm sen. Nên biết đã có nhân phải có quả, nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh
từ ái, tự nhiên sẽ được quả hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn quá hơn hại mình, cho nên mỗi người
đều phải làm tròn bổn phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
13. Trẻ
con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho chúng biết đạo lý hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân hồi. Như thế là làm cho chúng hiểu tâm của
mình cùng tâm chư Phật, Bồ tát, trời đất, quỉ thần, mỗi hơi thở thông nhau. Nếu khởi một niệm bất chánh, làm một việc không phải, thì các vị ấy thảy đều biết, như đối trước gương sáng, hình ảnh tốt xấu hiện ra rõ ràng, không che giấu được.
Đã hiểu như thế, tất nhiên chúng sẽ sợ hãi, gắng sức làm lành. Chẳng luận người nào, dù là con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên
đánh đập mắng chửi thô tháo. Phải tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phụng
thờ bậc trên, nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài phá cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài trùng kiến, không ăn vặt vạnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế, thì một ngày kia quyết định chúng sẽ thành người lương thiện. Trái lại lúc con cháu còn thơ ấu,
cha mẹ chẳng chịu dạy dỗ, để mặc cho chúng buông lung, khi lớn lên nếu
chúng nó không là kẻ dung ngu, cũng là hàng phỉ loại.
Chừng ấy dù có ăn năn cũng vô ích. Lời xưa
nói: “Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài” (Dạy con dạy
thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc ban sơ mới về), tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán, cho nên phải cẩn
thận từ bước đầu tiên. Cá nhân là phần tử
của xã hội, trong thiên hạ bình yên hay loạn lạc, cội nguồn đều do sự hiền lương hoặc bạo ác của con người. Vậy những điều trên đây quan hệ, thiết
yếu, không phải tôi bàn luận chuyện vô ích, xa vời...
14. Ấn
Quang tôi năm nay đã quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ sức
để phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm nghe chút hư danh, gởi thơ hỏi đạo quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự
hơi có phụ ý người gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ tinh thần.
Vì thế, tôi cho in bức thơ dài này để phúc đáp cùng khắp. Trong đây, những
điều
quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi đều nói lược qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi đạo, tôi đều dùng thơ này phúc đáp, hoặc có vài điều
đặc biệt, cũng chỉ nên thêm đôi hàng nơi bức
thơ gởi đến mà thôi. Như thế, để cho đạo niệm đôi bên được thông nhau, mà tôi cũng đỡ bớt
sự nhọc mệt. Nếu vị nào muốn hiểu suốt kinh nghĩa, xin thưa hỏi
nơi các bậc Pháp sư dựng cao tràng pháp, tông giáo kiêm thông. Nhưng
nên biết, dù thông suốt kinh pháp, cũng chưa chắc
được thoát sanh tử. Muốn
thoát sanh tử luân hồi, phải chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương!
VƯỜN THƠ TỊNH ĐỘ
Ta bà cõi nghiệp sự tung hoành,
Nói đến Liên bang mộng cũng thanh,
Hơi thở chẳng vào nghìn kiếp hận,
Tấc lòng dám bỏ sáu thời danh?
Như gà ấp trứng liền hơi ấm,
Tợ lửa nung vàng luyện mới tinh
Một niệm gốc tình trừ sạch hết,
Tánh chơn lồ lộ khối viên minh.
(Châu Quang Cư Sĩ)
Cảnh yên, người vắng, giữa thanh tiêu,
Siêng giữ thân tâm dám trễ kiêu?
Chém đứt niệm trần dây nghiệp rậm,
Phá tan ý vọng núi mê cao.
Giọt châu nhớ Phật, châu chưa dứt,
Mối tưởng quy Tây, tưởng lại nhiều!
Những mến đài sen hoa cánh ngọc,
Nghĩ cho tên họ đã đề nêu.
Tháng hạ ngày tàn tiết nóng sao!
Trong bầu hỏa trạch chịu hừng thiêu.
Một vùng cây biếc che lầu các,
Mươi dặm sen tươi chói họa kiều.
Mắt ngắm trời Tây lòng ngớ ngẩn
Lệ theo tiếng Phật dạ tiêu điều.
Bao giờ về được ao trong mát?
Trần lụy bao nhiêu sạch bấy nhiêu!
(Thốn Hương Trai Chủ)
Lúc đi dễ thuận niệm Di Đà,
Một Phật tùy theo một bước qua.
Dưới gót hằng thời chơi Tịnh độ,
Trong tâm mỗi niệm cách Ta bà.
Dạo quanh hoa liễu nhưng thường nhớ,
Lên xuống non sông vẫn chẳng xa.
Đợi lúc vãng sanh về Cực lạc,
Mười phương du ngoạn tự như mà!
Khi nằm niệm Phật lặng âm thinh,
Hơi thở nương theo giữ hiệu danh.
Một gối gió thanh trong vạn dặm.
Nửa giường trăng sáng khoảng ba canh.
Đã không trần lụy tâm yên tịnh.
Duy có liên hoa mộng dễ thành.
Giấc điệp mơ màng chư Phật hiện,
Tỉnh ra còn vẫn nhớ phân minh.
(Tĩnh Am Pháp Sư)
Đời người trăm tuổi, ai trăm tuổi?
Chuyện cũ quay nhìn, chuyện mộng mê!
Nghĩ khóc đồng lưu đi lạc mất,
Lãng quên cõi Tịnh chẳng lo về!
(Phạm Kỳ Thiền Sư)
Đêm dài dễ mộng về thôn cũ,
Năm hết không quên phận lữ hành.
Mười vạn ức đường quê Cực lạc,
Tấc lòng mang mểnh những thâu canh!
(Tư Tề Lão Nhơn)
Nói đến vô thường mọi việc khinh,
Đói ăn khát uống biếng kinh dinh.
Một lòng chuyên hướng trời An dưỡng.
“Vạn thiện đồng qui” nhớ Vĩnh Minh!
Mãng tưởng ngày về chửa đến ngày,
Bên trời du tử mộng hồn bay!
Tỉnh mơ, tiếng nhạn rơi đêm vắng,
Tin tức miền Tây chậm vãng lai?
(Sở Thạch Lão Nhơn)
Tóc sương thay mái đầu xanh,
Một đời sự nghiệp nghĩ thành không hoa!
Soi bổn phận
Lánh đường tà.
Âm thầm thời tiết đổi.
Lặng lẽ tháng ngày qua.
Kíp mau tìm đến chơn thường lộ,
Dám chậm chờ xem bịnh tử mà!
Cõi Phật đâu xa cách?
Về chăng chỉ tại ta!
Mỗi niệm chỉ cần không thối chuyển.
Áo vàng đã sẵn có Liên Hoa.
Thân tàn về cõi báu,
Sen nở thấy Di Đà!
(Liên Ẩn Thiền Sư)
Lầu quỳnh cách biệt những năm xưa,
Lối cũ đường xa bước trở về,
Tháng ngày hờ hững,
Tóc điểm hoa lê!
Lòng theo bóng nguyệt trời Tây xế,
Tai lắng nghe chim tiếng nhớ quê
Lá thu rơi rụng...
Tấc dạ não nề!
Đỉnh trầm xông đốt ngân hơi khánh,
Hướng cõi Liên bang phát nguyện thề:
Ta bà đã chán chê...!
(Tra Am Thiền Sư)
Ngày tháng chim lồng quanh quẩn,
Thân người bèo nước linh đinh
Trăm năm tạm gởi kiếp phù sanh,
Há lại mơ màng chẳng tỉnh?
Đem mối trần duyên giũ sạch,
Đừng cho mộng cảnh lưu đình.
Di Đà sáu chữ ấy chơn kinh,
Đường lối tu hành tiệp kỉnh!
Chẳng luận sang, hèn, ngu, trí.
Không phân già, trẻ, gái, trai.
Có tâm làm được đấng Như Lai,
Lời thật lưu truyền vẫn tại!
Sáu chữ Di Đà rất dễ,
Một lòng tưởng niệm đừng sai.
Thân này thề chiếm tử kim đài,
Gắng giữ niệm tâm chớ trái!
(Linh Thoại Thiền Sư)
Hơn sáu mươi năm,
Thoáng dường xuân mộng.
Tỉnh ra thôi một giấc hoàng lương!
Phù hoa bóng huyễn,
Có mấy phong quang?
Nhìn xem đã rõ...
Cắt mối tơ vương,
Mặc kẻ lao nhao chốn hí trường!
Lều tranh núi biếc,
Bổn phận lo lường
Tùy duyên thong thả.
Rửa bát đốt hương.
Đem tâm quy hướng cõi thanh lương!
Mênh mang biển nghiệp,
Đau khổ bao dường!
Quay đầu trông lại thấy thêm thương!
(Trang Nghiêm Cư Sĩ
Dịch-thuật N.B.S)
TỰA
Đức Phật ra đời với nhân duyên mở bày chân tánh, khiến cho chúng sanh thoát vòng mê khổ, ngộ vào bản thể sáng suốt, an vui. Bao nhiêu pháp môn, tất cả nghĩa lý mầu nhiệm trong một đời giáo hóa của đức Bổn Sư, đều không ngoài mục đích ấy. Nhưng, tìm một lối thẳng tắt để mau thoát khỏi đường sanh tử, một pháp hợp lý, hợp cơ cho chúng sanh giữa thời buổi này, chỉ có môn Tịnh độ. Tại sao thế? Vì trong đời Mạt pháp, người tu hành bị nhiều chướng duyên làm
thối chuyển. Nhìn về người: Phần sắc thân hay đau yếu, mạng sống ngắn ngủi; phần tâm tánh
thì nghiệp hoặc sâu nặng, trí huệ tối mờ. Xét về cảnh: Phần đời thường xảy ra nạn nước tai trời; phần đạo lại ít bậc Thiện tri thức dắt dẫn, nhiều kẻ dối tu, dẫy đầy những mối dị đoan, tà ngoại! Cho nên trong Kinh Đại Tập, đức Như Lai huyền ký rằng: Đời Mạt pháp ức ức người tu hành,
song khó được một kẻ ngộ đạo, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi...
Thời gian gần đây, ở Trung Hoa có Ấn Quang Pháp sư là bậc danh đức trong tăng
giới. Ngài suốt thông cả tông lẫn giáo, chuyên dùng pháp môn Niệm Phật làm phương tiện lợi mình lợi người. Trước tiên, Pháp sư xuất gia ở đỉnh Chung
Nam, sau một thời gian đi tham học các nơi, lại về ẩn tích tại non Phổ Đà, nơi lầu tàng kinh
chùa Pháp Võ. Tuy mấy mươi năm khổ hạnh, ít cùng người ngoài giao
thiệp, nhưng dấu cao nhân một phen bị khách trần khám phá, ngọn gió thanh bay thoảng khắp xa gần. Biết được hạnh đức của Pháp sư, tăng tục bốn phương đều ngưỡng mộ; có kẻ vượt suối trèo non
mà cầu lời chỉ thị; có người mượn tin hồng nhạn mà hỏi lối nam châm.
Những thủ bút của Ngài được hàng cư sĩ sưu tập lại thành bốn quyển và cho in ra với nhan đề Ấn Quang Pháp sư Văn Sao.
Bình sanh, Pháp sư ấn tặng sách Phật được năm triệu bộ, tượng Phật hơn một triệu xấp. Đệ tử của Pháp sư đến hơn hai mươi muôn người, nhiều vị nhờ ơn chỉ dạy của Ngài, được sanh về Cực lạc, khi lâm
chung đều có chứng nghiệm. Năm Dân Quốc thứ 29, Pháp sư biết trước ngày về Tây phương, ngồi thoát hóa ở Linh Nham Tịnh Tông Đạo Tràng, hưởng tuổi đời tám mươi và sáu mươi tăng lạp. Lúc làm lễ trà tỳ, ba mươi hai cái răng còn nguyên, Xá Lợi ngũ sắc hiện ra rất nhiều. Sau khi Pháp sư vãng sanh, giới Phật tử xuất gia, tại gia cảm nhớ đức hóa lớn lao của Ngài, hợp nhau làm lễ truy niệm và đồng ý suy tôn Ngài làm vị Tổ thứ mười ba trong tông Tịnh độ.
Bộ Văn Sao của Pháp sư, khi mới xuất gia, tôi đã được hân hạnh xem qua. Trong thời kỳ nhập thất gần đây, một thuận duyên đưa đến, tôi lại có cơ hội khảo duyệt lần nữa, để giúp sự thắng tấn trên đường tu niệm. Nhận thấy trong ấy có nhiều điểm hữu ích cho người niệm Phật, tôi lựa rút những đoạn cần thiết, phiên dịch ra quốc văn, lấy nhan đề Lá Thơ Tịnh Độ. Đáng lẽ trong quyển này tôi phải phụ thích để nhấn rõ một vài điểm thiết yếu, và giải đôi chỗ khó hiểu với người sơ cơ, nhưng vì sức khỏe kém nên ý nguyện không
thành. Tôi lại thẹn mình nghiệp hoặc sâu dầy, đường tu không thấy tiến bộ, bắt buộc phải để tinh thần nhiều hơn trong sự nhiếp niệm, nên khi
phiên dịch lời lẽ thô sơ, đã chẳng diễn tả được ý nghĩa thâm thúy của Pháp sư, lại làm lờn mắt xanh của làng học Phật! Tuy nội dung còn
nhiều khuyết điểm, nhưng nhân
duyên đã thế, âu cũng
xin tùy phần tùy sức mà dâng chút ngu thành! Sự phiên dịch đây, với tôi, chỉ có mục đích góp phần khuyến tấn lẫn nhau cùng
các bạn sen trên đường Cực lạc.
Nếu công việc này có thể giúp quí vị phần nào nơi sự kiến giải cũng như tu niệm, xin đem kết quả ấy hồi hướng trang nghiêm Tịnh độ cho bốn ơn ba cõi và pháp giới hữu tình.
Liên Du Thích Thiền-Tâm
1/Thơ
Đáp Cho Cư Sĩ Đặng
Bá Thành (I - II)
I
Từ buổi tương ngộ đến nay, thấm thoát đã
sáu năm, không những tuyết sương thay đổi, mà vận nước cũng khác xưa. Cảnh đời vô thường, thật nên thương cảm! Tiếp được thơ, biết cư sĩ không xao lãng Tịnh nghiệp, tôi rất vui mừng! Nhưng trong thơ thấy nói thân tâm không an vì cảnh nhà thiếu thốn, hay đau yếu dây dưa mà không an chăng...?
Nếu cảnh nhà thiếu kém, thiết tưởng cư sĩ nên lui
một bước. Phải nghĩ rằng: giữa đời, người hơn ta vẫn nhiều, song kẻ thua ta cũng không ít; chỉ cầu khỏi đói lạnh, mơ chi đến giàu sang?
Thảng như cư sĩ biết vui theo số phận, an với cảnh duyên, hãy còn có thể chuyển phiền não thành
Bồ đề, lo gì không đổi được u buồn thành vui
đẹp? Nếu đau yếu dây dưa, nên thống niệm thân là cội khổ, sanh lòng chán lìa, gắng tu Tịnh nghiệp để cầu quyết sanh về Cực lạc. Các đức Như Lai đều lấy sự khổ làm Thầy mới thành đạo Phật, chúng ta cũng phải lấy đau bệnh làm thuốc để cầu giải thoát khỏi nẻo luân hồi. Nên biết phàm phu đủ nghiệp hoặc ràng buộc, nếu không có những nỗi khổ cơ cùng tật bệnh... tất sẽ theo đuổi theo trường sắc, thinh, danh, lợi, khó mà buông bỏ. Trong lúc đắc ý như thế, ai chịu quay đầu nhìn lại, tưởng đến sự chìm đắm về sau ư? Thầy Mạnh Tử nói: “Người nào sắp lãnh một trọng trách thiêng liêng, trước tiên phải nhọc thân, khổ trí, hoặc đói khát, khốn cùng, việc làm thất bại. Có như thế, kẻ ấy mới rèn luyện được ý chí nhẫn nại, vững bền, tài năng cao siêu xuất chúng”. Thế thì biết, con người được thành lập, phần nhiều nhờ nghịch cảnh, và trong trường hợp ấy, ta chỉ nên an lòng
thuận chịu mà thôi. Nhưng trọng trách của Thầy Mạnh nói, chỉ là tước vị ở đời, mà còn phải khổ nhọc như thế mới làm nên;
huống nữa kẻ phàm phu thấp thỏi như chúng ta, muốn gánh vác
công việc trên thành
đạo Phật, dưới độ chúng sanh
đó ư! Nếu như không bị một chút điên đảo vì nghèo bệnh, thì tình trần lừng lẫy, Tịnh nghiệp khó thành, gương lòng sẽ bị tối mờ, nhiều kiếp trôi lăn
trong ác đạo, sự giải thoát buổi tương lai chưa biết đâu là kỳ hạn!
Người xưa đã bảo: “Ví chẳng một phen sương thấm lạnh. Hoa mai chi dễ thoảng mùi hương!” Lời này là ý tứ trên đây vậy.
Cư sĩ nên bền chí niệm Phật để mau tiêu
túc nghiệp, chớ sanh lòng phiền não rồi oán trời trách người, cho nhân quả là hoang đường, chê Phật pháp không linh nghiệm. Nên biết chúng ta từ vô thỉ đến nay, gây
nghiệp ác vô lượng vô biên, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử nghiệp ác có hình tướng, mười phương hư không chẳng thể dung chứa hết”. Thế thì sự tu trì lơ là chút ít, đâu dễ dứt trừ hoặc chướng hết được. Đức Thích Ca, A Di Đà vì thương xót chúng sanh không đủ sức dứt nghiệp, riêng mở pháp môn “nương nhờ Phật lực, đới nghiệp vãng sanh”. Ân đức ấy thật vô cùng rộng lớn, dù trời đất cha mẹ cũng khó sánh trong muôn một. Vậy cư sĩ nên hết lòng sám hối, tự có thể nhờ Phật gia bị khiến cho nghiệp tiêu, thân tâm yên ổn. Như bệnh khổ bức bách không thể nhẫn chịu, thì hôm sớm ngoài thời niệm Phật, cư sĩ nên chí thành niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm. Vì với bổn nguyện tầm thinh cứu khổ, Bồ tát hiện thân khắp mười phương quốc độ; chúng sanh trong lúc nguy biến nếu có thể trì tụng kính lạy, Ngài sẽ tùy cơ cảm mà giúp đỡ, khiến cho thoát khổ được vui.
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân
thật. Nếu bê trễ biếng lười, không
chút chi kính sợ, tuy cũng
gieo nhân giải thoát về sau, nhưng quả báo của tội khinh lờn thật không thể tưởng nghĩ! Dù có chút ít phước dư khỏi đọa vào ác đạo, được sanh về cõi Trời, Người, cũng quyết khó dự nơi Liên Trì hải hội.
Đến như tượng Phật, phải tôn kính như Phật sống không nên xem là đất, gỗ, giấy, đồng. Kinh điển là Thầy của chư Phật ba đời, là pháp thân Xá Lợi của Như Lai, cũng phải kính như Phật, không nên xem là loại giấy mực. Khi đối trước kinh tượng, phải như tôi trung thờ chúa Thánh,
con thảo đọc di ngôn. Được như thế tội nghiệp nào không tiêu, phước huệ nào chẳng đủ? Hiện nay hàng
sĩ phu học Phật vẫn nhiều, song hầu hết đều đọc văn giải nghĩa để cung cấp cho nguồn biện luận, tỏ ra mình là một nhà thông hiểu giáo lý; xét về chỗ chí thành cung kính, y giáo tu trì, thật là ít có người! Tôi thường cho rằng: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm nơi lòng cung kính. Có một phần cung kính thì tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ, hai ba phần cho đến mười phần cung kính
cũng như vậy. Trái lại, nếu càng khinh thường thì tội chướng càng thêm, phước huệ càng suy giảm. Như thế chẳng đáng kinh sợ đau tiếc lắm ư? Khi gặp bè bạn, cư sĩ nên đem
ý này khuyên bảo nhau, đó
là một món pháp
thí rất lớn. Pháp môn Tịnh độ, như thông hiểu được, vẫn là điều rất quí, bằng có chỗ chưa rõ, cũng cứ tin chắc lời của Phật, Tổ chớ nghi ngờ, nghi thì cùng với Phật cách xa, khi lâm chung quyết khó được tiếp dẫn. Cổ đức cho rằng: “Pháp môn Tịnh độ chỉ có Phật với Phật mới rõ cùng tận, bậc đăng địa Bồ tát cũng không thể thấu hiểu hết”. Như bậc đăng địa Đại sĩ còn không thể thấu hiểu hết, ta đâu nên đem tâm lượng phàm phu mà ức đoán sai lầm ư? Nếu muốn nghiên cứu, nên xem Tịnh Độ Thập Yếu; quyển này do Ngài Ngẫu Ích Đại sư rút những tinh hoa
trong các kinh sách Tịnh độ soạn ra, rất hợp thời cơ, đáng liệt vào bậc nhất. Mở đầu quyển là tập Di Đà Yếu Giải, từ trước đến giờ về Kinh A Di Đà, chỉ có những lời chú thích
này là siêu tuyệt, phải tuân giữ không nên khinh thường. Người thông minh đời nay, tuy học Phật pháp nhưng vì chưa gần gũi với bậc cụ nhãn tri thức, nên hầu hết đều chuyên trọng lý tánh, bác bỏ sự tu và nhân quả. Họ đâu biết, nếu sự tu nhân quả đã mất, lý tánh cũng không còn. Lại có những kẻ tài cao, văn từ quỉ thần kinh động mà xét đến hành vi thì không khác chi hạng vô trí thức, truy nguyên đều do bác bỏ sự tu nhân quả mà ra. Mối tệ ấy khiến cho nhiều người lầm lạc noi theo, đó là dùng thân báng
pháp, tội lỗi không ngằn! Bậc thượng trí thấy thế càng thêm xót thương đau đớn! Bộ Pháp Uyển Châu Lâm nói rõ nhân quả, sự lý đều đầy đủ, những tích báo ứng cũng tinh tường, có thể khiến cho người xem kinh sợ, dù ở nơi nhà tối cũng như đối trước Phật, trời, không dám khởi niệm ác. Với bộ này, bậc thượng, trung, hạ đều được lợi ích, chắc không đến nỗi lầm đường, chấp lý bỏ sự mà theo thói tà vạy, ngông cuồng. Ngài Mộng Đông đã bảo: “Người khéo nói tâm tánh, quyết không bỏ nhân quả; kẻ tin sâu nhân quả tất rõ suốt tâm tánh, đó là lẽ đương nhiên”. Lời của Ngài là một chí luận ngàn đời, cũng là mũi kim đâm trên đỉnh đầu những kẻ cuồng huệ.
Bộ Pháp Uyển, các nơi lưu thông Phật pháp đều có bán. Về sự lợi ích, khi đọc xong sẽ tự rõ, cư sĩ nên
khuyên tất cả bạn tri giao mua xem. Mùa thu rồi, lệnh đệ lên viếng Phổ Đà, tôi có đem những điều thành kỉnh để khuyên nhau, nhưng không biết y có cho lời tôi là thiết thực chăng?
II
Được thơ, xem qua dễ khiến cho người vui đẹp! Thuở xưa Cừ Bá Ngọc đến năm mươi tuổi, nhìn lại năm bốn mươi chín, thấy mình còn sai
lầm. Đức Khổng Tử lúc gần bảy mươi, ước được sống thêm lâu
để học tinh tường bộ Kinh Dịch, cho khỏi điều lỗi lớn. Sự học của Thánh hiền thật đã đi cùng đến chỗ khởi tâm động niệm! Học giả đời nay ưa theo từ chương, ít ai nghĩ đến điểm chánh tâm, thành ý. Bởi thế, tuy trọn ngày đọc sách mà không rõ ý chỉ của Thánh hiền, ngôn ngữ hành vi so với chỗ học trái rất xa, như sáng, tối, vuông, tròn không thể cùng dung hợp. Ấy là chưa nói đến lỗi lầm của tâm niệm, nếu kể ra được thì biết bao nhiêu!
Kinh Phật dạy người thường tu phép sám hối, để kỳ cho dứt hết vô minh, thành đạo Bồ đề. Cho nên, đức Di Lặc tuy đến ngôi Đẳng giác, còn phải ngày đêm sáu thời lễ mười phương Phật, để cầu vô minh hết sạch, tròn chứng pháp
thân, huống nữa là hạng phàm phu nghiệp lực sâu nặng ư? Nếu không biết hổ thẹn, sám hối, tuy bản tánh đồng với chư Phật, nhưng bị hoặc nghiệp che lấp, không thể hiển hiện, ví như tấm gương báu lâu đời, chẳng những không ánh
sáng mà thể gương cũng bị khuất mất. Nếu biết gương sẵn tánh sáng, gia công lau chùi mãi,
ánh sáng lần phát cho đến khi rực rỡ cùng cực, thành ra
một vật rất quí trong đời. Nên biết ánh sáng ấy sẵn có, không phải lau chùi
mà được, nếu được thì lau đá gạch cũng ưng chói sáng. Lại phải biết gương tuy sẵn đủ ánh sáng, nhưng nếu không lau chùi thì cũng không thể chói sáng được. Tâm tánh chúng sanh cũng thế, tuy đồng với Phật, nhưng nếu chẳng đổi dữ làm lành, bỏ trần hiệp giác, thì tánh đức sẵn đủ đó không thể lộ bày. Đem tâm thức sẵn đủ tánh Phật đó tạo nên nghiệp khổ nhiều kiếp đắm chìm, cũng như nhà tối có chứa của báu, đã không dùng được lại bị tổn thương, há chẳng đau tiếc lắm ư? Pháp môn
Niệm Phật chính là phép mầu bỏ trần hiệp giác trở lại cội nguồn vậy. Người tại gia vì bị việc đời ràng buộc, khó nỗi ở trong tịnh thất tham thiền tụng kinh, với pháp môn
này rất là tiện lợi. Mỗi người đều có thể tùy sức tùy phần lễ tụng trì niệm để hồi hướng vãng sanh. Ngoài giờ khóa tụng chánh thức, khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín,
động, tịnh, ăn cơm, mặc áo, tất cả thời, tất cả chỗ, đều nên niệm Phật. Nhưng, ở nơi sạch sẽ, khi nghiêm kính, niệm thầm hay ra tiếng đều được. Nếu ở chỗ không sạch sẽ (như nơi đại tiểu tiện), hoặc khi không nghiêm kính (như lúc ngủ nghỉ, tắm gội), chỉ nên niệm thầm. Khi nằm nghỉ, nếu niệm ra tiếng, đã không cung kính lại lao hơi, lâu ngày thành bịnh. Niệm thầm công đức đồng như niệm ra tiếng, nhưng cần phải rõ ràng, tha thiết và đừng xao lãng.
Cư sĩ biết phát lộ sám hối điều ấy rất hợp với pháp môn Tịnh độ, vì lẽ tâm tịnh thì cõi Phật mới thanh tịnh. Nhưng đã sám hối, tất cả phải sửa lỗi làm lành,
nếu không thì
thành ra nói suông chẳng được thật ích. Đến như muốn không tham luyến cảnh ngoài, chuyên niệm Phật, được nhất tâm, cũng chẳng có pháp chi kỳ lạ, chỉ đem một chữ chết dán nơi đầu, treo nơi lông mày, thường nghĩ rằng: “Ta từ vô thỉ đến nay, gây nghiệp ác không lường, không ngăn, giả sử nghiệp ấy có hình tướng, mười phương hư không, chẳng thể dung chứa. Duyên đâu may mắn, nay được thân người lại nghe Phật pháp, nếu không một lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương, khi hơi thở dứt rồi, do nghiệp ác cũ chắc khó khỏi sa đọa vào Địa ngục. Chừng ấy phải chịu những sự khổ cùng cực, như vạc dầu lò lửa, rừng kiếm non đao, không biết trải bao nhiêu kiếp mới xong. Khi ra khỏi Địa ngục, bởi nghiệp chưa dứt, lại đọa vào loài Ngạ quỷ, bụng rất to lớn, cổ họng nhỏ như cây kim, trong miệng thường tuôn ra lửa, nhiều kiếp đói khát, không nghe được tên nước uống, cùng không có lúc tạm no lòng. Hết kiếp Ngạ quỷ, lại đọa vào nẻo Súc sanh, hoặc để cho người dùng cỡi chở, hoặc bị bán vào lò thịt. Khi được làm người thì ngu si không trí, dễ bề tạo nghiệp, khó nỗi làm lành, chẳng mấy lúc lại bị đọa nữa. Nghiệp cũ trả chưa xong đã tạo nghiệp mới, cứ mãi luân hồi trong sáu đường trải qua kiếp số nhiều như bụi nhỏ, mênh mang biển khổ không biết đâu là bến bờ”. Nếu thường xét nghĩ
như thế, sự tu hành sẽ được chuyên nhất. Thuở xưa Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quì
lúc sắp chết, tướng Địa ngục hiện, niệm Phật vài tiếng, liền thấy Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Sự lợi ích như thế, trọn một đời giáo hóa của Phật, trong trăm ngàn muôn ức pháp môn, chỉ thấy ở môn Niệm Phật. Tôi thường cho rằng: “Chín cõi chúng sanh rời pháp này, trên khó nỗi viên thành quả giác. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này, dưới không thể độ khắp quần mê”. Nếu cư sĩ lòng tin thấu đáo, tha
thiết vì sự sanh tử không móng một niệm nghi hoặc, thì tuy
chưa ra khỏi đời ác trược, đã chẳng phải là người ở lâu trong cõi Ta bà, tuy chưa đến Liên bang, nhưng sẽ là khách mới của miền Cực lạc. Từ đây, khi thấy người hiền phải gắng làm cho bằng, gặp việc nhơn đừng nên thua nhượng, đâu nỡ dần dà trễ nải để lầm một lúc, lỡ muôn đời hay sao? Người có huyết tánh, chắc không chịu sống làm thây đi thịt chạy, chết đồng mục nát với cỏ cây. Vậy cư sĩ phải nên cố gắng.
Lại, niệm Phật tuy quí ở chuyên nhất, nhưng cư sĩ trên còn
cha mẹ, dưới có vợ con, đành rằng không nên
quá vọng cầu sự giàu sang, song bổn phận trong gia
đình cũng lo sao cho tròn, không phải tu hành là bỏ tất cả. Nếu bỏ tất cả mà cha mẹ vợ con không thiếu thốn thì được, bằng chẳng thế, đã trái với đời lại trái với đạo, điều ấy cũng nên biết qua. Phận làm con, phải đem sự tu hành khuyên cha mẹ, nếu song thân biết niệm Phật, được sanh về Tây phương thoát nẻo luân hồi, thì đạo hiếu ở đời không sao sánh kịp. Như có kẻ nào đem
pháp môn Tịnh độ khuyên nhiều người tu niệm thì công đức giáo hóa sẽ về phần mình, sen
vàng buổi tương lai chắc ở nơi Thượng phẩm.
2/
Thơ
đáp Cư Sĩ Đặng
Tân An
Lời thỉnh ích của cư sĩ, tôi thật khó đối đáp! Tại sao thế? Vì chí hướng của cư sĩ lớn, kiến thức của tôi nhỏ, lớn nhỏ không đồng, cơ giáo tất khó hợp nhau. Tuy nhiên, trong thật tướng Nhất thừa, tìm tướng lớn nhỏ không thể được. Nơi ấy, nói lớn thì lớn, nói nhỏ thì nhỏ, lớn nhỏ vẫn đầy đủ tánh pháp
giới. Cái nhỏ của tôi biết, lại bao trùm tất cả pháp trong mười cõi pháp.
Ngài Thiện Đạo Hòa thượng nói: Nếu muốn học về Giải, tất cả pháp từ phàm phu đến Phật địa đều nên học. Như muốn học về Hạnh, nên lựa một pháp hợp lý hợp cơ, gắng sức tinh chuyên mới mau được thật ích. Chẳng thế thì dù trải qua nhiều kiếp cũng khó thoát ly. Pháp hợp lý hợp cơ ấy không chi hơn dùng lòng
tín nguyện, trì danh
hiệu Phật cầu sanh Tây phương. Muốn tìm học, nên y theo Kinh Di Đà Yếu Giải và các sách Tịnh độ.
Phật giáo là một pháp công cộng trong mười phương pháp giới, ai cũng
nên tu và đều có thể tu. Bởi chưa thấy rõ bản sắc của Phật giáo, một nhóm Nho
sĩ lập luận mù quáng rằng: Đạo Phật bỏ nhơn luân, hại chánh lý!
Tại sao mà biết họ sai lầm? Vì đức Phật đối với kẻ làm cha nói lành, với con nói thảo, với vua nói nhân, với tôi nói trung, cho đến chồng vợ kính yêu,
anh em hòa thuận; tất cả lời hay hạnh tốt ở đời, trong Kinh Phật đều nói rành rẽ. Thế thì cùng với Nho giáo có khác chỗ nào? Hơn nữa, về điểm chỉ rõ lý nhân quả ba đời, trong đạo Nho không thấy nói. Đến như những việc: dứt hoặc chứng chơn, đầy đủ Bồ đề, về nơi vô đắc, thì Nho
giáo phải kém thua
xa. Tiếc cho hàng
Nho sĩ kia chưa thấy, nếu họ được xem kỹ và hiểu sâu lý ấy, chắc sẽ đau thương rơi lệ, tiếng khóc động cõi đại thiên, hối hận vì mình đã khinh báng Phật giáo! Nhưng dùng lời báng pháp tội nhỏ, dùng thân báng pháp tội lớn vô cùng! Đời nay có những người ưa nói Đại thừa cho rằng mình đã
ngộ đạo, bảo: Ta chính là Phật, cần gì phải niệm Phật? Phiền não tức Bồ đề, cần gì dứt phiền não? Dâm,
giận, mê là giới, định, huệ, cần gì trừ bỏ dâm, giận, mê? Lời nói của họ thật cao trên
chín từng mây, việc làm xét lại ở dưới chín lớp đất! Những người như thế, gọi là oan gia của nhà Phật, so với kẻ không biết Phật pháp mà khinh báng, tội còn nặng hơn muôn phần. Với hạng sau này, luận về công họ nghiên cứu Phật pháp chẳng phải toàn là vô ích, nhưng chỉ làm cái nhân được độ về sau. Còn tội dùng thân
báng pháp quyết phải chịu khổ trong đường ác đạo không biết bao nhiêu kiếp số.
Cư sĩ nên nghiên cứu kinh luận Đại thừa cho chỗ hiểu biết được đầy đủ. Về phần tu, phải lấy tín nguyện, trì danh làm chánh hạnh. Đến như lúc cư xử bình thường, hoặc sợ làm tội không hay,
giảm phước không biết, nên đọc bộ An Sĩ Toàn Thơ và Pháp Uyển Châu Lâm tất sẽ nắm được khuôn phép để giữ gìn, tâm niệm không dám
buông lung nữa. Thảng hoặc còn sợ mình kiểm soát không kịp, nên y theo phép công quá cách của đức Phù Hựu Đế Quân mà thực hành, thì có thể vượt phàm lên Thánh, dứt hoặc chứng chơn. Như thế, ở nước Trung Hoa
này, cư sĩ sẽ là người ít ai hơn được.
3/
Thơ
đáp Cư Sĩ Cao Thiệu
Lân (I - II)
I
Trong bức thơ gửi đến, thấy nói cư sĩ đang nhiếp tâm niệm Phật, lạy Kinh Pháp
Hoa, và gắng trừ lỗi mà chưa được như ý, nghĩ muốn y theo
phép công quá cách để tự kiểm điểm mỗi ngày. Bao nhiêu điều ấy, đủ chứng sự tu hành của cư sĩ gần đây là thiết thật vì mình, không như những kẻ tự khi dối người, phô trương bề ngoài để cầu danh dự. Như thế còn gì hay
hơn, tôi xin
tùy hỷ.
Phép lễ tụng trì niệm, phải lấy lòng thành kính làm chủ. Nếu thành kính
cùng cực, dù ở địa vị phàm phu
công đức chưa được viên mãn, nhưng kết quả cũng khó nghĩ bàn! Trái lại thì, tuy lễ tụng, xét ra khác gì múa hát, dù có
bày nét khổ, vui, thương cảm, đều là giả trang vì chẳng phải tự nơi đáy lòng phát lộ. Nếu có công đức, chẳng qua là si phước ở cõi Trời, Người, mà chính đó là chỗ y cứ để gây nghiệp ác, gieo nên quả khổ vô lượng về sau. Nên đem điều này tỏ khắp với đồng bạn, khuyên nhau chơn thật tu hành để sự lợi ích được lan rộng. Cách thức lạy kinh của cư sĩ lập ra, về lý vẫn không ngại, nhưng về sự, nếu lạy suông, phải niệm: Nam Mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Pháp Hoa Hội Thượng Phật, Bồ tát. Niệm xong cúi
xuống lạy, vừa tưởng bài kệ lễ kinh:
“Pháp tánh
chơn không tợ hư không,
Pháp bảo thường trụ khó nghĩ bàn!
Nơi trước Pháp bảo hiện bóng con,
Như pháp một lòng nương kính lạy.”
Lại tưởng toàn bộ kinh và chư Phật, Bồ tát ở trong kinh đều phóng ánh sáng soi đến thân mình cùng các loài hữu tình trong pháp giới. Nếu lạy từng chữ, phải niệm: Nam Mô Đại thừa Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh (...) tự Pháp bảo. Cứ lạy chữ nào thì niệm chữ ấy, từ chữ: Như, thị, ngã, văn... cho đến hết bộ kinh đều niệm như thế. Nhưng phép quán tưởng chẳng phải dễ, nếu hiểu lý không rành hoặc tâm thức rối loạn, sợ e bị những việc ma. Điều cần yếu phải lấy sự chí thành
cung kính làm chủ, nếu quán tưởng được thì quán, bằng không,
nên đem hết lòng thành
mà lạy, công đức cũng vô lượng. Theo chương trình của cư sĩ đã lập: đối trước kinh mà lạy, khi lạy xuống tưởng kệ, lúc đứng lên niệm Phật, quán Phật..., tốt hơn là nên để kinh trước bàn Phật cúng dường rồi chuyên nhất lễ Phật A Di Đà. Chớ cho rằng công đức duyên tưởng một vị Phật không rộng lớn bằng duyên tưởng nhiều vị Phật. Nên biết Phật A Di Đà là pháp giới tạng thân, bao
nhiêu công đức của chư Phật trong mười phương pháp giới, nơi một đức Phật A Di Đà đều đầy đủ cả. Ví như lưới châu của trời Đế thích, ngàn châu hiện đủ trong một hột châu, một hột châu in bóng khắp ngàn châu, mỗi châu đều dung nhiếp lẫn nhau, không dư không thiếu. Nếu bậc Đại sĩ tu hành đã lâu, không ngại gì duyên cảnh rộng nhiều, cảnh càng nhiều tâm càng chuyên nhất. Trái lại kẻ mới học đạo, nếu duyên cảnh nhiều tâm thức sẽ rối loạn, và người chướng sâu huệ cạn có khi còn bị những việc ma. Vì lẽ ấy, Thế Tôn ta và
chư Tổ đều bảo phải một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, đợi khi nào chứng được Tam muội thì trăm
ngàn pháp môn, không lường diệu nghĩa thảy đều đầy đủ. Người xưa nói: Tắm được biển cả, tức là dùng nước trăm sông;
đến điện Hàm Ngươn còn hỏi Trường An chi nữa? Lời này có thể gọi là một tượng trưng rất đúng cho lẽ trên đây vậy.
Đến như sự dứt dữ làm lành, thành thật kiểm điểm lấy mình, tuy không chi hay hơn phép công quá cách; nhưng nếu tâm không
chuyên chú nơi sự thành kính, dù mỗi ngày có ghi công chép lỗi cũng là việc suông. Sổ công quá cách ở vùng này chưa thấy có. Cứ theo chỗ hiểu của tôi, chỉ nên giữ lòng thành kính trong tất cả thời, đừng để một niệm không tốt nổi lên, khi đối đãi với người phải luôn luôn
gìn lòng trung thứ. Được như thế, dù vọng niệm có thoạt khởi cũng liền tự biết, biết rồi liền trừ, tất ba nghiệp không bị lôi cuốn vào đường lầm lạc. Những kẻ tiểu nhơn bề ngoài hiền lành,
trong lòng ác độc, cho rằng không ai biết mình; đâu ngờ người phàm dù không biết, song bậc tu hành đắc đạo, thấy hiểu rõ ràng. Lại, chư thiên, quỉ thần tuy chưa đắc đạo, nhưng nhờ quả báo có tha
tâm thông, nên cũng hiểu biết được. Nói gì là các bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và chư Phật, tha tâm đạo nhãn thấy suốt ba đời như xem nơi lòng bàn tay đó ư? Muốn không biết, chỉ có mình không biết thì được, nếu mình biết thì trời đất, quỉ thần, Phật, Bồ tát tất rõ biết. Hiểu nghĩa này, tuy ở nơi nhà tối, chỗ vắng cũng
không dám móng niệm ác. Kẻ ngoan cố nếu được biết lý trên đây cũng tự hổ thẹn, lựa người chơn tu hay
sao? Như muốn bớt lỗi phải ghi nhớ điểm này, hằng đem lòng
kính sợ. Nhưng đây là ước theo chỗ hiểu biết cạn cợt của tình đời mà nói, thật ra tâm ta cùng mười phương pháp giới đồng thể dung hợp, vì ta mê
nên sự thấy biết chỉ cuộc ở riêng mình. Mười phương chư Phật chứng suốt tạng tâm, tất cả chúng sanh trong pháp giới khởi lòng động niệm, các Ngài đều thấy biết rõ rệt như hình tượng in bóng trong gương. Đó là vì chư Phật đã vào bản thể bình đẳng chân như, mình và người không khác.
Nếu cư sĩ rõ suốt nghĩa này,
có thể tự dè dặt sợ hãi, giữ lòng kính thành, trước tiên còn gắng sức trừ vọng, lâu ngày vọng niệm sẽ tiêu mòn
không khởi nữa.
II
Được thơ, biết gần đây cư sĩ tu trì
thân thiết, xét mình
sửa lỗi noi dấu Thánh hiền, chẳng phải cầu lấy hư danh, tôi lấy làm vui đẹp! Muốn học Phật, Tổ, thoát sanh tử, những điểm đầu tiên là: hổ thẹn, sám hối, dứt dữ, làm lành, giữ trai giới và thường tự răn nhắc. Lại cần phải đạt đến chỗ thật, hết sức mà làm, bằng không thì thành sự dối ở trong giả dối. Cho nên, biết không khó,
làm mới chính là
khó! Nhiều bậc thông minh giữa đời, vì nói có làm không, thành thử luống qua một kiếp, uổng chơi non báu đi về tay không, thật rất đáng đau tiếc! Vọng niệm lẫy lừng là do bởi chưa chơn thiết giữ gìn chánh niệm, nếu cứ chuyên chú một cảnh thì vọng tưởng sẽ đổi thành chánh trí. Cho nên, trị đắc sách thì giặc cướp đều là con đỏ, trị thất sách tuy kẻ tâm phúc
cũng hóa oan gia. Ở địa vị phàm phu, ai lại không có
nghiệp hoặc? Nhưng khi bình thường nếu đề phòng trước, lúc gặp cảnh duyên, phiền não mới không bạo phát; dù phát khởi cũng có thể liền tự biết mà dứt trừ. Những cảnh làm duyên để khởi phiền não rất nhiều. Nhưng mạnh nhứt là tiền của, sắc đẹp và chuyện ngang trái bất thường. Nên biết của tiền phi nghĩa hại hơn rắn độc, thì không
còn lòng tham muốn khi thấy của. Giúp đỡ người chính là xây đắp nền phước đức cho mình về sau, biết như thế, khi có ai
hoạn nạn cầu cứu, không vì
tiếc của không cho, mà khởi lòng phiền não. Về sắc đẹp, lúc đối trước người xinh tốt như hoa, tợ ngọc, cho đến kẻ kỹ nữ, nên tưởng đó là chị, hoặc em ruột, sanh lòng
cứu độ xót thương, tất không bị sắc làm động niệm ái dục. Ở gia đình, chồng vợ phải kính nhau
như khách, nên
xem thê thiếp là người ơn giúp đỡ lẫn nhau và vì sự nối dõi dòng họ, mới không bị sắc dục hại mình. Đến như gặp việc ngang trái nên sanh lòng xót thương dung thứ cho kẻ không biết lỗi lầm, chớ tranh chấp hơn thua. Lại tưởng rằng: kiếp trước mình đã từng làm khổ hại người, hôm nay bị việc này là trả nợ tiền khiên; nghĩ như thế thì tự nhiên vui vẻ, không sanh
lòng nóng giận muốn báo cừu. Song, những phương pháp trên đây là để áp dụng với kẻ sơ cơ, nếu bậc Đại sĩ tu hành đã lâu, bao nhiêu phiền não đổi thành tạng tâm sáng suốt, muôn cảnh vẫn không thật tánh, những việc tổn hại lợi ích đều tự nơi người mà thôi.
Đến như luận về pháp môn Niệm Phật thì Tín, Nguyện, Hạnh là tông yếu. Ba món này đầy đủ, quyết định được vãng sanh. Về phần Tín, Nguyện, nên để tâm chú trọng, phải một lòng cầu về Tây phương, chớ mong kiếp sau trở lại làm người hưởng sự giàu sang. Chẳng những không muốn thọ thân vua ở cõi Trời, Người, dù cho thân một vị cao Tăng nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, mở rộng pháp hóa làm lợi ích chúng sanh, cũng xem như gốc tội không khởi niệm ưa thích (vì
đó là ngộ chớ chưa phải chứng, vẫn còn bị luân hồi và có thể đọa lạc). Được như thế thì tín
nguyện của ta mới cảm đến Phật, và thệ nguyện của Phật mới có thể nhiếp thọ ta. Nên biết cõi Cực lạc chẳng những sức phàm phu không thể đến, mà chính
bậc Thánh Tiểu thừa cũng không đến được, vì nơi ấy là cảnh bất tư nghì của Đại thừa. Bậc tiểu Thánh hồi tâm về Đại thừa mới có thể đến, còn phàm phu nếu không tín nguyện cảm Phật, dù cho có tu tất cả thắng hạnh và hạnh mầu trì danh cũng không thể vãng sanh. Cho nên, tín nguyện rất là cần yếu. Ngài Ngẫu Ích nói: “Được sanh cùng chăng, toàn do
tín nguyện có hay
không; phẩm sen cao thấp, đều bởi trì danh sâu hoặc cạn”. Đây là một luận án sắt, dù ngàn Phật ra đời cũng không thay đổi. Với lẽ này, nếu cư sĩ nhận chắc, mới có phần nơi cõi Tây phương.
Như niệm Phật khó quy nhất, phải nhiếp tâm niệm kỹ. Phép nhiếp tâm không
gì hơn chí thành,
tha thiết, nếu không chí thành mà muốn quy nhứt ấy là điều rất khó. Đã chí thành niệm còn chưa thuần, phải lắng tai nghe. Không luận niệm thầm hay ra tiếng, đều phải niệm khởi từ nơi tâm, tiếng ra từ nơi miệng rồi lại vào tai (dù niệm thầm nơi ý vẫn có tướng miệng niệm). Tâm và
miệng rành rẽ, tai nghe rõ ràng nhiếp tâm như thế, vọng niệm tự dứt. Nếu làn sóng vọng tưởng nổi trào quá mạnh, nên dùng phép Thập Niệm Ký Số đem hết tâm lực chuyên vào câu niệm Phật, thì vọng tưởng bị đàn áp không có chỗ xen hở để nổi lên. Phép này nhiếp tâm rất tuyệt diệu, thuở xưa những vị hoằng dương tông Tịnh độ chưa nói đến là vì căn
cơ người thời ấy còn sáng lẹ, không cần dùng cách này vẫn có thể niệm Phật được quy nhứt. Ấn Quang tôi vì tâm khó điều phục, nhiều phen dùng thử mới biết là hay,
nguyện cùng những người độn căn đời sau y theo tu tập để được đồng sanh về Cực lạc.
Thập Niệm Ký Số là khi niệm Phật phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu, hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong vòng
mười câu mà
thôi, không được hai hoặc ba mươi câu, lại không nên
lần chuỗi, chỉ dùng tâm ghi nhớ. Nếu nhớ niệm luôn một mạch mười câu thấy khó, thì phân làm hai đoạn, từ một đến năm, từ sáu đến mười. Nếu hoặc còn thấy kém sức lại chia làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu, bảy đến mười. Cần để ý: Niệm, nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm mới không xen
vào được. Dùng phép
này lâu, sẽ được nhất tâm. Nên biết phép Thập Niệm Ký Số cùng phép
Thập Niệm của Ngài Từ Vân, về phần nhiếp vọng thì đồng, phần dụng công lại rất khác. Phép Thập Niệm tùy theo hơi người dài ngắn, không luận được bao nhiêu câu Phật, cứ một hơi kể là một niệm. Về phép này mỗi buổi sớm mai, chỉ dùng trong mười niệm mà thôi, nếu quá số ấy lâu ngày sẽ thành bị lao hơi. Phép Thập Niệm Ký Số thì niệm một câu biết một câu, mười câu biết mười câu, từ một đến mười rồi trở lại, dù cho mỗi ngày niệm cho đến mấy muôn câu cũng ghi nhớ như thế. Niệm như vậy không những trừ được vọng, lại có thể dưỡng thần, vì tùy sức tùy ý, hoặc chậm hoặc mau, không
chi trở ngại. Lại, so với cách niệm lần chuỗi ghi số, phép Thập Niệm Ký Số lợi ích hơn nhiều vì lần chuỗi thân mỏi nhọc, tinh thần xao động, còn cách này thì thân nhàn mà
tâm an. Chỉ những khi nào làm việc, hoặc khó ký số, nên khẩn thiết niệm suông, đợi lúc xong việc lại nhiếp tâm ký số. Như thế thì vọng tưởng không còn tung hoành, tâm cảnh an trụ vào câu niệm Phật.
Đức Đại Thế Chí Bồ tát nói: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhứt”.Lời này với hạng lợi căn thì
không cần luận, nếu kẻ độn căn như chúng ta, bỏ phép Thập Niệm Ký Số mà muốn nhiếp sáu căn, nối tịnh niệm, thật khó vô
cùng! Cách niệm Phật lần chuỗi chỉ nên dùng trong những khi đi đứng, còn lúc tịnh dưỡng thần, nếu lần chuỗi thì do tay
động, thần cũng không an, lâu ngày có thể sanh bịnh. Khác hơn thế, phép Thập Niệm Ký Số lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều dùng được, nhưng khi nằm chỉ nên niệm thầm, nếu ra tiếng đã không cung kính lại bị lao hơi, nên nhớ kỹ.
Cư sĩ tuổi đã năm mươi, nếu muốn được giải thoát trong hiện đời, phải chuyên chú
nơi môn Tịnh độ. Kinh Kim Cang, Pháp Hoa nên tạm gác một bên, đợi khi nào lý Tịnh độ thông suốt, niệm Phật được nhứt tâm rồi sẽ hay. Nếu bây giờ vừa nghiên cứu vừa tu hành, e cho thời gian có hạn, trí lực không kham, bên nào chẳng thành bên nào, hai sự lợi ích cùng bị mất cả đó.
4/
Thơ
gửi Cư Sĩ Trần
Tích Châu
Đức Như Lai ra đời nói pháp độ sanh, vẫn muốn cho tất cả loài hữu tình đều thoát khỏi sự sống chết, chứng ngay đạo Bồ đề. Nhưng vì chúng
sanh căn cơ sai khác,
không thể hoàn toàn
thỏa mãn tấm lòng xuất thế của Phật, nên đấng Từ Nghiêm chỉ còn có cách
tùy theo cơ nghi mà lần lượt dẫn dụ. Với bậc đại căn, đức Thế Tôn vì nói Phật thừa chỉ ngay bản tánh, khiến cho một đời tròn chứng quả Phật, như Thiện Tài trong Kinh Hoa Nghiêm, Long Nữ trong Kinh Pháp Hoa. Bậc thứ, thì Ngài vì nói Bồ tát, Duyên giác hoặc Thanh văn thừa khiến cho lần lượt tu tập và chứng quả. Bậc thứ nữa, Ngài lại vì nói ngũ
giới, thập thiện, khiến cho không
đọa vào đường ác, thọ thân Trời, Người, lần lượt gieo hột giống lành, tùy theo thiện căn lớn nhỏ, về sau trong pháp tam thừa do sức huân tập cũ mà phát ra hiện hạnh tu tập; hoặc có kẻ y theo Bồ tát thừa tu sáu độ muôn hạnh, chứng được pháp thân,
hoặc có kẻ y theo Duyên giác, Thanh văn thừa, ngộ mười hai nhân
duyên và pháp Tứ Đế mà dứt hoặc chứng chơn. Các pháp môn ấy tuy có lớn, nhỏ, mau, chậm không đồng, nhưng đều phải dùng sức mình tu tập sâu dầy mới có thể thoát nẻo luân hồi, chứng vào bản tánh. Nếu hai món hoặc kiến, tư còn chừng một mảy tơ thì gốc sanh tử vẫn chưa trừ được. Dù cho sức định huệ có sâu,
cũng y như cũ theo đường luân chuyển. Như bậc A na hàm
còn phải sanh về cõi trời Ngũ Bất Hoàn, trải qua nhiều kiếp mới chứng quả A la hán. Đến địa vị này thì gốc sanh tử mới dứt hẳn. Nhưng đó cũng chỉ là quả nhỏ của hàng Thanh
văn, còn phải hướng về nẻo đại Bồ đề, nương theo bản nguyện thọ sanh trong
mười phương thế giới, rộng tu sáu độ muôn hạnh, để trên cầu đạo Phật, dưới độ chúng sanh. Từ đó tùy nơi công hạnh của mình sâu cạn hoặc chậm mau, mà lần lượt chứng vào Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, rồi Đẳng giác. Đến vị này lại còn phá một phẩm vô minh, chứng một phần Tam Đức mới vào ngôi Diệu giác mà thành Phật.
Trong một đời thời giáo của Như Lai, các pháp môn tuy không lường không ngằn, song địa vị chứng nhập rốt lại không qua
những ngôi thứ trên đây. Như bên tông Thiền chỉ ngay bản tâm, thấy tánh thành Phật, rất là tròn tắt mau lẹ; nhưng đó là ước theo pháp
thân saün có, không trải qua nhân
quả tu chứng mà luận, nếu y theo địa vị tu chứng thì cũng không gì khác với bên Giáo. Giữa đời Mạt pháp này, bậc Thiện tri thức rất ít, căn người lại hèn kém, tìm được kẻ tỏ ngộ còn khó thay, huống chi là thật chứng? Đức Như Lai biết chúng sanh nếu chỉ nương nơi sức mình rất khó được giải thoát, nên ngoài các pháp môn, lại mở riêng môn
niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Như lòng tín nguyện được chơn thiết, dù cho kẻ phạm tội Ngũ nghịch Thập ác khi sắp chết tướng Địa ngục hiện, có bậc Thiện tri thức dạy bảo niệm Phật mười câu hoặc một đôi câu, cũng được nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn vãng sanh,
huống nữa là người tu các pháp lành không làm ác ư? Nếu là bậc tinh tu phạm hạnh, sức thiền định sâu thì phẩm sen càng
cao, thấy Phật nghe pháp mau lẹ, đến như người đại triệt đại ngộ, dứt hoặc chứng chơn cũng nên hồi hướng vãng sanh, để cầu tròn chứng pháp thân, mau thành quả Phật. Các pháp môn khác, nếu nhỏ thì hạng đại căn không cần tu, lớn thì hạng tiểu căn không thể tu; chỉ có môn Tịnh độ này trùm khắp ba căn, gồm thâu lợi độn, cao siêu như đức Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, không thể vượt ra ngoài, thấp kém như kẻ Ngũ nghịch, Thập ác chủng tánh A tỳ cũng được dự vào trong. Giả sử đức Như Lai không mở môn này, thì chúng sanh đời Mạt pháp chẳng còn hy vọng thoát đường sanh tử. Nhưng pháp môn Tịnh độ tuy rộng lớn như thế, mà cách tu lại rất dễ dàng. Vì cớ ấy, chẳng những phàm phu
khó tin mà hàng Nhị thừa cũng đa nghi, cho đến bậc quyền vị Bồ tát hoặc còn lòng
ngờ, trừ những người kiếp trước có gieo căn lành Tịnh độ và bậc Đại thừa Bồ tát quả vị đã cao mới sanh được lòng tin sâu chắc. Như Thái tử khi vừa sanh ra, tuy tài đức chưa lập, song nhờ thế lực của vua cha, nên sang trọng hơn quần thần, người đủ tín nguyện niệm Phật dù là phàm
phu song chủng tánh đã hơn Nhị thừa, vì biết đem tâm phàm gieo vào biển giác, thầm hiệp với đạo mầu, nhờ sức Phật mau lên bậc Bất thối.
Muốn nói môn Tịnh độ, nếu không so
sánh lược qua sự khó dễ về tự lực của các môn
khác cùng tha lực của pháp này, thì dù không nghi pháp
cũng sanh ra nghi ngờ chính mình.
Và nếu lòng nghi
còn một mảy tơ, tất sẽ nhân nghi thành chướng, đừng nói không tu, có tu cũng chẳng được hoàn toàn
thật ích. Vì thế tin là điều nên tìm cầu trước nhất. Phải tin nhận chắc cõi Ta bà thật là khổ, cõi Cực lạc thật vui. Sự khổ ở Ta bà không
lường, không ngằn, ước lại có tám điều: sanh, già, bệnh, chết, thương xa lìa,
oán gặp gỡ, cầu không toại ý, năm ấm lẫy lừng. Tám món
này, dù sang như vua chúa,
hèn như kẻ ăn xin cũng không tránh khỏi. Bảy thứ trước là quả cảm của đời quá khứ, một món sau là nhân khổ của đời vị lai, nhân quả dây dưa nối nhau không dứt, hết kiếp này đến kiếp khác chẳng được thoát ly. Ngũ ấm là năm món
che, vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức che lấp chơn tánh như mây đen án
mặt trời không cho ánh sáng hiển lộ, và đối với sáu trần khởi hoặc gây nghiệp như ngọn lửa bốc cháy nên gọi là lẫy lừng. Món thứ tám này là
cội gốc của tất cả sự khổ. Người tu hành khi sức thiền định đã sâu,
không chấp sáu trần, không khởi lòng ưa ghét, từ nơi điểm ấy gia công thì hoặc nghiệp sẽ lần trừ sạch, dứt hẳn nguồn sanh tử. Nhưng công phu ấy rất không dễ, trong đời Mạt pháp thật khó có người làm được, nên cần phải chuyên tu Tịnh nghiệp cầu sanh Cực lạc, nhờ sức từ của Phật tiếp dẫn về Tây phương. Đã đến cõi ấy, hóa sanh nơi hoa sen,
thì không còn sự khổ về sanh; thuần tướng đồng nam, sống lâu như hư không, thân không suy biến, thì già, bệnh, chết chẳng còn nghe tên huống là có thật? Từ đó bạn cùng Thánh chúng, gần với Di Đà,
chim nước rừng cây diễn nói pháp mầu, tùy nơi căn tánh nghe rồi tu chứng, chừng ấy người thân còn không có, lựa là oan gia? Ở cõi Cực lạc, tưởng ăn được ăn, tưởng mặc được mặc, cung điện lâu đài đều là châu báu tự nhiên hóa hiện, bảy điều khổ ở cõi trược đã đổi thành bảy điều vui, đến như thân thì có thần thông oai lực lớn, không rời chỗ ở, trong một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới làm những việc cầu Phật độ sanh; tâm thì có trí huệ biện tài cao, nơi một pháp biết hết thật tướng các pháp,
tuy nói việc thế gian đều hợp với lý mầu. Thế là nỗi khổ năm ấm cũng không còn, chỉ hưởng sự yên vui tịch tịnh. Cho nên trong kinh nói: “Thế giới ấy tên là Cực lạc, vì chúng sanh ở cõi đó không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui”. Tóm lại, nỗi khổ ở Ta bà tả chẳng xiết, sự vui ở Cực lạc nói không
cùng, nếu cư sĩ dứt hẳn mối nghi ngờ, tin chắc lời của Phật, mới gọi là tin
sâu. Nên để ý: đừng đem trí hiểu biết của phàm phu
suy độ, nhận lầm rằng: “Bao nhiêu sự mầu lạ không thể nghĩ bàn ở Tây phương đều thuộc về ngụ ngôn để thí dụ cho tâm pháp, chớ không phải cảnh thật”. Nếu có sự hiểu biết lầm lạc ấy, tất sẽ mất điều lợi ích vãng sanh Tịnh độ, mối hại này rất lớn, phải nên cẩn thận.
Đã biết Ta bà là khổ, Cực lạc là vui,
nên phát lòng thệ nguyện thiết thật, nguyện lìa Ta bà về Cực lạc. Lòng nguyện ấy ví như người bị sa xuống hầm nhơ cầu mau ra khỏi, lại như kẻ ở lao ngục mong nhớ cố hương. Sự mong cầu cần phải khẩn thiết, vì sức mình không
thể tự thoát khỏi, phải nhờ bậc có thế lực lớn dìu dắt. Chúng sanh ở cõi Ta bà, đối với cảnh thuận nghịch khởi lòng tham,
giận, mê, gây
nghiệp giết, trộm, dâm, làm ô uế bản tâm trong sạch, ấy là hầm nhơ sâu thẳm. Đã gây nghiệp ác, tất chịu quả khổ, trải nhiều kiếp luân hồi trong sáu nẻo đó là lao ngục lâu dài. Về kiếp trước, đức A Di Đà phát bốn mươi tám lời nguyện độ sanh, trong ấy có một nguyện: “Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu Ta, chí tâm xưng niệm cho đến mười lần, cầu sanh về Cực lạc, như không được vãng sanh, Ta thề không thành Phật”. Đức Từ phụ tuy thệ nguyện độ sanh như thế, nhưng nếu chúng sanh không cần tiếp dẫn, Phật cũng chẳng biết làm sao? Như có người hết lòng xưng danh, cầu lìa cõi Ta bà, đều được Phật xót thương tiếp dẫn. Đức A Di Đà oai lực rất lớn, có thể cứu vớt loài hữu tình ra khỏi hầm nhơ lao ngục ở cõi trược, đem về Cực lạc, khiến cho vào cảnh giới Phật, đồng sự thọ dụng của Như Lai. Muốn sanh Tây phương, trước phải tin sâu
nguyện thiết. Thiếu hai điều này, dù có
tu, cũng không thể cảm ứng với Phật, chỉ được phước báo cõi Trời, Người và gieo nhân giải thoát về sau mà
thôi. Nếu tín nguyện đầy đủ thì muôn người vãng sanh không sót một. Ngài Vĩnh Minh đã bảo: “Muôn
tu, muôn người về” là chỉ cho người có tín
nguyện đầy đủ vậy. Đã tin
sâu, nguyện thiết lại phải tu hạnh niệm Phật, dùng tín
nguyện làm tiên đạo, niệm Phật làm chánh
hạnh. Ba món
này chính là tông yếu của pháp môn Niệm Phật, nếu thiếu một, quyết không thể vãng sanh.
Về hạnh niệm Phật, đều tùy theo hoàn cảnh của mỗi người mà lập, không thể chấp định một lề lối. Như thân được nhàn nhã, nên từ mai đến chiều, chiều lại mai, đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, dùng cơm, cho đến lúc đại tiểu tiện, tất cả thời, tất cả chỗ, làm sao
cho câu niệm Phật chẳng rời lòng. Như khi tắm gội sạch sẽ, y phục chỉnh tề và chỗ nơi thanh khiết thì niệm thầm hay ra tiếng đều được. Nếu lúc ngủ nghỉ, mình trần, đi đại tiểu tiện, và chỗ nơi không sạch, chỉ nên niệm thầm; chớ nói là những khi không nghiêm sạch như thế chẳng nên niệm, chỉ e lúc ấy niệm không được đó thôi! Tuy rằng niệm Phật là công việc suốt đời đừng cho xen hở, nhưng mỗi buổi sớm mai phải lễ Phật, trước tụng Kinh A Di Đà qua một lần, chú vãng sanh ba lần, rồi đọc bài kệ “A Di Đà Phật thân sắc vàng...” Đọc kệ xong, niệm“Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi, A Di Đà Phật.” Kế tiếp niệm “Nam
Mô A Di Đà Phật” hoặc năm trăm câu, một ngàn câu, càng nhiều càng tốt. Khi niệm nên đi nhiễu quanh bàn Phật, nếu chỗ đi nhiễu không tiện, thì quì, hoặc ngồi, hoặc đứng niệm đều được. Niệm sắp xong lại quì trước bàn Phật niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh Hải Chúng, mỗi Thánh hiệu 3 lần, rồi đọc bài văn Tịnh độ, phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Đọc văn Tịnh độ là y theo nghĩa trong văn mà phát tâm, nếu chẳng thế thì thành đọc suông, không được thật ích. Sau bài phát nguyện, niệm Tam Quy Y,
lễ Phật lui ra. Đây là thời khóa buổi mai, chiều cũng như thế. Nếu muốn lạy Phật nhiều, hoặc sau khi niệm Phật, tùy ý đảnh lễ, kế tiếp chín lần xưng danh Bồ tát, lễ chín lạy rồi phát nguyện hồi hướng; hoặc lúc công
khóa xong, muốn lạy bao nhiêu cũng được. Lễ Phật phải chí thành khẩn thiết, chẳng nên lếu láo thô sơ; bồ đoàn không được quá cao,
cao thì mất sự cung kính.
Như công việc đa đoan không rỗi rảnh, nên định vào buổi sáng sớm sau khi súc miệng rửa mặt, có bàn Phật thì đến trước lễ ba lạy, rồi đứng thẳng chắp tay niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hết một hơi là một niệm. Niệm đủ mười hơi, tiếp đọc bài kệ “Nguyện cùng người niệm Phật. Đều sanh về Cực lạc. Thấy Phật thoát sanh tử. Như Phật độ tất cả.” Đọc kệ xong, lễ Phật ba lạy lui ra. Nếu không bàn Phật thì chắp tay hướng về phương Tây cũng
như cách thức trên mà niệm. Đây là phép Thập Niệm của Ngài Từ Vân Sám Chủ lập ra cho hàng vua quan, việc chánh rối nhiều không đủ thời giờ tu tập. Tại sao phải niệm luôn hết một hơi? Vì tâm
chúng sanh tán loạn lại không rảnh để chuyên niệm, niệm như thế là mượn hơi nhiếp tâm khiến cho quy nhứt. Nhưng phải tùy hơi dài ngắn không nên ép, ép thì hao hơi; lại chỉ giữ đủ mười niệm không nên hai hoặc ba mươi, nhiều cũng lao hơi. Bởi vì tán tâm niệm Phật khó được vãng sanh, phép này làm cho tâm
chuyên nhất, tuy số niệm có ít nhưng công đức rất sâu, quyết định sẽ sanh về Cực lạc. Lúc rảnh và gấp đã có cách thức, thì khi bình thường không rảnh gấp, nên châm chước mà lập phép tắc tu trì.
Lại người niệm Phật, mỗi việc phải gìn lòng trung thứ, mỗi niệm đề phòng sự lỗi lầm, biết lỗi mau cải, thấy việc nghĩa vui làm, mới hợp với Phật. Nếu chẳng thế, tất nơi lòng còn có sự chướng ngại, không hợp với tâm Phật, quyết khó cảm thông. Và, khi lễ bái, tụng Kinh Đại thừa cùng làm tất cả việc hữu ích trong
đời, đều phải hồi hướng về Tây phương, không
nên chỉ đem hạnh niệm Phật hồi hướng vãng sanh, còn bao nhiêu công đức kia để hồi hướng về phước báo thế gian. Nếu như thế là tâm
không quy nhứt rất khó vãng sanh. Phải biết người chân thật niệm Phật, tuy không
cầu phước báo thế gian, song cũng được sống lâu, mạnh khỏe, cửa nhà yên vui, con cháu phát đạt, tóm lại bao nhiêu
phước báo ở đời đều được đầy đủ. Nếu riêng cầu phước không chịu hồi hướng vãng sanh, thì trái lại phước báo rất kém ít, có hại đến sự vãng sanh.
Pháp môn Niệm Phật các Kinh Đại thừa đều khen ngợi, Kinh Tiểu thừa tuyệt không nói
đến, người chưa thông giáo lý bác niệm Phật là Tiểu thừa, ấy là nói
càn, chớ nên nghe
theo. Đến như sự cầu cơ mà cư sĩ nói, phần nhiều thuộc về loài linh
quỉ dựa theo trí thức của người cầm cơ để viết ra. Trong ấy nếu bàn về việc thế gian thì có phần đúng, còn
về Phật pháp, vì không phải chỗ họ hiểu biết, nên lầm đặt ra diệu ngôn như sau quyển Kim Cang Trực Giải có phụ thêm những hiệu Tiên Thiên, Cổ Phật v.v... Ấy là lời ma rất ác, làm mất trí huệ, hại chánh kiến của người, nếu đem ra
truyền bá, đã
không phước còn mang tội lớn nữa.
5/
Thơ
đáp Cư Sĩ Lâm Giới
Sanh
Đã mấy năm không gặp nhau, tấc lòng hằng tưởng nhớ đến cư sĩ. Mùa thu rồi, nhân lệnh huynh Lâm Chi Phân đi dự kỳ hương thí, có đem thơ đến Phổ Đà, tôi mới được biết sự tu trì của cư sĩ trong thời gian gần đây. Nghe nói trong nhà bất hạnh, mất đứa con yêu, nên cư sĩ hôm sớm thương buồn không an,
tôi muốn nói rõ sự lý nhân quả, nhưng vì công việc biên soạn quá gấp, nên chỉ viết thơ kể sơ lược qua. Ngày
rằm hôm nay,
Thầy Triệt Quyền lên núi thăm, trong câu chuyện lại nói đến tình trạng oán trách của cư sĩ, và những tà thuyết của một vài người tục dựa vào đó bảo: làm lành mang họa, tu hành không lợi ích chi... Tôi nghe xong bất giác ngậm ngùi, e rằng bậc thượng trí nhân
việc này trễ nải sự tu, kẻ hạ ngu lại dám làm
ác, nên không nại quê hèn,
xin đem lời ngay để cùng nhau bày tỏ.
Trong Kinh
Phật thường nói: “Quả báo thông ba đời và người sanh con cái lược có bốn nhân.”
Quả báo thông ba đời gồm có: hiện báo, sanh
báo và hậu báo. Hiện báo là đời nay làm dữ, lành, đời nay được họa phước; như sĩ tử cần học tập, hiện thân được công danh. Việc này mắt phàm đều có thể thấy. Sanh báo là đời nay làm dữ lành, đời sau được họa phước; như ông cha trọng văn chất, con cháu mới phát đạt, hiển vinh (sanh báo ước nơi bản nhơn và việc cách đời khó chỉ rõ, là tạm mượn thí dụ để cho dễ hiểu, xin đừng nhân lời mà hại ý). Việc này mắt phàm không thấy, thiên nhãn còn có thể thấy được. Hậu báo là đời nay làm dữ, lành, đến đời thứ ba, thứ tư, hoặc ngàn muôn
đời, cho đến vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp về sau mới được họa phước; như vương nghiệp của đời Thương, Châu, thật ra mở đầu từ ông Tắc, ông Khiết. Việc ba, bốn đời thiên nhãn còn thấy được, nếu việc trăm ngàn kiếp thiên nhãn
không thể thấy, nhưng đạo nhãn của hàng Thanh văn thấy biết rõ ràng. Đến như việc vô lượng vô biên hằng hà sa kiếp, chỉ có đấng Như Lai ngũ nhãn tròn sáng mới nhìn sáng suốt trước sau. Cảnh ấy còn không phải là nhãn giới của Thanh văn, huống chi là
thiên nhãn, nhục nhãn? Biết được quả báo ba đời, thì sự làm lành được phước, dữ mang họa, lời Thánh vẫn không sai,
và giàu nghèo, sang, hèn, thọ, yểu, cùng, thông đều có số phần, đâu từng thiên lệch? Như hình đẹp xấu thế nào, bóng hiện trong gương cũng như thế ấy, người trí biết sửa đổi hình, kẻ ngu luống ghét hờn với bóng! Cảnh nghịch vẫn thuận chịu, là biết vui số phần; không oán trời trách người, mới có thể lập mạng.
Con cái có bốn nhân: báo ân, báo oán, trả nợ, đòi nợ. Báo ân là
con đối với cha mẹ đời trước có mang
ân, vì báo ân nên đến làm con,
trọn đời phục dịch nhọc nhằn, khiến cho song
thân khi sống còn được phụng dưỡng an vui, lúc
qua đời được chôn cất, cúng tế. Cho đến hoặc con làm những việc giúp nước an dân, danh nêu thanh sử, để cho thiên hạ đời sau nhân kính người mà mến trọng cả cha mẹ như các ông:
Tăng Lỗ Công, Trần Trung Túc, Vương Quy Linh, Sử Đại Thành... Đời nay những con thảo cháu hiền đều thuộc về hạng ấy.
Báo oán là
cha mẹ đối với con đời trước có điều phụ nghĩa, nó mới đến làm con để báo oán. Khi còn nhỏ con đã sanh lòng ngỗ nghịch, lớn lên lại gây họa làm lụy cho cha mẹ; khi song thân còn sống, không cung phụng, lúc chết, để nhục lây đến kẻ cửu tuyền. Thậm chí có khi, con nắm quyền chức trọng yếu rồi làm điều trái phép, khiến cho nhà cửa nát tan, dòng họ diệt tuyệt, mồ mả bị đào xiềng, để thiên hạ đời sau nhân thóa mạ người mà ghét luôn cả cha mẹ, như bọn Vương Mãng, Tào Tháo, Đổng Trác, Tần Cối...
Trả nợ là đời trước con có thiếu tiền của nơi cha mẹ, vì trả nợ nên đến làm con, nếu số thiếu nhiều thì trả đến mãn đời song thân,
thiếu ít hoặc đến nửa chừng rồi đi. Như con học vừa thành danh thoạt chết mất, buôn bán mới vừa được lợi bỗng lìa trần.
Đòi nợ là đời trước cha mẹ có thiếu tiền nơi con, nay
nó đến làm con để đòi lại. Như số nợ nhỏ thì cha mẹ chỉ tốn tiền cho con ăn mặc, thuốc men, học hành, cưới gả, và dạy bảo đủ điều muốn cho mai sau thành lập, nhưng vì kỳ hạn đã mãn, nó
liền qua đời. Nếu số nợ lớn, có khi đứa con xài
phá tiêu tan hết sự sản của cha mẹ mới thôi.
Nay tôi xem
lệnh tử dường như đòi nợ mà đến, may vì số nợ có ít, nên vừa lớn khôn đã vội từ trần. Vậy cư sĩ nên sám hối nghiệp đời trước, gắng sức tu hành.
Do sự bồi phước ấy, chắc có lẽ rồi đây cư sĩ sẽ sanh được đứa con quí làm rực rỡ tông môn chớ chẳng không! Xem như đức Khổng Tử là Thánh nhơn mà người con một mất thuở trung niên,
Thầy Nhan Uyên
là bậc đại hiền, song lại tuổi xuân ngắn ngủi, ông Nguyên Hiến nghèo xơ xác, Thầy Tử Lộ bị tuẫn nạn. Bá Di,
Thúc Tề chết đói nơi núi Thú Dương, còn Ngài Cừ Bá Ngọc cùng khốn ở nước Vệ. Cư sĩ cho rằng Thánh hiền do tu đức mà bị trời phạt ư? Hay là sống chết, giàu sang đều có số mạng? Vậy cư sĩ chỉ nên trách đức mình chưa đủ, chớ hỏi điều họa phước làm chi. Được như thế kiết thần sẽ đến, tai tinh tự nhiên lánh xa.
Trong đời sống, con người có đủ tám sự khổ, dù sanh
lên cõi trời cũng khó
khỏi năm tướng suy, chỉ thế giới Cực lạc ở phương Tây là thuần vui không khổ. Biết đâu do cư sĩ có công
hoằng dương pháp môn Tịnh độ nên Thánh thần đem đứa con không phước thọ ấy, làm một mũi kim thống tỉnh đâm trên đỉnh đầu, để cư sĩ thấy rõ ba cõi như nhà lửa không an, các sự khổ dẫy đầy rất đáng sợ, kiếp người vô thường mau như chớp, khi đại hạn đã đến không ai cầm giữ được ai. Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn, bóng bọt, bây giờ chưa tỉnh ngộ cần tu Tịnh nghiệp thì có khác nào gỗ đá vô tình? Người có ý chí đâu chịu làm khối thịt biết đi, biết chạy, để ngày kia đồng chết mục với cỏ cây? Đâu nỡ tự cam ở cảnh phàm ngu,
cứ mãi nâng
cao cảnh Thánh? Gặp duyên nhắc nhở khẩn yếu như thế mà không phấn phát, nghe được chánh pháp mà không chịu làm theo, ấy là Phật phụ chúng sanh hay là chúng sanh phụ Phật?
Là người trí huệ, mong cư sĩ xét nghĩ...
6/
Thơ đáp anh em một
vị Cư Sĩ ở
Vĩnh Gia
Từ độ trọng xuân biệt nhau, không mấy chốc đã sang tiết hạ, bóng thiều quang mau lẹ, rất dễ kinh người! Mỗi khi nghĩ đến nhị vị lòng tin tuy chơn thiết, nhưng lẽ đạo chưa rõ thông, đến nỗi bỏ chỗ cao minh
theo nơi thấp tối, không những mình mất chánh kiến, để cười cho bậc đại gia, mà chính như Ấn Quang này
đã mang tiếng là kẻ quen biết với nhau, cũng tự thấy sanh lòng hổ thẹn! Trong bức thơ gởi đến, cư sĩ nói: “Về sau có viết được quyển chi sẽ tùy thời xin phủ chánh.” Nhưng tôi mắt yếu thể suy, nếu vô sự tất không gần gũi nghiên
bút, dù có việc phải cần đến, xét lại cũng như nhóm một đống chữ, có chỗ nào đáng xem? Tuy nhiên, e rằng luống phụ lòng nhị vị hằng mong tưởng, tôi xin đem chút canh thừa cơm hẩm sơ lược sắp bày, như không hiềm vì nặng mùi, thì cũng có thể tạm đỡ lòng, để lần lượt nếm đến món cao lương tự tánh.
Về bài Tứ Liệu Giản, nghĩa lý rất sâu xa thiết đáng, nên tìm xét kỹ, muôn lần xin chớ lấy sự giải thích cạn cợt của một vài người mà khinh thường. Nếu như thế, rất uổng phụ tấm lòng đại từ bi của Ngài Vĩnh Minh, một phen cạn lời, khuyên bảo. Quyển Trì Kinh Lợi Ích Tùy
Tâm Luận sở dĩ có, là vì người đời nay khi thọ trì kinh điển, phần nhiều không mảy may kính sợ. Muốn được sự thật ích trong Phật pháp phải tìm nơi lòng kính sợ; nếu chí thành cung kính, còn có thể mau chứng quả Phật, huống nữa là địa vị thấp ư? Thiện Đạo Hòa thượng vốn là hóa thân của đức A Di Đà, có thần thông trí huệ lớn, nhưng lối giáo hóa về tông Tịnh độ, Ngài không chuộng nơi huyền diệu, chỉ trọng sự thiết thật bình thường. Về điểm chuyên và tạp tu của Ngài chỉ dạy, rất có lợi ích vô cùng! Chuyên tu là thân
nghiệp chuyên lễ, khẩu nghiệp chuyên xưng (khi tụng kinh chú, nếu chí tâm hồi hướng vãng sanh cũng có thể gọi là chuyên
xưng) ý nghiệp chuyên nhớ. Được như thế, thì muôn người tu đều vãng sanh không sót một. Tạp tu là gồm tu nhiều pháp môn khác hồi hướng Tây phương, vì tâm
không thuần nhất nên khó được lợi ích, trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn người vãng sanh mà thôi. Đây là lời vàng chắc thật, ngàn đời không thay
đổi. Nhị vị nên y theo những lời này để tự lợi, và đem
khuyên tất cả mọi người. Đến như phép trì chú chỉ được dùng làm trợ hạnh, không nên làm chánh hạnh kiêm với niệm Phật. Phép trì chú tuy không thể nghĩ bàn, nhưng phàm phu
vãng sanh toàn nhờ nơi tín nguyện chơn thiết hợp với sức hoằng thệ của đức A Di Đà, đạo cảm ứng thông
nhau mà được tiếp dẫn. Nếu chẳng rõ ý này cho rằng các pháp không thể nghĩ bàn, tu môn nào cũng được, tất sẽ thành ra
không thiền, không tịnh, muôn đời chìm đắm, chừng ấy biết nương tựa cùng ai?
Như xét nghĩ
mình là phàm phu dẫy đầy nghiệp chướng, nếu không nhờ sức hoằng thệ của Phật, trong đời này quyết khó thoát khỏi luân hồi, mới thấy Pháp môn Tịnh độ lực dụng hơn tất cả các giáo pháp khác.
Trì chú, tụng kinh dùng để trồng phước huệ, tiêu tội nghiệp thì được, nếu vọng ý muốn cầu thần thông, đó là bỏ gốc theo ngọn, không khéo dụng tâm. Thảng như tâm ấy cố kiết, lại thêm đạo lý không minh, giới lực không chắc, niệm Bồ đề không sanh,
lòng hơn thua lừng lẫy, e có ngày bị ma dựa phát cuồng! Muốn được thần thông trước phải đắc đạo; đắc đạo thì thần thông tự đủ, như không gắng sức nơi đạo, chỉ cầu thần thông, đừng nói là không được chi, dù có được cũng trở thành chướng đạo. Vì thế, chư Phật, Tổ đều nghiêm cấm không cho tu học theo đường lối ấy. Bởi người đời thường có những tâm niệm như vậy, nên tiện đây tôi cũng nói qua. Nhị vị trên nhà hãy còn lệnh thân, nên thường đem pháp
môn Tịnh độ và những sự tích cảm ứng giảng giải, khiến cho người sanh lòng
vui đẹp tin làm
theo. Nếu không lấy điều này báo hiếu, dù có thể làm đạo hiếu của đời, kết cuộc có ích lợi gì cho song thân đâu? Vua Võ vốn bậc Thánh nhân, còn không thể cứu cha là ông
Cổn hóa làm
con rùa ba chân đọa vào súc loại. Xem việc này há không tỉnh ngộ, gấp cầu dẫn thần thức song thân dự hội Liên Trì, hầu gần đức Phật để người chứng được bản tánh Vô Lượng Quang Thọ ư?
Sự khổ hạnh của cư sĩ Chí Liên tuy cũng tốt, nhưng e cô chưa hiểu tông chỉ Tịnh độ, hoặc không thể buông bỏ hết những tâm niệm chuyển nữ thành nam
và mong hưởng phước báo ở cõi Trời, Người, thì sự lợi ích vô biên vì cái vui nhỏ thế gian mà
thành ra uổng mất! Nên đem điều này giảng rõ để chí hướng cô được thêm quyết định. Vả lại, khuyên một người sanh Tịnh độ, chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật, và đã thành Phật tất độ vô lượng chúng sanh, công đức không ngần ấy sẽ về phần mình. Lại nữa, người tu Tịnh độ đã đem pháp môn này khuyên bảo mọi người, đối với vợ con đâu nỡ không dìu dắt để cho kẻ trong nhà một phần lợi ích lớn hay sao? Như người trong thân quyến sẵn có căn lành thì còn gì hay hơn; bằng không được thế, cũng phải lần lượt un đúc khiến cho mỗi ngày càng gần với lẽ đạo. Đây mới gọi là lòng từ ái sâu rộng, nếu bỏ điều này mà gọi là từ ái thì cũng chỉ có danh không
thật mà thôi. Lời tôi nói chẳng qua sơ lược một đôi điều để nêu ra phần đại khái, không đủ lấy làm khinh trọng, xin xem
rõ các bộ Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục; Lạc Bang Văn
Loại... tự có chỗ nương theo, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.
Nỗi khổ ở Ta bà nói
không cùng, dù cho gặp thuở thanh bình, chúng sanh cũng vẫn chen chúc trong bầu nhiệt não, nhưng vì nhẫn chịu lâu ngày thành quen, nên không tự biết đó thôi. Gần đây, ở Trung Hoa thường bị nạn binh lửa, sự khổ không thể tả xiết! Nhìn ra
các nước ngoài, cuộc đại chiến đã ba năm,
số người chết quá nhiều mà thế chiến tranh vẫn còn thạnh, chưa biết ngày nào mới thôi. Thảm cảnh ấy do nghiệp ác của chúng sanh gây nên, cũng chính là trạng thái của kiếp đao binh mở đầu; nỗi khổ về sau, nếu nghĩ đến thật đáng kinh sợ! Mong nhị vị phát đại tâm mau cầu vãng sanh để sớm chứng đạo quả, rồi trở lại hóa độ chúng sanh
nơi cõi Ta bà
này. Kinh nói: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.” Bồ tát e mang ác quả nên dứt ác nhân,
chúng sanh tranh tạo ác nhân, để rồi chịu ác quả. Trong khi chịu quả khổ lại không biết sám hối còn gây thêm điều dữ để đối trị, thế nên oan oan
tương báo nối mãi khôn cùng, nghĩ đáng thương mà cũng đáng sợ!
Biết được lẽ này, không
cầu sanh Tây
phương chưa phải là trượng phu!
7/
Thơ đáp Cư
Sĩ Bộc Đại
Phàm
Từ xa đón bức văn chương, riêng lòng không khỏi hổ thẹn! Ấn Quang từ nhỏ thiếu học, nên kiến thức mù mờ, bấy lâu nổi trôi đất khách, chỉ ăn gởi ở Phổ Đà. Hôm nay không ngờ được các hạ, một bậc hiểu sâu tâm
tông Nho, Phật, từng tham vấn các phương tri thức, học hạnh siêu quần chẳng xem là quê mùa để lời hỏi đến, lại quá vì
khen ngợi, khiến cho người bối rối không an.
Thầm nghĩ các hạ học vấn rộng rãi, thấy hiểu cao xa, đâu có lẽ còn hoài nghi với mấy điều tầm thường như thế, chắc là không ngoài bản ý muốn làm gương mẫu để dẫn phát cho kẻ đồng tu đó thôi. Tuy nhiên các hạ đã lấy biết làm không biết, tôi cũng chẳng ngại gì lấy không biết làm biết, xin tùy lời giải đáp, đâu dám bắt chước ông quan già phê án, mà chính là học trò dâng nạp vở thi. Vậy những lời bày tỏ sau đây, nếu có sai lầm, xin nhờ phủ chính.
1. Niệm Phật tuy quí tâm niệm, nhưng cũng không nên bỏ sự đọc tụng ra tiếng, vì thân, miệng, ý giúp đỡ lẫn nhau. Dù rằng tâm có thể nhớ nghĩ, song nếu thân không
lễ kính, miệng chẳng trì tụng, thì cũng
khó được lợi ích. Như người đời khi khiêng
đồ vật nặng còn phải dùng tiếng giúp sức, huống là việc muốn nhiếp tâm để chứng Tam muội hay sao? Cho nên Kinh Đại Tập nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ.” Cổ đức cũng bảo: “Niệm lớn tiếng thì thấy thân Phật cao lớn, niệm nhỏ tiếng thì thấy thân Phật bé nhỏ.” Với hạng phàm phu,
tâm thường hôn trầm, tán loạn, nếu không nhờ sức thân lễ miệng tụng, tất khó được nhứt tâm.
2. Chỗ chân lý thực tế mới không còn
sanh diệt, ngoài ra,
trong Phật sự có pháp nào chẳng phải là sanh diệt? Bậc Đẳng giác Bồ tát phá bốn mươi mốt phẩm vô minh, chứng bốn mươi mốt phần bí tạng cũng
không ngoài sự lấy, bỏ, sanh, diệt, huống nữa là việc niệm Phật đối với phàm phu ư? Nhưng sanh diệt tuy là cội sanh tử, mà cũng là gốc Bồ đề, có sanh diệt hay không, chỉ do nơi người mà thôi.
Nhiếp cả sáu căn, nối liền tịnh niệm, chính là đem sự sanh diệt bỏ giác hiệp trần, đổi thành sự sanh diệt bỏ trần hiệp giác, để kỳ chứng được Phật tánh chơn như không sanh diệt vậy.
3. “Niệm niệm ở Tịnh độ mới được vãng sanh” là thuộc về thân phận của bậc vãng sanh
Thượng phẩm. Nếu chấp định nghĩa này tự cầu Thượng phẩm thì còn chi hay hơn, bằng chấp định để dạy hạng căn cơ trung, hạ, tất cả sẽ làm trở ngại sự thăng tấn của người chẳng ít. Tại sao thế? Vì lẽ họ cho pháp
này quá cao, rồi cam phận thấp kém, không chịu tu trì. Lại, phép niệm Phật tuy thuộc ý thức, nhưng cũng đủ cả các thức, trong kinh văn há chẳng nói: “Nhiếp cả sáu căn” đó ư? Sáu căn đã nhiếp thì sáu thức để làm gì? Tức như chuyển câu niệm Phật vào hàm tàng thức cũng không ngoài công dụng của sáu thức.
4. Đoạn luận vấn về mục “Niệm Phật tương tục, dao chém chẳng đứt” vẫn không còn ngờ; nhưng vì các hạ chưa phân biệt giới hạn của Thiền tông, Tịnh độ, và tự lực, tha lực, nên thành một khối hoài nghi. Pháp môn Niệm Phật là nương nhờ sức Phật ra ba cõi, sanh về Tịnh độ, nay đã chẳng phát nguyện tất cũng không có lòng tin. Nếu không tín nguyện, chỉ niệm danh hiệu Phật, vẫn thuộc về tự lực, và bởi thiếu tín nguyện nên không
thể thông cảm với sức hoằng thệ của đức A Di Đà. Thảng như trừ được phiền não kiến, tư, còn có thể vãng sanh, nếu chưa trừ, hoặc trừ chưa hết, thì gốc nghiệp vẫn còn và phải bị luân hồi. Về điều này ông Ngũ Tổ Giới, Thảo Đường Thanh là
những bằng chứng xác thật. Phải biết, nếu bỏ tín nguyện mà niệm Phật, thì có khác nào sự tham cứu của nhà tu thiền. Và nếu được vãng sanh, chẳng hóa ra
nhân quả không phù hợp hay sao? Ngài Ngẫu Ích bảo: “Được sanh cùng chăng, toàn do nơi lòng tín nguyện có, không; phẩm vị cao thấp, đều bởi công trì danh sâu, cạn” là một luận án chắc chắn không thay đổi. Trong
Kinh A Di Đà, câu: “Một lòng không loạn” là nương theo đoạn công đức y, chánh, ở văn trước khuyên sanh lòng tin, và nối theo đoạn: “Nếu có chúng sanh nào nghe kinh
này, phải nên phát
nguyện cầu sanh về nước kia” chính là bảo phải phát nguyện. Hơn nữa, về điểm tín nguyện, trong mấy đoạn văn sau cũng lập lại nhiều lần. Các hạ cắt đứt mấy đoạn văn ấy, chỉ nhìn vào câu “một lòng không loạn” xem sự nhất tâm có tín
nguyện cùng không
tín nguyện đồng như nhau, nên mới thắc mắc về chỗ:“Niệm Phật đến trình độ dao chém chẳng đứt tức là thuần nhứt rồi, tại sao lại không được vãng sanh?”
5. Ngoài câu
niệm Phật, nếu có niệm khác tức là xen tạp. Những niệm ấy rất nhiều khó kể hết được, chỉ nêu phần chánh như: niệm cầu đại triệt, đại ngộ, niệm mong được đại tổng trì, v.v... chớ không phải chỉ cho sự phát nguyện là xen tạp. Nên biết pháp môn Tịnh độ lấy Tín Nguyện, Hạnh làm tông chỉ. Hạnh như cỗ xe, Nguyện như người phu xe,
Tín như kẻ dẫn đường, đủ cả ba mới thành tựu sự tấn thú của xe. Vì thế người tu Tịnh độ hôm sớm phải phát nguyện. Lại chớ nên chấp nê rằng những lúc không
niệm Phật, hoặc khi phát nguyện là cắt đứt, xen tạp, tịnh niệm không thành. Thử hỏi: tâm niệm ấy có từng trải qua những cảnh thấy, nghe, mặc áo, ăn cơm, cùng các sự cử động khác hay
không? Nếu có, với mấy điều này đã
không thấy cắt đứt, xen tạp, sao lại cho những việc kia là tạp loạn? Cho nên, dù niệm Phật đến cảnh cảnh giới “một niệm muôn năm” cũng không ngại gì tới sự khởi cư hằng ngày. Bằng tuyệt nhiên không cả, hoặc ra chỉ có pháp thân Bồ tát mới đảm đương nổi. Nhưng các bậc Đại sĩ tuy ở yên một chỗ mà hiện vô số thân trong cõi vi trần, làm vô lượng Phật sự, nếu quả có xen hở tạp loạn, thì chắc không biết là bao nhiêu? chư Phật, Bồ tát có thể đồng thời khắp đến mười phương, song đây chỉ là một việc, thật ra tâm ta vẫn đủ các lý, ứng muôn sự, không phải như thế mà thôi
đâu!
6. Ước theo nghi thức xưa nay, sự phát nguyện thường ở vào khoảng sớm mai và tối. Nhưng cũng có người khi niệm Phật xong thời nào, liền hồi hướng phát nguyện ngay lúc ấy. Các hạ đã hiểu sâu tánh, tướng mà còn
cho rằng: “niệm Phật và niệm cầu sanh không thể đi đôi”, thì dường như đối với viên lý sự vô ngại, chưa được tin chắc. Lại bảo: “Nếu có thể đi đôi tất tâm niệm sẽ chia làm hai: một nửa về Phật, nửa về nguyện, thế thì một người ưng thành hai vị Phật.” Xin hỏi, cơn bình thường, có lúc nào các hạ đương lúc mắt thấy sắc mà tai vẫn nghe tiếng cho đến ý vẫn suy nghĩ hay không? Nếu quả có thế, tại sao riêng với việc này các hạ hãy còn ngờ? Vậy nên biết, tâm niệm công dụng không lường; tám thức há chẳng phải là thể dụng của một tâm ư? Kia đã không thành tám vị Phật, tại sao đây lại thành hai vị Phật?
7. Bình sanh
tuyệt không tín
nguyện, khi lâm
chung khó được nhờ sức Phật. Đã nói: “Lúc nghiệp lành dữ đồng thời đều hiện”, thì chẳng những câu niệm Phật không hiện không được vãng sanh, dù có hiện cũng không được vãng sanh. Tại sao thế? Vì không phát nguyện vãng sanh, vì không cầu Phật tiếp dẫn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử nghiệp ác có hình tướng, mười phương hư không chẳng thể dung chứa.” Cổ đức bảo: “Tâm
nghiệp rất nhiều, ngã về mối nặng như người mắc nợ, chủ mạnh kéo đi.” Nay nghiệp lành dữ đều hiện, bởi không tín
nguyện, tất phải bị nghiệp lực lôi cuốn mất sự chủ trương. Thế thì biết, nương cậy sức mình, dù
hoặc nghiệp còn một mảy tơ cũng không
thoát khỏi sanh tử, lựa là nhiều ư? Niệm Phật đến nhứt tâm mà không tín nguyện, trong vô số người, hoặc may có được một vài kẻ vãng sanh. Rất không nên đem điều ấy giáo hóa làm mất căn lành Tịnh độ của tất cả chúng sanh đời sau. Vì nếu chỉ nương tự lực niệm cho đến nghiệp dứt tình
không, chứng Vô sanh
nhẫn thì khắp thế gian khó được một đôi người. Thảng như ai nấy đều y theo thuyết này mà tu
trì, không chú trọng đến tín nguyện, tất vô lượng chúng
sanh sẽ nổi chìm trong biển khổ, bặt nẻo thoát ly, ấy cũng vì một lời nói gây nên tổn hại. Mà người chủ trương thuyết trên kia lại còn nghênh ngang tự đắc cho rằng lời mình rất cao; đâu biết đó là cuồng ngôn làm dứt mất huệ mạng Phật, khiến chúng sanh
lầm lạc nghi ngờ! Thương thay!
Pháp môn Tịnh độ phải xem là đặc biệt, không nên đem sánh với giáo nghĩa thông thường. Ví như đức Phật chẳng mở môn này, chắc trong đời Mạt pháp không có ai thoát khỏi đường sanh tử! Bộ Di Đà Yếu Giải của Ngài Ngẫu Ích, lý sự đều đến chỗ cực điểm, nếu các hạ y theo đó hành trì, thì ngày kia
trên phẩm vị vãng sanh không ai sánh kịp. Người xưa tu hành đều có thể chứng đạo, trái lại người đời nay ít kẻ minh tâm. Ấy bởi căn cơ có thấp kém ư? Hay là do lòng cung kính, khinh mạn khiến nên như thế? Tôi xem nhiều truyện ký, thấy những bậc cao nhân đều trọng kinh tượng như Phật sống, sự kính sợ của các Ngài dù cho tôi trung, con thảo, cũng không thể phưởng phất được một đôi phần. Vì lòng
thành kính cùng cực, nên các vị ấy có thể dứt hoặc chứng chơn, vượt thẳng lên cõi
Thánh. Thử xem một việc Nhị Tổ Thần Quang đứng hầu dưới tuyết, chặt cánh tay cầu pháp ở Thiếu Lâm, cũng đủ thấy lòng thành kính của Ngài dường nào! Người đời nay xem tượng Phật như gỗ đất, kinh Phật như giấy cũ, dù có
lòng tin thọ trì, chẳng qua là đọc tụng làu thông nơi đầu mồm mà thôi, có điều thật ích gì đáng bàn luận đâu! Tuy rằng như thế cũng gieo được viễn nhân, nhưng tội khinh lờn thật không thể tưởng nghĩ! Các hạ là bậc luận giỏi học nhiều, khi đề xướng Phật pháp, xin
nhắc nhở điều này, để mọi người cùng được lợi ích. Như thế, pháp môn và chúng sanh sẽ hân hạnh biết bao!
8/ Thơ
gởi Cư
Sĩ Vệ Cẩm
Châu
(Cư sĩ nhân gặp hỏa tai, nhà
cửa vật dụng bị cháy sạch, vợ kinh hãi
đau nặng, nên tâm thần mê muội như điên cuồng, Ấn Quang
Pháp sư gởi bức thơ này khuyên
dạy...)
Kinh Pháp
Hoa nói: “Ba cõi không an, dường như nhà lửa, sự khổ dẫy đầy, rất đáng sợ hãi.” Tuy nhiên,
nhiều khi cảnh ngộ cũng làm nên cho người bằng
những giai đoạn: họa, phước, nghịch, thuận, khổ, vui... không nhất định. Với bậc có trí, biết quyền biến, khéo an theo số phận,
thì cảnh họa, nghịch, khổ nào không hóa thành phước, thuận,
vui?
Cho nên người
quân tử thường vui theo phần, biết số mạng, không oán trời trách người, dù gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn an nhàn, bình thản! Người
xưa có câu: “Cảnh giàu sang an theo giàu sang, cảnh nghèo hèn an theo nghèo hèn, cảnh man rợ an theo man rợ, cảnh hoạn nạn an theo hoạn nạn...” Cư
sĩ tuy có lòng ưa thích điều lành, nhưng chưa rõ chỗ chí lý của đạo Nho và Phật, nên mới một phen gặp cảnh nghịch đã bối rối kinh cuồng. Tôi xin đưa những điều sau đây để cư sĩ nhận rõ:
Trong đời,
rất rộng dầy, cao sáng, không hơn chi trời
đất và hai vầng nhật, nguyệt. Nhưng mặt trời đứng bóng rồi thì xế, mặt trăng đầy rồi lại vơi, cho đến gò cao thành vực thẳm, biển cả hóa nương dâu, cuộc đời vẫn thế, thịnh suy thay đổi là lẽ thường. Xưa nay đạo đức ai hơn Khổng Tử, mà Ngài còn phải bị vây nơi đất Khuôn, tuyệt lương ở nước Trần, đi châu du liệt quốc kết cuộc không được gì, chỉ có một người con được năm mươi tuổi lại chết, may còn đứa cháu để nối tổ tông. Thấp hơn một bậc, như Thầy Nhan Uyên, Nhiễm Bá Ngưu thì mạng vắn; Thầy Tử Hạ, Tả Kỳ Minh lại mù lòa; ông Khuất Nguyên chết
chìm; Thầy Tử Lộ bị bầm mắm. Như các Ngài ấy là những bậc đại Thánh, đại hiền mà cũng không tránh được nghịch
cảnh, nhưng vì biết thuận theo số mạng, nên vẫn tùy phận an vui. Mấy điều này đối với thời ấy, tợ hồ như không phước, nhưng tấm gương đạo đức của các Ngài trăm năm về sau, từ
vua đến dân ai không kính ngưỡng? Thế
thì phước còn chi hơn? Trong đời sống, con người tính đủ điều, làm đủ việc, xét lại chẳng qua vì vấn đề ăn mặc và để sự nghiệp cho con cháu mà thôi. Nhưng ăn thì canh rau có thể
qua bữa, cần gì hải vị sơn hào; mặc thì bô vải cũng đủ che thân, lựa là nhiều hàng gấm vóc? Còn con cháu hoặc làm ruộng,
hoặc bán buôn, đều tự nuôi sống được, hà tất phải giàu có trăm vạn? Vả lại, xưa nay những kẻ vì con cháu mưu sinh cuộc vinh hiển muôn đời, có ai bằng Tần Thủy Hoàng? Vị bạo chúa này dẹp trừ sáu nước, đốt sách chôn học trò, thâu góp hết binh khí trong thiên
hạ để đúc chuông, bản ý muốn cho dân ngu yếu đặng không thể làm loạn. Đâu dè, khi Trần Thiệp
đứng lên, anh hùng đều nổi
dậy, cơ đồ nhất thống không đầy mười ba năm bỗng tiêu tan, cho đến con cháu cũng bị
diệt tuyệt. Ấy là muốn cho con cháu vinh hiển, trở
lại thành cảnh bại vong. Đời Hiến Đế nhà Hán, Tào Tháo mượn chức
Thừa Tướng chuyên oai quyền lấn
ép vua, muốn cho con cháu mình làm chúa trong nước,
không ngờ đến khi chết, thi hài chưa kịp liệm, Tào Phi đã soán nghịch, bắt
tần thiếp của cha làm cung phi của mình. Tháo chết rồi đọa vào ác đạo, trải hơn một ngàn bốn trăm năm, đến đời Càn Long nhà Thanh, ở Tô Châu có người
giết heo, khi mổ ra thấy trên lá phổi có chữ “Tào Tháo.” Một người
láng giềng mục kích cảnh tượng ấy, rất sợ hãi, liền xuất gia tu hành, pháp danh là Phật An, chuyên tâm niệm
Phật được sanh về Tây phương. Việc này có ghi trong Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục. Như Tào Tháo một đời phí hết tâm cơ lo cho con cháu, tuy được làm Hoàng Đế
nhưng chỉ trong vòng bốn mươi lăm năm thì mất nước. Vả lại khi còn ở
ngôi, mỗi năm thường cùng các nước Đông Ngô, Tây Thục đánh nhau, có mấy
lúc được an nhàn? Từ đó về sau trải qua các triều: Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, và Ngũ Đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu đều không lâu dài. Tựu trung duy có đời
Đông Tấn là bền
nhất, nhưng cũng chỉ được một trăm lẻ ba năm, ngoài ra thì hoặc hai ba năm, tám chín năm,
hoặc một đôi mươi năm, bốn năm mươi năm, liền tiêu diệt. Đây là chỉ kể mấy đời chánh thống, nếu nói đến những ngụy triều tiếm cướp, thời gian lại còn ngắn hơn nữa.
Bao nhiêu vua chúa của các triều ấy, buổi sơ tâm đều muốn để sự vinh hoa cho tông tộc, song tìm đến
sự thật, trái lại khiến cho con cháu mang họa cướp
giết, mất tuyệt giống dòng.
Cư
sĩ nên suy nghĩ: sang như thiên tử, giàu có bốn biển, còn không thể bảo
đảm cho tông tộc hưởng phước lâu dài, huống nữa là kẻ phàm thường, từ vô lượng kiếp đến nay tạo nghiệp ác dầy như đất liền, sâu như biển cả, mà muốn cho nhà cửa thường hưng thạnh, có phước không họa ư? Phải biết sự vật giữa đời đều giả dối như mộng, huyễn, bóng, bọt, sương, chớp, như trăng đáy nước, hoa trong gương, như ánh chập chờn lúc trời nắng và như thành của thần Càn Thát Bà (nhạc thần
của Thiên Đế, thành quách đều là huyễn hiện), không có chi là chân thật. Duy có một
niệm tâm tánh của ta vẫn hằng còn, trùm suốt xưa nay, không biến đổi, hư hoại. Tuy không biến hoại mà thường tùy duyên: theo duyên ngộ tịnh
thì làm Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật,
vì công đức sâu cạn, nên phẩm vị có cao, thấp; theo duyên mê nhiễm thì lạc
vào cõi Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ,
Địa ngục, do tội phước nặng nhẹ, nên sự khổ, vui, có ngắn, dài. Nếu người không biết Phật pháp thì đã đành, cư sĩ đã sùng tín đạo
Phật, sao chẳng nhân cảnh nghịch ấy mà nhìn rõ cuộc đời, bỏ mê theo ngộ, một lòng niệm Phật cầu sanh về Tây phương vượt nẻo luân hồi, lên ngôi tứ Thánh; đó có phải là nhân họa nhỏ mà hưởng phước to chăng? Đường lối thoát ra là thế, cư sĩ lại cứ bối rối mơ màng như ngây như dại; thảng hoặc lo buồn quá độ đến mất thân mạng, thì chẳng những chính mình nhiều kiếp
bị trầm luân, mà vợ yếu con côi cũng bơ vơ, làm sao tự lập? Như thế là cư sĩ muốn hại mình và làm liên lụy cho người.
Sao lại tối tăm đến thế?
Kinh nói: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.” Vì tránh quả
khổ nên Bồ tát dứt trước những nhân ác, do đó tội chướng tiêu trừ, công đức đầy đủ, cho đến khi thành Phật mới thôi. Chúng sanh thường gây nhân ác, lại
muốn khỏi quả khổ, có khác nào kẻ sợ bóng mình mà cứ chạy trốn dưới ánh mặt trời? Nhiều người mới làm lành chút ít đã mong được phước
lớn, khi gặp cảnh nghịch liền cho rằng: “làm lành mắc họa, không có nhân quả”, rồi
từ đó lui sụt sơ tâm, trở lại chê bai Phật pháp. Những kẻ ấy không hiểu “lý nhân quả thông cả ba đời” và “tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh”. Nhân quả
thông cả ba đời là thế nào? Như đời này làm lành hoặc dữ, đời này hưởng phước hay mang họa, đó là hiện báo. Đời này làm lành hoặc dữ,
đời sau được phước hay mang họa, là sanh báo. Đời này làm lành hoặc
dữ, đời thứ ba, thứ tư, hoặc mười, trăm, ngàn, muôn đời, cho đến
vô lượng vô biên kiếp về sau mới được phước hay mang họa, gọi là hậu báo. Hậu báo thì sớm chầy không định, đã gây nhân tất có quả,
đó là lẽ tự nhiên. Tâm mình có thể cải
tạo hoàn cảnh là thế nào? Ví như có người gây nghiệp ác sẽ phải vĩnh viễn bị đọa vào Địa ngục, nhiều kiếp chịu thống khổ; người ấy bỗng sanh tâm sợ hãi, hổ thẹn, phát lòng Bồ đề, đổi dữ làm lành, tụng kinh niệm Phật, tự tu và khuyên người, cầu sanh về Cực lạc. Do sự hối cải ấy, nghiệp Địa ngục trước kia liền tiêu diệt, đổi thành quả khổ nhẹ trong hiện đời như: hoặc bị người khinh chê, hoặc đau bệnh, nghèo nàn, cùng gặp những
việc không vừa ý. Chịu những khinh báo như thế xong, người ấy có thể thoát đường sanh tử, nhập Thánh siêu phàm. Như Kinh Kim Cang nói: “Nếu có người thọ trì kinh này mà bị kẻ khác khinh chê, người đó đời trước gây tội nghiệp đáng đọa vào ác đạo, do đời này bị sự khinh chê nên tội trước liền được tiêu diệt, sẽ chứng quả Vô thượng Bồ đề.”
Đây chính là
nghĩa: tâm mình có thể cải tạo hoàn cảnh vậy.
Người
đời
khi gặp tai nạn, nếu không oán trời, tất cũng trách người, ít ai nghĩ đến sự trả nghiệp mà sanh lòng ăn năn chừa cải.
Phải biết: “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” là lẽ
đương nhiên, đã gieo chông gai, đừng mong đến
mùa gặt được lúa nếp. Làm dữ mà vẫn hưởng phước, là đời trước vun bồi cội phước đã dầy, nếu không làm dữ thì phước còn lớn hơn. Ví như con nhà giàu, ăn chơi bài bạc,
xem tiền như rác, nhưng không liền bị đói lạnh, là do vì của cải quá nhiều. Nếu mỗi ngày cứ như thế, dù cho gia nghiệp trăm vạn,
tất có lúc cũng gặp cảnh người mất nhà tan. Làm lành mà hay bị tai nạn,
là đời trước trồng gốc tội đã sâu, nếu không làm lành thì họa càng lớn
hơn nữa. Ví như người phạm tội nặng chưa kịp hành hình, lại lập được công nhỏ; vì công nhỏ, chưa có thể hoàn toàn ân xá, nên cải án nặng
thành nhẹ. Nếu lập công mãi đến
khi công to, không những trừ hết tội trước lại được phong hầu bái tướng, tập ấm đời đời.
Bậc
trượng phu phải vượt hẳn thường tình, đừng để cho ngoại vật làm lụy đến thân. Giả sử có vàng ngọc đầy kho, khi giặc dữ đến cướp, phải bỏ nhà trốn chạy, đừng nên ôm của mà đợi chết. Bởi vì vàng ngọc tuy quí, nhưng sánh với mạng người, hãy còn kém hèn; đã không thể giữ
được cả hai, thôi thà bỏ của mà bảo toàn thân
mạng. Như hiện thời, tài sản của cư sĩ đã hóa ra đống tro tàn, lo buồn cho lắm
cũng vô ích, chỉ nên tùy duyên qua buổi, gắng
sức niệm Phật cầu sanh Tây phương, để cùng tận kiếp vị lai lìa hẳn sự khổ, chỉ hưởng điều vui. Thế là do họa tai mà thành đạo Vô thượng, sao vẫn còn mê muội đau buồn?
Mong cư
sĩ xét kỹ lại những lời tôi nói, tất sẽ cởi được mối u sầu, như vẹt mây mù lộ vẻ trời trong, nơi tai ương tìm thấy hạnh phúc, đổi cơn nóng bức thành mát mẻ, vui tươi. Bằng cứ chấp nê không tỉnh, chắc khó tránh khỏi chứng bệnh kinh cuồng. Nếu một khi bản tâm đã mất, tà ma sẽ dựa vào; chừng ấy dù có ngàn Phật ra đời,
cũng không biết làm sao cứu vãn được!
9/
Thơ đáp một
Cư
Sĩ ở Vĩnh Gia
I
Vân Thê Đại sư
lập pháp dạy người đều từ nơi chỗ bình thật đi vào. Nếu y theo đó tu trì, sẽ được
ngàn muôn yên ổn, quyết không đến nỗi được ít cho là đủ và bị ma dựa
phát cuồng. Vương Canh Tâm chưa hiểu rõ yếu chỉ nhập đạo, đã vội tự hào múa bút lớn lời mạt sát tất cả, tuy có tâm hoằng pháp, nhưng thật ra là gây tội phá hoại pháp môn. Ấy cũng bởi y không gần bậc tri thức và tự xét hai chứng bệnh: tim đập, ác mộng của
mình. Những bệnh ấy đều là triệu chứng của nghiệp ác đời trước. Nhưng, hiện cảnh tuy có tốt xấu, chuyển biến chỉ tại nơi ta. Cảnh xấu hiện mà chuyên tâm niệm Phật
thì nhân dữ sẽ hóa ra lành, nghiệp ác đời
trước trở thành vị đạo sư trong hiện tại. Tiếc vì người đời phần nhiều bị nghiệp ràng buộc, không thể cải tạo, nên thành ra cảnh té giếng
bị đá rơi theo, trên khổ lại càng thêm khổ!
Tha tâm
thông có nhiều thứ không đồng, nay xin nói ước về tâm thông của những bậc đắc đạo. Như Trù Am Đại sư, bất luận ai hỏi kinh sách gì, Ngài đều có thể
đọc thuộc rành rẽ, không sai một chữ. Tại sao thế? Vì Đại sư nghiệp hết tình không, lòng như gương
sáng; lúc có người hỏi đến những kinh sách họ đã từng xem, Ngài liền nhìn vào những câu chữ in trong thức thứ tám của người ấy, đọc lại rành mạch. Cho nên cổ đức nói: “Kinh pháp một phen nhiễm vào thức thần, hằng làm giống đạo.” Việc
trên đây có thể làm bằng cớ để cho ta tin. Vì khi người xem kinh sách, bóng dáng
của những thứ ấy in vào tâm thức không mất. Bởi vô minh che lấp, nên lâu ngày họ
quên, những bậc có tha tâm thông nhìn nơi tâm thức
của người ấy, tùy theo lời hỏi đọc lại rõ ràng. Đến như có người hỏi những kinh sách họ chưa được thấy, bậc tha tâm thông có thể nhìn vào tâm thức
của những người khác đã xem rồi, vì họ mà đọc lại.
Trên đây, là việc lấy tâm người khác làm tác dụng cho tâm mình, không phải nơi
lòng các vị ấy thường có bao nhiêu thứ kinh sách đã ghi nhớ
lâu ngày không quên. Bởi không hiểu lẽ này, nhiều người cho đó là phép chi kỳ lạ, thật
ra chỉ là cảnh trạng nghiệp tiêu trí sáng, cõi lòng không không mà thôi.
Trong sự
phò cơ có rất nhiều linh quỉ giả mạo tiên, Phật, Thánh, thần. Loài quỉ thấp kém hoặc khi không có tha tâm thông; hạng cao thì biết
được lòng người, nên có thể mượn sự thông minh trí thức của người
mà làm thi phú. Ông Kỹ Văn Đạt có thuật rằng: “Cơ bút phần nhiều là việc dối mượn của hạng ma quỉ linh thiêng. Một độ nọ, tôi cùng người anh là Đản Nhiên có thí nghiệm về việc này. Tôi vốn có thiên tư về thi văn mà chữ viết dở, anh tôi thì chữ tốt, song không có khiếu văn chương. Khi tôi phò bút thì thi từ thông suốt, nét chữ lếu láo. Trái lại, đến phiên anh tôi thì nét chữ cứng đẹp, thi từ tầm thường. Lại một việc, lúc hỏi đến chỗ bí yếu trong những bài giảng bút mạo lấy của người xưa, cơ lên nói: năm tháng lâu quá không còn ghi nhớ. Vì những lẽ ấy, tôi biết là giả dối.” Thế
là loài quỉ tuy linh, song chỉ có thể
mượn được sự hiểu biết hiện tại của người. Đến như các việc trong tâm thức có, nơi sự biết hiện tại
vì lâu nên quên, hoặc những chữ nghĩa chính mình không hiểu, thì quỉ
không thể chỉ dẫn ra được. Cho nên tha tâm thông của linh quỉ
sánh với bậc đắc đạo, thật kém xa như trời vực. Tuy nhiên, vì hai việc ấy
có chỗ giống nhau, e rằng cư sĩ bị cơ bút mê hoặc, tôi mới dẫn giải ra đây. Lại xin nói thêm một việc
trong Tống Cao Tăng Truyện: Ngài Tăng Giám qua nhà Vương Xử
Hậu thọ trai, thấy chủ nhân đang cao giọng ngâm nga xem ra dáng đắc
ý, nhân hỏi là đọc văn gì? Xử Hậu đáp: “Đây là quyển vở trúng Tiến Sĩ của tôi.” Giám mỉm
cười mà rằng: “Dưới thềm gió mát, lại có sự thung dung như thế ư?” Nói đoạn,
lấy trong túi ra một tập, bảo: “Quyển ông đang đọc ấy có phải là đây chăng?” Xử
Hậu xem ra thì chính là văn từ mình đã làm trong ngày
thi, liền nói: “Đây là bút
tích của tôi chép ra sau này.” Tăng Giám bảo: “Cố nhiên không phải là nguyên tác của ông, điều đó tôi vẫn biết.” Xử
Hậu nói tiếp: “Nhưng sao trong túi kia lại có bài văn ấy?”Sư đáp: “Không phải chỉ riêng bài này, từ khi ông đọc sách đến giờ, cho đến những lúc đùa cợt, một nét bút nét vẽ, nơi túi của tôi đều có đủ.” Xử
Hậu kinh sợ, không dám hỏi nữa. Ngài Trù Am chỉ có tha tâm thông, chưa
thấy có thần thông. Tăng Giám Đại sư
đã
có tha tâm thông lại kiêm cả thần thông, có thể đem bóng dáng kinh sách trong tàng thức,
hiện thành hình chất đưa cho người xem, kỳ thật trong túi của Ngài không chứa sẵn thứ ấy.
Gần
đây, ở Thượng Hải đàn cơ bút mở ra rất nhiều. Sự chỉ dạy bỏ dữ làm lành và những thuyết luân hồi nhân quả thiển cận của các đàn ấy, đều rất có ích cho thế đạo, lòng người. Nhưng mấy điểm nói về cơ trời, Phật
pháp, thì không khỏi mơ hồ, lầm lẫn. Chúng ta là đệ tử Phật, không nên bài bác việc đó, vì có trở
ngại cho sự làm lành của người, song cũng chẳng nên phụ họa khen ngợi, vì sẽ mang lỗi đem điều ức đoán viễn vông khiến cho Phật pháp hư loạn, chúng sanh nghi lầm. Ấn
Quang này tự xét mình nhiều nghiệp chướng nhưng quyết không dám theo tình bỏ lý, gây sự
lầm lỗi cho người. Những lời trên đây xin châm chước tình lý mà làm theo mới
khỏi điều tệ hại.
Mười
món lợi ích của sự niệm Phật, xin xem chương “Thập Chúng Thắng Lợi” ở
những trang sau cuối bộ Tịnh độ Chỉ Qui. “Hồi hướng” là tâm suy
nghĩ, miệng phát ra lời tín nguyện, đem công đức mình xoay về nơi nào.
Việc
ấy nên để vào khoảng sau lúc công khóa tối và buổi
trưa, khi tụng kinh niệm Phật xong. Niệm Phật phải từ mai đến chiều không nên hở dứt; nếu trong tâm hằng có niệm cầu sanh, cũng là thường thường
hồi hướng. Các Kinh Đại thừa đều khiến cho chúng sanh mau thành Phật, chỉ
tiếc phần đông khi đọc kinh thiếu lòng chí thành, nên không được hoàn toàn lợi
ích. Chương “Đại Thế Chí Bồ tát” ở
quyển năm Kinh Lăng Nghiêm, chính là lời chỉ
dạy tối thượng về tông Tịnh độ. Câu “Người quân tử học vì mình” là ý nói bậc
quân tử mỗi niệm đều tự xét mình, xem có trái đạo cùng chăng? Cảnh
giới “thức ngủ như một”, chỉ có dụng công phu đáo để mới được. Nhưng nếu khi thức hằng nhiếp tâm niệm Phật, lâu ngày tự nhiên dù trong mộng cũng ít khởi
vọng niệm.
II
Từ độ
cuối đông đến hạ tuần tháng ba năm nay, tôi có tiếp được
bốn phong thơ, thức ăn, vải, và bài vấn đáp của anh em cư sĩ cùng Từ Quân, do Sư Thần đem đến. Như thế, đủ thấy cư sĩ tha thiết vì đạo, mến trọng tôi đã quá nhiều! Trước
tiên, tôi có ý mong Từ Quân đến, kế lại vì kiểm duyệt bộ Văn Sao để cho người in ra, mắt hơi suy kém, nên mới chậm lời phúc đáp. Bức thơ kỳ tháng chạp rồi,
thật là đúng với nghĩa “bạn bè dùng nhân giúp nhau”, chỉ có điều
suy tặng Ấn Quang quá nhiều, khiến cho người càng thêm hổ thẹn!
Nhân đạo
có năm giềng lớn: vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ
và bạn bè. Nhưng tại sao trong năm luân ấy lại
không nói đến Thầy? Vì Thầy là bậc thành tựu phần đức dục cho ta, cũng như cha, dắt
dìu khuyên bảo để ta nên người, cũng như anh, nên Ngài Mạnh Tử nói: “Thầy là cha anh.” Lại
nữa, Thầy thường nhắc nhở giúp ích ta nhiều việc cũng như bạn, nên nhà Phật thường gọi: “Tìm Thầy hỏi bạn.” Ấn
Quang này tự xét mình kém phần thật đức, không có ý muốn làm Thầy người, chỉ mong ở địa vị bè bạn để giúp đỡ khuyên nhắc lẫn nhau mà thôi. Nhưng nhiều
vị chẳng suy lượng giùm, nên tôi đã thiếu sự
răn trách, lại còn không được nhắc bảo đến nữa!
Cư sĩ mong tôi thân chứng Tam muội,
lại e có trái với chỗ hy vọng, nên không nài khó nhọc, viết
thơ khuyên lơn. Từ khi tôi buộc tóc thọ học đến giờ, chưa gặp được người ích hữu như thế. Cử chỉ ấy làm cho Ấn Quang này vừa cảm động vừa tự thẹn! Mấy chữ tội chết là lời bầy tôi can vua, cư sĩ đem dùng với Thầy bạn rất không phải cách. Ấn Quang túc nghiệp sâu nặng, khi sanh ra vừa được
nửa năm, bị đau mắt luôn cả sáu tháng. Sự thống khổ trong lúc ấy thật vô cùng, trừ khi ăn và ngủ ra, không một khắc nào ngớt tiếng kêu gào khóc lóc. Nhưng may nhờ
căn lành đời trước, nên còn được thấy ánh sáng mặt trời. Đến tuổi thành đồng được học tập lại do nghiệp cũ dẫn
dắt, uống lầm thuốc độc bài báng Phật pháp của bọn Hàn Dũ, Âu Dương Tu. Kế đó định tâm xét nghĩ biết mình lỗi
lầm, liền sanh lòng hổ thẹn, quy y Tam bảo xuất gia làm tăng. Nếu lúc bấy
giờ không nhờ sức Tam bảo thầm gia bị, khiến cho sự biết tự tỉnh, thì tôi đã sa vào ngục A tỳ chịu
vô lượng sự khổ, đâu còn được cùng các vị chỉ đông nói Tây, luận về
tự lực, tha lực như ngày hôm nay ư?
Kỳ thất
hoàn mãn, Tam muội chưa thành, do tôi tinh thần suy kém mà cũng bởi
túc nghiệp sâu dầy. Nhưng Phật đã không bỏ người chướng nặng, xin cũng nhờ chút công hạnh ấy để được vãng sanh. Phép Thập Niệm
Ký Số không phải là Sổ Tức (đếm
hơi thở), chỉ có điểm ghi nhớ từ một đến mười có hơi giống với lối Sổ Tức mà thôi. Trong Liên Tông Bảo Giám, lại
lầm để là đếm đến trăm, ngàn, muôn. Vì e cư sĩ không biết
mà thọ hại, nên tôi mới dẫn ra để chứng rõ, vậy không nên gọi đó là phép Sổ Tức Trì Danh.
Muốn chứng Tam muội, đã có lời chỉ dạy xác đáng của Phật, Tổ, sao lại đòi hỏi đến chỗ chứng của tôi mới chịu làm theo? Kinh A Di Đà nói: “Giữ lấy danh hiệu, hoặc một ngày cho đến bảy ngày, một lòng không loạn.” (Đây là lời tỉ
lệ không nên chấp định. Nếu căn tánh Đẳng giác, một niệm liền được không loạn, đợi gì một ngày? Như căn tánh nghịch ác, dù trọn đời cũng khó được nhất tâm, huống chi bảy ngày?) Quán Kinh nói: “Pháp thân
chư Phật Như Lai vào tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho nên khi tâm các người tưởng Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình, tâm ấy tưởng Phật, tâm ấy là Phật.” Kinh Lăng
Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ tát nói: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhất.” Trong bài kệ
lựa căn Viên thông, Ngài Văn Thù bảo: “Nghe vào, nghe tánh mình. Tánh thành đạo Vô thượng.” Kinh Tứ
Thập Nhị Chương dạy: “Tu tâm là
thế nào? Giữ nó lại một chỗ, thì không việc gì chẳng xong.” Ngài Mộng
Đông bảo: “Thật vì sanh tử, phát lòng Bồ đề, lấy tín nguyện sâu, trì danh
hiệu Phật.” Mười
sáu chữ này là cương yếu của tông Tịnh độ. Muốn tu Tam muội sao không lấy Thánh ngôn làm lượng, triệt
để tuân theo những lời trên đây, lại dùng tôi là kẻ phàm phu nghiệp chướng mà làm mực thước, há chẳng trái ngược lắm ư?
Nhưng, lời
ấy phát ra chẳng phải không duyên cớ. Chắc có lẽ vì thấy trong quyển Di Đà Trung Luận thuật rõ cảnh giới của Tĩnh Nhất Đại sư, và Vương Canh Tâm tự bảo là đắc tâm truyền với Ngài, nên cư sĩ cho rằng tôi cũng có nhiều cảnh
lạ không thể nghĩ bàn, và bí quyết truyền thọ đó chăng? Cư sĩ nên xét: Tam muội dịch
là chánh định hay chánh thọ, ấy là thể vọng tan chơn hiện, lặng lẽ sáng suốt, trong ấy đâu có cảnh giới gì? Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tròn chứng quả Bồ đề là không chứng đắc chi cả.” Người
tu thiền vì chỉ cậy sức mình, không cần Phật gia bị, nên trong khi công phu đắc lực,
chân vọng công kích lẫn nhau, thường có nhiều cảnh giới thoạt ẩn thoạt hiện. Ví như lúc mưa to sắp tạnh, mây mù tản mát, trời đang u ám bỗng lộ ánh sáng, phút chốc lại
thay đổi không lường. Những cảnh giới ấy, nếu chẳng phải người có đủ đạo nhãn, tất khó nỗi phân biệt. Nếu lầm nhận cho là thật, sẽ bị ma dựa phát cuồng, không thể cứu chữa. Khác hơn thế, người niệm Phật dùng lòng tín nguyện, tha thiết
trì hồng danh muôn đức, thì như mặt trời chói sáng giữa hư không, như đi con đường thẳng rộng, không những quỉ mị tuyệt tích mà vọng niệm cũng lặng tiêu. Suy cho cùng, chẳng qua niệm
đến công lực tinh thuần, thì toàn tâm là Phật, toàn Phật
là tâm, tâm Phật như một mà thôi. Lý và hạnh này tôi còn e
mọi người không hiểu, vẫn muốn tuyên dương để nêu cao bản nguyện độ khắp chúng sanh của Phật, đâu dám giấu kín để truyền riêng cho cư sĩ hay sao? Nếu có bí quyết truyền thọ riêng nơi chỗ ẩn khuất
tức là tà ma ngoại đạo, không phải Phật pháp. Nhưng Ấn Quang thật cũng có chỗ diệu quyết chỉ riêng mình được, nay nhân cư sĩ thỉnh cầu, không ngại gì đem ra bày tỏ với
các hàng Phật tử trong thiên hạ. Diệu quyết ấy là gì? Là chí thành, là cung kính. Điều
này cả thế gian đều biết, đạo lý này cả thế gian đều muội! Ấn Quang do muốn tiêu trừ tội nghiệp sâu nặng và báo đáp ân Phật, hằng
để ý tìm cầu gương sáng tu trì của cổ đức, nên được biết rằng chí thành cung kính là bí quyết rất
mầu để vượt phàm lên Thánh, thoát nẻo luân hồi.
Mấy điểm này, đối với những người hữu duyên tôi đã thường thường
khuyên nhắc. Nên biết thành kính không phải chỉ
để riêng cho người học Phật, mà tất cả mọi việc nếu muốn được tinh nhất, phải lấy đây làm nền tảng.
Từ
Quân có trồng linh căn từ kiếp trước, thân quyến thờ Phật mấy đời, khi nhỏ đã được đầy đủ về gia huấn, lớn lên lại trải đôi ba mươi năm học hỏi lịch duyệt, vì sao lại bỏ nơi huyền diệu, dùng chỗ tầm thường, mến chuộng văn tôi mà cho in ra như thế?
Nên biết, sự hoằng pháp lợi sanh quí ở nơi biết thời cơ. Cách điều trị đáng dùng cho căn bệnh người đời nay, bậc thông hiểu Phật giáo không chịu chỉ rõ, duy nói những phương pháp cao huyền, phần nhiều là những thứ thuốc không hợp
với bệnh. Đôi khi do thứ thuốc
quí ấy, bệnh lại tăng thêm. Ấn Quang cũng như kẻ dung y, chẳng những không rõ gốc bệnh lại không hiểu tánh chất thuốc men, chỉ đem hoàn Vạn Ứng A Dà Đà (A Dà Đà dịch là Phổ
Trị, thuốc trị tất cả bệnh) của tiên tổ bí truyền, bao nhiêu chứng hư, thật, hàn, nhiệt, đều dùng hoàn này cho uống. Nếu
ai có lòng tin, dùng thử sẽ được an lành. Cho đến những chứng bệnh Tần Huởn, Biến Thước đều bó tay, khi uống thuốc này vào, liền thấy hồi sanh khỏi tử. Cho nên đối với những kẻ có tâm cứu người giúp đời, tôi không ngại gì đưa thiệp quảng cáo, để tất cả bệnh nhân đều được uống hoàn này. Tôi vẫn biết
các phương thuốc của Tần Huởn, Biến Thước là nhiệm mầu, song chẳng khuyên người dùng, vì bệnh thuộc về túc nghiệp không phải sức của thần y trị được...
Chứng
thật tướng ngay đời hiện tại, chẳng phải thế gian tuyệt không người, nhưng e cư sĩ chưa có căn lành ấy. Nếu tôi không nói rõ duyên cớ, hoặc
khi cư sĩ chí cao mà hạnh chưa kịp, vì quá vọng tưởng đến sự chứng quả, lâu ngày sanh ra bệnh cuồng
loạn tán tâm. Chừng ấy cầu siêu hóa ra đọa, muốn khéo trở thành vụng, kết quả cũng không thoát khỏi luân hồi.
Phải biết, ngộ được lý nhị không duy hạng phàm phu lợi căn mới có đủ khả năng. Như bậc người
Viên Giáo ở nơi vị danh tự tuy chưa phục đoạn phiền não, mà sự tỏ ngộ cùng chư Phật vẫn đồng. Nếu nói ước về Tông, cảnh giới ấy gọi là đại triệt đại ngộ; ước về
Giáo là đại khai viên giải. Nhưng đại ngộ cùng viên giải, không phải chỉ tỏ ngộ một cách mường tượng đâu! Như Bàng Cư Sĩ nghe Mã Tổ nói câu: “Đợi khi nào ngươi uống một hớp hết nước sông Tây, ta sẽ nói cho”, liền
quên ngay sự huyền giải. Ngài Đại Huệ Kiểu nghe Viên Ngộ Thiền sư ngâm câu: “Gió nồm vào điện các, hơi mát vẩn vơ sanh”, cũng thế. Trí Giả Đại sư tụng Kinh Pháp Hoa đến câu: “Đó là chơn tinh tấn, gọi là chơn pháp cúng dường Như Lai...” trong phẩm
Dược Vương Bản Sự, thoạt rỗng suốt đại ngộ, lặng lẽ nhập định, thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Ngộ được như thế mới gọi là đại triệt, đại ngộ, đại khai viên giải. Đó là ngộ đạo, nếu nói đến chứng đạo vào thể thật tướng, thì lại không phải là việc làm của hạng cụ phược phàm phu. Ngài Nam Nhạc Huệ
Tư, Thầy đắc pháp của Trí Giả Đại sư, là bậc có thần thông trí huệ lớn. Khi sắp tịch, có người hỏi đến chỗ chứng Ngài đáp: “Ta ban sơ chỉ cầu Đồng Luân, nhưng vì lãnh chúng quá sớm, chỉ chứng được Thiết Luân mà thôi.” (Đồng
Luân tức là vị Thập trụ, phá vô minh, chứng thật tướng, vào cõi thực báo, phần chứng Tịch Quang. Bậc sơ trụ có thể hiện làm thân Phật trong một trăm cõi Đại Thiên để giáo hóa chúng sanh. Nhị trụ
thì một ngàn cõi, tam trụ một
muôn, mỗi trụ số tăng lên gấp mười. Thiết Luân tức là vị Thập tín. Sơ
tín dứt kiến hoặc, thất tín dứt tư hoặc, bát, cửu, thập, tín phá trần sa, phục vô minh. Ngài Nam Nhạc thị
hiện ở ngôi Thập tín, thì còn chưa chứng
được thật tướng). Trí Giả Đại sư là đức Thích Ca hóa thân, lúc sắp tịch,
có kẻ hỏi: “Đại sư chứng đến vị nào?” Đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, tất thanh tịnh sáu căn, vì tổn mình lợi người nên chỉ được ngũ phẩm.” (Sáu căn
thanh tịnh tức là vị Thập tín, như phẩm Pháp sư Công Đức trong Kinh Pháp Hoa đã nói. Ngũ phẩm
là vị quán hạnh, phục hết ngũ trụ phiền não mà chưa dứt được kiến hoặc). Ngẫu Ích Đại sư lúc lâm chung có bài kệ rằng: “Danh tự vị đây là Phật nhãn. Rồi ra biết sẽ phó ai?” (Địa
vị danh tự viên ngộ tạng tánh, chỗ tỏ ngộ đồng với Phật, song còn chưa phục được kiến, tư hoặc, huống chi dứt trừ? Người đại ngộ ở đời Mạt pháp, phần nhiều thuộc về hạng này. Xem như Ngài Ngũ Tổ Giới thân sau làm Tô Đông Pha, Ngài Thảo
Đường Thanh làm Tăng Lỗ Công, ấy
cũng còn khá. Kế đó, Ngài Hải Ấn đầu thai làm con gái ông Châu Phòng Ngự,
và tệ hơn hết là cao Tăng ở non Nhạn Đảng kiếp sau làm Tần Cối. Bởi các vị ấy tuy ngộ suốt lý tánh mà chưa dứt được phiền hoặc, nên một phen thọ sanh, phần nhiều quên mất túc căn). Như Ngẫu Ích Đại sư thị hiện ở vị danh tự. Thiên Thai Trí Giả ở
vị quán hạnh, Nam Nhạc Huệ Tư ở vị tương tợ, thì thấy thật tướng pháp không dễ gì chứng. Thật ra bản địa của ba Đại sư đều không thể suy lường, nhưng vì sợ người đời sau chưa chứng xưng rằng chứng, nên các Ngài dùng thân thuyết pháp khiến
cho hàng hậu tấn xét mình hổ thẹn, dứt bỏ tánh tự thị, ngông cuồng. Ân đức thị hiện răn dạy ấy, dù nát thân cũng khó đền đáp. Vậy
cư sĩ nên tự lượng xem mình có thể siêu việt
ba Đại sư ấy chăng? Tốt hơn là nên niệm Phật tụng kinh, bồi đắp căn lành, ngày kia sanh về Tây phương
tùy nơi công hạnh cạn sâu lần lần tu tập, thì sớm muộn gì cũng sẽ được đạo quả. Ấy là con đường duy nhất để chứng thật tướng của người đời nay đó!
Kim Luân Chú
Pháp không cho hỏi việc, chỉ được hỏi căn lành hoặc pháp môn mà thôi. Nhưng chúng sanh đời
Mạt pháp chẳng luận căn lành có hay không, đều quyết
định phải chuyên tu Tịnh độ, vậy chớ nên hỏi pháp môn làm chi. Đến như
căn lành nếu có, nên gắng sức tu thêm, không lại càng phải
cố công vun bồi, cũng không cần hỏi. Chỉ nên trì chú giúp tu Tịnh nghiệp,
chớ vội tác pháp làm nhọc lờn
Phật Thánh. Nếu thường tác pháp mà tâm không cung kính, chí thành, sẽ
khởi các việc ma. Duy có một điều nên tác pháp, nhưng không phải
là phần việc của cư sĩ. Ví như có người phát tâm xuất gia, mình chưa chứng đạo, không thể quán căn cơ người ấy, mới cầu Phật từ bi thầm chỉ thị xem có nên thâu nhận chăng? Làm như
thế để tránh mối tệ: hạng vô lại lẫn vào phá rối Phật pháp. Người đời nay trong sự thâu đệ tử, chỉ muốn cho được nhiều. Đôi khi biết rõ đó là kẻ hạ lưu, cũng gấp gấp dung nạp sợ có mất đi, không nghĩ gì đến sự lựa chọn.
Tâm tham danh lợi, ưa quyến thuộc ấy, khiến cho Phật pháp suy tàn đến mức khó nỗi chấn hưng!
Nghiệp
chướng nặng, tham giận nhiều, thân suy yếu, tâm kinh sợ, phải một lòng niệm Phật, lâu ngày các chứng ấy
tự tiêu trừ. Trong phẩm Phổ Môn nói: “Chúng sanh
nào nhiều dâm dục, giận hờn, ngu si, nếu thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ tát, sẽ được xa lìa các nghiệp ấy.” Niệm
Phật cũng như thế, song phải dùng hết tâm lực, đừng tạp tưởng, nghi ngờ, thì cầu việc gì cũng được. Đức Quán Thế Âm Bồ tát có nhân duyên rất lớn
với chúng sanh cõi Ta bà, ngoài thời niệm
Phật, nên kiêm trì danh hiệu Ngài. Hoặc
giả, kiêm trì chú Lăng Nghiêm hay Đại Bi cũng được.
Đến
như việc xem kinh, nếu muốn làm Pháp sư vì chúng tuyên dương, nên trước
xem chánh văn, sau sẽ xem lời chú sớ. Nếu xét thấy mình tinh thần không đầy đủ, kiến giải chẳng hơn người, thì hãy chuyên niệm Phật,
chớ nên phí tâm lực, hao tháng ngày đi theo việc không cần
kíp ấy. Như muốn tùy phận duyệt kinh để được thêm phần lợi ích, phải giữ ba nghiệp trong sạch, khẩn thiết chí thành, lạy Phật rồi ngồi định tâm giây phút, sau sẽ giở
kinh tụng ra tiếng hay lặng lẽ xem. Khi ấy phải ngồi ngay ngắn như đối trước Phật nghe lời viên âm, không dám móng khởi một
niệm biếng trễ, phân biệt, chẳng nên tìm hiểu văn nghĩa, chỉ một
mạch xem thẳng từ đầu đến cuối. Duyệt kinh như thế, nếu là bậc lợi căn, có thể ngộ lý nhị không, chứng pháp thật tướng, dù người căn tánh tối chậm, cũng được tăng thêm phước huệ, nghiệp chướng tiêu trừ. Đức Lục Tổ bảo: “Chỉ xem Kinh Kim Cang cũng có thể minh tâm kiến tánh", tức
là nói lối xem trên đây, vì thế mới
gọi là chỉ. Y như thế mà duyệt kinh, thì xem các Kinh Đại thừa
đều có thể minh tâm kiến tánh, đâu riêng gì Kinh Kim Cang? Chớ
nên một mặt theo sự phân biệt, tìm hiểu: câu này nghĩa ra sao, đoạn này ý thế nào? Bởi vì đó thuộc về vọng tuởng suy lường, không thể thầm hiệp với tâm Phật, ngộ suốt lý kinh, và làm nhân duyên cho sự diệt
tội sanh phước. Xem kinh với tâm phân biệt, nếu biết cung kính thì còn có thể gieo chút căn lành, bằng
biếng trễ khinh thường chắc không khỏi đem nhân lành mà gây quả ác, sự
khổ sẽ vô cùng! Người xưa rất chuyên trọng nghe kinh vì tâm khó sanh phân biệt.
Như có người tụng kinh ra tiếng, một người ở gần bên nhiếp tâm lóng nghe mỗi câu chữ
rõ ràng, chẳng dám duyên theo cảnh bên ngoài,
vì nếu xao lãng một chút thì bị gián đoạn, văn nghĩa không được suốt
thông. Khác hơn thế, người tụng bởi có văn kinh để y cứ, dù không chuyên chú cũng đọc được
rành rẽ. Người nghe chỉ nương theo tiếng, nếu phóng tâm liền đứt mất sự liên lạc. Nghe kinh được như thế, công đức đồng với người tụng cung kính chí thành. Nếu người
tụng kinh kém lòng thành kính, công đức
lại không thể sánh kịp người nghe.
Đời
nay, nhiều kẻ xem Kinh Phật như giấy cũ, trên bàn kinh để những
tạp vật lẫn lộn, bừa bãi. Khi duyệt kinh, không rửa
tay, súc miệng, có khi rung lắc thân mình, vắt
tréo chân lên, thậm chí buông ra hơi dưới, chẳng kiêng sợ chi cả. Như thế đâu phải muốn diệt tội sanh phước, mà muốn cho loài ma vương phá hoại Phật pháp, chứng minh khen ngợi mình là “người bao quát dung thông, rất hợp với đạo mầu Đại thừa không còn chấp trước.” Hàng Phật
tử chơn tu trông thấy chỉ còn lặng lẽ, thương buồn, thầm rơi lệ than thở cho cảnh ma quyến thịnh hành, không biết làm sao cứu
vãn được! Thuở xưa, Ngài Trí Giả tụng kinh bỗng rỗng suốt tỏ ngộ lặng lẽ nhập định, nếu có tâm phân biệt thì đâu được như thế ư? Một vị cổ đức tả Kinh Pháp Hoa, chăm chú quên cả muôn duyên, đến
trời tối vẫn còn ngồi viết. Kẻ thị giả đi vào thưa “Trời tối lắm rồi, sao Thầy còn tả kinh được?” Vị
ấy liền giật mình xem lại thì đã tối sẩm không thấy bàn tay. Khi duyệt kinh, tham thiền,
trì chú, niệm Phật, nếu đồng một sự chuyên tâm như thế, dụng công lâu, sẽ có ngày được suốt thông, tỏ ngộ. Đời Minh, Ngài Tuyết Kiều Tín Thiền sư, người ở thành phủ Ninh Ba, trung niên xuất gia, dốt không biết một chữ. Nhưng nhờ công khổ hạnh, siêng năng tham cứu, nhịn
việc khó nhịn, làm việc khó làm, không bao lâu Ngài bỗng đại
triệt đại ngộ, những lời nói ra đều hiệp với thiền cơ. Rồi từ đó lần lần Ngài tự biết đọc, viết, không mấy lúc đã nghiễm nhiên là một nhà thông thái bút pháp tung hoành. Những
sự lợi ích như thế đều là nơi tâm chuyên tinh tham cứu, không phân biệt
mà có. Người duyệt kinh nên lấy đây làm gương mẫu. Tập Ngữ Lục của Tuyết Kiều Tín Thiền sư đã được bổ vào Đại Tạng Kinh nhà Thanh. Tấn sĩ Đàm Tảo
Am, một bậc thạc học quy y với Thiền sư, có khắc bia hơn muôn lời để ca tụng đạo hạnh của Ngài. Vậy khi duyệt kinh quyết không nên khởi lòng phân biệt; được như thế, vọng tưởng sẽ tự lặng chìm, tánh thiên chơn lần
lần
hiện rõ.
Nếu
muốn nghiên cứu kinh để hiểu nghĩa lý, hoặc chú sớ ra, nên dành một thời riêng chỉ chuyên về việc ấy. Lúc nghiên cứu tuy không nghiêm cẩn bằng
khi xem, nhưng cũng chẳng nên toàn không cung kính, bất quá có đôi chút thơ
thái hơn mà thôi. Như chưa được nghiệp tiêu trí sáng, phải lấy
sự duyệt kinh làm chủ, phần nghiên cứu chỉ nên phụ lược. Chẳng thế thì cùng năm mãn tháng cứ mãi theo việc
nghiên cứu, dù cho tìm hiểu được như vẹt mây bày trăng sáng, mở cửa
thấy non xanh, cũng chỉ thêm nguồn
biện bác trên đầu
môi chót lưỡi, có can thiệp gì đến sự sanh tử đâu? Rồi ngày ba mươi tháng chạp đến nơi, quyết định không dùng một mảy may nào được! Nếu có thể y như cách trên mà duyệt kinh, thì những
nghiệp tham giận tình chấp lần lần tiêu tan, trí huệ trở
nên
sáng suốt. Bằng chẳng thế, đã không được
sự thật ích, lại còn e do nghiệp lực đời trước, dẫn sanh tà kiến, bác không nhân quả, những
phiền não dâm, giết, trộm, dối, sẽ kế tiếp nhau nổi lên như lửa cháy bừng. Lúc ấy đôi khi lại còn cho mình là người tu Đại
thừa, tất cả đều không ngại, đem câu “Tâm bình cần gì giữ giới" của
Lục Tổ, tự bào chữa:“phá giới mà không phá mới thật là giữ giới.” Trên đường
tu hành có nhiều nỗi hiểm nguy, chơn pháp rất khó được là như thế! Vì lẽ ấy, chư Tổ phần nhiều đều chủ trương tu Tịnh
độ, để nhờ sức từ của Phật dẹp trừ nghiệp lực khiến cho không phát hiện. Vậy
cư sĩ nên lấy sự niệm Phật làm chánh, duyệt kinh làm trợ. Trong các kinh như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa,
Lăng Nghiêm, Kim Cang, Niết bàn, Viên Giác, hoặc chuyên chú một
bộ hay luân phiên mà xem. Phép duyệt kinh quyết
không nên khác với lời tôi nói. Nếu thờ ơ không kiêng sợ, tất bị những tình kiến phân biệt làm mất sự lợi ích lớn, tội nghiệp sẽ vô cùng!
Lúc trước
tôi cho rằng cư sĩ cùng Sư Thần đều đã tin triệt để pháp môn Tịnh độ. Đến khi xem bài văn cảo của
cư sĩ hỏi Từ Quân, thì thấy nói muốn trì chú và nghiên cứu giới
học. Lại bảo: “Về công đức của mật chú, trong tông Tịnh độ không thấy có sự cao siêu như thế, nên lòng nao nức chưa biết có nên theo cùng chăng?” Cư sĩ thử
xét
mình là căn cơ bậc nào, mà lại muốn thông đạt tất cả pháp môn như thế? Tôi chỉ e sự tán loạn bất định ấy lâu ngày có thể làm cho cư sĩ rối tâm mê muội đó thôi. Còn Sư Thần thì cho rằng: “Theo Mật Tông chú lực đi đến đâu, dù là một chút hơi bay bụi dính, chúng sanh nơi đó đều được giải thoát. Tịnh Tông không có sự lợi ích như thế!” Phải
biết, trì chú tuy công đức vô lượng,
niệm Phật há không năng lực chẳng
nghĩ bàn? Sao chẳng xem đoạn: Chúng sanh phạm tội Ngũ nghịch Thập ác, khi sắp chết tướng Địa ngục hiện, niệm
Phật vài tiếng liền được vãng sanh? Lại há không thấy trên hội Hoa Nghiêm, các Đẳng giác Bồ
tát chứng đồng với Phật, còn phát mười đại nguyện vương hồi hướng Tây phương để cầu viên thành quả giác đó ư? Và, nếu môn Tịnh độ không thù thắng, tại sao chư Phật, Tổ, cho đến ngàn kinh muôn luận đều
ân cần cặn kẽ khuyên bảo tu trì? Thật ra, các pháp môn Đại thừa
đều viên diệu, chỉ vì chúng sanh duyên có cạn sâu, căn cơ
có sanh, thục, thành thử sự lợi ích có khó cùng dễ đó thôi! Ngài Thiện
Đạo là đức A Di Đà hóa thân, trong khi khai thị về
chuyên tu, e rằng hành nhơn tâm trí không định, nên đã khuyên dạy: “Dù cho bậc Thánh
trong bốn quả, hoặc hàng Bồ tát ở những vị trụ, hạnh, hướng, địa, nhẫn đến mười phương chư Phật đầy cả hư không pháp giới đều hiện thân phóng quang, bảo hãy bỏ môn Tịnh độ, các Ngài sẽ truyền dạy pháp môn thù thắng, cũng chẳng dám vâng theo, vì trước đã quyết chí chuyên tu Tịnh độ nên không thể rút lời nguyện.” Thiện
Đạo Hòa thượng biết trước người đời sau hay “đứng núi này trông núi nọ" rồi không có định
kiến, nên mới nói lời ấy. Lời vàng ngọc trên đây, chính những kẻ
đã tôn Ngài làm Thầy còn ít biết vâng theo, huống chi người chưa nghe hiểu? Một pháp môn rất hợp lý hợp cơ như thế ở trước mặt mà đành bỏ qua, lại đi theo con đường nghiệp thức mơ màng, không thiền, không tịnh, há chẳng phải là nghiệp ác đời trước xui khiến hay sao? Thương thay!
Lý nhị
không, tức là ngã không và pháp không. Ngã không là biết
rõ trong năm ấm hoặc sắc hoặc tâm (sắc là sắc thân, sắc ấm, tâm là thọ, tưởng, hành, thức) đều
do nhân duyên hòa hợp sanh ra, khi nhân duyên chia lìa, liền
mất, không thật có cái ta làm chủ tể.
Pháp không là thấu suốt năm ấm đương thể vốn không. Tâm Kinh nói: “Soi thấy năm uẩn đều không" chính là nghĩa
này. Lý pháp không đây tức là thật tướng, do phá vô minh chứng được,
nên nói: “Vượt qua tất cả khổ ách.” Lại
lý thể pháp thân lìa hẳn những tướng: sanh, diệt, đoạn, thường, có, không, mà làm căn bản của
các tướng, rất là chân thật, nên gọi thật tướng. Thật tướng này chúng sanh cùng Phật vẫn
đồng, mà hàng phàm phu, Nhị thừa
do vì mê bỏ nên không được thọ dụng. Ví như tự mình có hạt bảo châu trong vạt áo, vì không hay biết nên phải
chịu nghèo hèn. Ngộ đạo là trạng thái thông suốt rõ ràng, như mây tan trăng hiện, cửa
mở núi bày, lại như người mắt sáng trông thấy đường về, và cũng như người từ lâu nghèo khổ bỗng gặp kho báu. Chứng đạo là như theo đường cũ về đến nhà phủi chân ngồi nghỉ, lại như đem kho báu ấy tùy ý tiêu dùng. Ngộ thì kẻ
đại tâm phàm phu, kiến giải
đồng với Phật, chứng thì bậc sơ địa không biết chỗ cất bước tới lui của nhị địa. Hiểu được nghĩa ngộ và chứng này, tự nhiên chẳng khởi lòng khinh mạn bậc trên, cũng không sanh tâm lui sụt, mà ý chí cầu
sanh Tịnh độ dù muôn trâu vẫn không thể kéo lôi.
Thời
này là thời buổi nào? Nạn binh lửa đang lúc lẫy lừng, nam Bắc đánh nhau, trong ngoài chiến loạn,
ba bốn năm gần đây, số người chết đến hằng triệu. Từ xưa đến nay chưa nghe có sự thảm thiết như thế! Lại thêm các tai biến: bão lụt,
động đất, ôn dịch, tiếp diễn thường thường. Riêng về nạn nắng lụt, không đầy một năm có khi
đến đôi ba lần. Vật giá vì thế mắc gấp bội hơn trước. Lúc này, may mà được sống,
dám không gắng sức chuyên tu Tịnh nghiệp để cầu vãng sanh ư? Nỡ đem thân người khó được, mơ màng theo những pháp tu không hợp thời
cơ ư? Hiện giờ nếu không gắng sức chú định một môn, ngày kia muốn được
nghe pháp huyền diệu thẳng tắt này, sợ e không còn dịp may ít có như hôm nay nữa!
10/
Thơ
gởi
Nữ
sĩ Từ Phước
Hiền
Tôi dừng
gót ở Phổ Đà đã hơn hai mươi năm, đối với hàng Phật tử tại gia, chưa từng
tới lui giao thiệp. Gần đây, nhân có Thầy Phước
Nghiêm lên núi thăm, trong vòng không đầy tuần
nhật, Thầy nhiều phen qua chỗ thất tôi ở nói về sự trinh tháo của Nữ sĩ. Mỗi khi gợi đến việc ấy, Thầy lại tỏ vẻ bùi ngùi cảm động. Lúc đó tôi có tỏ bày ý kiến:
Nữ sĩ tuy trinh liệt đáng khen, nhưng tiếc vì không biết đường lối tu hành. Nếu cơn nào rảnh tôi sẽ gửi lời khuyên nhắc, lược giải về cương yếu của môn niệm Phật, để cho người tùy sức phần bước vào con đường Tịnh độ. Nghiêm Sư nghe nói liền tán thành và hết lời yêu cầu. Vì thế nên mới có bức thơ gửi cho Nữ sĩ hôm nay.
Phật
pháp là pháp sẵn đủ nơi tâm của tất cả chúng sanh, người xuất gia tại gia đều có thể thọ trì. Nhưng thân nữ có nhiều chướng duyên nếu lìa quê đi xa, rất dễ
bị người lấn hiếp. Vậy Nữ sĩ chỉ nên ở tại nhà giữ giới niệm Phật, quyết chí cầu sanh Cực lạc, không cần phải lìa quê hương xuất gia làm Ni. Việc nghiên cứu khắp kinh giáo, đi các nơi tham hỏi
bậc minh sư là phần của người nam, nữ giới bắt chước theo không tiện. Người nữ chỉ nên gắng tu Tịnh nghiệp, chuyên trì hiệu Phật, nếu có thể nhiếp cả sáu căn, nối luôn tịnh niệm, tự nhiên hiện đời thân chứng Tam muội, khi lâm chung lo gì không chiếm phẩm
cao? Dù chưa chứng Tam muội, cũng được dự vào hải hội, gần gũi đức A Di Đà, rồi lần lần trở về tánh bản chân, tự nhiên thông suốt vô biên giáo hải, như tấm gương lớn soi rõ muôn hình. Chừng ấy
mặc ý cỡi thuyền đại nguyện, không rời An dưỡng, hiện thân ở cõi Ta bà, cùng vô số phương
tiện độ thoát loài hữu tình, khiến cho đều đến Liên bang chứng Vô sanh nhẫn. Ấy mới khỏi phụ với chí quyết liệt tu trì ngày hôm nay, mới đáng gọi
là hoa sen sanh trong lửa, người nữ mà trượng phu đó!
Tu Tịnh
nghiệp, điều căn bản là phải quyết lòng cầu sanh Tây phương. Cho nên pháp môn Tịnh độ
lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông chỉ. Tín là phải tin cõi Ta bà có vô lượng nỗi
khổ, cõi Cực lạc sự an vui không cùng! Nỗi khổ
ở Ta bà đại ước có tám thứ: sanh, già, bệnh, chết, thương xa lìa, oán gặp gỡ, cầu không toại ý, và năm ấm lẫy lừng. (Năm ấm lẫy lừng là chúng sanh đối với sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, khởi hoặc gây nghiệp như lửa cháy hừng). Sự vui ở Cực lạc, nói về thân thì hóa sanh trong hoa sen, tuyệt
không già, bệnh, chết, thuần là người nam; cho đến danh từ ác đạo hãy còn chẳng nghe, huống chi có thật? Nếu về cảnh thì vàng ròng làm đất, bảy báu làm ao, hàng cây cao ngất trời,
lầu các giữa chừng không, và sự ăn mặc thọ dụng, khi tưởng đến đều được hóa hiện vừa ý, không phải như ở cõi này do sức người tạo tác mà thành. Ở Cực lạc, Phật A Di Đà tướng đẹp vô biên, một khi trông thấy từ dung, liền chứng Pháp Nhẫn, đức Quán Âm Thế Chí cùng Thanh Tịnh Hải
Hội phóng ánh sáng trong sạch, đồng
nói pháp mầu. Thế nên, tuy là hàng phàm phu dẫy đầy
nghiệp lực, nếu phát lòng tín nguyện tha thiết,
sẽ được nhờ Phật nhiếp thọ. Khi đã vãng sanh về cõi kia, thì nghiệp
ác phiền não đều tiêu tan, trí huệ công đức
đều tròn đủ. Tin được như thế mới gọi là lòng tin chân thật. Như
muốn được biết rõ hơn, nên xem kỹ kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ
và Quán Vô Lượng Thọ. Những kinh này chuyên nói về duyên khởi
sự lý của Tông Tịnh độ, cũng gọi là Tịnh độ Tam Kinh. Ngoài ra các Kinh Đại thừa
phần nhiều đều có nói về Tịnh độ. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đức Như
Lai mới thành Chánh giác, vì các bậc Pháp Thân Đại
sĩ ở bốn mươi mốt vị, xứng tánh nói ngay pháp Nhất thừa
mầu nhiệm. Sau rốt, lúc Ngài Thiện Tài đi tham hỏi khắp các phương tri thức, chỗ chứng bằng chư Phật, Phổ Hiền Bồ tát lại vì nói mười đại nguyện vương, khuyên Ngài Thiện Tài và hải
chúng trong cõi Hoa Tạng hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực lạc, để mau tròn đầy quả Phật. Trong Quán Kinh, chương Hạ
Phẩm Hạ Sanh có nói: “Hạng người phạm tội Ngũ nghịch, Thập ác, làm đủ các việc không lành, khi sắp chết tướng Địa ngục hiện, được bậc Thiện tri thức khuyên bảo niệm Phật, kẻ ấy vâng lời niệm chưa đầy mười câu, liền thấy Hóa Phật đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.” Kinh Đại
Tập dạy: “Đời Mạt pháp ức ức người tu hành nhưng ít có kẻ ngộ đạo, chỉ nương theo môn Niệm Phật mới được thoát luân hồi.” Thế thì biết
pháp niệm Phật là con đường đồng tu của thượng Thánh hạ phàm. Với pháp này, kẻ ngu người trí đều có thể làm theo, cách hành trì dễ mà thành công cao, dùng sức
ít song hiệu quả mau lẹ. Bởi môn Tịnh độ chuyên nhờ Phật lực nên sự lợi ích rất lớn, vượt hơn tất cả giáo pháp thông thường. Người
xưa nói: “Tu các môn
khác như con kiến bò lên núi cao, niệm Phật vãng sanh như thuyền buồm xuôi theo gió nước.” Lời này có thể
gọi là sự so sánh rất xác đáng, rõ ràng.
Nếu
muốn nghiên cứu nên xem bộ Yếu Giải Kinh A Di Đà của Ngẫu Ích Đại sư trứ thuật. Bộ này diễn tả sự lý đến chỗ cực điểm,
là lời chú giải rất hay rất xác, đứng vào bậc nhất từ khi Phật nói kinh ấy đến giờ, dù cho Cổ Phật tái hiện ra đời chú giải lại cũng không hơn được. Vậy Nữ sĩ chớ nên khinh thường, phải triệt để tin theo. Về Kinh Vô Lượng Thọ, có lời chú sớ của Huệ Viễn
Pháp sư đời Tùy, văn nghĩa rất rõ ràng. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ thì có bộ Tứ Thiệp Sớ của Thiện Đạo Hòa thượng. Ngài Thiện Đạo muốn lợi khắp ba căn nên phần nhiều phát huy về sự tướng. Sau chương Thượng phẩm Thượng Sanh, Ngài chỉ rõ sự hơn kém của hai lối tu chuyên và tạp, lại bảo phải sanh lòng tin bền chắc,
dù đức Thích Ca hoặc chư Phật hiện thân dạy bỏ môn Tịnh độ tu theo các pháp khác, cũng không dời
đổi chí nguyện. Lời trên đây có thể gọi là cây kim chỉ nam của người tu Tịnh nghiệp. Đến như bộ Quán Kinh Sớ Diệu Tông Sao của bên Thiên Thai Tông thì nghĩa quá viên dung mầu
nhiệm, người căn cơ trung, hạ khó được lợi ích, vẫn không bằng bộ Tứ Thiệp Sớ lợi khắp ba căn. Đã biết những nghĩa lý trên đây, cần y theo đó tin chắc.
Chỗ chính mình hiểu đến thì tin đã đành, dù chỗ mình chưa
hiểu đến cũng vẫn tin. Phải biết pháp môn Tịnh độ do nơi kim khẩu của Phật nói ra, chớ nên đem sự suy lường không thấu đáo của tình phàm mà sanh lòng nghi hoặc. Tin như
thế mới gọi là chân tín.
Đã tin chắc
rồi, cần phải phát nguyện lìa cõi Ta bà như tù nhân mong ra khỏi
ngục, nguyện sanh về Cực lạc như viễn khách nhớ quê xưa. Nếu chưa được sanh Tịnh độ, dù có ai đem ngôi báu của Thiên Vương
dâng cho, cũng xem là nhân duyên đọa lạc,
không móng một niệm ưa thích. Cho đến việc: đời sau đổi
thân nữ ra nam, tuổi trẻ xuất gia, nghe một hiểu ngàn, được đại tổng trì, cũng nên xem đó là đường lối
tu hành quanh quẩn, không sanh lòng mong ước, chỉ
muốn khi lâm chung được Phật
tiếp dẫn về Tây phương mà thôi. Khi được vãng sanh, tất
sẽ thoát vòng sanh tử, vượt cảnh phàm vào cõi Thánh, ở hàng Bất
thối, chứng quả Vô sanh. Chừng ấy nhìn lại mới biết ngôi vua ở cõi Trời, Người, cho đến việc tái sanh xuất gia làm tăng, là sự nhọc
nhằn nhiều kiếp, không biết chừng nào mới được giải thoát. Rồi so sánh lại, thấy những điều ấy đối với phẩm sen của mình ngày nay, không khác nào lửa đóm cùng vầng
nhật rạng và con kiến bò lên núi Thái Sơn! Cho nên, người
tu Tịnh Độ Quyết không nên cầu phước báo ở cõi Trời, Người, và đời sau trở lại xuất gia làm tăng. Nếu có mảy
may những niệm ấy, tức không phải tin sâu nguyện thiết, ngăn cách với lời từ thệ của đức A Di Đà, không được cảm
ứng và nhờ Phật tiếp dẫn. Thật đáng thương lắm! Đáng tiếc lắm! Nỡ đem hạnh mầu không thể nghĩ bàn, cầu lấy quả vui hữu lậu để khi hưởng hết phước rồi lại bị sa đọa, theo dòng hoặc nghiệp, chịu sự khổ vô cùng ư? Trong vị đề hồ nếu để thuốc độc, chất ngon ngọt ấy sẽ giết người; tu Tịnh độ mà không khéo dụng tâm thì sự tai hại cũng y như thế! Vậy phải dứt tuyệt những niệm lỗi lầm như trên, mới có thể
hoàn toàn thọ dụng sự lợi ích của môn Tịnh độ.
Đã tin sâu
nguyện thiết, lại cần phải chấp trì sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di
Đà Phật.” Không luận
lúc đi, đứng, ngồi, nằm, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, ăn cơm, cho đến khi đại tiểu tiện, đều giữ chắc sáu chữ
ấy nơi tâm (hoặc trì bốn chữ cũng được). Phải gắng làm sao cho mỗi niệm đều hiện tiền, toàn Phật là tâm, tâm Phật như một, niệm cho đến chỗ chí cực quên cả trần tình. Chừng ấy lòng không, Phật hiện, đương đời có thể thân chứng Niệm Phật Tam muội, đến khi lâm chung sanh về Thượng
phẩm. Tu trì như
thế có thể gọi là dùng hết công năng vậy. Đến như trong công việc hằng ngày, có mảy may điều lành và các công đức tụng
kinh lễ Phật, đều đem hồi hướng vãng sanh. Như thế thì tất cả hành môn đều là trợ hạnh của Tịnh độ, như gom cát bụi thành đất, họp sông ngòi thành biển, sự
sâu rộng sẽ vô cùng. Lại cần phải phát lòng Bồ đề, thề độ chúng sanh, đem công tu hồi hướng
bốn ân ba cõi và loài hữu tình trong pháp giới.
Đó là rộng kết pháp duyên với tất cả chúng sanh, như lửa thêm dầu, mạ được mưa, làm cho thắng hạnh Đại thừa của mình sớm mau thành tựu. Nếu không biết nghĩa này thì thành ra kiến chấp
tự lợi của phàm phu, Nhị thừa, tuy tu hạnh mầu, cảm quả rất thấp kém. Dù rằng trong sự niệm Phật, tất cả thời, tất cả chỗ đều không ngại, nhưng cũng phải thường giữ lòng kính sợ, lại phải trọng tượng Phật như Phật sống, xem Kinh Phật lời Tổ như Phật, Tổ đối trước mình thuyết pháp, không dám có chút khinh mạn nghi ngờ.
Lúc bình thường niệm Phật hoặc thầm hay ra tiếng tùy ý, song những khi nằm ngủ, đại tiểu tiện, tắm gội, rửa chân và đi ngang qua chỗ không nghiêm sạch,
đều phải niệm thầm, nếu ra tiếng tức là không cung kính. Nên biết, niệm
thầm công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Tôi thường nói: muốn được sự lợi ích thiết thật trong Phật pháp, phải tìm nơi lòng cung kính, có một phần
cung kính thì tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ; có mười phần cung kính, tiêu mười phần
tội nghiệp, thêm mười phần phước huệ. Nếu không cung kính, tuy cũng gieo viễn
nhân, nhưng ác quả của tội khinh lờn thật chẳng thể tưởng nghĩ! Người tại gia đời nay trong khi đọc Kinh Phật
đều phạm bệnh này, nên với kẻ hữu duyên, tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi.
Niệm
Phật cần phải nhiếp tâm niệm do tâm khởi, tiếng từ miệng ra, mỗi câu mỗi chữ đều rành rẽ, rõ ràng. Lại phải lắng tai nghe kỹ, in câu niệm Phật vào tâm. Nếu nhiếp nhĩ căn thì các căn kia không còn buông chạy
theo bên ngoài, mới có thể mau được nhất tâm bất loạn. Đại Thế Chí Bồ tát bảo: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được Tam Ma Địa, đây là bậc nhất”, chính là ý
này. Đức Văn Thù nói: “Nghe vào,
nghe tánh mình. Tánh thành đạo Vô thượng”, cũng đồng một nghĩa trên đây. Rất không nên cho phép Trì
Danh là cạn cợt, rồi tu theo các phép: Quán Tưởng, Quán Tượng,
Thật Tướng. Trong bốn phép niệm Phật chỉ có môn Trì Danh là rất hợp
cơ, nếu giữ đến một lòng không loạn, thì lý mầu thật tướng toàn thể lộ bày, cảnh lạ Tây phương hiện ra rõ rệt. Cho nên tức nơi Trì Danh mà chứng được thật tướng, không cần quán tưởng cũng thấy Tây phương; một pháp Trì Danh chính là cửa mầu
vào đạo, con đường thẳng tắt đến quả Bồ đề. Người đời nay phần nhiều không hiểu về giáo lý của phép Quán, nếu tu theo Quán Tưởng, Thật Tướng, hoặc có khi bị ma dựa vào. Vậy tốt hơn là nên lựa hạnh dễ tu, cũng cảm được quả nhiệm mầu, đừng học khéo thành vụng, cầu siêu trở lại bị đọa, thì đáng tiếc lắm!
Quyển
Tịnh Độ Thập Yếu do Ngẫu Ích Đại sư dùng mắt Kim Cang, lựa lấy những đoạn hợp lý hợp cơ trong các kinh sách Tịnh độ
mà làm thành, đáng liệt vào bậc nhất. Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ghi chép những hạnh nguyện trong nhân, công đức trên quả
của Phật A Di Đà cùng các vị Bồ
tát: Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền,
Mã Minh, Long Thọ. Kế đó lại ghi việc tự tu dạy người của các bậc Tổ sư, Thiện tri thức, như Ngài Huệ Viễn, Trí Giả, cùng những sự tích vãng sanh của bốn
chúng và hàng vua, quan, sĩ, thứ, phụ nữ, người tội ác, loại Súc sanh. Trong ấy có phụ
vào những ngôn luận thiết yếu, khiến cho người xem có chỗ nương tựa, không còn nghi ngờ. Đọc
quyển này, có thể lấy người xưa làm Thầy, mà gắng tu Tịnh nghiệp, so với sự đi tham hỏi các bậc tri thức, lại càng thân thiết hơn.
Bộ Long Thơ Tịnh Độ Văn phân loại về các môn tu trì, cạn lời
khuyên tỏ, khiến cho người dứt nghi sanh lòng tin, là một pho sách rất
hay để dẫn dắt kẻ sơ cơ. Ba thứ trên đây và Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Quán Kinh Tứ Thiệp Sớ, cộng lại là năm, trước kia tôi đã nói với Thầy
Phước Nghiêm thỉnh giùm gửi đến, không biết Nữ sĩ có được chăng? Nếu không, xin hồi âm, tôi sẽ do nhà bưu cục gởi tặng. Được mấy thứ sách ấy, có thể biết đủ các nghĩa tông Tịnh độ, dù không xem khắp các kinh cũng chẳng
hại gì! Nếu không rõ pháp môn Tịnh độ,
giả sử có hiểu sâu ba Tạng Kinh, ngộ suốt tự tâm chăng nữa, muốn thoát vòng sanh tử, còn trải
qua không biết bao nhiêu đại kiếp mới làm tròn bổn nguyện. Niệm Phật như thuốc A Dà Đà trị hết muôn bệnh, pháp môn kỳ diệu như
thế mà không biết, há chẳng đau tiếc lắm ư? Biết mà không tu, và tu mà không chuyên tâm gắng
chí, lại càng đáng đau tiếc hơn
nữa!
Người
nữ ra khỏi nhà có nhiều chướng duyên, huống chi thêm sự độ dụng khó khăn, lại càng bất tiện. Nếu là người nam xuất gia làm tăng, còn phải vào thiền
đường học nghi tắc cho biết quy củ nhà chùa, rồi đi du phương mới không trở ngại. Chẳng thế thì cả mười phương tòng lâm, không ở chỗ
nào được. Việc thọ giới đối
với nữ nhơn, như người gia tư đầy đủ có thể tự chủ, cũng nên đi đến chùa xin thọ, bằng không dư giả, hà tất phải cố định như thế! Chỉ cần một lòng tha thiết chí thành, đối trước bàn Phật sám hối bảy ngày, tự thệ xin thọ giới. Sám hối đến ngày thứ bảy xong, quì trước Phật xướng rằng: “Đệ tử là Phước Hiền thề thọ năm giới, làm mãn phần Ưu Bà Di. (Ưu Bà Di dịch là Cận Sự Nữ, mãn phần là giữ trọn năm giới). Thề suốt đời không giết hại, suốt đời không trộm cắp, suốt đời không dâm dục, (nếu có gia đình thì nói không tà dâm), suốt đời không nói dối, suốt đời không uống rượu.” Nói như
thế ba lần, tức là đắc giới. Điều cần yếu là phải hết lòng thọ trì, thì công đức sánh với sự cầu chư tăng truyền giới cho vẫn không hơn kém. Chớ nên nghi rằng thọ giới như thế không đúng pháp, phải biết cách thức trên đây là do theo Thánh huấn của
Như Lai trong Kinh Phạm Võng. Ở
Phổ Đà, mùa thu không có truyền giới,
chỉ truyền vào khoảng thượng tuần tháng giêng đến mười chín tháng hai thôi. Nhưng rất
mong Nữ sĩ ở yên nơi nhà tu Tịnh nghiệp đừng bôn ba sương tuyết đến đây làm chi. Nếu còn chấp trước không đổi ý, ấy là chẳng biết điều hay dở, đã hại sự thanh tu của chính mình, lại phụ lời thành thật của lão tăng này nữa. Tôi muốn cho Nữ sĩ hiện đời thành tựu đạo nghiệp, quyết không có ý chi làm ngăn trở pháp duyên, xin nghĩ kỹ
sẽ tự rõ. Đến như việc không được xuất gia ý muốn quyên sinh, xét ra chí nguyện tuy có mãnh liệt,
nhưng tâm niệm ấy thật là si cuồng. Giữa thời Mạt pháp này, kẻ chơn tu rất ít, mấy ai là bậc hạnh giải cao siêu kham làm Thầy dẫn
dắt cho người? Nữ sĩ chỉ biết xuất gia làm ni là giải thoát, nhưng
chưa rõ nhiều nỗi chướng ngại của ni tăng. Và, cũng đừng tưởng
rằng quyên sinh là rảnh nợ
đời đâu? Một khi chết rồi, thần thức sẽ bị nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai, còn e do tâm niệm phẫn
uất ấy, bị sa đọa vào loài bàng sanh, muốn trở
lại làm thân người nữ cũng là việc cầu may khó được. Dù cho lại được làm thân người nữ, hoặc thân nam, hay là thân vua chúa cõi người,
cõi trời, đâu có bảo đảm còn gặp Phật pháp mà tu hành? Và đâu chắc rằng ở trong Phật pháp lại hân hạnh gặp môn Tịnh độ là một pháp hiện đời vượt thoát vòng sanh tử? Dù có gặp
được nữa, cũng đâu bằng bây giờ cứ nhẫn nại yên sống mà tu trì, đợi đến khi hết báo thân liền sanh về cõi Cực lạc? Tôi đã cạn lời khuyên nhắc, thử hỏi
từ trước đến nay có ai vì Nữ sĩ chỉ rõ sự lợi hại ấy chăng? Nếu không y như lời lão tăng, tức là phụ ơn dạy bảo, sự khổ về sau sẽ còn gấp bội hơn ngày hôm nay nữa!
“Đường đạo tuy bằng song khó dắt. Phải do nơi kẻ quyết lòng đi.” Vậy
nghe cùng không, Nữ sĩ tự nên suy xét. Xin nhờ đem những
lời trên đây chuyển lại cho trinh nữ Phước Liên được biết.
11/
Thơ gởi
Đế
Nhàn Pháp sư
Ấn
Quang từ lúc mới xuất gia liền tin pháp môn Tịnh độ, nhưng vì nghiệp chướng che lấp, trong hai mươi năm nay, ngày luống qua ngày. Nghĩ những thẹn
khi tự thấy miệng tuy niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo!
Gần đây, nhờ ơn Pháp sư khuyên nhắc, xin thề không dám để phụ tấm lòng chiếu cố, xót thương. Chỉ khổ nỗi hôn trầm, tán loạn thay nhau đánh đổ, đạo
lực không thêm được chút nào, lối cũ vẫn còn nguyên dấu cũ. Cho nên mỗi ngày tôi xem hơn mười tờ tịnh điển, mong nương theo ngôn hạnh sáng suốt của người xưa để phát lòng thẳng tấn.
Pháp môn Bảo
Vương Tùy Tức, tôi thử dùng thì thấy vọng niệm không còn sôi nổi như
lúc trước, tưởng rằng lâu ngày chắc cũng có lúc được nhìn cảnh mây tạnh trời trong. Tôi tra trong Lạc Bang Văn Loại
và Thánh Hiền Lục đều thấy có chép đoạn này, bỗng chợt hiểu phép Thập Niệm mượn hơi nhiếp tâm của Ngài Từ Vân là căn cứ ở nơi đây. Và, trong bộ Liên Tông Bảo
Giám cũng có nói đến nữa. Như thế đủ thấy người xưa liệu biết cơ nghi đời Mạt pháp, nếu phi phương pháp này chắc khó nỗi gia công, nên đã dự lập
ra trước. Nhưng cổ nhơn ít ai đem môn Bảo Vương
Tùy Tức để giáo hóa, vì thuở trước
căn tánh người còn sáng lẹ, một khi phát lòng quả quyết,
tự được nhất tâm. Đời nay, người chướng nặng căn độn như tôi, e đến chết cũng không được cảnh giới không loạn. Vì thế, tôi không dám giấu sự
dở riêng của mình, mong thỉnh ý nơi bậc cao minh; vậy có nên thực hành cùng chăng, xin nhờ chỉ
rõ? Tôi lại nghĩ: phép này nhiếp cả
Ngũ Đình Tâm Quán, nếu có thể theo hơi thở mà niệm, tức là gồm đủ hai môn: Sổ Tức và Niệm Phật. Nếu nhiếp tâm niệm Phật thì lòng tham nhiễm lần
lần dứt tuyệt, sân hận không còn lẫy lừng, khi hôn trầm tán loạn đã lui, trí huệ liền hiện mà phá luôn cả si mê nữa. Pháp môn nhiếp sáu căn của đức Thế Chí, theo ngu ý thì những người
niệm Phật lơ là hiện thời, dường như chẳng nên dùng, vì nếu không lần
chuỗi ghi số, họ sẽ trở thành biếng trễ. Khác hơn thế, những ai quyết tâm niệm Phật, nếu bỏ phép này, nhất định khó thành Tam muội.
Pháp sư
nương bản nguyện lợi sanh, tự mình tuy không dùng, nhưng cũng nên vì người
thí nghiệm, để dạy kẻ hậu lai. Phép nhiếp sáu căn với bậc lợi cơ, trong một hai thất, quyết sẽ được không loạn. Dù cho hạng ngu kém như tôi, nếu cố gia công hoặc tám năm hay mười năm, tưởng may ra có thể được nhất tâm.
12/
Thơ Đáp Một
Cư
Sĩ ở Vĩnh Gia
Người
niệm Phật chẳng phải không thể trì chú, nhưng cần nên phân chủ, trợ cho rõ ràng, tự nhiên trợ cũng về chủ. Nếu lơ là xem đồng như nhau thì chủ cũng không thành chủ nữa!
Chú Chuẩn Đề, Đại Bi đâu có hơn kém, nếu tâm chí thành, pháp pháp đều linh, tâm không chí
thành, pháp pháp không linh. Một câu niệm Phật bao trùm đại tạng giáo, đầy đủ tất cả, vẫn không thiếu sót pháp nào. Bậc thông tông thông giáo mới
có thể làm người chơn niệm Phật, và hạng ngu tối không hiểu chi, chỉ biết thành thật vâng lời, cũng có thể làm người chơn niệm Phật. Ngoài hai hạng này, chơn hay không đều do nơi mình gắng sức, tự xét có thực hành đúng giáo pháp cùng chăng? Đến
như tu Tịnh độ, đã có ý quyết định không nghi, cần gì phải hỏi sự hiệu nghiệm của người khác? Dù cho cả thế gian đều không hiệu nghiệm cũng chẳng sanh một niệm nghi ngờ vì lời thành thật của Phật, Tổ có thể đủ làm bằng cớ. Nếu cứ hỏi sự hiệu nghiệm của người khác, tức là tâm còn do dự, chưa
tin chắc lời của Phật, việc làm tất khó xong. Bậc anh liệt, quyết chẳng đến đỗi bỏ lời Phật theo lời người. Những kẻ không chủ trương chỉ lấy sự hiệu nghiệm bên ngoài làm tiên đạo, thật
là đáng thương xót!
“Tùy Tự Ý Tam muội” là đường
lối tu chung từ phàm đến Thánh. Hàng sơ tâm Bồ tát trong ấy nói, tuy gồm nhiếp tất cả phàm phu, song thật ra là chỉ
cho bậc sơ trụ Bồ tát ở Viên giáo, đã phát ba tâm chứng ba đức.
Bậc này do phát lý tâm của chính nhân, chứng
đức pháp thân, phát huệ tâm của
liễu nhân, chứng đức Bát nhã, phát thiện tâm của
duyên nhân chứng đức giải thoát, nên có thể hiện
thân thập pháp giới ở trong mười phương quốc độ, khắp ứng các cơ mà làm việc cầu Phật độ sanh. Thế nên sơ tâm không phải chỉ riêng cho hạng phàm phu mới phát tâm tu hành. Cư sĩ thấy
trong Kim Luân Chú nói về việc ngộ pháp Nhị Không, chứng lý Thật Tướng, liền vui mừng khấp khởi muốn đứng ra nhận lãnh, tôi e cho không khỏi lạc
vào lưới ma. Vậy xin chỉ rõ việc ấy ra đây, để cư sĩ hiểu biết, tránh sự sai lầm. “Ngộ pháp Nhị Không, chứng lý Thật Tướng”, chính là thân phận của
hàng sơ tâm Bồ tát đã nói trên. Pháp thức trong quyển
ấy chỉ dạy, hạng phàm phu có thể y theo mà tu hành. Đến
như về thân phận, dù cho bậc Thanh văn đủ đại thần
thông cũng không đảm đương nổi, huống là phàm phu? Lại, trong ấy
mấy đoạn: “Không chỗ trụ sanh tâm, không trụ pháp bố thí, ba luân thể không, một đạo thanh tịnh, đều phát minh rất rõ.” Tôi muốn đem những
nghĩa này làm thành bài tụng cho người đọc hiểu được cương yếu, nhưng vì bận nhiều việc không được rảnh, để hẹn lại năm sau. Đến như chỗ nói: “Quán thân tức không quán chi cả, chỉ quán vô duyên”, vô duyên
chính là nghĩa “không, không
có tánh chi” trong Tùy Tự
Ý Tam muội đã nói. Và, vì “không
có chi” nên không duyên vào
đâu được. Nếu chẳng do nơi cội gốc này, chém một dao cho đứt đoạn, thì làm sao dứt được mối phan duyên?
Mấy
lời trên đây tuy giản lược,
song ý nghĩa rất rộng sâu. Xin thuật lại cho Từ Quân được rõ.
13/
Thơ
Đáp Một Cư
Sĩ
(Phụ Nguyên Thơ)
(Bỉ
nhân rất tin pháp môn Tịnh độ, đã quyết định phụng hành, nhưng với hai chữ “Nguyện, Hạnh” còn phải
nhờ dạy bảo. “Nguyện cùng Hạnh nên đi riêng hay chung?” Vấn đề
này lâu nay tôi vẫn hằng thắc mắc. Xin chia hai phương diện để luận:
1. Nếu
Nguyện và Hạnh riêng, thì trước khi niệm Phật phải phát nguyện cầu sanh, như đọc bài văn trong nghi thức Thập
Niệm của Ngài Từ Vân chẳng hạn, rồi sau mới niệm. Và, khi niệm Phật phải làm sao cho ngoài tâm không Phật, ngoài Phật
không tâm, tâm và miệng như một, cứ như thế mà niệm mãi, tuyệt chẳng có ý nguyện cầu sanh. Y theo phương pháp này mà niệm
thì sanh về Thượng phẩm. Đây là căn cứ theo lời của Ngài Triệt Ngộ Thiền sư.
2. Nếu
Nguyện và Hạnh chung, là trong khi niệm kiêm cả
nguyện, thì tiếng cùng tâm phải tha thiết như trẻ thơ té xuống nước cầu cứu với mẹ. Đây là lời của Ngài Ngọc Phong Thiền sư. Lại, Kiên Mật Đại sư cũng bảo: “Sáu chữ hồng danh, trong mỗi niệm đủ tâm ưa chán”, cùng với thuyết
của Ngài Ngọc Phong vẫn đồng.
So hai phương
diện
trên đây, thuyết thứ nhất dường như thiếu sự khẩn thiết trong khi niệm Phật, Ngẫu Ích Đại sư đã bảo: “Cầu sanh Tịnh độ toàn nhờ nơi tín nguyện, thiếu hai điều kiện này, dù niệm đến gió thổi không vào, mưa rơi chẳng lọt, chắc như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng
sanh.” Thế
thì nếu theo thuyết thứ nhất, e khi niệm đến một lòng không loạn, cũng chưa đứng vững. Như theo thuyết thứ hai thì trong khi niệm Phật
nơi tâm còn giữ chữ nguyện, sợ rằng dù lòng không loạn, cũng khó được
thuần nhất. Gần đây, Sư Vi Vi ở Hàng Châu cũng tỏ sự
lo ngại về việc “Nguyện Hạnh chẳng thể kiêm chẳng thể không kiêm” như
tôi.
Với
hai thuyết trên, kẻ mạt học tối tăm này chưa biết giải quyết thế nào? Tưởng rằng bậc cao hiền chắc có lời luận xác đáng, xin vì người sau chỉ
rõ
bến bờ).
Pháp môn Tịnh
độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông, như cái đảnh có ba chân, thiếu một
tất không đứng vững. Các hạ siêng tu Tịnh nghiệp, với chữ Tín đã quyết định không còn nghi, đến như
Nguyện, Hạnh, thì tợ hồ có sự chấp kia đây đối đãi, nên không thể suốt
thông dung hội. Vì thế, nơi pháp viên diệu không ngại bỗng tự sanh nhiều điều chướng ngại, khiến cho ánh trăng sáng muôn vầng của
Ngài Triệt Ngộ, Kiên Mật, Ngẫu Ích, chỉ nhân một sợi tơ trước mắt mà thành ra cách phân. Thật cũng đáng tiếc
lắm!
Người
chơn niệm Phật, trong khi niệm vẫn đầy đủ ba món Tín, Nguyện, Hạnh.
Như con nhớ mẹ, lúc cảm thương kêu gọi, quyết chẳng khi nào có tâm niệm không tin và không nguyện
thấy bóng Từ Thân. Thế thì còn hỏi chi “Nguyện, Hạnh chung hay riêng”, còn nói chi “có Nguyện tâm khó thuần nhất” và “chẳng thể kiêm chẳng thể không kiêm.” Ấy
là không việc mà thêm việc đó! Xem lời các hạ và luận điệu của vị Tăng kia dường như cả hai đều chưa biết thiết thật hành trì trong câu niệm Phật,
không khác nào người chưa cất bước đi, đã vội nghĩ ngợi đến cảnh tượng lúc về nhà. Thế nên, với những pháp ngữ đối trị sự phân biệt của cổ nhân, trở lại càng thêm phân biệt! Thử
hỏi: “Ngoài tâm
không Phật, ngoài Phật không tâm”, chẳng
khẩn thiết mà được như thế ư? Không tín nguyện mà được như thế
ư? Lời của hai Ngài Triệt Ngộ, Kiên Mật tuy có khác, song thật ra ý nghĩa vẫn
giúp đỡ thành tựu lẫn nhau, các hạ lại nhận làm“Nguyện, Hạnh chung, riêng” có thể
gọi là thiếu con mắt trạch pháp đó! Đến như lời của Ngẫu Ích Đại sư chính là món pháp dược để
đối trị hạng người nương tựa Thiền tông, niệm đức Di Đà tự tánh, cảnh Tịnh độ duy tâm, không tu đúng theo tông chỉ
của môn Niệm Phật, chỉ cầu được một lòng không loạn làm mức cuối cùng. Ấy là việc ngoài tông Tịnh độ, sao các hạ lại dẫn ra so sánh với điểm tín nguyện đầy đủ của sự chơn tu, khiến cho đường lối lẫn lộn như thế?
Trên đây là ước
về lý mà nói chung, nếu ước
về sự, thì phát nguyện nên ở vào khoảng sớm, tối, khi niệm Phật xong. Lúc ấy, hoặc dùng bài văn “Tiểu Tịnh độ”, như có đủ thời giờ, nên đọc bài Tịnh
độ Văn của Ngài Liên Trì. Bài này lời ý đều
đầy đủ, đứng đầu các bài văn Tịnh độ xưa nay. Nên biết, đọc nguyện văn là y theo văn mà thật tâm phát nguyện,
không phải đọc qua một lần là phát nguyện đâu! Trừ lúc phát nguyện sớm và tối, trong tất cả các thời
khác chỉ hết lòng khẩn thiết niệm Phật mà thôi.
14/
Thơ
Đáp Cư Sĩ Trần
Huệ Siêu
Được
thơ, biết cư sĩ lòng mộ đạo thâm thiết, tôi rất vui mừng! Nhưng vì duyên sự quá nhiều, thêm phải gấp giảo định lại bộ An Sĩ Toàn Thơ, nên sự phúc đáp có phần chậm
trễ.
Tâm tham, giận,
mê người người đều có, song nếu biết đó là bịnh thì thế lực của nó cũng không đến đỗi
lẫy lừng. Ví như kẻ trộm vào nhà, nếu chủ nhân nhận lầm là người nhà, tất nhiên tài vật đều bị nó lấy hết. Như gia chủ biết đó là kẻ trộm, đuổi ngay liền tức khắc, thì trong nhà yên ổn, của
cải mới được bảo toàn. Cổ đức nói: “Không sợ niệm khởi sớm, chỉ lo giác ngộ chậm.” Tham, giận,
mê dù có nổi lên, giác ngộ được, tâm ấy liền tiêu diệt. Trái lại, nếu an nhiên xem nó như người
trong nhà, thì có khác nào nhận giặc
làm con, bảo sao tiền của không bị hao mất?
Niệm
Phật không thể khẩn thiết, vì chẳng biết cõi Ta bà khổ lụy, miền Cực lạc an vui. Phải nghĩ rằng:“Thân người khó được, trung quốc khó sanh, Pháp Phật khó nghe, môn Tịnh độ lại càng khó gặp. Hiện thời, nếu ta không chí tâm niệm Phật, một khi vô thường đến, nhất định sẽ theo nghiệp ác nặng nề trong đời này hoặc kiếp trước mà đọa vào ba đường dữ, chịu sự khổ lâu dài, biết chừng nào mới được thoát ly?” Thường
nghĩ như thế, sẽ tự tỉnh ngộ, tha thiết. Và phải tưởng đến sự khổ nơi Địa ngục mà phát tâm Bồ đề. Bồ đề tâm là lòng lợi mình lợi người. Khi phát tâm này, như đồ
máy được gắn điện, có năng lực rất mạnh mẽ mau lẹ, sự tiêu nghiệp chướng thêm phước huệ, những căn lành công đức bình thường
không
thể sánh kịp.
Bị
cảnh xoay chuyển là do công tu hãy còn cạn cợt,
nên khi trong lòng có sự giận mừng, nét xấu, đẹp liền hiện ra nơi mặt. Nếu chánh niệm nhiều, tự nhiên tất cả phiền não đều giảm nhẹ. Cho nên, người chơn tu tuy ở cảnh trần lao, hằng tinh chuyên rèn luyện, khiến cho nghiệp tập lần lần tiêu diệt. Ấy mới là công phu thiết thật,
và như thế tâm sẽ được tự chủ, thoát khỏi sự chi phối do hoàn cảnh bên ngoài.
Người
tại gia không theo chúng, sự tụng
niệm đều tùy mình, hoặc ngồi, đứng, quì, đi nhiễu quanh đều được, không nên chấp định một lối nào. Nếu chấp định, người sẽ dễ nhọc, tâm khó tương ưng. Nếu châm chước theo sức khỏe, công phu của mình, lựa điều thích hợp mà làm, mới có lợi ích. Cứ theo lệ thông thường, thì trước nên đi nhiễu quanh, kế đó ngồi, rồi sau quì. Như đi nhiễu và quì thấy mỏi nhọc, nên ngồi niệm, ngồi lâu sanh hôn trầm, thì đi nhiễu
quanh bàn Phật hoặc đứng niệm, đợi khi hôn trầm tan mới trở lại ngồi. Khi niệm nên coi theo đồng hồ định thời, đừng lần chuỗi, vì lần chuỗi khó dưỡng tâm.
15/
Thơ Đáp Ly Ẩn
Tẩu
Vừa
rồi Hải Thi Đạo Nhơn ở Gia Hưng có chuyển đến cho tôi phong thơ của
các hạ. Xem xong, biết các hạ từ lâu đã gia công tu Tiên, chỗ sở
đắc rất thâm, nay lại muốn hỏi môn Tịnh độ là pháp cứu cánh trong đạo Phật. Ấy có thể gọi là người từ kiếp trước đã trồng sâu căn lành đối với
Phật pháp, nên không chấp theo sự
câu kiến của thần Hà Bá, mà biết nghĩ tìm trong biển giáo, bến
giải thoát hoàn toàn. Nhưng các hạ
đã quen biết với Hải Thi Đạo Nhơn, sao không hỏi người, lại bỏ chỗ
cao minh tìm nơi thấp kém, e rằng có phụ với sở vọng chăng? Hải Thi vốn là bậc kiêm thông tông giáo, gồm tu Thiền
Tịnh, chính là chiếc thuyền đại nguyện trong biển sanh tử đó. Vì người quá khiêm tốn, nên lấy chữ thi tự đặt tên, thật ra nếu trong biển sanh tử mà gặp được cái tử thi ấy, quyết sẽ mau lên bờ giác, yên ổn trở lại quê nhà. Như thế chẳng hơn tìm hỏi Ấn Quang là kẻ dung Tăng, đối với pháp môn kém phần hiểu
biết hay sao? Nhưng các hạ đã tưởng lầm hỏi đến, tôi cũng xin tùy chỗ thiển
kiến đáp lại, hoặc may có thể vì người giải chút nghi ngờ chăng?
Thiết
nghĩ trong thể đạo Phật, Tiên, vẫn đồng nguồn, nhưng về chi phái thật ra cách nhau xa khác. Đạo Phật
dạy người trước tiên tu phép quán Tứ Niệm
Xứ, quán thân không sạch, thọ
là khổ, tâm vô thường và pháp vô ngã. Khi được biết
thân, thọ, tâm, pháp là không sạch, khổ,
vô thường, vô ngã, đều giả dối như mộng huyễn, thì tánh chơn như sẽ tự hiện bày. Đạo Tiên ước về lúc chánh truyền ban đầu, cũng không chuyên chủ nơi
sự luyện đơn vận khí để cầu trường sanh, nhưng người sau tu hành lại lầm cho đó là tông chỉ chơn
chánh. Đạo Phật bao trùm tất cả pháp, chẳng những đối với vấn đề thân tâm tánh mạng, phát huy rõ ràng, mà các việc nhỏ
của thế đế như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, cũng không bỏ sót. Duy về việc luyện đơn vận khí, trong Phật pháp tuyệt không nói đến một chữ, lại còn răn cấm là khác nữa. Vì lẽ bên Tiên thì khiến cho người
giữ gìn thân tâm làm chân thật, bên Phật
lại chỉ rõ thân tâm vốn giả dối, theo duyên sanh diệt, không phải
là bản hữu chân tâm. Phép luyện đơn
chẳng phải không bổ ích, song chỉ có thể làm cho người sống lâu, nhẫn đến thành Tiên sanh lên trời, nếu
nói về sự giải thoát luân hồi thì vẫn còn là việc mộng. Các hạ đã biết Tiên có số kiếp, Phật thọ không cùng, thì trong lúc tuổi cao này, phải chuyên tâm gắng sức nơi pháp môn Tịnh độ. Việc tham học thiền, giáo, nên giản lược qua, bởi các pháp ấy rộng lớn sâu xa không dễ gì nghiên cứu, dù tìm đến chỗ cùng cực, cũng phải trở về môn Niệm Phật mới có thể trong hiện đời giải quyết được sự
sanh tử. Phàm những kinh luận về Tịnh độ, các hạ phải gấp gấp tìm xem, y theo đó thực hành, tin chắc
lời của Phật, Tổ, không nên vì chỗ mình chưa
hiểu đến vội đem lòng nghi. Nếu có thể
đầy đủ cả Tín, Nguyện Hạnh, tự nhiên sẽ được nhờ sức của Phật tiếp dẫn về Tây phương. Một khi đã vãng sanh thì gần đức
Di Đà, bạn cùng hải chúng, lần lần chứng quả Vô sanh, lên ngôi Bổ Xứ.
Chừng ấy nhìn lại việc thành Tiên làm kẻ tùy thuộc
cho Thiên Đế, sánh với địa vị hiện tại, thật cách nhau như vực thẳm trời xa!
Quyển Mộng
Đông Ngữ Lục và các thuyết của Bành Thiệu Thăng mà các hạ nói, chắc là sự trộm văn sửa đổi của nhà luyện đơn, không phải chính thật trong nguyên thơ. Bởi
nhà luyện đơn cũng có kẻ cho ngồi vận khí là tham thiền, nên mới
nói “niệm Phật cùng tham thiền đồng, chỉ hơi khác với đạo pháp.”Câu “chỉ hơi khác với đạo pháp”, chính là bên đạo gia thêm vào. Trừ
câu này ra, toàn văn tuy nghĩa lý không quá sai lầm, nhưng
vẫn lủng củng mơ hồ. Trong Mộng Đông Ngữ Lục tuyệt không có văn này, ấy là do nhà luyện
đơn trộm lấy văn nghĩa biên chép ra, sự thật
chính họ cũng không hiểu nữa. Nhưng nay chẳng cần biện rõ việc ấy làm chi, xin tìm xem quyển Mộng
Đông Ngữ Lục sẽ tự biết. Đến như chỗ họ dẫn những lời của Bành Nhị Lâm cư sĩ cũng đồng với việc trên đây, song sự sai lầm lại
càng nhiều hơn. Đoạn nói: “Bốn chữ A Di Đà Phật dễ niệm, chỉ cần mỗi niệm nối nhau một lòng không loạn, mới có thể nhất khí tuần hoàn. Chừng ấy tinh khí thần gom lại một chỗ, lâu ngày thành Xá Lợi tử, lâu nữa kết làm Bồ đề châu mà thành Phật.” Trên đây là đem phép niệm
Phật làm phép luyện đơn. Nhị Lâm cư sĩ quyết không nói những lời ấy. Đó là do hạng chánh nhãn chưa mở, nên lấy chánh làm tà. Mấy quyển
Huệ Mạng Kinh, Tiên Phật Hiệp Tông của họ viết ra, sự sai lầm lại càng quá lắm. Hạng người tà ngụy ấy dẫn lời của người, cải đầu sửa đuôi để chứng minh cho lý thuyết mình. Tội
trạng khinh miệt chánh lý, vu khống bậc
tiền hiền, mê hoặc người đời của họ thật không bút mực nào tả ra cho xiết! Những kẻ đó chỉ cầu hư danh trong một thời, đâu dè về sau phải chịu nhiều sự khốn khổ, nên đức Như Lai gọi là hạng người đáng xót thương!
Đến
như chỗ luận về phép “hồi quang phản chiếu”, tuy không đến đỗi trở ngại, song câu “hai mắt chăm nhìn đầu ngón tay” chắc có lẽ
dẫn lầm câu “hai mắt chăm nhìn nơi chót mũi.” Hoặc khi đó là cách
thức của Nhị Lâm cư sĩ lập ra, nhưng chắp tay lâu không khỏi mỏi
nhọc, đâu bằng quán ánh sáng trắng nơi
chót mũi được tự tại an vui hơn? Bởi người mới tập định, niệm khó quy nhất, nếu thường quán nơi chót mũi thì tâm không còn chạy theo cảnh
bên
ngoài. Đây là phép quán thiển cận của kẻ sơ cơ vậy. Quyển Mộng Đông Ngữ Lục do cư sĩ Tiền Y Am trích những đoạn chuyên chỉ Tịnh độ trong bộ Mộng Đông Di Tập in ra, cho lưu thông ở phương nam, để giúp sự đòi hỏi của những người từ lâu mong muốn bộ ấy mà không được gặp. Toàn tập ở Bắc Kinh mới đủ, phương nam duy có quyển lược
bản của Tiền Y Am sao ra mà thôi. Quyển Ngữ
Lục ấy lời lẽ tinh diệu, là một tác phẩm đứng vào bậc nhất từ Ngài Ngẫu Ích và Tĩnh Am về sau. Với
quyển này, nếu các hạ có thể đi đến cùng, tin chắc không nghi, quyết sẽ
cảm được sen vàng nở trong ao báu, khi lâm chung thác chất
nơi đó mà làm khách mới ở
cõi Tây phương. Quyển Di Đà Yếu Giải là cây kim chỉ nam của người tu Tịnh nghiệp, kinh này ở phần đầu bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Tịnh Độ Thập Yếu là thành phần của những giáo pháp rất hợp lý hợp cơ do Ngài Ngẫu Ích sưu tập trong các kinh sách Tịnh độ
viết ra, gồm có mười loại nên gọi là Thập Yếu. Đại sư để quyển Di Đà Yếu Giải ở trước là tỏ ý tôn trọng kinh.
Xá Lợi,
vốn tiếng Phạn, dịch nghĩa: thân cốt hoặc linh cốt, là kết tinh của sức tu giới định huệ, không phải do luyện khí thần mà thành. Đó cũng là biểu tướng
của người tu đến cảnh tâm cùng Phật hiệp. Nhưng Xá Lợi chẳng phải chỉ do thịt, xương, tóc biến thành trong lúc thiêu thân, mà sự xuất
hiện của nó có nhiều trường hợp khác nhau. Như thuở xưa có vị cao Tăng đang khi tắm gội
bỗng được Xá Lợi. Tuyết Nham Khâm Thiền sư lúc cạo đầu, tóc Ngài biến thành một xâu Xá Lợi. Có kẻ chí tâm niệm Phật, Xá Lợi từ trong miệng vọt ra. Một người thợ khắc văn Long Thơ Tịnh Độ, Xá Lợi hiện trong bản cây. Có vị tín nữ thêu Phật, thêu kinh, được Xá Lợi dưới mũi kim. Lại có kẻ đi xa về, ngậm ngùi thương cảm tế lễ trước tượng, nơi tượng bỗng hiện ra Xá Lợi. Thiền sư Trường Khánh Nhàn, khi tịch rồi
thiêu hóa, nhằm lúc trời nổi gió lớn, khói bay xa ba bốn mươi
dặm, khói đến chỗ nào nơi ấy đều có Xá Lợi, lượm gom lại được hơn bốn thạch. Thế thì biết Xá Lợi do đạo lực hóa hiện, nhà luyện đơn không rõ, lầm tưởng là luyện tinh khí thần kết thành. Bởi họ thấy những danh tướng trong Phật pháp, không chịu tìm hiểu căn nguyên, vội đem phụ hội một cách sai lạc vào sự luyện đơn của mình. Chỉ nghe nói chứng quả Bồ đề mới được thành Phật, chưa từng có việc luyện tinh khí thần, trước thành Xá Lợi tử, sau kết làm Bồ đề châu mà thành Phật bao giờ! Tánh và mạng của nhà luyện đơn nói, đều là lối tu chấp trước trên thần thức, sắc thân. Họ không hiểu lẽ ấy, trở lại chê đạo Phật chỉ tu tánh không biết tu mạng,
đâu dè việc làm của họ chính là chỗ phá trừ bên Phật giáo. Về việc này, các hạ tìm xem đoạn quán Tứ Niệm Xứ trong Kinh Phật sẽ tự rõ.
Bồ
tát Quán Thế Âm từ kiếp lâu xa về trước đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh. Vì lòng từ bi sâu thiết,
nên tuy ở cõi Thường Tịch, Ngài hóa hình nơi ba cõi: Thực
Báo, Phương Tiện, Đồng Cư; tuy thường hầu cận
đức A Di Đà, mà vẫn khắp hiện thân Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, cho đến thân lục
đạo trong mười phương pháp giới. Những việc lợi ích, Ngài đều làm, chúng sanh đáng dùng thân nào được
độ, Ngài hiện thân ấy mà nói pháp. Non Phổ Đà chính là nơi
ứng tích của Bồ tát. Vì muốn cho chúng sanh có chỗ bày tỏ
lòng thành, đức Quán Thế Âm mới thị tịch tại núi này, đâu phải Bồ
tát chỉ ở Phổ Đà mà không ở những nơi khác ư? Như chỉ duy một vầng trăng trên trời mà bóng in khắp ngàn muôn sông hồ, từ
biển cả cho đến giọt sương, những nơi có nước trong là có trăng hiện. Song nếu
nước đục, bóng trăng sẽ mờ khuất. Tâm tánh ta ví như nước,
nếu chúng sanh một lòng chuyên niệm đức Quán Thế Âm, Bồ tát liền dùng đủ cách thuận, nghịch, ẩn, hiển, khiến cho được lợi ích. Trái lại, nếu không chuyên nhất, tức
là nước tâm lờ đục, tất nhiên khó mong nhờ Ngài cứu
độ. Nghĩa này rất thâm, xin xem đoạn “Phổ Đà Sơn Chí”, trong bộ Văn Sao của tôi sẽ tự rõ. Bồ tát khi còn ở trong nhân, do quán tánh nghe mà chứng
Viên thông, lúc ở trên quả, do quán tiếng chúng sanh xưng danh hiệu mà tìm đến cứu độ, nên gọi là Quán Thế Âm. Lại, Bồ tát đạo pháp rộng lớn không ngằn, tùy theo căn tánh của tất
cả chúng sanh, nói đủ pháp để
giáo hóa, không riêng lập một môn nào, nên pháp môn của Ngài gọi
là Phổ Môn.
Trên đây là
việc thiển cận, vì các hạ chưa nghiên cứu đến, nên không rõ. Tôi cũng tùy lời hỏi
mà đáp, thật ra đó không phải là môn Tịnh độ, một giáo pháp có thể đem lại
cho các hạ sự lợi ích hoàn toàn. Nhưng nếu
nói rõ việc ấy ra đây, lại e lòng dòng thêm phí giấy mực.
Các hạ nên thỉnh Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Triệt Ngộ Ngữ Lục mà xem, sự lý tu chứng thế nào, trong ấy có nói đủ tất cả.
16/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Phạm Cổ
Nông
Pháp môn Tịnh
độ lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm tông; Tín, Nguyện có sâu thiết,
Hạnh mới được tinh cần. Khi tai họa gấp rút, siêng năng thành khẩn, lúc bình thường
không việc, chậm trễ biếng lười, là sự tu hành không chí quyết, và đó cũng là bệnh
chung của phàm phu. Nhưng sống trong tình thế hiện giờ, ví như người nằm yên trên đống củi to, ở dưới lửa đã phát cháy tuy chưa đốt
đến thân, trong giây phút khói lửa sẽ
mịt mù, không phương trốn tránh. Nếu còn lơ láo qua ngày, không chuyên chí cầu cứu
nơi câu niệm Phật, sự thấy hiểu cũng là cạn cợt lắm!
Trong Phật
pháp, tu về các môn khác, tất phải đến chỗ hạnh khởi giải tuyệt mới thật có ích, chẳng riêng gì phép quán tưởng của
Tịnh độ tông. Người tu thiền lấy một câu thoại đầu không nghĩa vị làm bổn mạng ngươn thần, để tất cả tâm trí vào đó, thường thường tham cứu chẳng kể ngày tháng, đợi đến khi tiêu hết tình kiến đối với cảnh trong ngoài, mới gọi
là đại triệt đại ngộ. Đó chẳng phải là hạnh khởi giải tuyệt ư? Đức Lục Tổ bảo: “chỉ xem Kinh Kim Cang cũng được tỏ lòng thấy tánh.” Đó chẳng phải là hạnh
khởi giải tuyệt ư? Chữ khởi đây phải hiểu nghĩa là cực. Duy dùng sức cùng cực mới có thể quên cả thân tâm thế giới, lặng suốt một màu. Nếu công chưa cùng cực, tuy quán niệm, song vẫn còn có kia đây, toàn là việc của
tình phàm, toàn là sự thấy hiểu phân biệt, đâu được chân thật lợi ích? Cho nên người xưa
khi tham thiền, đầu não như cây khô, do đó đạo phong truyền
rộng khắp nơi, đời sau còn ngưỡng mộ. Sự lợi ích ấy đều do ở nơi một chữ cực mà thôi.
Người
đời nay ưa nói suông, ít hay thực hành. Tu Tịnh
nghiệp phải gồm cả lý sự, mà sự lại càng nên chuyên hơn. Tại
sao thế? Vì người thông hiểu lý, toàn sự đều lý, trọn ngày sự trì tức là lý trì. Kẻ chưa rõ lý, khi nghe nói lý trì, cảm thấy
nghĩa ấy mầu nhiệm, lại hợp với ý biếng trễ không thích phiền nhọc của mình, liền chấp lý bỏ sự. Đâu ngờ khi bỏ sự, lý cũng thành ra việc suông! Mong các hạ
đem việc tu hành kiêm cả sự lý khuyên bảo mọi người, công đức sẽ lớn lắm!
17/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Ngô
Hi Chân
Môn niệm
Phật ước có bốn pháp: Trì Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng
và Thật Tướng. Tựu trung, chỉ có pháp Trì Danh nhiếp cơ
rất rộng, đã dễ tu lại không khởi các việc ma. Nếu muốn quán tưởng, phải xem kỹ Quán Kinh và hiểu rõ những lý: tức tâm là Phật, tâm tịnh
Phật hiện, các cảnh đều duy tâm không nên chấp trước...
Đã rõ cảnh không phải từ bên ngoài đến, không sanh chấp trước, thì cảnh càng nhiệm mầu, tâm càng thuần nhất. Nếu được như thế, sự lợi ích của quán tưởng đâu phải kém nhỏ, tầm thường?
Trái lại,
như cảnh quán chẳng thuần, lẽ đạo chưa thấu suốt, chỉ đem tâm vội gấp muốn thấy cảnh thì toàn thể là vọng, đã không được thông cảm với Phật, còn làm nhân cho việc ma. Bởi
do gấp muốn thấy cảnh, tâm càng thêm vọng động,
khiến cho oan gia nhiều kiếp
về trước nhân cơ hội đó hóa hiện cảnh giới để làm cho hành giả mê lầm. Lúc ban sơ dụng tâm đã không chơn, đâu biết
đó là cảnh ma hiện, nên vui mừng khấp khởi, tình niệm chẳng yên. Nhân đó, ma liền dựa
vào làm cho mê tâm mất tánh. Chừng ấy dù có Phật hiện thân cũng không biết làm sao cứu độ!
Vậy
cư sĩ nên lượng xét căn cơ mình, đừng quá ham việc cao xa, thành ra muốn lợi
trở lại mang hại. Thiện Đạo Hòa thượng nói: “Chúng sanh
đời Mạt pháp thần thức rối loạn, đem tâm thô quán cảnh nhiệm, quyết khó thành công.” Cho nên đức
Phật thương xót, riêng mở môn Trì Danh, vì sợ có kẻ
không khéo dụng tâm, lạc vào ma cảnh. Tu theo phép Trì Danh rất dễ,
chỉ giữ một niệm nối nhau sẽ được vãng sanh. Lại sự chí thành khẩn thiết cũng là phương pháp mầu để trị tâm vọng và ma cảnh.
Cư
Sĩ nên xét lại kỹ, và đem hết tâm lực cố gắng tu hành!
18/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Lưu Trí Không
Vừa
rồi tiếp được thơ, biết ngươi bệnh lâu mới lành mạnh, lòng rất vui mừng! Việc sống thác trọng đại, cơn vô thường chóng mau, tai nghe nói đến tuy kinh sợ, song không thống
thiết bằng tự thân đã từng trải những giờ phút gần kề cảnh ấy. Vậy ngươi nên phát lòng đại Bồ
đề, đem tình cảnh mình khuyên trong thân quyến, bạn
bè, và người có duyên thì sự lợi ích mới được rộng.
Trong thơ
nói: vì niệm Phật mau gấp nên mới lao hơi, đó là tại ngươi không khéo dụng tâm. Niệm Phật phải tùy sức mình, hoặc niệm thầm hay ra tiếng, niệm lớn hay nhỏ đều được, sao lại cứ một mặt niệm to tiếng, để đến đỗi lao hơi thành bệnh như thế? Bệnh nặng của ngươi tuy bởi nơi thương khí mà ra, song kỳ thật là do sức
nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay phát hiện. Bởi ngươi niệm Phật tinh tấn, nên mới chuyển hậu báo làm hiện báo, đổi quả nặng thành quả nhẹ, chớ nên vì đó mà thối chí, nghi ngờ. Một cơn bệnh ấy, đã tiêu không biết bao nhiêu kiếp
số những tội ác đáng lẽ phải đọa vào tam đồ. Thế mới biết sức Phật khó nghĩ, ơn Phật khó đền, nên sanh lòng vui mừng, hổ
thẹn và càng thêm tin tưởng. Từ
đây, phải siêng năng tu hành, đem môn Tịnh độ
khuyên người, khiến cho những kẻ thân sơ đều được sanh về Cực lạc. Ấy mới không phụ ơn đức Phật đã dùng cơn bệnh thức tỉnh và chuyển trừ tội chướng cho mình.
Non Phổ
Đà không cần đến làm chi, vì tiền đi về tốn kém nhiều. Ở nhà niệm Phật công phu dễ tiến, lại khỏi phí của tiền sức khỏe. Như thế có phải tiện lợi hơn không?
19/ Thơ Đáp Cư Sĩ Châu Trí Mậu (I - III)
I
Được thơ,
biết ngươi sanh lòng tin, muốn quy y Phật
pháp. Song, quy y Tam bảo phải dứt điều ác, làm việc lành, gắng giữ trọn luân thường, phát lòng tín nguyện cầu
sanh về Tây phương. Lại phải có lòng thương xót hộ sanh, đừng giết hại, và trì lục trai hoặc thập trai. Nếu chưa có thể dùng thanh đạm trọn đời, cũng chớ nên quá tham trong sự ăn uống.
Như thế mới không trái với tâm từ bi của Phật. Ngươi tên Châu Mộc, vậy nay ta đặt cho pháp danh là Trí Mậu. Bởi
tâm tánh ví như cây, do lửa phiền não thiêu đốt nên cây ấy héo khô. Nếu có trí huệ thì phiền não không sanh, và cây tâm tánh tự
nhiên tốt tươi thạnh mậu.
Muốn
thọ năm giới, trước nên xét lại tâm mình, như có thể giữ được mà không phạm, thì hỏi cư sĩ Hóa Tam về cách tự thọ giới trước bàn Phật, y sẽ chỉ lại cho. Đã quy hướng Phật pháp, phải xem kỹ Văn Sao của ta, y theo thực hành, mới không bị kẻ dung thường làm mê hoặc, khiến cho sanh tâm cầu phước báo đời sau, hoặc mong thành Tiên rồi tu phép luyện
đơn vận
khí. Nếu có thể lãnh hội ý nghĩa trong bộ Văn Sao, thì dù có trăm
ngàn ngoại đạo cũng không thể lay chuyển được tâm ngươi. Chớ cho rằng bộ ấy không đủ y cứ, phải biết những lời trong đó đều do theo ý nghĩa Kinh Phật, hoặc
thành ngôn của các bậc Tổ sư, Thiện
tri thức mà thuật lại, không phải tự ta bịa đặt viết ra.
Nên nhận
xét kỹ, sự lợi ích sẽ được nhiều.
II
Ngươi
ý chí rất kém, tâm lại quá cao, tuy nói vâng lời ta, thật
ra toàn là y theo thiên kiến của mình. Trong môn Tịnh độ,
lòng tin là cội gốc. Tin được chắc, kẻ phạm tội Ngũ nghịch Thập ác đều có thể vãng sanh; tin chưa vững,
bậc thông tông thông giáo còn hoặc nghiệp
cũng không duyên phận. Ngươi đã chẳng phải là bậc thông tông giáo, có thể nương
sức mình trừ hoặc nghiệp để khỏi sanh tử, lại không tin nơi sức Phật và công đức của tự tánh đều không thể nghĩ bàn, thì làm sao để giải
thoát? Phải biết, nếu đủ tín nguyện sâu thiết cầu về Tây phương, không người nào chẳng được vãng sanh. Niệm Phật là pháp tròn tắt mau lẹ để thoát nẻo luân hồi; với sự hướng thượng của môn này, ngươi còn chưa biết, lại sanh lòng háo thắng đi nghiên cứu
Khởi Tín Luận! Luận Khởi Tín tuy là cương yếu của Phật pháp, nhưng khó đem sự lợi ích cho người căn tánh kém và kẻ sơ
cơ. Dù cho nghiên cứu Luận
Khởi Tín được thông suốt không còn nghi, đến khi dụng công lại phải y theo phép niệm Phật cầu sanh mới là ổn thỏa. Nếu nói về lý giải, lại còn có những nghĩa của pháp tướng, thiền, giáo rất nhiệm mầu, ngươi làm sao thông suốt cho hết
được? Tâm ngươi cao như thế, mà không biết hạn lượng sự cao theo sức mình! Ngươi tự cho rằng“căn tánh hèn kém, khó mong sanh về Tây phương, chỉ cầu không đọa tam đồ cũng vui lòng”, đâu biết
nếu chẳng được vãng sanh, tương lai sẽ bị đọa vào ác đạo? Quan niệm ấy đã không hợp với giáo huấn của Phật, lại trái lời khuyên bảo
của ta, mà gọi: “vâng theo
thực hành, một lòng niệm Phật”, là thế nào?
Nay ngươi
chức nghiệp tầm thường, tư cách chưa phải là bậc cao thượng, sự lập chí như thế, thật khiến cho người đáng than thở và buồn cười? Nên dứt hẳn mối cao vọng cầu làm bậc đại thông gia ấy đi, rồi chuyên tâm nghiên cứu các kinh sách Tịnh
độ và xem lại mấy bức thơ ta gửi cho Cao Thiệu Lân, Từ Nữ sĩ trong Văn Sao, y theo đó thực hành. Chớ
nên vì mình căn tánh hèn kém mà nâng cao sự vãng sanh, để
việc ấy ra vòng ngoài. Phải dùng câu niệm Phật làm bổn mạng ngươn thần, tùy lúc động tịnh đều nắm chắc đừng buông bỏ. Lại, những tâm niệm, hành vi phải giữ sao cho hợp với tông chỉ: dứt các điều ác, làm những việc lành. Ngoài ra, nếu có sức
dư, không ngại gì tụng trì kinh chú, nên lấy sự
chí thành làm cội gốc, đừng gấp muốn suốt thông nghĩa lý. Nếu trước
vội muốn thấu hiểu, chẳng chuyên nơi sự tụng niệm chí thành, dù có thấu hiểu
cũng không thật ích, huống chi khó thấu hiểu ư? Đến như các môn pháp tướng, thiền, giáo, nghiên cứu trọn đời
cũng khó nắm được chỗ quy thú, dù được, còn phải dứt sạch hết hoặc nghiệp mới thoát khỏi luân hồi. Nói đến việc này, e rằng mộng không thành mộng đó thôi! Bộ Văn Sao của ta, ngươi xem chưa kỹ, nên lời nói ra, cao thì tới mây xanh, thấp
lại tận đáy biển thẳm.
Trong ấy, luôn luôn nhắc đến những kinh sách nên xem, cách thức xem như
thế nào, và sự khó được lợi ích của các môn pháp tướng, thiền, giáo. Sở dĩ có sự khó dễ vì pháp môn Tịnh độ nương nhờ sức từ của Phật, các pháp môn khác chỉ dùng sức
mình. Những môn kia đều là giáo lý thông thường, như
sĩ
phu trong đời do tài đức mà làm quan cao thấp. Môn Tịnh
độ là giáo lý đặc biệt, như Thái tử mới sanh đã tôn quí hơn quần
thần. Vì thế, hai bên không thể sánh nhau, mà phàm phu
nghiệp chướng vẫn nhiều, há chẳng dè dặt trong sự lựa chọn pháp môn để tu hành ư?
Ngươi
đã tự nhận năng lực kém hèn, kiếp người có hạn, sao còn mãi theo cao vọng của
mình? Việc ấy ta không ép, nếu ngươi làm được bậc đại thông gia thì cũng hân hạnh cho Phật
giáo, sợ e khi làm chẳng xong, môn Tịnh độ
lại chưa tin chắc, rồi ra hỏng mất cả đôi. Giả sử đời nay có tu được chút ít công đức, kiếp sau nhất định sẽ lạc vào vòng phước báo của thế gian. Ngươi thử nghĩ: người giàu sang đã mấy ai không tạo nghiệp? Như ngày nay vận nước nguy biến, dân chúng lầm than, đều do bởi ảnh hưởng phước báo của những người đời trước tu hành không trí huệ. Khi đã lạc
vào kiếp sau, ngươi làm thế nào bảo đảm được mình khỏi mê lầm, không đọa ác đạo? Nếu chẳng sanh về Tây phương, một đời không đọa còn có thể, hai đời không đọa rất ít lắm đó!
III
Phật
nói kinh chú rất nhiều, đâu có ai thọ trì cho hết được. Nên người xưa chỉ lựa những thứ cần yếu để làm nhật khóa. Sớm thì tụng Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập
Chú, Tâm Kinh, xong lại niệm Phật hồi hướng Tây phương. Tối đến tụng Kinh Di Đà, văn Đại Sám Hối, Mông Sơn, rồi niệm Phật hồi hướng. Hiện nay các chùa đều bớt công phu, thời mai chỉ tụng Lăng Nghiêm, Tâm Kinh; thời hôm tụng
Kinh Di Đà, văn Mông Sơn, cách ngày lại tụng Kinh Đại Sám Hối, Mông Sơn. Ngươi nói nghi nhật tụng trong tòng lâm kinh chú rất nhiều,
đó là những thứ phụ lục ngoài hai thời khóa. Người cư sĩ tại gia có thể y theo thời khóa của nhà thiền, hoặc tùy ý mình lập riêng. Như sớm tối đều tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật;
hoặc sớm tụng chú Đại Bi, niệm Phật, tối tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật,
hay trì Kinh Kim Cang cũng được. Nhưng không luận tụng niệm kinh chú chi, đều phải
niệm Phật hồi hướng, mới hợp với tông chỉ tu Tịnh nghiệp.
Những
điều ngươi bày tỏ, tuy cũng là ý tốt, song thật
ra không có chủ định,
chỉ theo hoàn cảnh đổi dời. Kinh nào, chú nào, lại chẳng
ngợi khen công đức thù thắng? Theo quan niệm của ngươi, tụng kinh này sẽ mất kinh kia, trì chú này tất buông chú nọ,
bỏ hết nghĩ tiếc uổng, tụng trì cả sức lại không kham. Như thế có được gọi là người chơn tu hiểu lý hay chăng? Suy rộng ra, nếu
ngươi gặp nhà tu Thiền khen pháp Thiền, bác Tịnh độ, cũng bắt chước họ tham thiền; cho đến các môn khác như: Thiên Thai, Mật
Tông, Pháp Tướng, Hiền Thủ, mỗi khi gặp bậc tri thức đề xướng, tất ngươi sẽ mất chủ
định bỏ đây theo kia. Chẳng biết
ngươi căn tánh bậc nào, mà muốn thông suốt hết các pháp như thế? Ta chỉ e cho ngươi nghiệp sâu trí cạn, khi làm nhà đại thông gia không được, lại
bỏ luôn cả pháp nương sức Phật vãng sanh của môn Tịnh độ, để lúc lâm chung nếu chẳng
đi đến vạc dầu lò lửa, quyết lạc vào bụng ngựa thai lừa! Giả sử may mắn không mất thân người chăng nữa, lại do đời nay tuy có công tu song thiếu chánh trí, nên nhân đó hưởng
được si phước, rồi tạo nghiệp ác, khi vô thường đến, cũng đi thẳng vào tam đồ. Chừng ấy muốn nghe tên trời, đất, cha, mẹ còn không được, huống nữa là biết pháp môn Tịnh độ ư? Ngươi xem Văn Sao của ta hiểu như thế nào? Phải biết, một câu A Di Đà Phật, nếu trì niệm đến chỗ cùng cực, thành Phật còn có dư. Ngươi cho rằng tụng Kinh Di Đà và niệm Phật, không thể diệt được định nghiệp hay sao? Phật pháp cũng như tiền, tại người khéo dùng; ngươi có tiền, làm việc gì lại không được? Nếu ngươi có thể chuyên tu một pháp, cầu sự chi lại chẳng thành? Lựa là phải khăng khăng trì chú này tụng kinh kia mới
được công đức như thế, ngoài ra không được những công đức khác hay sao? Nếu khéo thể
theo lời ta, tự nhiên hiểu một việc rõ trăm việc; bằng chẳng thế, dù nói cho nhiều, tâm ngươi cũng không chủ định, nào có ích gì?
Phàm phu ở
trong mê, lòng tin không vững, nên thường có những việc khi tu hành khi tạo nghiệp,
thoạt tin tưởng thoạt nghi ngờ. Đó cũng bởi lúc ban sơ người dạy không biết cách, nếu trước tiên đem việc nhân quả thiển cận chỉ bảo lần lần, thì đâu đến đỗi có sự mê lầm trái ngược như thế! Nhưng tội đã qua tuy rất nặng, nếu hết lòng sám hối sửa đổi, y theo sự hiểu biết chơn chánh, chí quyết tu Tịnh nghiệp, lợi mình lợi người, thì tội chướng tiêu mòn, tâm tánh sáng tỏ. Nên kinh nói: “Trong đời có hai bậc anh dũng, một là người không tạo tội, hai là kẻ đã tạo mà biết sám hối.” Một
chữ hối phải tự đáy lòng phát lộ, nếu không thật tâm ăn năn chừa cải, dù nói lắm cũng là thừa. Ví như người đọc phương thuốc mà không chịu uống, làm sao bệnh được lành? Nếu có thể y theo cách trị dùng thuốc, chắc chắn bệnh sẽ tiêu trừ, thân tâm yên ổn. Chỉ lo cho kẻ lập chí chẳng bền, thành ra cảnh một ngày phơi nắng mười ngày để lạnh, rồi cũng luống có danh suông, không phần thật
ích mà thôi!
20/
Thơ
Đáp Cho Cư
Sĩ Uông Võ Mộc
Võ Mộc
tôi niệm Phật đã mười năm, mới biết chút ít ý thú. Thiết nghĩ phương
pháp chỉ dạy về môn Niệm Phật của các Ngài Linh Phong, Mộng Đông và bộ
Văn Sao của Tôn Sư, đại để đều là phương tiện lập thiết cho hạng ngu tối quê mùa. Như bọn chúng tôi, được thông hiểu chữ nghĩa, hay suy nghĩ tìm tòi, nếu cứ
dùng phương pháp ấy, chắc không thể sanh về Tịnh độ! Theo ngu ý, những người niệm Phật cầu vãng sanh, trước tiên phải biết: “niệm Phật đó là ai?” Vì nếu
thấy được chủ nhân ông, thì niệm Phật
mới có chỗ dùng và sự vãng sanh mới có thể cầm
vững! Chẳng riêng gì niệm Phật cần nên như thế, mà tụng kinh trì chú đều phải
theo đường lối này. Người đời nay khi nói đến niệm Phật là bảo: phải niệm cho già giặn, tấm lòng như chết, mới có thể vãng sanh. Họ đâu biết, nếu không rõ “niệm Phật đó là ai?”, thì làm sao niệm
được già giặn và tấm lòng như chết? Như thế, giả sử mỗi ngày đêm niệm đến mười muôn câu, đối với việc sanh tử có quan hệ gì? Có kẻ lại bảo: “Người xưa phần nhiều chuyên chú về trì danh, không tham cứu trong câu niệm Phật.” Võ Mộc
tôi nói: “Đó là việc sau khi tham cứu xong rồi của cổ đức, hạng sơ cơ không nên bắt chước theo.” Người
niệm Phật đời nay, mười phần hết chín không rõ ý chỉ ấy, thật đáng thương xót! Tôi thường thường cạn lời khuyên bảo, mà hàng cư sĩ có kẻ lại cho tôi là tà kiến nữa.
Nghĩa mầu Phật pháp chìm tối đến thế, nghĩ nên than thở, ngậm
ngùi!
Nay xin bày
tỏ nỗi lòng, kính cầu Tôn Sư ấn chứng và mong đem nghĩa ấy giải
rộng thêm ra. Đó là hạnh phúc của
chúng sanh, đâu những riêng cho Võ Mộc!”
Xem rõ ý
trong thơ, riêng lòng xiết bao khen ngợi!
Các hạ có tâm rất tốt, muốn cho mọi người đều thấy tánh bản lai, để sanh về phẩm sen bậc thượng. Quán Kinh nói: “đọc tụng Đại thừa, hiểu nghĩa thứ nhứt, phát lòng Bồ đề, khuyên nhắc người tu”, âu là bản ý của các hạ đó chăng?
Tuy nhiên,
nói Pháp cần phải hợp cơ, nếu không xét căn cơ, lầm
cho pháp dược, thì đồng với kẻ dung y dùng thuốc giết người. Nên biết hai tông Thiền, Tịnh, cội nguồn vẫn một, song lối tu khác nhau, bên Thiền lấy
sự tánh bản lai làm tông, bên Tịnh dùng tín, nguyện,
niệm
Phật cầu sanh làm yếu chỉ. Giả sử người đời là bậc thượng căn, thì lời của các hạ thật có lợi vô cùng. Nhưng xét lại, người thượng căn rất ít, kẻ trung, hạ quá nhiều, nếu không dạy phát tín, nguyện cầu sanh, mà bảo tham cứu câu niệm Phật, đó là điều hại lớn. Vì nếu tham cứu được tỏ ngộ, vẫn là hân hạnh, song còn phải phát thêm nguyện thiết để cầu vãng sanh. Như tham cứu không thành, mà trong tâm thường giữ
quan niệm “không biết niệm Phật đó là ai, chẳng thể vãng sanh”, thì quyết khó cùng Phật
cảm thông và được nhờ sự tiếp dẫn. Người biết được “niệm Phật đó là ai”, chính là bậc đã tỏ
ngộ, thấy suốt chân tánh. Đời nay, tham cứu đến chỗ đại triệt đại ngộ phỏng có mấy người? Đừng nói chi ai, chính như các hạ
cũng chưa từng đến địa vị ấy. Tại sao biết được? Vì nếu các hạ đã đến, quyết không khi nào dám nói những câu: “Ngài Linh Phong, Mộng Đông lập thiết để dạy hạng ngu tối quê mùa không biết niệm Phật đó là ai, chẳng được gọi là niệm già giặn, tấm lòng như chết dù cho mỗi ngày đêm niệm mười muôn câu, không quan hệ gì đến việc sanh tử, và người xưa chuyên chủ trì danh là việc sau khi tham cứu, kẻ sơ cơ chẳng nên bắt chước theo.”
Xét ra, tấm
lòng các hạ thật muốn cho mình và người đều được lợi ích, song lời nói của các hạ, chính mình đã lầm, lại
khiến cho người lạc lầm. Từ đây xin chớ nói những lời ấy nữa, bằng chẳng thế, pháp môn rộng lớn độ khắp chúng sanh của Như Lai, sẽ bị các hạ vùi sâu, đóng kín, không được mở
thông. Lỗi ấy đồng với tội khinh báng Phật, Pháp, Tăng, phải nên dè dặt!
Chỗ thấy hiểu của các hạ, vì không khéo
tùy căn cơ, đem pháp thượng căn khuyên mọi người tu tập, nên thành ra thiên chấp, sai lầm.
Các hạ chẳng biết, lại cho mình hiểu đúng với nghĩa chân thật của Phật pháp, cầu xin ấn chứng. „n Quang tuy hèn kém, đâu dám lầm
hứa nhận khen giúp theo, để chính mình và các hạ
đều sa vào tội khinh báng Tam bảo hay sao? Như
cho lời của kẻ dung tăng này không đúng, xin cứ tùy ý mỗi
người tự đi riêng đường lối là xong. „n Quang đâu dám ép kẻ khác bỏ
sở kiến để theo ý hèn của mình. Chẳng qua vì các hạ hỏi đến,
nên bất đắc dĩ phải thẳng lời dâng chút ngu thành đó thôi.
Rất
hân hạnh mong nhờ sự xét nghĩ xa rộng.
21/
Thơ Đáp một
Cư
Sĩ ở Ninh Ba
Được
thơ, biết cư sĩ siêng năng đối trị tập quán, song chưa có hiệu quả. Ấy cũng bởi cư sĩ không tha thiết vì việc sanh tử, chỉ đem “pháp môn vượt phàm lên Thánh, dứt trừ hoặc nghiệp, thành tựu tịnh niệm”làm việc lấy có bên ngoài. Duyên cớ không được
thật hiệu là tại chỗ đó! Phải thường xét nghĩ: “thân người khó được, pháp Phật khó nghe, môn Tịnh độ rất là khó gặp. Nay ta đã may mắn được thân trượng phu, lại có phước duyên gặp môn Tịnh độ, dám đâu đem ngày giờ hữu hạn để cho sắc, thanh, danh, lợi làm tiêu mòn hầu hết ư? Nỡ cam chịu mãi kiếp sống suông chết uổng, rồi vẫn đắm chìm trong sáu nẻo, không biết chừng nào thoát ly đó ư?” Lại phải
đem một chữ chết dán trên đầu, khi gặp những cảnh không nên tham luyến, liền
biết đó là vạc dầu lò lửa để làm khổ lụy cho mình, thì quyết không đến
đỗi như con sâu bướm bay vào đèn tự tìm lấy sự thiêu đốt. Lúc gặp những điều đáng làm, lại nghĩ đó là thuyền từ
cứu khổ, tất không còn sụt sè trong việc nhân nghĩa, biếng trễ trên bước tu hành. Được như thế, cảnh trần cũng có thể làm duyên nhập đạo, đâu phải từ bỏ hết sự đời mới là tu niệm? Nếu tâm có chủ trương, không xoay theo hoàn cảnh, thì trần
lao chính là giải thoát. Cho nên trong Kinh Kim Cang luôn luôn khuyên bảo
chẳng nên trụ tướng; tuy phát tâm độ tất
cả chúng sanh, song không thấy mình là người
hóa độ, chúng sanh là kẻ được
độ, cho đến dù chứng đạo cũng không thấy có tướng thọ giả của quả Vô Dư Niết bàn. Đó mới là người thật hành đạo Bồ tát. Nếu trái lại, dù có độ sanh hay tu muôn công đức cũng không thể
hợp với thật tướng nhứt thừa, vì chẳng hiểu chúng sanh đương thể là Phật, trong tánh bình đẳng lầm
khởi tâm phân biệt, khiến cho sự lợi ích vô vi hóa thành phước hữu
vi. Như thế làm sao thoát khỏi vòng ràng buộc
của sắc tài danh lợi?
Người
đời
phải có bổn phận, nhưng ngoài phần việc của mình, chớ thêm điều chi vô ích. Nên để thời
giờ ấy, tùy phần tùy sức tụng kinh niệm Phật, quyết chí cầu sanh Tây phương. Đối với tất cả việc lành, hoặc ra của tiền, hoặc dùng lời để tán trợ, nếu không thì phát lòng vui theo, cũng có công đức.
Và phải đem những điều này hồi hướng, phụ giúp cho sự vãng sanh. Như thuyền đã đi theo nước xuôi lại thêm chèo chống, chẳng là mau về bến hơn đó ư? Ba mươi tháng chạp là ngày cuối năm, nếu không có dự bị saün sàng trước, đâu thể tránh khỏi các tay chủ nợ? Giờ phút lâm chung chính là ngày ba mươi tháng chạp
của một đời, nếu chưa đủ tư lương Tín Nguyện Hạnh, vẫn còn nghiệp ác tham giận mê, thì oan gia chủ nợ
từ vô lượng kiếp đến nay, đều tới đòi hỏi lôi kéo. Đừng nói chi kẻ không biết pháp môn Tịnh độ phải bó tay theo nghiệp thọ
sanh, tức như người biết mà không thiết thật tu trì, cũng bị nghiệp lực lôi cuốn vào sáu nẻo, kiếp kiếp chịu luân hồi. Muốn cầu đường yếu thoát khổ, chỉ có mỗi niệm sợ chết và chết mà đọa vào ác đạo, thì câu niệm Phật tự thuần, phẩm sen thành tựu, tất cả cảnh trần không thể cướp được chánh niệm.
Tâm Kinh
nói: “Soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách.” Năm uẩn
bao quát thân tâm và ngoại cảnh, nếu
thấy đó là không, thì chính nơi năm uẩn
mà rời năm uẩn, chỗ nào không phải pháp môn đại giải thoát, cảnh giới đại Niết bàn?
22/
Thơ
Đáp Nhạc Tiên Kiều
Muốn
trong hiện đời thật ích, phải y pháp môn Tịnh độ, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, tất sẽ thoát đường sanh tử. Nếu chẳng thế, đừng nói kẻ không được chơn truyền của Phật giáo không thể giải thoát, dù có được cũng tuyệt phần! Vì được chơn truyền là đại triệt đại ngộ không phải thật chứng. Chứng mới khỏi luân hồi, ngộ vẫn còn trong vòng ấy. Tu các pháp môn khác, đều
phải dứt hoặc chứng chơn mới thoát sanh tử. Riêng môn Tịnh độ, chỉ cần đủ tin sâu, nguyện thiết, trì danh hiệu Phật, dứt các điều dữ, làm những việc lành, gồm tu cả hai phần chánh trợ, quyết định sẽ vãng sanh. Hơn nữa, về phẩm vị còn được chiếm ngôi ưu thắng. Lại chẳng những người công hạnh tinh thuần quyết được sanh, mà kẻ phạm tội Ngũ nghịch, Thập ác, khi sắp chết biết tỉnh ngộ, hết sức hổ thẹn, sợ hãi chí tâm niệm Phật vài câu liền mạng chung, cũng quyết được
sanh. Bởi đức Phật lòng từ rộng lớn, chuyên lấy sự độ sanh làm bổn phận. Nếu kẻ nào biết một niệm quay về, liền được nhiếp thọ. Đó gọi là “nương nhờ sức Phật, đới nghiệp vãng sanh.”
Người
đời Mạt pháp, nếu tu các môn khác, không y theo Tịnh
độ, chỉ được phước báo ở cõi Trời, Người và gieo nhân giải thoát nơi
kiếp lâu xa về sau mà thôi. Do bởi chúng sanh đời
này không đủ sức dứt hoặc nghiệp, nên gốc sanh tử hãy còn. Như thế làm sao khỏi mọc lại mầm mộng sanh tử?
23/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Trương Vân Lôi
Quyển
Nhập Phật Vấn Đáp có thể dẫn dắt kẻ sơ cơ khiến cho họ lần lần đi sâu vào giáo lý đạo Phật
phát lòng tin chơn chánh. Nếu in ra đem biếu tặng để kết pháp duyên, thì công đức còn chi lớn
hơn? Những quyển ấy luận rộng về sự lý trong Phật giáo, tuy có nói đến pháp môn Tịnh
độ, thật ra chưa tỏ bày hết ý nghĩa của tông này. Nếu người đã có lòng tin, nên tìm xem các kinh sách Tịnh
độ. Như không đủ phương tiện để khảo duyệt nhiều, thì đọc kỹ một quyển Kỉnh Trung Kỉnh
Hựu Kỉnh cũng được. Quyển này gom góp những yếu nghĩa của tông Tịnh độ, chia thành môn loại rõ ràng, rất
lợi ích cho kẻ sơ cơ. Nếu được xem, có thể đi thẳng vào chỗ nhiệm mầu của môn niệm Phật, đỡ tốn công nghiên cứu các kinh sách Tịnh độ
khác.
Phật
pháp tùy người mà lập, quyết không nên chấp theo quy củ thông thường, khiến cho trái với căn cơ và mất sự lợi lớn: một đời được liễu thoát. Vậy nên lượng theo căn tánh mình, tự sắp
đặt nghi thức tu trì. Chú Vãng Sanh bằng Phạm
Văn, học được rất tốt, song chớ nên sanh lòng phân biệt cho lối
tụng xưa nay là không đúng. Nếu có quan niệm
ấy, sẽ vướng thêm mối nghi ngờ đối với tất cả chú văn trong đại tạng, rồi nhận lầm rằng những bài ấy không hợp ý Phật. Nên biết thuở xưa các bậc tôn đức dịch kinh, chẳng phải là làm việc luống suông, chớ thấy lối dịch mới khác hơn, vội xem thường lối cũ. Hơn ngàn năm trở lại đây, người tụng chú theo bản dịch cũ, được lợi ích biết bao nhiêu, đâu phải những
người ấy đều không hiểu Phạm văn? Vậy học vẫn nên học, nhưng đừng sanh quan niệm hơn kém thấp cao, thì sự lợi ích tự nhiên không thể nghĩ bàn!
Phép trì chú
cũng giống như cách tham câu thoại đầu.
Tham câu thoại đầu, vì không thể giải nghĩa, nên dứt được tình phàm phân biệt, chứng
vào tánh thiên chơn. Trì chú bởi không biết nghĩa lý, chỉ hết lòng thành khẩn tụng niệm, nên nghiệp chướng tiêu trừ, phước huệ to rộng. Những sự lợi ích ấy, không thể đem tâm tư nghĩ ngợi suy lường. Nghi thức lễ Phật không tiện lập riêng cho người có việc cần kíp, chỉ nên hết lòng thành khẩn, miệng xưng
danh, thân cúi lạy, tưởng như Phật hiện ở trước là được. Sống trong đời kiếp trược, chúng sanh tranh đua giết hại
lẫn nhau, nếu không có lá bùa hộ thân, chắc
khó khỏi tai họa. Lá bùa ấy, chính là chí thành lễ niệm
Phật A Di Đà. Lại, đức Quán Thế Âm Đại sĩ bi nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ, tùy cơ cảm liền ứng hiện, ngoài thời hôm sớm lễ Phật, nên thêm lễ niệm Đại sĩ, tất sẽ được sự gia bị trong âm thầm, có thể đổi họa làm phước, gặp rủi hóa may mà chính mình không tự biết.
Trên đây là
lời kẻ quê mùa ở phương ngoại vì người tri kỷ lập phép cứu đời. Nếu nói rằng “vì tất cả thế gian”, chẳng phải là không thể được, chỉ e người đời không chịu y phương pháp thực hành, thì biết làm sao?
24/
Thơ Gởi
Cư
Sĩ Tạ Dung Thoát
Nơi
quê hương của các hạ được
biết pháp môn niệm Phật, là do Lâm Giới Sanh thỉnh kinh sách Tịnh độ đem về truyền bá. Nếu trong đời trước các vị cư sĩ không trồng căn lành đối với pháp môn ấy, thì đâu có thể lấy gương xưa làm Thầy, sau khi nghe rồi liền
sanh lòng tín nguyện, tự tu và khuyên người ư? Và, đâu có thể trong vòng không đầy mười
lăm năm, đạo pháp lan rộng như thế ư?
Xét về
thiên tư và cảnh duyên của các hạ đối với thời cơ pháp vận hiện nay, thì chỉ nên giữ năm giới để hộ trì Tam bảo, truyền Tịnh độ mà khuyên chúng vãng sanh, là hợp
lý hợp thời và cần yếu hơn hết. Tại sao tôi lại nói như thế? Vì, các hạ tuổi đã hơn bốn mươi, căn tánh chưa phải là bậc thượng, nếu muốn nghiên cứu Tạng Kinh, tham hỏi hàng tri thức, e cho pháp môn quá rộng, ngày tháng chẳng
nhiều, rồi khi trở tay không kịp, có sự ăn năn. Lại hiện nay tuy có bậc tri thức, song Tăng chúng phần nhiều
đều ô lạm, bạn đồng hạnh ít người (đồng hạnh: bạn giúp đỡ về phần tu tập, có thể khiển trách lẫn nhau, khiến cho đạo hạnh tiến thêm), nếu khi chí hướng thượng suy kém, tất sự biếng trễ cũng nương theo, khó bề gắng gượng. Như tôi năm hai mươi mốt tuổi, từ cha mẹ xuất gia, cũng có thể gọi
là lập chí mạnh và phát tâm chơn. Nhưng
đến nay tuổi đã năm mươi ba, mà bên tông bên giáo đều không sở
đắc chi cả. Nghĩ tủi thẹn luống phụ ơn mẹ cha, uổng làm con đức Phật! Song cũng may, đối với
môn Tịnh độ, khi mới xuất gia học Kinh A Di Đà, tôi đã sanh lòng tin, thật
chưa nhờ bậc tri thức nào chỉ dạy. Vì lúc đó Thầy thọ nghiệp và các vị tri thức chỉ chuyên về sự tham cứu, những lời khai thị đều phá môn Tịnh độ. Tôi lượng biết sức mình, nên không lay chuyển theo ai, dù Phật,
Tổ hiện thân cũng chẳng đổi ý, huống nữa là lời nói của bậc tri thức bên tông Thiền? Lại hiện nay, chánh yếu tà mạnh, việc hộ trì Phật pháp, với tục thì dễ, với tăng lại khó. Nếu các hạ giữ chắc năm giới, chuyên niệm Phật, về phần tu thân lời và hạnh hiệp nhau, thì có thể truyền
bá chánh pháp, làm lợi ích cho mọi người. Song chớ nên ở địa vị Thầy mà tự cao, và thọ tiền của để lợi dưỡng. Phải đem lẽ chánh khuyên bảo những kẻ thân sơ, tất mọi người đều mến đức vâng theo lời. Đó gọi là: “sửa mình được chánh, tuy không bảo người cũng theo, như cỏ ở trước ngọn gió tất phải thuận chiều vậy.” Lệnh
lang không tin đạo Phật, cũng chẳng nên ép, đợi khi nào cảnh ngộ đẩy đưa khiến cho tánh thiên chơn phát lộ,
chừng ấy chỉ dùng một lời nhắc bảo, tự nhiên tấm lòng của y sẽ phơi phới hướng về chánh pháp, khó nỗi cản
ngăn.
Liên xã mới
mở phải có quy tắc nhất định và thận trọng về việc cho người nữ dự vào. Chẳng nên bắt chước theo các nơi khác, thờ ơ không kiểm ước, để đến đỗi một pháp vừa lập trăm mối tệ sanh theo, điều ấy rất cần yếu. Không cơ duyên được lễ bái Xá Lợi và gần gũi tòng lâm, việc ấy
có hại gì? Nếu khi thấy tượng Phật, tưởng như Phật sống, thấy Kinh Phật, lời Tổ, tưởng như Phật,
Tổ đối trước mình chỉ dạy, tấm lòng kỉnh sợ không dám biếng trễ, tức là trọn ngày được thấy Phật và gần gũi các bậc Bồ tát, Tổ sư, Thiện tri thức. Như thế, Xá Lợi và tòng lâm có thấm vào đâu? Về
tập quán thô lỗ, đừng nói hàng cư sĩ, nếu người xuất gia mà không chơn tu, lại còn quá hơn thế tục. Muốn trừ bỏ tánh ấy, trước phải nhận rõ các pháp giữa đời đều là khổ, không, vô thường, vô ngã, hoặc nhơ nhớp, thì ba ngọn lửa tham, giận, mê, sẽ dịu tắt lần. Nếu chưa dứt được, phải dùng lòng ngay thật, xót thương,
nhẫn nhục, tha thứ mà đối trị. Thảng hoặc còn chưa dứt, cứ tưởng rằng mình đã chết, thì bao nhiêu sự nóng bức
đều hóa thành mát mẻ tươi
nhuần. Kinh Báo Ân dạy phải lần lượt thọ giới, người xuất gia khi thọ giới cũng y theo thứ đệ: giới Sa di, Tỳ kheo và Bồ tát. Nhưng
người xưa thọ giới là phát tâm vì dứt sự
sanh tử, trái lại, người đời nay phần nhiều đều muốn cho ra vẻ một vị đại Tăng, đắc giới hay không, chẳng cần nghĩ đến. Vì thế, mấy ông sư thiếu học thiếu tu bên ngoài, đều là những
người đã thọ qua ba đàn đại giới cả. Sự tệ đó do bởi vua Thế Tổ nhà Thanh bỏ độ điệp, bãi lệ thí Tăng mà ra. Cho đến những
kẻ xưng là Thầy người, song chỉ cầu danh lợi, tham quyến thuộc, cũng xuất phát từ nguyên nhân ấy. Tôi e chư Tăng ở quí địa không rõ điều này, bảo rằng độ
người xuất gia là việc rất tốt, để cho hạng vô lại lẫn vào cửa Phật phá hủy chánh pháp, nên chẳng sợ
tị hiềm mà nói thẳng ra.
Môn Tịnh
độ là pháp rất mầu nhiệm, viên đốn nhất trong một đời thời giáo của đức Như Lai. (Viên đốn: một pháp đủ tất cả pháp là viên, hiện đời tu, hiện đời giải thoát là đốn). Hạng phàm phu thấp kém đều được dự vào, bậc Đẳng giác Bồ tát cũng không thể vượt
ra ngoài pháp ấy. Thật là con đường rất tắt để mau đi đến quả Phật cho thượng Thánh hạ phàm. chư Phật, chư Tổ đều dùng môn này làm chiếc thuyền
từ để độ khắp tất cả chúng sanh. Đối với một pháp như thế mà chẳng sanh lòng tin, hoặc tin mà không chơn
thiết, đó là người nghiệp chướng sâu nặng, không ưng được giải thoát, sẽ phải chịu khổ luân hồi không biết lúc nào ra khỏi. Khi đã ở trong vòng sanh tử, dù có được
làm thân Trời, Người cũng ngắn ngủi như lữ khách nghỉ nơi quán trọ. Trái lại, phần đọa vào ác đạo, thời gian rất lâu dài, như người ở yên nơi quê nhà. Mỗi khi tôi nghĩ đến điều này, bất giác cả sợ, nên chẳng nài mỏi nhọc, khẩn thiết tỏ với đồng nhân. Nay xin dẫn một
bằng chứng rõ ràng, để các hạ phát thêm lòng tín nguyện và đem ra khuyên bảo
mọi người.
Những
kinh chuyên nói về tông Tịnh độ, có ba quyển: Phật Thuyết A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ
và Vô Lượng Thọ
Kinh. Ngoài ra, các kinh điển Đại thừa phần nhiều đều phát minh pháp môn này. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đức
Phật mới thành đạo, vì các bậc pháp thân Đại sĩ trong bốn mươi mốt vị: Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, nói pháp cao cả về
giới ngoại, hàng phàm phu và Nhị thừa đều không thể biết được. Sau rốt, trong phẩm Nhập Pháp Giới, Thiện Tài đồng tử vâng lời dạy của đức Văn Thù, đi tham phỏng khắp
các bậc tri thức. (Đồng tử: danh từ xưng tặng bậc dứt hoặc chứng chơn, phá vô minh trở về
bản tánh, tâm hạnh trong sạch chân thật ví như kẻ đồng tử. Người đời không biết, vẽ hình tượng nhi đồng là sai lầm. Như đức Văn Thù, trong Kinh Hoa Nghiêm có chỗ
gọi là Văn Thù Đồng Tử. Các kinh khác đôi khi cũng dùng danh từ
này để xưng những bậc Bồ tát). Ban đầu Đồng Tử ra mắt Ngài Đức Vân nghe pháp môn niệm Phật,
liền chứng bậc Sơ trụ. Kế đó lần lượt tham học mọi nơi đều được chứng, cho đến vị tri thức thứ năm mươi ba là đức Phổ Hiền. Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền dùng oai thần gia bị, khiến cho chỗ chứng của Đồng Tử bằng mình và chư Phật, (đây gọi là Đẳng giác Bồ tát) rồi khuyên Ngài Thiện Tài cùng hải
chúng Bồ tát trong cõi Hoa Tạng phát mười
nguyện rộng lớn, đem công đức ấy hồi hướng về Tây phương Cực lạc, để cầu mau phương tròn quả Vô thượng Bồ đề. Lại, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Kinh
Quán Vô Lượng Thọ nói: “Những chúng sanh tạo năm tội nghịch, mười điều ác, làm đủ những việc chẳng lành, sẽ phải đọa vào Địa ngục, trải qua nhiều kiếp chịu sự khổ vô cùng. Nhưng nếu kẻ ấy khi sắp chết gặp bậc Thiện tri thức khuyên bảo niệm Phật, liền vâng lời niệm đủ mười câu, tức thì tội chướng tiêu trừ, được vãng sanh.” Như
Trương Thiện Hòa, Trương Chung Quì, trong Long Thơ Tịnh
Độ Văn chính là hạng người đó. Thế thì, trên như đức Văn Thù, Phổ Hiền là những bậc Đại Bồ tát, dưới như kẻ phạm năm nghịch
mười ác sắp đọa tam đồ, đều thuộc về cơ nhiếp hóa của môn Tịnh độ. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy
pháp môn này quảng đại không bỏ sót một ai, và đức A Di Đà hạnh nguyện rộng sâu, xem chúng sanh bình đẳng. Tôi thường
có đôi liễn:
“Bỏ đường tắt Tây phương, chín cõi chúng sanh khó
thể được tròn nên quả giác.
Rời cửa mầu Tịnh độ, mười phương chư Phật không vẹn toàn độ khắp hàng mê.”
Các hạ
gắng phát lòng mạnh mẽ tinh tiến, đảm đương pháp này. Nên đem những ngôn luận
hợp cơ về sự truyền dương Tịnh độ của người xưa, giảng lại cho trong thôn ấp nghe. Làm sao
cho ở trần không nhiễm, nơi tục tu chơn, mới hợp với danh nghĩa hai chữ “Dung Thoát”. Vì “Dung Thoát” là lẫn với
trần mà thoát khỏi trần vậy. Đó là ý kiến quê hèn của tôi, các hạ nghĩ thế nào? Xin suy gẫm lại.
25/
Thơ Đáp Cho Cư
Sĩ Tạ Thành Minh
Được
thơ, biết nơi quí địa còn có tâm pháp của Nho, Phật,
các hạ lại hết sức đảm đương, tôi rất lấy làm vui đẹp! Đến như những lời khen tôi, thật là đưa ngọn cỏ khỏi lầu cao, khoe mắt cá hơn châu ngọc, quá dùng theo lối khách sáo ngoài đời, khiến
cho người xiết bao hổ thẹn! „n Quang vẫn một kẻ dung tăng, hằng đón lấy canh thừa cơm hẩm nơi nhà bậc phú trưởng giả để tự nuôi sống, nếu có ai không chê rằng nặng
mùi, cũng đem để chia sớt cho nhau. Nhưng cư sĩ Từ Huất Như bảo rằng thức ăn ấy có ích cho người đói, nên mấy phen đem lời kẻ quê mùa này in ra lưu bố,
tuy về ý có phần khả thủ, song văn chương không đáng để nhìn. Chẳng dè bộ Văn Sao của tôi lại làm lờn mắt xanh của các hạ, thật nghĩ cảm thẹn không cùng! Trong ấy, những
điểm: chánh tâm, thành kính, dùng để đối
trị sự tìm cầu bên ngoài, sự không biết kiêng sợ của người đời nay, cũng có đôi phần ích lợi
cho kẻ sơ học. Nhưng, nếu bậc thông Tông hiểu Giáo được trông thấy, chắc không khỏi bắt nhợn ra. Tuy nhiên, nếu mửa
hết những thức ăn khó tiêu của Tông Giáo, thì canh thừa cơm
hẩm ấy cũng có thể bồi bổ ngươn khí, đợi đến khi sức khỏe phục hồi, lại dùng thứ cao lương mỹ vị mới được thật ích.
Về
các pháp môn: Luật, Giáo, Thiền, Tịnh, thứ nào hợp cơ, xin xem kỹ bài Tịnh Độ Quyết Nghi Luận trong Văn Sao của tôi sẽ
tự rõ. Bậc đại thông gia tuy gồm tu Thiền,
Tịnh, song tất lấy Tịnh độ làm chủ. Nếu như hạng người thường không cần phải nghiên cứu khắp kinh luận sâu xa, chỉ nên làm lành dứt dữ, một lòng niệm Phật cầu về Tây phương mà thôi. Hạng người ấy vẫn sinh sống theo đời mà gồm tu đạo xuất thế, tuy tợ hồ bình thường không chi kỳ lạ, song được
sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Vì kẻ quê mùa dốt nát chỉ dùng lòng chơn thành tin tưởng niệm Phật, nên có thể thầm hợp cùng đạo mầu, cảm thông với trí Phật. Người thông hiểu giáo lý, nơi tâm thường hay tính toán suy lường, nên trọn
ngày thức thần ở trong vòng phân biệt, so lại
không bằng sự chơn thành của hạng ngu tối kia. Cho nên, kẻ quê dốt
niệm Phật rất dễ được lợi ích. Bậc đại
thông gia như có thể buông bỏ tất cả cũng dễ được lợi ích; trái lại nếu chỉ suy lường nghĩa lý, chẳng những không đắc ích, e có khi trở thành bệnh,
hoặc chưa được cho là được, lạc vào phái ngông cuồng.
Phép tham
thiền chẳng phải là cơ duyên của người đời nay, dù có học cũng thành sự hiểu biết về văn tự, quyết không thể tỏ suốt tâm tánh. Tại sao thế? Vì thiếu bậc Thiện tri thức dắt dìu chỉ định, lại người học chẳng biết tham thiền là thế nào, phần nhiều tuy gọi tham thiền, song thật ra là ngộ nhận. Trong bài luận “Tông cùng
Giáo không nên lẫn lộn” và “Tịnh Độ Quyết Nghi”, tôi đã chỉ phần
đại khái về việc trên đây. Người đời nay, không luận căn cơ thượng, trung, hạ, đều phải gìn luân thường, giữ lòng thành kính, tin chắc lý nhân quả,
làm những điều lành và chuyên niệm Phật cầu sanh về Tây phương. Nhân quả là cái lò lớn để nung phàm luyện Thánh trong đạo pháp thế và xuất thế gian. Nếu trước tiên không nghiên cứu về
nhân quả, sau khi thông hiểu Tông Giáo, e cho còn sự
lỗi lầm đối với vấn đề này, và đã lỗi lầm tất có phần sa đọa. Vì thế, chớ cho nhân quả là cạn cợt mà xem thường. Phàm phu vì tâm lượng nhỏ
hẹp nên không hiểu thấu những chỗ nói về nhân quả trong kinh, thật ra, các đấng Như Lai thành Chánh giác, chúng sanh đọa
tam đồ, đều chẳng ngoài đạo lý ấy. Nên lấy pháp thiển cận ở đời để làm phương tiện vào đạo mầu, như các thiên: Văn Xương Âm Chất,
Thái Thượng Cảm Ứng chẳng hạn. Mấy quyển ấy, nếu xem kỹ và thực hành theo thì mỗi người
đều có thể thoát nẻo luân hồi, hoặc ít ra cũng làm được hạng
dân lương thiện. Niệm Phật tuy trọng ở sự vãng sanh, nhưng khi niệm đến cùng cực cũng ngộ được chân tâm, chẳng phải đối với đời hiện tại hoàn toàn không lợi ích. Thuở
xưa, Thiền sư Minh Giáo Tung mỗi ngày niệm
Thánh hiệu Quán Âm mười muôn câu, về sau những kinh sách ở đời,
Ngài không đọc mà biết cả. Nên xem Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, sẽ biết niệm Phật là nhiệm mầu. Về điều này, trong Văn Sao của tôi cũng thường
nói đến. Các hạ bảo: “Niệm Phật không được lợi ích ngay trong đời hiện tại”, đó là bởi chính mình chưa nghiên cứu các kinh luận của Tịnh Tông. Cho đến quyển Văn Sao của tôi, có lẽ các hạ cũng đọc qua như người chạy ngựa xem đèn, không tế tâm tìm hiểu.
Đến
như giới luật, chẳng những chỉ riêng về hình thức bên ngoài, mà nếu không giữ
lòng thành kính cũng là trái phạm. Nhân quả chính là trụ cốt của luật, nếu không biết hoặc mù mờ đối với đạo lý này, tức đã trái luật, lỗi lầm. Người niệm Phật, như giữ được tâm niệm hợp với chánh lý, thì trong một hạnh
gồm đủ cả: Luật, Giáo, Tịnh, Thiền. Nên biết, tu các pháp môn kia đều phải dứt hết hoặc nghiệp không còn mảy tơ, mới được giải thoát. Riêng môn Tịnh độ,
nếu người trừ sạch phiền não được vãng sanh, tất mau chứng pháp thân, kẻ nghiệp chướng còn nặng, khi về Cực lạc, cũng đã lên cõi Thánh. So lại hai phương
diện,
một bên toàn dùng sức mình, một
bên nương nhờ sức Phật, sự hơn kém cách xa như vực với trời. Có nhiều kẻ thông minh, mỗi khi đọc sách về tông Thiền thấy có ý vị, liền tự cho mình là thiền khách, muốn làm bậc cao nhân. Hạng ấy không biết Thiền, Tịnh là thế nào, lầm chuốc lấy lỗi tự tôn tự đại. Những kẻ có kiến giải như thế, quyết không nên bắt chước. Nếu noi theo, thì với việc
thoát sanh tử, e cho trải qua kiếp số như bụi cũng khó mong cầu.
Xin xem kỹ
lại quyển Văn Sao của tôi sẽ tự rõ.
26/
Thơ
đáp Cư Sĩ Mã Khế
Tây (I - III)
I
Thời khóa niệm
Phật nên tùy chỗ thích hợp riêng của mỗi người mà lập. Theo nghi thức ở Niệm Phật Đường của các chùa hiện nay, đều trước tụng Kinh A Di Đà, kế tụng
ba biến chú Vãng Sanh, xong lại đọc
bài kệ khen Phật, đến cuối bài, tiếp niệm “Nam Mô Tây
phương Cực lạc Thế Giới, Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật”, rồi
đứng dậy đi quanh theo bàn Phật mà niệm.
Phép đi nhiễu quanh phải từ Đông qua Nam, Tây qua Bắc, đó gọi
là thuận, là tùy hỷ và như thế mới có công đức. Ở Tây Vức rất trọng phép đi nhiễu, nước ta cũng dùng phép này, kiêm cả sự
lễ bái để tỏ lòng kính thành. Nếu đi từ
Đông qua Bắc, Tây qua Nam, tức là trái ngược,
có tội lỗi, điều này cần nên biết. Đi nhiễu quanh niệm Phật được một lúc, rồi ngồi xuống niệm thầm, ước một khắc lại niệm ra tiếng. Khi sắp xong, quì niệm Phật mười câu, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh
Hải Chúng, mỗi Thánh hiệu đều ba lần, kế đọc bài văn phát nguyện, tụng
Tam Tự Quy Y, rồi lễ Phật lui ra. Người tại gia, nếu chỗ nơi chật hẹp khó đi vi nhiễu, thì quì, đứng, hoặc
ngồi niệm cũng được. Tóm lại, phải tùy tiện theo cảnh duyên, tinh thần, sức
khỏe của cá nhân mà định, nếu nhờ người khác lập pháp thức cho, e không được hoàn toàn.
“Niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”, là cảnh giới của người đã niệm đến trình độ tâm Phật hợp nhau. Đến lúc ấy, tuy thường niệm Phật nhưng không có tướng khởi lòng động niệm, tuy không khởi lòng động niệm, mà vẫn hằng xưng niệm, hoặc ức niệm. (Chưa đến lúc tương ứng, nếu chẳng khởi động tâm niệm mà niệm, thì không niệm được). Không niệm đây, đừng nhận lầm là chẳng niệm Phật, vì đó là chỉ cho trạng thái tuyệt sự khởi tâm động niệm, thật ra thì mỗi câu Phật hiệu vẫn nối nhau không hở dứt. Cảnh giới ấy không dễ gì được, chớ nên nhận lầm. Phép quán tưởng tuy tốt, nhưng cần phải biết tượng Phật mình thấy, thuộc về duy tâm hiện; nếu nhận lầm là cảnh ngoài, có khi ma dựa phát cuồng.
Duy tâm hiện là tượng Phật tuy rõ ràng, song không phải hình tướng
chất ngại, thật có, nếu nhận định như thế thì thành cảnh ma. Lúc niệm Phật mắt nhắm hay mở, cũng thuộc về việc tùy nghi... Kiêm trì Thánh hiệu Quán Âm, rất
được chỗ nương tựa, tất cả mọi người đều nên tu như thế. Khi làm việc, không giữ được tịnh niệm, vì chưa đến cảnh giới một lòng chẳng loạn. Như thế tất khó khỏi sự ngăn cách, bởi một tâm không có hai dụng. Nên thường
định tâm soi vào trong.
Mỗi
người đều phải giữ bổn phận, như ngươi trên có bà nội, cha mẹ, dưới có vợ cùng em dại, chức nghiệp lại nhàn nhã rất dễ tu trì. Ở hoàn cảnh ấy chẳng thiết thật dụng công, còn muốn xuất gia làm chi? Có chắc rằng
ngươi xuất gia, lại được cơ duyên tốt như thế để chuyên tâm tu hành chăng? Nên biết, xuất
gia có bổn phận của kẻ xuất gia, đâu phải bỏ tất cả công việc? Như Ấn Quang đây xem ra như người
vô sự, nhưng cũng bị bận buộc hầu hết tháng năm, không rỗi rảnh
để
chuyên tâm niệm Phật, huống là kẻ khác ư? Vậy nên tùy sức tu trì, đừng tưởng nghĩ việc chi ngoài bổn phận.
Đó là hạnh
phúc cho ngươi, mà cũng là điều ta mong ước.
II
Người tu hành rất
cần yên tâm tịnh dưỡng. Ngươi tên Tịnh Am, sao chẳng xét tên nhớ nghĩa, cứ sanh thêm việc để cho mọi người lờn chán, chính mình lại vương
lấy các chứng: uất hơi, xây xẩm, đau đầu? Nếu ngươi còn chẳng biết tự trọng, tất rồi sẽ thổ huyết, nhẹ thì thành phế tật, nặng hoặc đến thân mạng không toàn. Chừng đó lại
để cho người đời mai mỉa rằng ngươi học Phật tu hành, chẳng những không lợi ích còn bị tổn thêm! Rồi cũng từ nguyên nhân ấy, một hạng kém hiểu biết sanh lòng phỉ báng, bảo: Đó là sự tai hại của Phật pháp. Họ lại tìm đủ cách ngăn trở kẻ khác tu niệm, phá mất căn lành của người, mấy ai tìm hiểu lỗi ấy do ngươi không thật hành đúng theo Phật giáo. Vậy
ngươi phải biết điều hay dở, gắng giữ tròn bổn phận người tu, làm sao cho được sự
cảm thông trong thầm lặng. Bệnh của ngươi đều do chính mình chuốc lấy,
không tự xét tỉnh, lại còn hỏi ai?
Vậy
ngươi nên mau cải lỗi và nhiếp tâm niệm Phật, kinh điển cũng tạm đình lại đừng xem. Cứ y theo lời ta, độ một vài tháng sẽ được bình phục. Nếu chẳng thế, thì xin tuyệt nghĩa Thầy trò, ngày khác có gặp nhau cũng đồng
như người đi đường mà thôi!
III
Danh là bề
ngoài của sự thật. Có thật có danh vẫn không lấy làm vinh, vì đó thuộc về
bổn phận. Không thật có danh, đã nhiều thẹn
nhục, huống chi còn muốn đăng lên báo để khêu động tai mắt của khách bốn phương? Việc ấy nếu làm ra, mọi người sẽ nghi ngờ bàn luận,
tất trở thành cái thật án trộm danh khi đời. Ngươi chỉ biết một, chẳng biết hai, nên ta phải đôi phen giải bày chỉ rõ. Với Phật pháp, ngươi tuy có lòng tin sâu, nhưng lại
ưa phô trương, kết giao, du ngoạn; đó là điều chướng ngại lớn cho sự tu hành. Vả lại ngươi tuổi mới hơn hai mươi, mà đã kết giao nhiều như thế, sau này khi học Phật được tinh thông, chắc mỗi ngày không có lúc nào rỗi rảnh.
Nên yên tịnh trầm lặng, sự lợi ích sẽ vô cùng!
Phải
gắng dè dặt và tự kiểm thúc lấy!
27/
Thơ
Đáp Một
Cư
Sĩ ở Dõng Giang
Sắc
dục là chứng bệnh chung của người đời. Chẳng những hạng người trung, hạ bị nó làm mê, mà bậc thượng căn nếu không kiêng sợ giữ gìn, cũng khó khỏi mang hại.
Xưa nay biết bao trang tuấn kiệt có thiên tư làm Thánh hiền, chỉ vì phá không nổi lớp cửa ấy, trở thành kẻ hèn ngu bất tiếu! Vô số loài hữu tình cũng vì đó mà sa đọa vào tam đồ.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật bảo Ngài A Nan: “Nếu chúng sanh ở sáu đường trong các thế giới, dứt được lòng dâm, thì không còn bị xoay vần theo vòng sống, chết. Ngươi tu Tam muội, vì cầu ra khỏi trần lao, nếu chẳng trừ lòng dâm, tất không thể nào giải thoát.”Với người
học đạo, vấn đề trọng đại là sự sống chết, nếu không mau thống trừ căn bệnh kia, làm sao lìa nỗi khổ
luân hồi? Như pháp môn niệm Phật tuy là đới nghiệp vãng sanh, song nếu đem lòng dâm cố
kết, tất sẽ cách ngăn với Phật, đạo cảm ứng khó giao thông. Muốn dứt
mối họa ấy, không chi hơn khi thấy tất cả người nữ, đều tưởng là thân thuộc, oan gia và nhơ nhớp.
Tưởng
như thân thuộc là thế nào? Khi thấy người người nữ tuổi cao thì tưởng là mẹ, lớn hơn mình tưởng là chị, nhỏ hơn tưởng là em, nhỏ hơn nữa, nên tưởng là con. Người lòng dục dù mạnh, quyết không dám đối với mẹ, chị, em và con, sanh niệm bất
chánh. Đó là dùng luân lý ngăn dục tâm khiến
cho
không phát khởi.
Tưởng
như oan gia là thế nào? Người đời, theo tình thường khi thấy sắc đẹp liền động lòng luyến ái. Do tâm mê nhiễm ấy,
nên đọa vào ác đạo nhiều kiếp chịu khổ không được thoát ly. Thế thì vẻ kiều mị đẹp tươi, sánh với cọp, sói, rắn rít cùng các thứ thuốc độc, còn hại gấp trăm ngàn lần! Đối với mối oan gia rất lớn ấy, còn quyến luyến ưa thích, há chẳng phải là ngu mê quá lắm ư?
Tưởng
nhơ nhớp là thế nào? Sắc đẹp chỉ là một lớp da mỏng bên ngoài. Nếu banh lớp da ấy ra, thì dẫy đầy những xương, thịt, máu, mủ, đờm, dãi, phẩn uế, hôi tanh nhơ nhớp không ai muốn nhìn! Những thứ không đáng ưa đó, chỉ vì một làn da mỏng giấu che, làm cho người lầm
sanh lòng yêu mến. Như chiếc bình đẹp đựng đồ hôi nhơ, không ai cầm lấy để ngắm, xem. Lớp da của mỹ nhân chẳng khác chi chiếc bình đẹp kia, trong ấy nhơ nhớp còn hơn phẩn, đâu nên chỉ ưa thích bề ngoài, quên hẳn bề trong, lầm sanh vọng tưởng ư? Nếu không răn dè sợ hãi, thống trừ tập tánh ấy, tất bị vẻ đẹp mỏng manh phỉnh gạt, mũi tên ấy sẽ ghim sâu vào xương tủy,
làm sao tự nhổ ra? Lúc bình thường đã như thế, mà muốn sau khi chết chẳng đọa vào bào thai, việc ấy
không thể có. Nhưng vào bào thai người còn khá, vào thai loài
súc thú mới ra thế nào? Thử suy nghĩ kỹ điều này, tâm thần tự nhiên kinh động sợ hãi! Song, muốn cho khi thấy cảnh không khởi lòng nhiễm, trước phải thường tưởng ba điều trên, thì lúc đối cảnh
mới khỏi bị lay chuyển. Bằng chẳng thế, dù không thấy cảnh, ý vẫn mơ tưởng triền miên, cũng vẫn bị tập khí dâm dục ràng buộc. Cho nên, đối với nữ sắc phải xét nhận thấu đáo, quét sạch tập quán dục nhiễm, mới có phần tự do.
Mỗi
ngày, ngoài chức phận của mình, cư sĩ gắng chuyên tâm niệm Phật và đem hết lòng thành kính tha thiết sám hối
tội nghiệp từ vô thỉ đến nay. Như thế, lâu ngày sẽ có sự lợi ích không thể nghĩ bàn mà chính mình không tự biết.
Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có chúng sanh nào nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ tát, sẽ được lìa dục”, cho đến nhiều giận hờn, ngu si cũng như vậy.
Thế thì biết, nếu chí thành niệm Thánh hiệu đức A Di Đà, tất cũng được tiêu trừ ba món hoặc: tham, giận, mê. Lại, hiện nay là thời buổi nhiều hoạn nạn, ngoài giờ niệm Phật, nên niệm thêm Thánh hiệu đức Quán Âm. Như thế, sẽ được sự chuyển biến rất mầu nhiệm trong âm thầm, mới khỏi cảnh khi túc nghiệp hiện ra không phương trốn tránh. Phải tìm xem những sách: giới dâm, nhân quả, báo ứng, xa lìa bạn bè du đãng thì tâm hạnh mới
được chánh đáng, vững vàng và Tịnh nghiệp mới có thể thành tựu.
Cố
gắng! Cố gắng!
28/
Thơ Đáp Hai Cư
Sĩ Ngạn Như,
Dật
Như
Xem thơ,
thấy nhị vị tỏ ý phiền muộn vì việc đời buộc ràng, không biết làm sao được giải thoát. Mọi người đều có bổn phận, duyên sự tuy nhiều nhưng nếu tâm điềm nhiên không chuyển theo cảnh,
thì đương lúc bận buộc cũng được giải thoát an nhàn. Cảnh trạng
ấy như đài gương soi hình, hình đến không trở
ngăn, hình đi chẳng lưu luyến. Nếu không hiểu nghĩa này, dù cho bỏ hết
việc đời, nơi tâm cũng còn vương vấn, rộn ràng chẳng yên. Người học Phật biết an theo phận mình, giữ tròn nhiệm vụ, thì dù có tiếp xúc muôn duyên, mỗi ngày vẫn
thung dung ngoài cảnh vật. Đó chính là nghĩa “một lòng không trụ, muôn cảnh đều nhàn” vậy.
Đến
như niệm Phật, rất cần ở sự thoát ly vòng sống chết. Đã vì việc ấy tất đối với nỗi khổ luân hồi tự sanh chán nản, với sự vui Cực lạc tự sanh mến ưa. Thế là trong một niệm đủ cả hai điều tín nguyện. Thêm vào đó lòng chí thành khẩn thiết
như con nhớ mẹ, thì sức Phật, sức Pháp và sức công đức tín nguyện của tâm mình, ba pháp đều vẹn
toàn. Lực dụng ấy ví như vầng nhật giữa trời, dù có tuyết sương dầy đặc, không mấy chốc cũng tự rã tan. Người mới niệm Phật chưa đến lúc thân chứng Tam muội, làm sao khỏi có vọng niệm? Nhưng nếu biết đem tâm soi vào trong, không theo vọng
cảnh, cũng đã quí lắm rồi!
Ví như hai chiến trận đối nhau, cần phải giữ thành lũy mình cho chắc, đừng
để bên nghịch xâm phạm, phòng khi quân giặc kéo qua liền
đón lại đánh. Lúc ấy phải đem binh Chánh giác bao vây bốn bên, khiến
cho đối phương không đường tẩu thoát, phải chịu quy hàng. Điều cần yếu là vị chủ soái phải thường thường tỉnh táo đừng biếng trễ, hôn trầm. Nếu phạm hai lỗi ấy, chẳng những không phá được giặc, trở lại bị giặc tiêu diệt. Cho nên người niệm Phật nếu không biết nhiếp tâm, thì càng niệm càng sanh vọng
tưởng. Nếu có thể nhiếp tâm, vọng niệm sẽ lần lần yếu bớt, cho đến khi tiêu tán không còn. Nên người xưa
có lời kệ:
“Học đạo dường như giữ cấm thành,
Ngày phòng
sáu giặc, tối tinh chuyên.
Tướng, quân, chủ soái đều theo lịnh,
Chẳng động đao thương nước được yên.”
29/
Thơ
Đáp Cư Sĩ Bao Sư
Hiền
Hỏa
hoạn ở Ôn Châu nghe qua thê thảm! Tai trời
nạn nước thật không biết đâu là cùng! Cảnh khổ ấy đủ làm bằng chứng cho lời kệ: “Ba cõi
không an, dường như nhà lửa” trong Kinh
Pháp Hoa, và cũng là một duyên nhắc nhở rất thiết cho sự tín, nguyện, niệm Phật cầu sanh về Cực lạc.
Niệm
Phật chẳng quy nhất, do bởi không tha thiết đối với việc sống chết luân hồi. Nếu tưởng mình bị nước cuốn lửa thiêu không ai cứu vớt,
hoặc đang ở vào giờ phút lâm chung sắp đọa
Địa ngục, thì tâm tự quy nhất, chẳng cần phải tìm phương pháp chi nhiệm mầu. Vì thế, trong kinh thường nói: “Nên nghĩ sự khổ nơi Địa ngục, phát lòng Bồ đề.” Đây là lời
chỉ dạy rất thiết yếu của đấng đại giác Thế Tôn, tiếc vì người đời không chịu thật tâm tưởng nghĩ đến. Sự khổ nơi Địa ngục sánh với thảm họa nước lửa, còn gấp không lường, không ngằn lần đau đớn hơn! Tưởng đến lửa thiêu nước cuốn thì sợ hãi, nghĩ đến Địa ngục lại thờ ơ đó là người trí lực kém tối không thể quan sát rõ ràng sự khổ.
Giả sử được một phen tận mắt trông thấy cảnh ấy, chắc bất giác lông tóc dựng đứng,
xương lóng đều rung, không tự kiềm chế được.
30/
Thơ Đáp Pháp Hải
Đại
Sư
Hơn
mười năm nay, tòa hạ tìm Thầy học đạo để mưu sự lợi ích cho mình và người, đó là điều
đáng khen ngợi. Nay lại buông bỏ muôn duyên, một lòng niệm Phật, lấy quả giác làm nhân địa tu hành, có thể
sẽ thân chứng Tam muội và chiếm được phẩm cao. Nếu tòa hạ phát lòng quả quyết thì sự mong cầu tất nhiên thành tựu. Nhưng người đời niệm Phật tuy nhiều, song chứng Tam muội rất ít, vì chưa buông được muôn duyên giữ một niệm, nên tâm cùng Phật khó dung hợp
nhau. Tòa hạ đã thiết thật giữ sạch thân tâm, lẽ nào lại không có chỗ sở đắc? Nhưng trong thơ về mấy điểm: “Tỏ lòng thấy tánh, thoát ly sự sống chết và bằng cứ chứng đạo đến tay”, cần phải đôi chút phân biệt.
Nếu
tu theo giáo lý thông thường, dù được tỏ lòng thấy tánh, cũng còn cách xa với sự
thoát ly sống chết luân hồi, vì cảnh giới ấy thuộc về ngộ chớ không phải chứng. Người đời nay ngộ đạo còn rất ít, huống nữa là chứng ư? Chứng đạo thì hoặc nghiệp mới hết sạch, gốc sanh tử đã dứt, không còn cảm quả luân hồi. Bậc Tu đà hoàn bảy lần sanh lên trời, bảy lần trở lại nhân gian, mới tiêu hết hai món hoặc kiến, tư, chứng quả A la hán. Ngài Thiên Thai thị hiện
ở ngũ phẩm, Ngài Nam Nhạc ở ngôi Thập tín; các bậc Đại sĩ ấy còn ẩn thật đức của mình, tự bảo chỉ được địa vị nội, ngoại phàm, thì đâu phải dễ
dàng khi muốn nói chứng đạo? Song đây là ước theo giáo lý thông thường để
luận sự khó khăn về chứng đạo trong hiện đời. Nếu cứ theo môn Tịnh độ là pháp đặc biệt của đức Như Lai lập ra, thì trên từ bậc Đẳng giác dưới đến hạng tội nặng A tỳ, như đủ tín nguyện, đều được nương sức từ của Phật sanh về Cực lạc. Khi đã vãng sanh, tất sự
tỏ ngộ cùng chứng đạo dễ dàng như lượm cỏ. Một điều hơi khác, tòa hạ chuyên tâm niệm Phật, không đề cập đến sự vãng sanh trong lúc lâm chung, lại
nói có thể nắm chắc bằng cứ chứng đạo. Nói rằng chứng đạo cũng được, sao lại bảo: bằng cứ đến tay? Nếu bằng cứ đến tay thì không cần luận,
thảng như không đến mới liệu làm sao? Xét qua ý tứ trong lời
nói ấy, dường như tòa hạ chỉ niệm Phật
suông, không phát lòng tín nguyện cầu sanh Cực lạc. Đó là lối dùng sự niệm Phật làm câu thoại đầu của nhà tu Thiền, không đúng với tông chỉ Tín Nguyện Hạnh trong môn Tịnh độ. Niệm Phật không tín nguyện so với phép tu Thiền tham câu thoại đầu tuy công đức lớn hơn, nhưng nếu hoặc nghiệp vẫn còn, tất không được giải thoát. Lại bởi không tín nguyện, nên không thể nương nhờ sức Phật tiếp độ, vẫn là pháp môn tự lực thông thường, rất khó chứng đạo. Chớ cho sự tín nguyện cầu sanh là thấp kém, vì trên hội Hoa Nghiêm, hải chúng trong cõi Hoa Tạng đều
dùng mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh. Hơn nữa, các bậc Bồ tát, Tổ sư trong tông Tịnh độ đều bảo phải phát lòng tín nguyện cầu
sanh Cực lạc. Sao Tòa hạ lại lập riêng môn đình không theo Thánh quy của
Phật, Tổ như thế? Và, người đã suốt tháng, suốt năm, suốt đời niệm Phật, đâu nên không tu hạnh Lễ
Kỉnh? Trong mười đại nguyện vương, Lễ Kỉnh đứng đầu, tòa hạ bỏ việc gì còn có thể được, quyết không nên bỏ sự lễ Phật. Nếu chẳng lễ Phật chắc khó cảm thông, vì lẽ thân ưa
an ổn, tất thiếu trợ duyên để triển đạt hết lòng thành. Theo phép chuyên tu của
Ngài Thiện Đạo thì thân chuyên lễ, miệng
chuyên xưng, ý chuyên niệm, niệm cùng cực tự nhiên ngoài tâm không Phật, tâm Phật
như nhau.
Sự
chứng đạo ấy, các lối tu chứng về tự lực không thể sánh kịp. Về việc này, người xưa đã thí dụ như tên dân hèn kém nương bánh xe báu của
Luân Vương, một ngày có thể dạo khắp bốn châu lớn. Vậy tòa hạ không nên đem pháp môn niệm Phật
rất đặc biệt, tu theo đường lối tự lực về quán hạnh thông thường. Ấn Quang tuy hèn ngu, thật chẳng
dám hứa nhận việc ấy. Nếu tòa hạ có thể dùng lòng trong sạch không nhiễm
mảy trần, phát ba tâm mà niệm Phật,
thì hiện đời sẽ thân chứng Tam muội, sau khi mạng chung liền sanh về Thượng phẩm. Như thế, Ấn Quang xin vòng tay trước để chúc mừng.
Kẻ
ngu ngàn việc, dùng được một điều, mong Tòa hạ xét lại.
31/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Hoàng Hàm Chi
Tiếp
được thơ, không xiết vui mừng! Tôn phu nhân kiếp trước
có nhiều căn lành, nên mới có cảm
đến các hạ giúp cho được vãng sanh, và bảo con cháu trong nhà vì người niệm
Phật lâu ngày để truy tiến. Như thế chẳng những người chết được lợi ích, mà bao nhiêu kẻ trợ
duyên cũng trồng sâu căn lành. Ấy mới
gọi là thật lòng thương xót, khác hơn tập quán mê lầm của người đời, khi thân nhân bất hạnh
liền sát sanh để cúng tế, khiến cho vong linh kẻ chết
bị câu trệ nơi u đồ. Việc của Tôn phu nhân như thế
là vẹn toàn, nhưng còn Thái phu nhân tuổi đã tám mươi
ba, các hạ nên khuyên người sanh lòng tín nguyện niệm
Phật. Song với người tuổi đã cao, sự tu hành lại đang ở vào bước đầu, năng lực của thân và tâm đều kém yếu, sợ e không thể niệm được trọn ngày. Trước kia, tôi muốn đặt ra pháp thức để trợ niệm trong lúc hiện tiền cho những người như thế, nhưng nghĩ mãi chưa được. Một hôm, nhân thấy quan Trấn Thủ Vương Duyệt Sơn đem mẹ và quyến thuộc đông đảo lên núi để chiêm bái, tôi bỗng tìm được
một cách trợ niệm rất hay. Phương pháp ấy tôi đã lược thuật cho Vương Trấn Thủ, nay cũng xin vì các hạ tỏ
bày:
Quyến
thuộc của các hạ, về phần nam đều có chức nghiệp riêng, về phần nữ như dâu, con gái cho đến kẻ
nhũ mẫu thì không việc chi cần yếu lắm. Các hạ nên bảo mấy người ấy thay nhau ở bên Thái phu nhân, cao tiếng niệm
Phật mỗi phiên độ nửa giờ. Mỗi ngày cứ luân phiên như thế đừng cho tiếng niệm hở dứt. Thái phu nhân có thể niệm
theo vẫn tốt, bằng không chỉ khuyên người nhiếp tâm nghe kỹ, thì cũng được thường không rời Phật. Những người trợ niệm chẳng mấy gì phí sức, bởi mỗi ngày bất quá chỉ một đôi phiên là nhiều, lại
gieo được nhân lành giải thoát nữa. Các hạ nên mượn phương pháp ấy để làm tròn hiếu đạo, dù Thái phu nhân thọ hơn
trăm tuổi, cũng cứ giữ tiếp tục y như thế, thì lợi ích không thể nghĩ bàn. Và, khi gặp những
người có tín tâm muốn thành tựu sự vãng sanh cho cha mẹ, đều
nên đem cách thức này chỉ bảo. Các hạ mắc rộn ràng vì việc quốc chánh, không thể định
thời niệm giúp, nhưng nếu có lúc nào rỗi rảnh, cũng nên niệm một phiên để nêu gương, khiến cho con cháu tinh tấn vui mừng.
Theo ý tôi,
làm như thế có nhiều tiện lợi. Nên đem phương pháp này viết thành một bài phụ vào đoạn cuối của quyển Văn Sao, để cho những người có lòng báo hiếu không đến đỗi luống than câu: “Muốn trả ơn sâu, trời cao không cùng!”
32/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Hà Huệ Chiếu
Được
thơ, biết ngươi túc căn rất sâu, hiện hạnh lại tinh thuần nên mới có những cảnh tượng lạ ấy. Nhưng người đời nay phần nhiều hay ưa danh vọng, có được nửa phần một phần, liền nói đến trăm ngàn muôn phần. Như
trong quyển ký lục của vị cư sĩ nọ, những cảnh giới của y đều do tự ý vẽ vời ra khác hẳn với sự thật. Ngươi đã không nói dối, nhưng e hoặc khi có tập quán đó thì lầm lỗi rất nhiều! Đức Phật đem tội nói dối liệt vào trong năm giới căn bản,
chính là để phòng ngừa mối tệ ấy. Như về việc thường, không thấy nghe nói thấy nghe, tội hãy còn nhẹ. Nếu cố ý muốn xây dựng lâu các giữa hư không, dối nói những cảnh giới nhiệm mầu, chưa chứng đắc bảo rằng chứng đắc, tức là đại vọng ngữ, tội này nặng hơn giết, trộm, dâm trăm ngàn muôn ức lần.
Người đã phạm, nếu không hết sức sám hối, tất sẽ bị đọa vào ngục A tỳ, vì lời nói ấy làm cho chúng sanh nghi lầm, có thể
phá hoại Phật pháp. Vậy ngươi cần phải thận trọng với những cảnh đã thấy, chớ nên nói thêm bớt một mảy ly. Nếu thêm bớt tức là có lỗi, vì bậc tri thức chưa chứng được tha tâm đạo nhãn, chỉ dùng lời nói làm bằng cớ để phán đoán mà thôi. Đem những cảnh
giới như thế tỏ với bậc trí thức để cầu quyết trạch sự chơn, giả, chánh, tà, thì không lỗi. Nếu
không vì việc chứng minh quyết trạch, ý muốn tự khoe cũng có lỗi. Lại, chỉ nên tỏ cùng bậc tri thức cầu xin chứng minh, ngoài ra chớ nên nói với
ai, nếu lộ bày thì có hại, vì về sau không còn được thấy cảnh giới ấy nữa. Đây là điều quan hệ thứ nhất của người tu hành, mà trong Thai giáo thường nói đến.
Cho nên người niệm Phật đời nay phần nhiều hay bị ma dựa, đều do dùng tâm vọng động mong được những cảnh lạ thường. Đừng nói cảnh ấy là ma, dù có thắng cảnh,
nếu sanh lòng vui mừng tham trước
cũng bị tổn hại, huống chi vị tất quả thật là thắng cảnh ư? Nếu người có công hàm dưỡng, dứt hẳn tâm vọng động, khi thấy các cảnh giới, không vui mừng, tham trước, sợ hãi, nghi ngờ, thì dù gặp ma cảnh cũng được lợi ích, nói gì là cảnh nhiệm
mầu? Sở dĩ được như thế, là bởi không bị ma chuyển nên có thể tiến triển thêm. Những điều trên đây ta ít hay đem nói với người,
nay nhân vì ngươi có việc ấy nên phải dẫn bày chỉ rõ.
Trước
tiên, ngươi lễ Phật, bỗng thấy tượng Quán Âm Đại sĩ hiện ra là không đích xác. Nếu quả
đúng cảnh Phật thì không đến đỗi nhân khi suy nghĩ: “Tượng cùng Quán Kinh không hợp”, liền
ẩn hình. Nhưng do đó lòng tin của ngươi
càng tha thiết, thì cũng là nhân duyên tốt. Song chẳng
nên thường muốn thấy hình tượng, chỉ thành tâm lễ bái mà thôi. Như thế mới khỏi lo có sự rủi ro khác.
Khi ngươi
sắp ngủ, thấy trước mắt có ánh sáng trắng và lúc lễ Phật, thấy hình Phật đứng lơ lửng giữa hư không, tuy thuộc về cảnh tốt, song chớ nên tham trước mong cầu, vì nếu thế, về sau cảnh ấy không còn hiện nữa. Xem căn tánh của ngươi
dường như kiếp trước đã từng tu tập thiền định, nên mới thường có những tướng ấy. Đời nhà Minh, ông Ngu Thuần Hi tịnh
tu ở núi Thiên Mục, chỗ tử quan của Cao Phong Diệu Thiền sư thuở xưa, lâu ngày tự biết việc quá khứ vị lai, hay nói trước những cơn mưa nắng và sự họa phước của người. Liên Trì Đại sư nghe được việc ấy, gửi thơ cực lực bài xích, cho rằng đó là lưới
ma. Thuần Hi tỉnh ngộ, quả nhiên về sau không còn đoán trước được
nữa. Cho nên người học đạo phải để tâm lo việc lớn, nếu chẳng thế tất sẽ bị việc nhỏ làm tổn hại. Đừng nói chi những cảnh giới ấy, dù cho được ngũ thông cũng phải gác bỏ
bên ngoài, mới có thể chứng lậu tận thông. Nếu một bề tham trước thì công phu khó tiến, hoặc
có khi thối lui, điều này cần phải biết.
Ngươi
nằm mơ thấy vào điện Phật, nhớ hai câu kinh, cũng thuộc về
cảnh lành. Song hai câu ấy nghĩa lý rất
rõ ràng không chi khó. “Phản hư y giác lộ. Quy chơn ngộ thường không.” (Bỏ
giả theo đường giác. Về chơn ngộ thường không), là ý nói: Chúng sanh vì nhận
lầm sự vật giữa đời đều có thật, nên mới mê man xoay vần trong nẻo luân hồi. Nếu có thể quán sát biết sự vật đương thể vốn không, thì liền ra khỏi lối mê, nương theo đường giác, trở về bản tánh, ngộ được lý thật tướng, chơn không, chơn thường. Hai câu ấy chưa thấy ở đâu, cũng có khi đó là câu văn đã ghi nhớ
đời trước, chưa chắc chính thực văn kinh. Muốn phân biệt ma cảnh hay Thánh cảnh, phải xét lại cảnh ấy xem có hợp
với lời dạy trong kinh chăng? Và như quả
là Thánh cảnh, thì khiến cho người khi trông thấy tâm liền thanh tịnh, không vọng động chấp trước; nếu là ma cảnh thì tâm liền vọng động chấp trước không được thanh tịnh. Lại nữa, quang minh của Phật tuy sáng ngời song không làm xót con mắt, nếu
không đúng thế, tức là ma trá hình. Khi Phật hiện,
dùng lý: “các tướng hữu vi, đều là giả dối” mà gạn,
thì càng hiện rõ. Nếu ma trá hiện, dùng lý ấy xét gạn thì liền ẩn hình. Đây là phương châm rất
vững chắc để khán nghiệm sự chơn giả vậy. Ban đêm, ngươi thấy ánh sáng trắng và cảnh trong ngời giữa hư không đó là do tâm thanh tịnh hiện
ra, đâu nên cho là tướng pháp giới tịch chiếu không hai? Nếu nghĩ như thế là đem phàm lạm Thánh, tội lỗi chẳng ít. Người tu Tịnh nghiệp như chẳng lấy các cảnh giới làm mong cầu, thì cũng không có hiện cảnh
chi nhiều. Nếu trong lòng chuyên muốn thấy
cảnh, tất cảnh giới hiện ra phức tạp. Lúc ấy, như không khéo dụng tâm, hoặc có khi bị tổn hại, phải để ý nhớ kỹ điều này.
Pháp môn Tịnh
độ dùng Tín, Nguyện,
Hạnh làm tông. Có tín nguyện, không luận
công hạnh nhiều ít, cạn sâu, đều được vãng sanh. Không tín nguyện, dù cho tu đến
cảnh quên cả năng sở, thoát hẳn căn trần, cũng khó hy vọng được về Cực lạc. Bởi vì, nếu quả chứng được thật lý của cảnh ấy, có thể dùng tự lực để thoát sanh tử, thì không cần luận. Như chỉ có công phu dẹp trừ vọng chấp tỏ thấy lý ấy, chưa được thật chứng, tất nhiên khó vãng sanh khi thiếu Tín Nguyện.
Nhà tham thiền khi bàn luận Tịnh độ, đều bỏ tín nguyện đem về tông thiền. Như y theo đó mà tu, cũng có thể khai ngộ,
nhưng nói đến sự thoát sanh tử, e cho mộng tưởng không thành, bởi vì chưa
dứt hoặc nghiệp. Nên biết phàm phu được về Tịnh độ, đều do lòng tín nguyện cảm
Phật, nên nương nhờ từ lực, đới nghiệp vãng sanh. Nếu không phát tín nguyện, lại
dẫn câu niệm Phật đem về tự tâm, thì làm sao cảm được
Phật? Đạo cảm ứng đã không hợp, tất chúng sanh cùng Phật riêng cách, dùng môn
hoành siêu làm pháp thụ xuất, sự lợi ích cạn mà tổn thất lại sâu. Lợi ích, là tu y theo nhà Thiền nói, cũng có
thể tỏ ngộ; tổn thất, là bỏ tín nguyện nên không được tiếp dẫn vãng sanh. Vì thế người
chơn thật tu Tịnh độ không dùng được lời khai thị của nhà tu Thiền, bởi pháp môn và tông chỉ đều
riêng khác.
Vậy
ngươi nên xét kỹ lại. Như chẳng cho lời ta là phải, thì cứ thỉnh cầu nơi bậc đại thông gia, hoặc may có thể hợp với tâm chí của ngươi. Về việc ấy, Ấn Quang này vẫn không chấp trước chi cả.
33/ Thơ Đáp Cư Sĩ Úc Trí Lãng
Về
việc của Phước Tuấn, nếu khi còn sống cho đến lúc chết, quả có những sự thật y theo lời ngươi nói, thì quyết định được vãng sanh. Thuở bình thời, Phước Tuấn đã nhận rõ sắc thân là huyễn, điều ấy rất có lợi ích. Bởi người nữ thường hay yêu mến thân giả dối, ưa đua đòi theo sự điểm trang, nay đã không có niệm ấy,
tự nhiên đối với môn Tịnh độ dễ được tương ưng. Khi lâm chung gầy yếu
và bệnh khổ, đó là nghiệp chướng trong nhiều kiếp, do công siêng tu Tịnh nghiệp
nên phát hiện để chuyển hậu báo làm hiện báo, đổi quả nặng thành nhẹ thế thôi. Ngươi bảo: bởi tu trì tinh tiến nên thân thể ngày một yếu gầy, lời ấy không đúng, lại thêm có lỗi khiến cho những người lòng tin cạn cợt nhân đó biếng trễ sự tu hành. Phải biết người niệm Phật quyết định có thể tiêu trừ nghiệp chướng, nếu nghiệp hiện, đó là đổi ác báo sẽ đọa tam đồ thành cơn bệnh khổ hiện tại để trả cho xong. Kinh Kim Cang nói: Người thọ
trì kinh này do bị khinh rẻ nên dứt được sự khổ nhiều kiếp trong tam đồ. Thế thì nhân Phước Tuấn sắp sanh Tây phương nên hiện ra sự khổ nhỏ ấy để tiêu trừ ác báo từ vô lượng kiếp đến nay, thật là điều hân hạnh rất lớn. Ngươi chớ nên học theo những người kém hiểu biết, cho rằng: Nhân tu trì mà thành bệnh rồi
chết. Người niệm Phật thuở bình thường có tín nguyện chơn thiết, không một ai chẳng được vãng sanh. Phước Tuấn lúc lâm chung chánh niệm rõ ràng, có những
tướng trạng hỏi han, đảnh lễ, sau khi chết thân thể mềm dịu, sạch sẽ, nhan sắc như sống, thì đâu nên nhìn vào công tu cạn cợt
mà nghi ngờ? Theo lời nguyện của đức A Di Đà, chí tâm trong mười niệm
cũng được độ, huống chi Phước Tuấn tinh tiến tu trì đã ba năm, lại còn nghi ngại
gì? Duy những người ý chí thấp kém, tuy thường niệm Phật song chẳng cầu vãng sanh, chỉ mong phước báo nhân thiên; hạng ấy
dù trót đời tu hành cũng chỉ hưởng
được si phước nơi kiếp sau mà thôi. Nếu kẻ có chánh tín, tự biết dùng lòng tín nguyện cảm Phật, quyết được sức từ bi nhiếp thọ, đạo cảm ứng thông nhau, sẽ nương Phật lực đới nghiệp sanh về Cực lạc. Thế thì cần chi hỏi thấy Phật cùng không, mới có thể phán đoán?
Người
niệm Phật trước khi lâm chung, như có thể
tự tắm gội thay y phục thì rất tốt. Nếu không tự làm được thì thôi, người ngoài quyết chẳng nên thay thế dự bị tắm gội đổi y phục, vì có thể khiến cho kẻ sắp chết khó nhẫn sự đau đớn đến mất chánh niệm. Ngươi chớ vì việc Phước Tuấn chưa kịp mặc pháp y và ngồi kiết già mà tiếc buồn.
Phải biết lúc ấy chỉ nên đồng thanh niệm Phật để giúp sức, quyết không được bày vẽ việc gì khác. Nếu một mặt ưa phô bày, tất thành ra cảnh té giếng bị đá rơi theo, rất có hại cho sự vãng sanh. Điều này phải ghi nhớ kỹ.
Lệnh
từ tuổi cũng đã cao, nếu ta chẳng nói rõ sự lầm lạc trên đây, e lần sau ngươi dùng lòng hiếu thảo trở lại làm ngại sự vãng sanh của mẹ, khiến cho người nhiều kiếp bị luân hồi không được giải thoát. Vậy chỉ nên trọng sự thật, chớ khoe hình thức bên ngoài. Lời ký lục của ngươi, văn nghĩa xem cũng gọn, không cần
phải nhờ người viết thành bài để truyền bá, vì đó cũng thuộc về
việc phù phiếm của thế gian. Ngươi chỉ nên sách tấn mình và quyến thuộc cố gắng niệm Phật, để được đồng sanh Tây phương là tốt. Sớm chiều trong hai thời khóa, ta cũng đọc danh hiệu của Phước Tuấn hồi hướng trong một thất, để cho trọn nghĩa Thầy trò. Phước Tuấn vãng sanh phen này, có thể gọi
là chẳng sống suông chết uổng, rất hân hạnh! Đến như việc y theo lời di chúc, lấy xương tán mạt làm hoàn để thí cho loài thủy tộc, cũng là điều tốt, nhưng lưu ý cẩn thận hơn. Phải đem xương nghiền thành phấn; dùng rây lụa nhỏ rây lọc, làm như bột nhuyễn mới được. Nếu thô tháo nghiền sơ qua, rồi hòa với bột làm hoàn, e cho loài cá nhỏ ăn vào phải
bị nghẹn vướng. Ta sợ ngươi làm không kỹ, nên ta phải dặn trước.
34/
Thơ Đáp Một
Vị
Cư
Sĩ
Bệnh
cùng ma đều do túc nghiệp gây ra. Ngươi chỉ tha thiết chí thành niệm Phật, tự nhiên bệnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Nếu ngươi
niệm không chí thành, hoặc khởi
những niệm tà dâm bất chánh, thì tâm trạng chìm trong cảnh tối tăm, tất khó khỏi bị ma quỉ khuấy nhiễu. Sau mỗi thời niệm Phật, ngươi nên hồi hướng cầu cho tất cả oan gia đời trước đều được nhờ công đức ấy sanh về cõi lành. Ngoài ra, không nên nghĩ tưởng
gì khác. Ma có la lối khuấy nhiễu, chớ kinh sợ; không khuấy nhiễu cũng chẳng được sanh tâm vui mừng, chỉ nên chí thành khẩn thiết
niệm Phật mà thôi. Như thế tự nhiên nghiệp chướng sẽ lần tiêu và phước huệ thêm lớn.
Đến
như sự duyệt kinh, chớ nên bắt chước theo thói tệ cẩu thả không cung kính của người đời nay, mà phải xem như Phật, Tổ, Thánh hiền giáng lâm, mới có thật ích. Ngươi giữ được như thế, thì tấm lòng sẽ quang minh chánh đại, ma quỉ
tà thần kia không còn chỗ dung thân. Nếu
tâm ngươi trước đã tà vạy, tất chiêu cảm đến loài tà, đâu có thể khiến được ma quỉ lánh xa không khuấy nhiễu.
Về
tha tâm thông, quỉ thần tuy có, song nhỏ hẹp
và cạn gần. Nếu là bậc nghiệp hết tình không, thì cõi lòng như gương
sáng trên đài, muôn hình đều hiện rõ. Ngươi không chí tâm niệm Phật
mà muốn tìm hiểu chân tướng của việc ấy, đâu biết đó là gieo hột giống ma! Như gương báu sở dĩ có công năng chiếu suốt
xa gần, là vì tự thể nó trong sáng không vướng một
điểm bụi. Tấm lòng của ngươi bị nghiệp hoặc ngăn che, mà muốn được
công dụng như thế, có khác nào như gương mờ lại bị bụi lấp, làm sao phát ánh sáng? Dù có, cũng là yêu quang, không phải
ánh sáng chân thật.
Nhưng
thôi, hãy gác việc ấy lại. Với hiện cảnh của ngươi, phải chí tâm niệm Phật như bị nạn nước lửa, như cứu cháy đầu, thì tất cả ma nghiệp đều tiêu.
35/
Thơ
Đáp Cư Sĩ Châu Mạnh
Do (I - X)
I
Từ
thân của ngươi tuổi đã cao, đối với pháp môn Tịnh độ chưa có thể nhận chân mà tu trì. Nên thường đem nỗi
khổ trong sáu nẻo luân hồi, sự vui ở cõi Cực lạc và những lẽ siêu thăng khó, sa đọa rất
dễ, giảng nói cho người nghe. Nếu chẳng được về Tây phương, đừng nói là ở cõi người không đủ trông cậy, dù sanh lên cõi trời hưởng
sự vui vẻ lâu dài, một khi phước lực đã hết, vẫn trở lại đọa xuống nhân gian và ba đường ác mà chịu
khổ. Nếu không biết Phật pháp thì cũng đành vậy, nay đã được hiểu Phật pháp đâu nên đem sự lợi
ích lớn lao ấy nhường cho người? Và đâu nỡ tự mình cam chịu chìm nổi mãi trong biển khổ luân hồi, không mong ngày giải thoát ư?
Ngươi nên thường giảng nói như thế, may ra có thể khiến cho lệnh từ phát được căn lành đời trước, tin chịu tu hành. Bồ tát ra đời độ sanh đều thuận theo cơ nghi, trước tùy sở dục mà dắt dẫn, sau khiến cho vào trí Phật. Nếu ngươi có thể gắng tu hiếu đạo và đem pháp môn Tịnh độ
khuyên dẫn trong hàng quyến thuộc cùng tất cả người hữu duyên, để đồng làm bạn tốt nơi Liên Trì, thì công đức lớn
lắm?
II
Người
đời khi có bệnh hoặc gặp những sự nguy hiểm tai nạn, thường thường không biết niệm Phật làm lành, lại lầm lạc muốn cầu cứu với quỉ thần. Do đó nên giết hại sanh mạng gây thêm tội nghiệp, thật rất đáng thương! Bệnh khổ cùng những tai họa, phần nhiều đều do nghiệp đời trước gây ra; nếu niệm Phật, sám hối, làm lành, thì tội chướng
sẽ tiêu, bệnh được mau mạnh. Loại quỉ thần kia chính họ hãy còn ở trong biển nghiệp, đâu có thể khiến cho người tiêu nghiệp? Dù cho hạng chánh thần có oai lực lớn chăng nữa, oai lực ấy so với thần lực của Phật, Bồ tát chẳng khác chi lửa đom đóm sánh cùng ánh sáng mặt trời!
Người Phật tử không chịu nương tựa Phật, Bồ tát, trở lại cầu cứu với quỉ thần, đó là tà kiến.
Tất
cả chúng sanh đều là cha mẹ đời quá khứ và chư Phật đời vị lai, nên thương xót hộ trì. Chớ noi theo tập tục sai lầm, mặc ý giết hại, rồi bảo rằng: phải cần có thức ngon bảo để phụng dưỡng song thân mới là đạo hiếu. Người chưa hiểu Phật pháp, không biết sự lý luân hồi, nên mê mờ lầm lạc chẳng nói làm chi. Nếu kẻ
đã nghe Phật pháp, mà còn giết hại
cha mẹ đời trước để phụng dưỡng cha mẹ đời này và dùng huyết nhục
làm nhu cầu cho sự tang tế, chẳng những không phải hiếu thuận, lại chính là ngỗ nghịch vậy. Cho nên những bậc thông đạt, khi nghe được nghĩa chân thật của đạo Phật, đều không chịu làm theo quyền pháp ở đời, bởi pháp quyền tạm ấy do chiều thuận theo mê tình của thế gian mà lập, không phải là đạo lý thông suốt nhân quả ba đời của Như Lai. Nếu các người muốn nhận thức sâu hơn, hãy xem những bài “giới sát” trong quyển
Văn Sao của ta sẽ tự rõ.
III
Người
niệm Phật khi có bệnh, phải một lòng đợi chết, nếu thọ mạng chưa dứt, sẽ được an lành. Vì khi buông cả toàn thân mà niệm
Phật, thì nghiệp chướng tiêu rất mau, nghiệp tiêu tất nhiên bệnh được lành mạnh. Nếu chẳng buông bỏ muôn duyên, chỉ mong mau lành mạnh, thảng như bệnh không hết, thì phần vãng sanh sẽ phải mất, bởi vì không có tâm nguyện cầu
sanh. Như không hiểu rõ đạo lý này, đâu có thể nhờ
từ lực của Phật tiếp dẫn ư? Về bệnh căn của lệnh từ, các ngươi nên khuyên người buông bỏ tất cả để cầu vãng sanh. Như thọ mạng chưa dứt, thì cầu vãng sanh trái lại mau bình phục,
vì do dùng tâm chí thành, nên được nhờ sức Phật gia bị.
Ngươi
nên đem lời lẽ trên đây mà khuyên nhủ từ
thân, đừng học theo thường tình, nói những điều không lợi ích.
IV
Tiếp
được thơ, biết lệnh từ chưa thật phát tâm cầu sanh Cực lạc. Hiện thời người còn đang trong cơn bệnh,
thôi hãy tạm hoãn đừng đề cập đến việc ấy. Chỉ nên khuyên người chí thành niệm Phật, để được nhờ từ lực gia bị, khiến cho thân tâm an vui. Đợi đến
khi lệnh từ khỏe lại rồi, sẽ dùng lời lẽ khéo léo dẫn giải rành rẽ, làm cho người thật phát tâm cầu sanh thì mới có lợi ích. Nhờ ngươi chuyển lời cùng lệnh từ, nói ta thăm người được an lành. Và nên nói lại rằng:
ta khuyên người buông cả muôn duyên một lòng niệm Phật, đó là điều cần yếu để tự cứu độ. Ngoài ra việc chi khác, để phần con cháu lo, nếu còn nghĩ tưởng đến, tức là có hại cho công phu niệm Phật
của mình vậy.
V
Châu Quần
Tranh xem rõ:
Lệnh
từ hiện đang có bệnh, quyết không nên đi vắng trong lúc người chưa lành. Nhưng ta xem tình trạng, e người
chẳng hưởng thọ được lâu. Vậy phải dùng Mạnh Do và Trí Chiêu mỗi ngày thay phiên nhau ở
bên giường bệnh mà niệm Phật, khiến cho người niệm theo, nếu không thể niệm thì khuyên người yên lặng lắng nghe cũng được. Làm như thế, nếu lệnh từ thọ mạng đã hết, quyết định sẽ vãng sanh, như số phần chưa mãn, cũng được tiêu trừ nghiệp chướng thêm lớn căn lành.
Về
phần ngươi, nên đổi ý định lên núi Phổ Đà bằng cách vâng theo lời ta mà thực
hành là tốt hơn. Như thế mới lưỡng toàn không hại. Hiện thời từ thân của ngươi bệnh chưa mạnh, rất không nên phát tâm nguyện xuất
gia, nếu phát thì đối với đời và đạo đều thành trái nghịch. Người sắp mạng chung, như được trợ niệm, chắc có phần vãng sanh; nếu thiếu trợ niệm, hoặc dùng sự khóc lóc làm phát động những
niệm tình ái giận hờn, thì khó khỏi đọa lạc. Điều này rất quan hệ, nguy hiểm, nên nhớ kỹ. Nếu ngươi có thành tựu sự vãng sanh cho mẹ, đó cũng là chánh nhân Tịnh nghiệp
của chư Phật trong ba đời. Và đó chính là làm Phật sự
giữa trần lao, công đức ấy sánh với việc làm tầm thường, muôn phần rộng lớn. Phải bàn tính với Mạnh Do, thực hành phương pháp trợ niệm, và khuyên lệnh từ nên nghe theo những lời
của ta. Đến như việc vì mẹ giảng giải Phật pháp, vẫn là điều rất hay, nhưng sự định tỉnh cùng an ủi cũng nên nhiều phần để ý.
VI
Lệnh
từ phát nguyện gởi tiền cho ta để tùy ý làm các việc công đức
và giúp phần ấn loát bộ Văn Sao. Theo ý ta, làm việc công đức phải lấy sự mở mang trí thức của người làm điều cần yếu, nên ta định đem số tiền ấy in quyển Quán Âm Tụng để phổ biến khắp xa gần. Việc này có mục đích khiến cho mọi người được biết đức Quán Âm Đại sĩ là đấng nương tựa của chúng sanh trong pháp giới. Đại
sĩ tùy loại hiện thân, tìm tiếng cứu khổ, và phụ giúp đức A Di Đà tiếp dẫn người niệm Phật sanh về Cực lạc. Hiện nay nhân loại đang ở trong đường hoạn nạn, không biết phương pháp chi phòng ngừa, nếu
mọi người được xem quyển sách ấy, sẽ cảm ân đức của Đại sĩ, muốn nhờ oai lực của Ngài để thoát khỏi tai họa. Và, một khi đã phát tâm tín ngưỡng nương
tựa nơi Đại sĩ, tất sẽ giữ lòng từ thiện sửa lỗi làm lành, để mong cho được cảm thông với Ngài mà nhờ sự chở che giúp đỡ. Cõi đời chẳng yên, vì lòng người hiểm ác, nếu mọi người đều ngưỡng mộ đức từ bi của Đại sĩ thì thế giới lần lần chuyển ra cảnh vui vẻ thanh bình. Cho nên quyển sách này nếu
được lưu thông, sự lợi ích sẽ vô cùng, sánh với các loại sách hữu ích tạm thời, thật cách nhau rất xa. Hơn nữa lệnh từ cũng nương nhờ công đức ấy, tiêu tội nghiệp, thêm phước huệ, khi sống được an vui, lúc chết sanh về Cực lạc. Đến như quyển Văn Sao, mọi người xem rồi phát tâm làm lành niệm Phật
rất nhiều, ở đây không thể nói hết.
VII
Lệnh
từ vì sao bệnh không được lành? Âu là do túc nghiệp gây ra, khiến
đổi quả nặng thành nhẹ, chuyển hậu báo làm hiện báo, để trả cho xong tất cả đó chăng? Thuở xưa, Huyền Trang Pháp sư khi lâm chung cũng bị chút ít bệnh
khổ, Ngài nghi ngờ cho những kinh mình phiên dịch hoặc
có chỗ sai lầm. Đang khi suy
nghĩ như thế, thoạt thấy một vị Bồ tát an ủi rằng: “Do sự khổ nhỏ này, tội báo kiếp trước của ông đều được tiêu diệt, chớ đem lòng hoài nghi.” Vậy ngươi
hãy đem duyên sự này an ủi lệnh từ, khuyên người nên vui mừng, chớ sanh lòng buồn giận. Như thế, quyết định có thể nhờ Phật gia bị, thọ mạng chưa dứt sẽ mau an lành, số phần đã mãn được sanh về Cực lạc. Con người trong cơn bệnh khổ, nên tưởng thối lui một bước, sẽ thấy an vui không cùng! Gần đây binh lửa
liên miên, chúng ta may mắn chưa gặp tai nạn ấy, dù bị bệnh khổ còn có thể nhân đó tự thức tỉnh để tìm đường giải thoát. Trong trường hợp
ấy chỉ nên cảm khích chuyên tu, tự nhiên sẽ
được lợi ích. Thế chẳng hơn là oán trời trách người để gây thêm tội nghiệp cho mình ư? Nên khuyên thân mẫu ngươi đừng ôm lòng oán trách, gắng
định tâm niệm Phật thì nghiệp tiêu mau như tuyết gặp nước sôi.
Ta từ
khi trở về núi, mỗi ngày trong thời khóa tụng đều có hồi hướng cầu nguyện Tam bảo gia bị cho lệnh từ, nếu thọ mạng chưa dứt, được mau an lành, như số
phần đã mãn, sớm sanh về Tịnh độ.
VIII
Tiếp
được thơ, biết lệnh từ đã niệm Phật vãng sanh vào ngày mùng hai. Là đệ
tử Phật, các ngươi phải y theo Phật pháp khiến cho thần thức của từ thân được lợi lạc, chẳng nên quá buồn thương, thành ra kẻ còn người mất đều luống vô ích. Đến như việc tang tế phải dùng toàn đồ chay, chớ nên tùy theo tập tục. Dù có những người không hiểu Phật pháp, bài xích nói là sai quấy, cũng mặc
cho họ chê cười. Trong đám táng không nên quá phô trương
bày vẽ, và làm Phật sự chỉ nên niệm Phật mà thôi. Anh em ngươi phải đốc xuất người nhà đều khẩn thiết niệm Phật, thì thần thức của lệnh từ, cả trong gia quyến, cho đến bà con bè bạn, sẽ được sự lợi ích, chân thật. Nếu tài lực có dư, cũng nên làm các điều công đức;
như sự độ dụng vừa đủ, chỉ lo xong việc táng là được. Chớ nên làm quá long trọng, để
rồi sau phải thiếu thốn là điều không hay.
IX
Được
thơ, thấy lệnh từ khi lâm chung rất tốt. Đó âu cũng là sự hiệu
nghiệm do căn lành bản nguyện của người, và công trợ niệm của anh em ngươi cùng trong quyến thuộc. Thuở bình sanh, con người có thể
che giấu các việc, duy lúc sắp chết quyết không thể giả dối. Lệnh từ đã không lòng ái luyến, có sắc
vui tươi ngồi yên mà qua đời, nếu Tịnh nghiệp chẳng thành thục, đâu được như thế ư? Mong anh em ngươi và toàn gia quyến nên niệm
Phật để truy tiến. Như thế chẳng những thân mẫu các ngươi được lợi ích, mà công đức niệm Phật của chính mình lại càng lớn thêm. Đức Phật đã dạy: “Khi tụng kinh, trì chú, niệm Phật hoặc làm các công đức, nên hồi hướng cho pháp giới chúng sanh.” Lúc bình thời còn vì chúng sanh không
can thiệp chi đến mình mà hồi hướng, huống chi mẹ mất đâu nỡ chẳng hết lòng niệm Phật cầu nguyện cho người ư? Nếu có thể vì chúng sanh hồi hướng, tức là hợp với thệ nguyện Bồ đề của chư Phật, như đem một giọt nước gieo vào biển thì giọt nước ấy đồng sự sâu rộng như biển cả. Như chưa được dung hợp cùng biển, đừng nói một giọt nước, dù cho sông dài hồ rộng,
đối với biển vẫn cách biệt như đất với trời. Thế thì, khi đem công đức hồi
thí cho cha mẹ và tất cả chúng sanh, chính là bồi cội
phước cho mình. Biết được nghĩa này, người hiếu thảo lòng hiếu càng tăng thêm, kẻ kém hiếu
tâm cũng phát lòng thảo thuận.
Thỉnh
chúng Tăng tụng niệm trong bảy tuần thất, việc ấy rất tốt, nhưng khi đó anh em các ngươi cũng phải
có người đồng tụng niệm theo. Những phụ nữ trong nhà bất tất phải theo thứ lớp đứng sau chư tăng mà tụng niệm, vì e lâu ngày thân thiện nhau, sẽ
gây mối hiềm nghi cho người ngoài. Hàng phụ nữ nếu có tụng niệm, nên ở sau màn hoặc lập riêng một chỗ khác, các cửa ra vào hai bên đều không thấy
nhau. Đó là nêu khuôn phép và mở thông nghi thức cho người trong hương ấp. Nếu thờ ơ không phân giới hạn, kẻ khác sẽ bắt chước theo, về sau sanh mối tệ. Cách lập pháp của người xưa, dù bậc thượng thượng cũng lấy pháp thức của kẻ hạ hạ mà làm phạm vi, nên không có sự tệ
hại. Nếu các ngươi có thể y như thế vì mẹ niệm Phật, lại kiêm ấn thí các quyển Quán Âm Tụng, Văn Sao, thì chẳng những
khiến cho từ thân phẩm sen thêm cao, mà ông bà cho đến thân phụ
các ngươi cũng được đồng nhờ pháp lợi, siêu sanh Cực lạc. Mấy điều ta nói vẫn căn cứ đúng theo tình lý, không phải là những
lời bông lông cốt để vừa lòng đẹp ý các ngươi đâu!
X
Về
phép hỏa táng, thuở đời Đường, Tống, Phật pháp còn thạnh, người tại gia phần nhiều cũng có dùng. Nhưng hiện
thời, nên theo thông tục mà chôn cất, vì e có chấp nê sanh ra nhiều điều nghị luận. Thật ra thì thiêu hóa thi hài mau tiêu tan hơn,
và qua bốn mươi chín ngày thiêu hóa lại càng ổn
tiện. Còn chôn cất, hoặc khi lâu năm hài cốt bị
bộc lộ. Tang chế ba năm không làm lễ nhạc,
điều ấy vẫn nên tuân giữ. Đời nay luân thường hiếu đạo bị gác bỏ một bên, phép tắc giữ gìn trong kỳ tang chế còn đáng chi để
luận bàn? Tuy nhiên, cũng nên nương theo lễ
giáo xưa châm chước mà làm, đừng vội sửa đổi hoặc quá nê chấp. Cách dò thăm hơi nóng để nhận định thần thức thác sanh về cõi nào, thật đáng y cứ. Nhưng ta sợ những kẻ không biết, cứ mãi thăm dò, nên ý nói: “người đủ tín nguyện, khi lâm chung chánh niệm rõ ràng,
thì có thể vãng sanh, chẳng cần phải y theo một lệ, lấy sự lạnh nóng làm bằng cứ.” Điều
này cần nên để ý, vì nếu cứ rờ thăm hơi nóng, e phát động đến tâm luyến ái, giận hờn của người sắp chết, làm cho hỏng mất sự vãng sanh.
Những
thuyết “thai sanh,
nghi thành” trong Kinh Đại
Bảo Tích, nơi pháp hội của đức Vô Lượng Thọ Như Lai nói, là chỉ cho người niệm Phật đọa vào lỗi hối hận, nghi ngờ. Đây chính là ước theo nghĩa bị ngăn che, cách ngại, mà lập
tên “thai sanh,
nghi thành”, vì bị ở trong hoa sen năm trăm năm không được
thấy Phật nghe pháp, chớ đâu phải có sự thật? Sao lại cứ chấp chặt theo chữ mà giải nghĩa, cho rằng hạng người ấy không thuộc vào chín phẩm sen? Nên biết ở Tây phương không có thai sanh cũng không thành quách, đó là ước
theo nghĩa: không được liền ra khỏi liên bào, bị cách ngăn với Phật, để thí dụ cho thai và thành thế thôi? Bởi
ngươi chấp định danh từ nên mới cho là ngoài chín phẩm, nếu
quả vậy thì bậc hạ trung cùng hạ hạ bị ngăn cách sáu kiếp và mười
hai kiếp thai và thành lại càng dầy
đặc biết bao nhiêu? Mười hai kiếp kia còn thuộc về chín phẩm, huống nữa là chỉ có năm trăm
năm đó ư? Sao ngươi không xem tiếp tám chữ: “Ở trong hoa sen không được xuất hiện...” hoa sen ấy
không liệt vào sen chín phẩm hay sao?
Phật
pháp nghĩa rộng vô cùng, nếu chấp định thì không việc sanh việc, thành ra phí hết bút mực
thôi. Đó đều bởi tự mình để chân vào trong thành nghi, thành ấy còn dầy
hơn ngục Thiết Vi nữa. Nếu hiểu biết rõ ràng, tự nhiên cõi đất lặng chìm, ngục Thiết Vi tiêu tan mất cả. Thầy Mạnh Tử nói: “Dùng ý nghịch chí, đó gọi là được”; chữ nghịch đây cũng là nghi thành. Nếu biết nghịch tức là ý nghĩa nghinh hiệp, thì nghi thành sẽ
rã tan. Một hạng người vì cố chấp, nên tuy giảng nói, trọn ngày vẫn ở trong vòng mâu thuẫn. Đó là bởi
căn bệnh chấp trước chưa tiêu, thành ra khó được sự
lợi ích thiết thực.
36/
Thơ
Đáp Cư
Sĩ Cừu Bội
Khanh (I - II)
I
Sự
nóng giận như thế là do tập tánh từ kiếp trước. Nay các hạ đã biết nó chỉ vô ích, lại thêm có hại, thì đối với tất cả việc trái ý đều nên dùng độ lượng rộng rãi như trời biển mà bao dung. Đó là phương pháp dùng lòng quảng
đại
để chuyển biến tánh hẹp hòi. Nếu không đối trị thì tập tánh giận hờn càng ngày càng tăng thêm, sự tai hại
không phải ít.
Đến
như niệm Phật, phải tùy nơi tinh thần sức khỏe của mình mà niệm ra tiếng lớn, nhỏ, niệm thầm, hoặc niệm theo lối Kim Cang (chỉ sẻ động môi, niệm có tiếng nhưng người ngoài không nghe được), sao lại
quá dùng sức để cho mang bệnh ư? Tâm quá mãnh liệt ấy
cũng còn lỗi dục tốc đó! Nay đã không niệm ra tiếng
được, cũng có thể niệm thầm trong tâm, sao lại chỉ
hạn có mười niệm? Vả lại, khi bệnh nằm nơi giường, tấm lòng đâu thể vắng lặng như hư không, nếu tưởng nghĩ việc khác, thôi thà tốt hơn
là chí tâm niệm Phật! Nên đem việc cần yếu giao phó cho người nhà, thường
tưởng rằng mình sắp chết, sắp đọa Địa ngục, trong lòng tuyệt không vướng
vít
một điều gì. Rồi dùng tâm thanh tịnh ấy
tưởng nhớ tượng Phật, thầm niệm danh hiệu, và kiêm tưởng niệm Thánh tượng cùng danh hiệu đức Quán Âm. Quả được như thế, quyết định nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, căn lành thêm lớn, tật
bệnh mau thuyên và thân tâm yên ổn. Căn bệnh của các hạ vẫn thuộc về túc nghiệp, bởi duyên niệm Phật mãnh liệt nên phát hiện, không phải hoàn toàn do quá dùng sức mà có ra. Giả
sử không gặp nhân duyên niệm Phật quá sức ấy, nó cũng sẽ phát hiện bằng một nhân duyên khác. Giữa đời,
người không niệm Phật rất nhiều, đâu phải tất cả đều không đau yếu, suốt đời mạnh khỏe đó ư? Hiểu rõ điều này, sẽ chẳng còn nhận lầm cho rằng niệm Phật thành bệnh, kết cuộc chỉ có tổn hại không được lợi ích.
Ấn
Quang cùng các hạ chưa gặp mặt nhau lần nào mà có những lời thành thật chí thiết hôm nay vì xem các hạ như
người thân thuộc. Bởi kẻ tu hành vẫn thể theo lòng từ bi của Phật, muốn cho người hữu duyên đều được vãng sanh ngay trong hiện đời.
Pháp môn niệm Phật, nếu các hạ chưa tường tất, mỗi ngày nên xem qua vài thiên Văn Sao để
làm sự dẫn đạo cho đường tu. Thế mới không uổng một phen tri ngộ nhau trong thơ từ qua lại.
II
Các hạ
đã tin nơi tôi, nên làm y theo lời tôi mới
có thật ích. Chẳng thế thì tuy có tín tâm, chỉ gieo nhân lành về
sau mà thôi. Chúng ta ở trong vòng sống chết luân hồi trải qua nhiều kiếp, gây nên nghiệp ác vô lượng vô biên. Nếu chỉ nương sức tu trì của mình, mong dứt hết phiền não, hoặc nghiệp để thoát nẻo luân hồi, việc ấy còn khó hơn lên trời. Như có thể tin pháp môn Tịnh độ của đức Phật chỉ dạy, dùng lòng tín nguyện chơn
thiết niệm danh hiệu Phật A Di Đà cầu sanh Tây phương, thì không luận nghiệp lực lớn, nhỏ, đều được nương nhờ từ lực vãng sanh Cực lạc. Ví như một hột cát nhỏ để vào nước liền chìm, trái lại, tảng đá dù nặng ngàn muôn cân, được chở
trên chiếc thuyền to, cũng có thể đem đi nơi khác. Tảng đá là dụ cho nghiệp lực sâu nặng của chúng sanh, thuyền to là dụ
cho từ lực rộng lớn của đức A Di Đà. Nếu không niệm Phật, chỉ nương sức tu trì của mình để thoát sanh tử, phải đợi đến địa vị nghiệp dứt tình không mới được. Chẳng thế thì dù có dứt được phiền hoặc chỉ còn như một sợi tơ, cũng không thể giải thoát. Đó là dụ cho hột cát tuy rất nhỏ, nếu không có vật gì chở, khi để vào nước tất phải bị chìm. Các hạ nên sanh lòng tin, niệm Phật
cầu sanh về Tây phương đừng khởi những tư tưởng gì khác. Quả được như thế, thì tuổi thọ chưa hết bệnh sẽ mau lành, vì công đức chí thành niệm
Phật, có thể dứt trừ ác nghiệp đời trước, như vầng hồng đã hiện, sương tuyết liền tan. Nếu số phần đã mãn, tất được vãng sanh, vì do tâm niệm chuyên nhất
nên đạo cảm ứng giao thông, nhờ Phật
xót thương tiếp dẫn. Như các hạ tin hiểu thấu đáo những lời trên đây, thì sống cũng được
nhiều an vui, chết cũng được lợi ích lớn.
Lòng nóng giận
là tập tánh từ kiếp trước, muốn đối trị, nên tưởng
như mình đã chết. Thế thì mặc ai bôi hương thoa lọ, nơi ta nào có can gì? Dù gặp những
cảnh trái lòng đến đâu nữa, cũng cứ tưởng rằng mình đã chết, tự nhiên tánh giận hờn không thể nổi lên. Đây là món “cam lồ pháp thủy” của
đức Như Lai truyền dạy, để rửa hết kết nghiệp của tất cả chúng sanh. Nay tôi vì các hạ thuật
lại, không phải tự tôi đặt điều ức thuyết. Nếu không niệm Phật cầu về Tây phương, tuy sanh lên chỗ cực
tôn quí như trời Phi Phi Tưởng, khi phước báo đã hết, vẫn bị luân chuyển trong sáu đường. Như dùng hết lòng thành khẩn niệm Phật, dù sắp đọa vào Địa ngục A tỳ, cũng có thể nhờ
Phật tiếp dẫn. Vậy muôn lần xin chớ tự coi là thấp kém, cho rằng mình nghiệp nặng e không được vãng sanh. Nếu cố giữ quan niệm ấy thì quyết định chẳng được sanh Tây phương, vì bởi thiếu sự tín nguyện chơn thiết nên không do đâu để cảm
đến Phật.
Quán Thế
Âm Bồ tát thành Phật đã từ lâu, chỉ vì lòng từ bi sâu thiết nên hiện thân trong chín pháp giới, dùng đủ
phương tiện để độ thoát chúng sanh. (Chín pháp giới: Bồ
tát,
Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ,
Địa ngục). Riêng về pháp giới cõi người, Bồ tát lại hiện nhiều thân sai khác, hoặc làm vua, quan, hoặc
làm thường dân ẩn dật, hoặc làm phụ nữ, hoặc làm kẻ ăn xin... không nhất định.
Vị chân tượng của Bồ tát tốt đẹp nhiệm mầu, người đời không thể hình dung được, nên khi vẽ ra phần nhiều giống với người nữ, chớ chẳng phải Bồ tát nguyên là nữ thân. Nếu muốn cúng dường, nên đến đường Bắc Kinh, xóm Trường Khang, chỗ lưu thông Kinh Phật, thỉnh bức tượng Tây phương Tam Thánh thứ bản đá, mua khung kính đem lồng vào. Như
thế là vẹn toàn, vì có đủ đức Phật A Di Đà, Quán Âm và Thế Chí. Nơi
phòng ngủ nếu không được tinh khiết, nên đem tượng Phật thờ ở tịnh thất, mỗi ngày qua lạy và chiêm ngưỡng một đôi lần, thì trong tâm có thể ghi nhớ!
Niệm
Phật tuy quí ở sự thanh khiết, nhưng với người bệnh có nhiều điều không thuận tiện, chỉ đem hết lòng thành niệm thầm hoặc ra tiếng, công đức cũng đồng nhau. Vì đức Phật vẫn rộng lòng thương xót, như cha mẹ đối với con. Khi con có bệnh không đem những nghi thức bình thường quở trách, mà còn xoa rờ thân thể
gội rửa chỗ hôi nhơ. Nếu khi con bệnh đã mạnh, mà còn bắt cha mẹ hầu hạ như khi đau yếu, đó là trái phép, trời đất
sẽ không dung. Vậy các hạ không nên cho rằng nằm nơi giường
bệnh niệm Phật thầm là có tội lỗi. Người mạnh khỏe khi nằm nghỉ còn nên niệm thầm, huống chi là người bệnh ư?
37/
Thơ Khuyên Dạy
Một
Vị
Tỳ Kheo Ni
Đêm ngày thấm
thoắt, mùa tiết đổi dời, thời gian chuyển biến âm thầm, không giây phút nào dừng nghỉ!
Có phải tạo vật hiện ra tướng lưỡi rộng dài, diễn nói pháp mầu, cho chúng sanh nhận thấy
kiếp người vô thường, vinh hoa giả tạm, mau tìm đường giải thoát để khỏi bị trầm luân đó ư? Ngươi đã chán mùi phú quí, tìm học đạo
mầu, phải gắng sức chuyên tu, chớ nên lần lựa qua ngày, vì mạng người chỉ mong manh trong hơi thở.
Nên xét tự thân tuy là ngũ chướng, song tâm tánh vẫn
đủ ba đức Niết bàn, mà cố rửa sạch tập tánh người nữ và chuyên trì Thánh hiệu đức
A Di Đà. Thường tưởng nghĩ cõi Ta bà rất nên nhơ
ác, miền Cực lạc chính là chốn gia hương, chớ mong phước báo hiện tại hoặc đời sau, chỉ nguyện khi mạng chung được về Cực lạc. Nếu sớm chiều tha thiết, mỗi niệm không rời, niệm đến công sức thuần thục, tự nhiên đạo cảm ứng thông nhau, khi lâm chung chắc sẽ
được toại nguyện. Lúc đã về Tịnh độ, tỏ ngộ lý Vô sanh rồi, nhìn lại cõi Ta bà, thấy sự vinh hiển giàu sang chẳng khác nào ánh nắng, hoa không và ngục
tù, biển độc! Nhưng muốn đạt chí nguyện, điều cần yếu là trước phải dứt trừ tập nhiễm mới dễ thành tựu sự vãng sanh. Kinh Phật thường
nói: “Người giàu sang khó học đạo, người nữ cũng khó học đạo.” Bởi
người giàu sang phần nhiều hay quen tánh kiêu mạn, xa xí, ít chịu
nhún nhường để xét sửa mình và tiếp đãi người. Như thế, đâu dễ dứt mối âu lo, xóa tan trần niệm,
để cõi lòng vắng mà cầu đạo ư? Người nữ thì ưa sửa soạn dung nghi, thường đem lòng đố kị, đâu biết rằng dù cho hương trời sắc nước, vẫn là túi phẩn đẫy nhơ; đã luyến huyễn hình, làm sao ngộ đạo?
Đức Như Lai vì trị những chứng bệnh ấy, chỉ dạy phép quán Tứ Niệm Xứ, quán thân không sạch, thọ
là khổ, tâm vô thường và pháp vô ngã. Nếu thành tựu
phép quán này, thì lòng tập nhiễm luyến sắc thân, cậy quyền thế, sẽ tiêu diệt như điểm tuyết giữa lò hồng.
Ngươi
dẫu là người nữ dòng trâm anh đi xuất gia, cần
phải trừ
sạch tập tánh kiêu xa, trang điểm, khiến
cho không còn mảy may nào, về sau mới có phần thoát khổ. Hiện nay chánh pháp suy yếu, ma ngoại
tung hoành, khó gặp được Thầy hay bạn tốt, phải tìm Thầy bạn trong gương mẫu của người xưa. Nên đọc kỹ những quyển: Tỳ Kheo Ni Truyện, Thiện
Nữ Nhơn Truyện, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, mới tìm được những tấm gương sáng, không còn sợ lạc
vào đường tà. Gần đây tăng ni ít bậc thanh tu, phần
nhiều là kẻ không đúng phép, chẳng nên lạm
thâu đồ chúng, để tránh sự hư rối trong đạo Phật. Lại giữ mình theo thanh quy, gắng sức
tu Tịnh nghiệp, làm sao cho khi sống thành người
khuôn mẫu, lúc thác dự hội Liên Trì. Như thế mới không phụ chí vượt ra hầm lửa muôn tầm, mới chẳng uổng làm con của Phật.
Phải
cương quyết cố gắng, chớ quên lời ta!
38/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Phạm Cổ
Nông
Trung ấm
tức là thần thức, chớ không phải thần thức hóa làm trung ấm thân. Đây chính là linh hồn mà người
thế tục đã thường gọi. Cái thuyết trung ấm thân bảy ngày sống chết một lần và qua bốn mươi chín ngày phải đi đầu thai, không nên nê chấp. Nói trung ấm
thân sống chết là chỉ cho trong tâm vô minh của kẻ
kia hiện ra tướng sanh diệt, đừng nên quá quê thật, luận
theo trạng thái sống chết của người đời.
Sự
thọ sanh của thân trung ấm nơi sáu đường ba cõi, mau thì chừng trong khoảng
khảy ngón tay, lâu hoặc bốn
mươi chín ngày hay nhiều hơn
không nhất định. Những vong mới chết có thể hiện thân trước người quen thuộc, hoặc cùng tiếp xúc nói chuyện trong ban ngày hay ban đêm. Không phải
chỉ riêng trung ấm thân mới được như thế, mà người đã sanh về cõi dữ, lành, đôi khi cũng có thể hiện
hình cho bà con quen thuộc thấy. Đây tuy là ý niệm của
người ấy hiện ra, song kỳ thật cơ quyền biến do tạo hóa thần kỳ sắp đặt, để tỏ cho đời biết: người chết hồn chẳng tan mất và quả báo lành dữ vẫn không sai. Nếu chẳng thế thì kẻ dương gian không thể biết được việc âm ty, rồi do đó những tà luận mù quáng phụ họa nổi lên, bảo rằng chết là mất, không có nhân quả, đời
sau, khiến cho người lành không gắng công tu đức, kẻ ác lại càng hung hiểm tung hoành. Thế thì dù có lời Phật dạy, lấy đâu để chứng minh, và ai chịu tin nhận?
Cho nên các sự hiện hình ấy đã chứng cho lời Phật không sai, nhân quả có thật,
người lành thấy thế càng làm lành, mà kẻ dữ
cũng bị tình lý đó chiết phục, không đến nỗi mười phần quyết liệt. Trời đất quỉ thần muốn cho người đời biết rõ việc ấy; nên mới có những sự người chết hiện hình nơi dương gian, kẻ dương gian xử đoán hình phạt dưới âm phủ, để phụ dực Phật pháp và giúp đạo trị an. Lúc này rất nhiệm mầu và sự quan hệ cũng rất lớn. Những việc như thế, xưa nay sách vở chép cũng nhiều, song đều chưa nói rõ cơ quyền biến ấy do từ đâu, và có những gì quan hệ lợi ích?
Linh hồn
tuy lìa xác thân, nhưng vẫn còn có tình chấp về xác thân y như cũ. Đã có tình chấp ấy, tất
phải cần dùng đến sự ăn mặc để tư dưỡng. Sở dĩ như thế, vì phàm phu nghiệp chướng
sâu nặng, chẳng biết ngũ uẩn vốn không, nên vẫn cùng người đời không khác. Nếu là bậc đại trí huệ, thì liền thoát thể không còn nương tựa vào đâu, các sự khổ tiêu diệt, ngũ uẩn rỗng không, muôn đức trọn bày, chơn thân hiển lộ. Cảnh giới của thân trung ấm dị đồng không nhất định, nên sự thọ hưởng đều tùy theo tình chấp của
mỗi người. Như việc đốt giấy áo, đối với người sống duy có quan niệm cấp
cho áo, còn sự rộng hẹp vắn dài, đâu có thể mỗi mỗi đều phù hợp. Nhưng do nơi tình chấp của người sống và kẻ chết, nên những quần áo ấy vẫn vừa vặn như thường. Điều này có thể chỉ cho ta biết đại nghĩa: “Tất cả các pháp đều do tâm chuyển biến.”
Người
chết rồi, khi còn chưa thọ sanh trong sáu đường gọi là trung ấm thân. Nếu thọ sanh thì chẳng còn là trung ấm thân, và sự dựa vào người mà nói việc khổ vui, đều là tác dụng của thần thức. Sự đầu thai tất do thần thức cùng tinh huyết cha mẹ hòa hợp, nên lúc người đàn bà có mang, thì thần thức
đã có trong thai. Nhưng tại sao đôi khi người mẹ chuyển bụng, thấy có kẻ đi vào nhà rồi mới sanh? Đây là trường hợp
lúc cha mẹ giao cấu, có linh hồn khác đến thay thế để thọ thai, đến khi cái thai đã thành, vong chánh mới
đến, vong thay thế liền đi. Trong bộ “Dục Hải Hồi Cuồng” quyển
thứ ba, trang 8, 9, 10, 11, 12 cũng có nghi vấn
này mà nguyên đáp không đúng lý; tôi xin vì cải chánh, sau các hạ
nên tìm tra lại sẽ rõ. Nguyên đáp trong ấy đưa
ra tỷ dụ như vầy: “Ví như trứng gà, có trứng có trống, có trứng không trống...” Không khi
nào thần thức vào thai mà giống như trứng gà không trống. Bởi trứng không trống là trứng hư, không thể nở ra con, còn trường hợp trên, người mẹ vẫn sanh con như thường. Nay tôi lấy lý để biện minh, không sợ mang lỗi tiếm việt, nên vì các hạ trình bày. Thuở xưa, bà mẹ của ông Viên Trạch mang thai ba năm, có lẽ cũng thuộc
về tình trạng thay thế đã nói trên. Nhưng đây là ước theo lối thông thường mà luận, phải biết nghiệp lực của chúng sanh không thể nghĩ bàn! Như
người tu Tịnh nghiệp đã thành, thân
tuy chưa chết mà thần thức đã hiện nơi Tịnh độ. Và kẻ nghiệp ác nặng, thân còn nằm trên giường bệnh mà linh hồn đã chịu hình phạt dưới cõi u minh. Thế thì mạng tuy chưa dứt, thần thức đã đầu thai, đợi đến khi sắp sanh, toàn phần tâm thức mới phụ vào thai thể, lý này chẳng phải là không có, nhưng thông thường,
sự thay thế thọ thai vẫn nhiều hơn.
Trong ba
cõi, các pháp đều duy tâm hiện. Chúng sanh tuy mê chẳng biết,
nhưng chính chỗ nghiệp lực không thể nghĩ bàn ấy, là chỗ tâm lực không thể nghĩ bàn, mà cũng là chỗ thần
thông đạo lực của chư Phật không thể nghĩ bàn vậy. Ấn Quang tôi, hơn mười năm gần đây, vì sức mắt yếu không xem nhiều được, nên không thể rộng dẫn kinh luận để chứng minh. Tuy nhiên, lý ấy vẫn
chân thật, chẳng phải tôi dám đưa ra điều ức kiến, để rước lấy sự tội khiên. Sống chết là việc lớn của chúng sanh, nhân quả là đại
quyền trong cơ giáo hóa. Mong rằng các hạ
không tiếc lời văn quảng trường thiệt, một phen đem việc nhân quả báo ứng giúp cho mọi người đều chuyển phiền não sanh tử thành Bồ đề Niết bàn. Như thế pháp môn cùng chúng sanh xiết bao hân hạnh!!
39/
Thơ Khuyên Người
Mới
Phát Tâm Học Phật
1. Tôi thường
nói: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm nơi lòng kính sợ. Có một phần cung kính, tiêu một phần
tội nghiệp, thêm một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu mười phần
tội nghiệp, thêm mười phần phước huệ. Nếu không mảy may cung kính, thì sự tụng
kinh niệm Phật tuy chẳng phải hoàn toàn không lợi ích, nhưng
do tội khinh lờn ấy, trước phải bị nhiều kiếp đọa
vào tam đồ. Đến khi tội hết, mới nương thân nơi nhân lành ấy, lại được nghe pháp tu hành, ăn chay niệm Phật,
cầu về Tây phương để thoát đường sanh tử? Nếu hiện đời này hết lòng thành kính, thì hiện đời
có thể nương sức từ của Phật đới nghiệp vãng sanh. Và một phen được vãng sanh, thì vượt phàm vào Thánh, thoát khỏi
luân hồi, hằng xa lìa các sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui.
2. Con người
tu phước và tạo nghiệp, tóm lại chẳng qua ba nghiệp sáu căn. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ý. Năm căn trước thuộc về thân nghiệp, một ý căn sau thuộc về tâm, tức là ý nghiệp. Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu, và ý.
Thân nghiệp
có ba: sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Ba việc này tội rất nặng, người học Phật phải để tâm gìn giữ. Về phần sát sanh: phàm là động vật, tất
đều biết tham sống sợ chết, ta không nên giết hại,
nếu giết mà ăn thịt thì sẽ kết thành nghiệp sát, đời sau phải bị nó giết lại. Vậy người Phật tử nên ăn chay và yêu tiếc sanh mạng.
Về phần trộm cắp: chẳng luận vật lớn nhỏ của người khác, ta không nên lấy khi người
không cho. Trộm vật nhỏ thì mất nhân cách mình, trộm vật
lớn thì hại thân mạng người. Trộm đồ vật người xem dường như có lợi, nhưng thật ra chính mình bị giảm
phước thọ, có khi mất tánh mạng, so với của trộm được, sự tổn thất lại càng nhiều hơn bội phần. Nếu dùng mưu kế lấy, hoặc dùng thế lực ép bức lấy, hay thầm lén mà lấy, đều thuộc về trộm cắp. Người trộm cắp, tất sanh con lưu đãng, trái lại kẻ liêm khiết thì sanh con hiền lương,
đây là nhân quả nhất định theo lý thiên nhiên vậy. Về
phần tà dâm: nếu chẳng phải thê thiếp của mình, thì không luận kẻ
sang hèn, đều không được cùng nhau làm điều tà dâm. Tà dâm là việc
trái ngược nhơn luân, chính là đem thân người mà làm hạnh
Súc sanh, hiện đời đã như thế, kiếp sau khó khỏi đọa vào súc loại. Người đời
cho việc con gái lang chạ là điều
sỉ hổ, nhưng đâu nghĩ rằng con trai tà dâm nào có khác chi? Kẻ
tà dâm tất sanh con không trinh khiết, có ai lại
muốn cho con cái mình không trinh khiết ư?
Ấy cũng bởi chính mình trước đã làm việc đó, con cái thọ bẩm khí chất của mình, quyết khó được trinh chánh. Lại nữa, chẳng những không được dâm theo ngoại sắc, mà vợ chồng chung chạ với nhau cũng phải có hạn chế; nếu chẳng thế thì con người dễ bị suy tàn hoặc phải chết non. Kẻ tham việc phòng thất rất khó sanh con, dù sanh cũng khó nên người,
và dù cho được nên người cũng là kẻ yếu đuối không thành tựu việc chi. Tình đời cho hành dâm là vui, đâu biết vui trong giây phút, khổ
đến trọn đời, có khi còn di hại cho con cháu nữa!
Ba điều trên đây không làm thì thân nghiệp lành, làm thì
thân nghiệp ác.
Khẩu
nghiệp có bốn: nói dối, nói trau chuốt, nói đôi chiều, nói hung ác. Nói dối là nói lời
không thành thật, lời đã không thành thật thì tâm cũng không thành
thật, do đó nhân cách bị tổn
thất rất nhiều. Nói trau chuốt là nói lời phù phiếm hoa tình, khiến cho người sanh ra tâm niệm dâm đãng. Những thanh thiếu niên còn non dại nghe lời ấy lâu, nếu không tà dâm cho mất nhân cách, thì cũng làm
việc thủ dâm để hại sắc thân. Kẻ nói lời có hại cho người như thế, dù không tà dâm cũng phải bị
đọa vào đại Địa ngục, từ trong Địa ngục ra, hoặc làm giống cái trong loài súc vật. Nếu
sanh trong loài người, sẽ làm hạng gái lầu xanh, ban sơ còn tuổi trẻ sắc đẹp cũng chưa mấy khổ, lần lần nọc độc phong tình phát ra, sự khổ
sở sẽ không cùng. Đã có miệng khéo nói năng, sao chẳng
vì người chỉ đường hạnh phúc, lại thốt chi những lời tà vạy trau chuốt để gây họa cho chính mình và kẻ khác ư?
Nói đôi chiều là nói khiêu khích thọc mách sự
phải quấy của đôi bên, nhỏ thì lầm lạc người, lớn thì hư nhà hại nước. Nói hung ác là nói lời ác độc
như gươm đao, khiến cho người khó nhẫn chịu sanh ra buồn khổ. Bốn điều này không làm thì khẩu nghiệp
lành, làm thì khẩu nghiệp ác.
Ý nghiệp
có ba: tham dục, giận hờn và ngu si. Tham dục là đối
với tiền tài, ruộng đất, đồ vật v.v... đều muốn cho về nơi mình, dù được nhiều vẫn còn thấy ít. Giận hờn là: không luận mình phải hay quấy, nếu có ai không thuận theo bổn
ý, liền phát sanh giận dữ, dù kẻ khác dùng lẽ phải khuyên bảo cũng chẳng nghe theo. Ngu si là chẳng phải
tuyệt nhiên không biết việc chi. Chính như kẻ đọc hết sách thế gian, văn từ qua mắt liền thông thuộc, miệng mở thành thi bài, mà không tin lý nhân quả
ba đời cùng sự luân hồi sáu nẻo, cho rằng người chết thì mất, không có đời sau v.v... đều gọi là ngu si. Những sự hiểu
biết như thế làm cho hư nước hại dân còn quá hơn nạn nước lụt, thú dữ. Ba điều này không làm thì ý nghiệp lành, làm thì ý nghiệp
ác. Người ba nghiệp thân, khẩu, ý đều lành, khi tụng kinh niệm Phật, công đức lớn hơn kẻ ba nghiệp ác gấp trăm ngàn lần.
3. Người
học Phật cần phải giữ lòng tốt, nói lời tốt và làm việc tốt. Giữ lòng tốt là không nên khởi những
tâm niệm ác, trái chánh lý, có hại cho mình và người.
Nếu tâm niệm ấy thoạt nổi lên, phải lập tức sanh lòng hổ thẹn sám hối, khiến cho nó liền tiêu diệt. Lại phải giữ gìn những tâm niệm: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, có lợi vật lợi người. Đối với điều lành, sức mình có thể làm được việc chi, nên thiết thật mà làm; nếu không làm được thì cũng nên thường tâm niệm.
Nói lời tốt là nói lời có ích cho người và vật, chớ không phải nói xu phụ cốt để cho người vui vẻ vừa lòng là lời tốt đâu. Đây chính là nói những lời
răn dạy con cái, khuyên người làm lành, lánh dữ,
giữ trọn nhơn luân, gắng tu phước huệ. Làm việc tốt là phải thật hành việc hiếu thảo cha mẹ, cung kính sư trưởng, hòa thuận anh em, khuyến hóa mọi người. Và với những việc lễ sám, niệm Phật, tụng kinh, thân tâm phải chí thành cung kính.
4. Người
học Phật, ban đêm không nên ở trần, mặc quần đùi mà ngủ. Vì một Phật tử lúc nào cũng phải gìn lòng như đối trước Phật. Đến bữa cơm không nên ăn quá độ, thức
ăn dù ngon, hạp miệng cũng chỉ nên ăn tám chín phần mà thôi. Nếu
ăn đủ mười phần thì kẻ khác bị thiếu, mà tạng phủ mình cũng thọ thương. Phước đức của phàm phu đâu có bao nhiêu, nếu thường
ăn như thế, thọ lộc phải giảm. Vả lại khi ăn quá nhiều, thân tâm mờ mệt, nếu thực phẩm không tiêu, tất ra hơi dưới. Việc này rất không thanh nhã, tội lỗi
rất to. Như sự đốt hương ở điện Phật chẳng qua là để tiêu biểu lòng cung kính, xét lại mùi thơm
đâu có bao nhiêu? Nếu ăn quá no để cho ra hơi dưới... mùi hôi thúi xông đến Tam bảo,
thì đời sau tất phải bị quả báo làm loài dòi. Vậy muốn
tránh lỗi ấy, tốt hơn là nên ăn cho có điều độ.
Thảng như bao tử yếu bị chứng hàn, món ăn khó tiêu, cảm thấy
muốn ra hơi dưới, thì nên bước ra ngoài, đến chỗ trống cho ra, đợi khi hơi tan lại đi vào trong. Nếu có việc
không ra ngoài được, thì phải dùng sức nén lại, giây phút hơi sẽ tiêu tan ở trong bụng. Có kẻ cho rằng làm như thế e sanh ra bệnh, lời này không nên nghe theo, vì nếu giữ
một chút vệ sinh không đáng vào đâu mà để cho ra hơi
dưới nơi điện Phật, nhà Tăng, thì khổ báo của
tội lỗi còn nặng gấp hơn muôn phần. Trong giới luật của Phật chế, chưa nói đến việc này, có lẽ người xưa thân thể mạnh khỏe, không tham ăn, chẳng có điều
bất nhã ấy, nên Phật chưa nói, nếu như có, tất Phật đã nói ra rồi! Vậy chớ cho rằng Phật không chế giới ngăn cấm điều ấy, mà tùy ý cho ra hơi dưới.
Làm như thế là tự rước lấy sự đọa lạc, chừng ấy Phật muốn cứu độ cũng không biết làm sao? Thuở xưa đức Khổng Tử lấy tư cách bậc Thánh nhân đến chầu vị quốc quân phàm phu, khi còn ở dưới
thềm sắp muốn bước vào triều, đã nén nhẹ hơi thở, huống chi lúc đối trước mặt vua? Cho nên, sách Luận Ngữ
nói: “So vạt áo bước lên đền, thân mình cúi xuống, nhẹ hơi dường như không thở.”Chúng ta là phàm phu đầy nghiệp
lực, đang lúc ở nơi điện Phật, một đấng trời trong hàng trời, Thánh trong hàng Thánh, là chỗ Tam bảo
đầy đủ mà không để tâm thúc liễm, mặc ý cho ra hơi hôi thúi nơi dưới, tội lỗi ấy lớn biết chừng bao? Xin chớ cho rằng tôi nói ra đây việc không thanh nhã, tôi chẳng
ngại gì mang tiếng không thanh nhã, chỉ sợ
cho những kẻ thô suất lầm gây ra nhân đọa lạc làm loài dòi tửa đó thôi.
5. Người
học Phật, sớm mai thức dậy và sau khi đại tiểu tiện đều phải rửa tay. Khi dùng tay gãi nơi thân, chà dưới
chân
cùng rờ các chỗ không sạch khác, đều cũng phải rửa. Dù tháng nóng nực, cũng không nên tự
do mở nút áo để phơi ngực hoặc vén quần bày bắp vế. Tùy tiện khạc đàm hỉ mũi là một việc rất tổn phước. Chẳng những ở trong Phật điện, Tăng đường, không được hỉ nhổ, mà bên ngoài điện đường
chỗ đất sạch sẽ cũng không nên làm việc ấy,
vì nơi đất sạch mà bị khạc nhổ, thì liền hiện ra tướng dơ. Có người thô tháo không kiêng dè, cứ hỉ
nhổ bừa trong phòng, trên đất, nơi
tường, thành ra trong nhà chỗ nào cũng có đàm dãi. Kẻ
ấy cho rằng khạc đàm là được thông trệ và bỏ chất nhơ ra ngoài, nhưng không dè mỗi ngày thường nhổ như thế thì bao nhiêu tinh hoa của chất
ăn uống đều biến thành đàm, nhiều ngày sẽ sanh ra bệnh. Trong thân người có gì tinh sạch,
tốt hơn là nên nuốt đi, lâu ngày sẽ không còn đàm nữa. Đây là phương pháp dùng đàm trừ đàm rất
thần diệu. Nếu không nuốt được thì nên nhổ vào khăn tay, phải hành động
cho khéo đừng để người thấy. Nhưng việc này cũng nhọc công và không sạch, chẳng
bằng nuốt đi, đã không nhọc nhằn
lại không bày ra sự nhơ nhớp; hơn nữa còn dứt được bệnh đàm. Vài điều trên đây, dường như không đáng nói, có kẻ lại
cho rằng nhỏ nhặt không mấy để tâm. Nhưng người học Phật phải giữ tư cách lễ nghi và biết sợ tội, nếu chẳng thế thì thành ra
kẻ thô tháo sỗ sàng, hiện đời phước giảm tội thêm, kiếp sau phải bị đọa lạc.
6. Người
học Phật, một cử động đều phải lưu tâm. Trong khi niệm Phật,
cần phải chí thành, nếu có lúc thấy nơi lòng sanh ra bi cảm đó là tướng
căn lành phát hiện. Tuy nhiên, cũng cần phải dè dặt, đừng để cho nguồn bi cảm thường thường phát lộ, nếu chẳng thế tất sẽ bị loài ma bi thương nhập vào. Phàm có việc chi vừa
ý cũng không nên quá vui mừng, vui mừng quá độ sẽ bị loài ma hoan hỷ ám nhập. Khi niệm Phật, mí mắt phải sụp xuống và không nên quá dùng tinh thần khiến
cho tâm hỏa bừng lên. Những lúc cảm thấy trên đỉnh đầu tê rần ngứa nhức, đó là hiện tượng dùng tinh thần chuyên chú nhiều, cần phải điều độ cho vừa chừng. Khi niệm ra tiếng, không nên dùng sức lắm,
phải ngừa sự mang bệnh. Lần chuỗi mà niệm có thể trừ chứng biếng trễ, nhưng khi ngồi yên không nên lần, lần
thì tay động tâm thần mỏi nhọc không an, lâu ngày tất mang bệnh.
7. Người
học Phật, khi xem kinh luận và các sách vở,
chẳng nên quá vội vàng, vội vàng thì tâm thần rối
loạn không yên, rất khó hiểu được ý thú. Đời nay, nhiều người có đôi chút thông minh, khi được một
bộ kinh sách liền quên ăn bỏ ngủ, xem một lần cho hết. Qua đến lần
thứ hai thì không còn hứng thú xem nữa,
dù có xem cũng như trạng thái phờ phạc mất thần. Hạng người này khó làm thành tựu việc
chi, vậy phải gắng răn giữ. Ông Tô Đông Pha nói: “Sách xưa chẳng
chán trăm lần đọc. Đọc kỹ suy cùng ý vị sâu!” Đức Khổng Tử là bực Thánh nhân, mà còn đọc Kinh Dịch
nhiều phen, đến nỗi dây sách ba lần mòn đứt. Tư chất như Ngài, văn từ qua mắt liền thông thuộc, tại sao lại cần phải xem văn mà đọc? Nên biết xem văn có chỗ rất hay, bởi đọc thuộc lòng phần nhiều là sự làu thông ngoài miệng, xem văn thì dễ
biết ý thú mỗi chữ mỗi câu. Vậy chúng ta lấy đó làm gương, đừng một
mặt ưa đọc thuộc lòng để tỏ ra mình là người thông minh nhớ giỏi...
40/
Thơ
Đáp Cư Sĩ Châu Tụng
Nghiêu
(Phụ Nguyên Thơ)
Nay đệ
tử có một nghi vấn, cầu xin lão Pháp sư từ bi chỉ bảo:
Đệ
tử ăn chay niệm Phật đã nhiều năm, nghe dạy rằng: Những người tin tưởng Phật, sẽ được chư Phật trong mười phương ba đời hộ niệm, các vị Thiên Long Bát Bộ, Đại
Lực Thần Vương thường theo hộ trì, nghiệp ác đời trước lần lần tiêu trừ, dù có oan gia đối đầu
cũng không thể làm hại. Mấy điều trên đây căn cứ trong Kinh Phật, quyết không phải là lời nói suông. Nhưng vào khoảng tháng ba này, nhân tiếp được
tin tức của người bà con từ Thượng Hải gửi về, khiến đệ tử vô cùng ngạc nhiên! Theo tin ấy cho biết:
Bà Trương Thái Thái là người rất
tin Phật, ăn chay đã hơn hai mươi năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp. Bà ấy hiền
hậu nhân đức, ưa làm lành, gặp ai cũng đều khuyên ăn chay niệm Phật.
Không ngờ một hôm đang đi trên lộ để
đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị xe cán chết. Lúc ấy vì không có ai nhìn, nên nhân viên tuần
phòng chở đi, đến ba ngày sau con cháu hay được mới
xin đem về chôn cất. Đệ tử nghe tin ấy trong lòng kinh ngạc phi thường,
đến nay vẫn còn nghi ngờ chưa hiểu. Việc này nếu người trong Phật học hội nghe được, chắc cũng bàng hoàng không an. Cho nên đệ
tử dâng lên bức thơ này, cầu xin lão Pháp sư chỉ dạy, nói rõ nguyên do vì sao bà họ Trương
lại bị cái chết thảm khốc như thế. Và kết cuộc, bà có được vãng sanh về Tây phương hay chăng?
Xin lão Pháp
sư mở lời minh huấn để cho nhiều người yên tâm niệm Phật. Ân đức ấy đệ tử cảm bội không cùng!
Tiếp
được thơ, biết ngươi đối với đạo lý Phật pháp còn chưa hiểu rõ. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, đã tạo nghiệp ác vô lượng vô biên! Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử nghiệp ác có thể tướng, mười phương hư không chẳng dung chứa hết.” Nên biết
sự tu trì của hành nhơn, nếu quả chí thành không dối, thì có thể
chuyển trọng báo, hậu báo thành hiện báo, khinh báo. Người phàm mắt
thịt chỉ thấy sự kiết hung trước mắt, đâu biết được việc nhân quả đời trước và đời sau.
Bà họ
Trương ấy nhiều năm tinh tu, một sớm chết thảm, hoặc giả do sự khổ đó mà tiêu được ác báo tam đồ, sanh về cõi Thiên. Nếu trong hiện đời bà tin sâu nguyện thiết
thì cũng có thể sanh về Tây phương. Nhưng chúng ta đã không có tha tâm đạo nhãn, nên không dám ức
đoán
quyết chắc bà có được vãng sanh cùng chăng? Việc có thể
quyết định là: làm lành tất được
quả lành, làm dữ phải mang ác báo. Nếu làm lành mà bị quả dữ, đó là quả báo của nghiệp ác đời trước, chẳng phải quả báo của nghiệp lành đời này. Các ngươi thấy bà lão bị sự chết khổ như thế, liền nghĩ lầm rằng việc lành không đáng làm, bởi làm lành không được
phước, nên mới sợ hãi nghi ngờ. Sự nhận thức đó đâu có khác gì người chưa
nghe hiểu Phật pháp? Nếu người đã tin chắc lời của Phật, quyết không vì việc ấy mà lộ ra vẻ
sửng sốt kinh hoàng. Bởi việc nhân quả trùng điệp không cùng, có khi nhân này chưa trả,
quả nọ đã chín mùi, ví như gieo giống
sớm thì gặt sớm, lại như thiếu nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên.
Thuở
xưa, có người một đời làm lành, khi lâm chung lại bị
chết thảm để trả xong nghiệp trước, đời sau lại được phú quí vinh hoa. Như đời
Tống một vị Tăng ở chùa A Dục Vương muốn trùng tu tòa điện tháp thờ
Xá Lợi nghĩ rằng Cần Thân Vương có thế lực, mới đến quyên mộ. Chẳng dè kết quả số tiền quyên không được bao nhiêu, bổn nguyện không thành, vị Tăng buồn bã, lấy búa chặt tay trước đền Xá Lợi, máu ra nhiều liền chết. Cùng trong lúc ấy, Cần
Thân Vương sanh ra một đứa con. Từ khi mới lọt lòng, đứa bé thường khóc mãi không thôi. Bà vú bế nó đi chơi,
đến chỗ treo bản đồ xây tháp Xá Lợi thì đứa bé không khóc, bồng đi lại
khóc to lên. Bà vú không biết làm sao, mới gỡ bản đồ xuống thường cầm để trước mặt nó, từ đó đứa bé không khóc nữa. Vương
nghe chuyện ấy lấy làm lạ liền sai người đến chùa A Dục hỏi thăm vị Tăng khi trước, mới hay ông chặt tay chết đúng vào ngày sanh của con mình. Do nhân duyên
đó, Thân Vương một mình đứng ra sửa lại điện Xá Lợi. Đến khi đứa bé ấy được hai mươi tuổi, nhằm lúc vua Ninh Tông băng, không có Thái tử
kế vị, mới di chiếu lập con của Cần Thân Vương lên làm vua. Cậu bé về
sau được làm Hoàng Đế bốn mươi mốt năm, tức là vua Lý Tông nhà Tống vậy.
Cái chết
của vị Tăng cũng là cái chết thảm.
Nếu không có sự khóc mãi chẳng thôi và khi thấy bản
đồ tháp Xá Lợi liền nín lặng, thì đâu ai biết được
đứa bé là thân sau của vị Tăng đã chết thảm kia? Việc này chép ở tập A Dục Vương Sơn Chí, mà trong năm Quang Tự thứ
hai mươi mốt, tôi nhân đi lễ tháp Xá Lợi vài mươi ngày, đã được xem qua. Người rõ lý mặc dù cảnh ngộ thế nào, cũng quyết không nghi nhân quả sai lầm, lời Phật
hư dối. Kẻ không rõ lý, chấp chặt một khuôn khổ, chẳng biết có nhân quả phức tạp, cho nên sanh lòng nghi nan, truy ra đều
do không có chánh kiến. Như chỗ ngươi nói: người niệm Phật có Tam bảo gia bị, long thiên hộ trì, đó vẫn là lẽ nhất định không còn sai lầm. Nhưng đối với việc chuyển quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời này, ngươi còn chưa rõ biết, nên không khỏi có sự nghi ngờ bàn bạc không hợp lý kia. Thuở xưa, ở Tây Vức, Giới Hiền Luận Sư là bậc đạo đức cao trong một thời, tiếng đồn vang khắp bốn xứ Thiên Trúc. Do vì túc nghiệp, Luận
Sư mang chứng bệnh dữ, đau đớn vô cùng, chịu không kham, nên sắp muốn
tự tận. Vừa trong đêm ấy, Luận Sư nằm mơ thấy ba vị Bồ tát: Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Thế Âm giáng lâm bảo rằng: “Ngươi trong kiếp về trước, nhiều đời làm vị quốc vương, bởi não hại chúng sanh, nên sẽ phải bị lâu dài đọa vào ác đạo. Nhưng do đời nay ngươi có công hoằng dương Phật pháp nên chuyển lại chịu sự khổ nhỏ ở nhân gian để tiêu trừ sự khổ lớn nhiều kiếp nơi Địa ngục. Vậy ngươi gắng nhẫn chịu, chớ nên buồn rầu mà tính việc chi khác. Trong ba năm nữa, ở xứ Đại Đường có vị Tăng tên Huyền Trang, sẽ đến đây thọ pháp với ngươi.” Giới
Hiền Luận Sư nghe rồi liền rán chịu khổ sám hối lâu ngày bệnh lần lần thuyên giảm. Qua ba năm sau, Huyền Trang đến
chùa Na Lan Đà, Giới Công bảo đệ tử nói trạng thái bệnh khổ của mình, chính người thuật lại cũng nghẹn ngào rơi lệ. Bao nhiêu đó cũng đủ biết
sự khổ ấy là dường nào rồi! Nếu ba vị Bồ tát không nói rõ nhân duyên kiếp trước,
người đời sẽ bảo Ngài Giới Hiền chẳng phải là bậc đạo đức cao Tăng. Hoặc có kẻ lại cho rằng: một vị đại tu hành mà còn bị chứng
bệnh thảm thế ấy, thì Phật pháp có chi là linh nghiệm?
Tóm lại,
chỗ hiểu biết của các ngươi còn cạn, nên vừa thấy việc chi hơi khác liền sanh lòng kinh nghi. Hành vi ấy
có thể khiến cho kẻ ít căn lành thối thất lòng đạo. Nếu thấy người làm ác mà hiện đời được phước báo, chắc các ngươi cũng khởi niệm hiểu lầm như thế. Nên biết đó chẳng qua là sự chuyển biến của những lớp tiền nhân hậu quả
phức tạp không đồng, để đổi quả nặng đời sau làm quả nhẹ hiện tại, hay chuyển quả nhẹ hiện tại thành quả nặng đời sau mà thôi.
41/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Dương Đức
Quan
Về
việc ông Hoàng Hậu Giác, hiện tượng ấy rất có lợi ích cho người học Phật. Sự kết quả được vãng sanh hay bị đọa
lạc của ông, hãy tạm gác qua một bên; nếu quả người niệm Phật biết đến hiện tượng của ông lúc lâm chung, quyết không dám hững
hờ với con đường giải thoát.
Xem qua
thành tích, dường như ông là người có tâm chí thành. Nhưng nhìn vào cảnh
tượng hiện ra lúc lâm chung, ta xét thấy lúc bình thời
ông chưa thật tâm dụng công trong sự tu niệm. Hiện tượng ấy phần nhiều là do những nghiệp bỏn sẻn tiền của hoặc lời nói lầm hại mạng người xui khiến ra. (Bỏn sẻn lời nói lầm hại mạng người là như mình biết chỗ kia có giặc và biết nơi khác có thể trốn lánh được, mà vì không lòng từ bi, ưa
thấy người mang họa, nên không chịu nói ra. Tâm hạnh ấy làm xúc động sự hờn giận của quỉ thần, nên khiến cho khi lâm chung hiện ra cảnh
tượng: nói không được và ghét nghe tiếng niệm
Phật). Lại nữa, sự hiện ra tướng trạng một đôi giờ trăn trở không chịu chết, để đợi đến khi những người trợ niệm đi rồi, chưa bao lâu liền chết, hoàn toàn hợp với cảnh
nghiệp của kẻ bỏn sẻn tiền của cùng lời nói lầm hại mạng người. Trạng thái ấy chứng tỏ dù không đọa vào loài Ngạ quỷ, cũng là khí phần của Ngạ quỷ. Một vị nào đó căn cứ nơi sức trợ niệm bằng chú lực của cư sĩ Diệc Tử Tuấn bảo rằng ông Giác được vãng sanh, song theo ý tôi: chú lực
tuy không thể nghĩ bàn, nhưng nếu nghiệp lực nặng cũng không dễ gì được
lợi ích. Nếu như ông Giác được vãng sanh, tất phải có tướng trạng gì khác để chứng thật, vậy cũng không nên ức đoán sai lầm.
Có vị lại quả quyết rằng, ông ấy đã đọa vào đường Ngạ quỷ. Theo như hiện tượng của ông Giác, thì lời nói sau này tợ
hồ có chỗ y cứ. Nhưng hoặc nhờ con cháu thành khẩn và các cư
sĩ trợ niệm, hoặc do chính ông ấy sám hối trong tâm, có thể tội
của ông được giảm khinh, không đến nỗi đọa ngay vào đường Ngạ quỷ.
Hiện
thời, việc đáng làm là con cái cùng quyến thuộc
của người quá vãng phải nghĩ đến sự khổ của vong nhân, phát lòng lợi mình lợi
người thay vì kẻ chết niệm Phật, cầu Phật thương xót tiếp dẫn vãng sanh. Nếu lòng thành khẩn được đến cùng thì sự vãng sanh có thể dự đoán, bởi lẽ cha con thiên tánh quan hệ lẫn
nhau, và tâm Phật có cảm tất liền ứng. Như người trong quyến thuộc lơ lơ láo láo làm cho xong việc thì vong nhân nghiệp
chướng không tiêu và khó mong được tiếp
dẫn. Điều này quan hệ phi thường vì sai một ly lạc đi ngàn dặm.
Việc
trên đây nhắc nhở cho ta biết người niệm Phật đối với mình phải thiết thật sửa trừ tâm tánh xấu xa, với người phải dùng phương tiện giúp đỡ. Những điều đáng nói, tuy kẻ cùng ta có oán thù cũng phải
vì họ nói, khiến cho kẻ ấy sanh phước khỏi họa, lìa khổ được vui. Lúc bình thời phải
khăng khăng thiết thiết vì người nói việc luân hồi nhân quả, niệm Phật vãng sanh. Lại nên dạy dỗ con cái, vì nó lập nền
tảng vững chắc an lành. Phải giữ làm sao cho lời nói không mơ hồ, tâm như dây cung thẳng, việc làm không trái lẽ trời,
tấm lòng có thể phô trương cùng thần quỉ. Được như thế thì khi lâm chung quyết không có hiện
tượng đáng thương xót kia. Và như thế
thì ông Hoàng Hậu Giác lại chính là bậc Thầy khuyên dẫn của các người niệm Phật; các vị nhờ ông mới được sự lợi ích lớn về sau, mà ông cũng nhờ tâm lực
của các vị, được hết tội, sanh về Cực lạc. Ấn Quang tôi nói đây chẳng phải
là lời bông lông, chính là một định
luật không hề sai suyển. Như có ai chẳng cho là phải, thì xin chất chánh với bậc cao minh Pháp sư, hoặc
thỉnh vấn nơi bậc thần thông đại Thánh...
42/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Phật Điển
Tiếp
được thơ, biết cư sĩ tụng niệm tinh cần, lòng tôi rất vui đẹp!
Những
bóng đen theo cư sĩ nói, chẳng phải là bóng chư Phật, Bồ tát, cũng chẳng phải hình ảnh kẻ oan gia đối đầu. Vì nếu Phật, Bồ tát hiện thân, tất phải tỏ rõ có thể trông thấy mặt mày; còn nếu là kẻ oan gia thì nó sẽ hiện
ra tướng ghê gớm đáng sợ. Mấy bóng ấy có lẽ là những cô hồn hữu duyên từ kiếp trước, muốn nhờ sức tụng kinh niệm Phật của cư sĩ để siêu sanh về cõi an lành. Vậy sau thời khóa tụng hồi hướng, cư sĩ nên cầu nguyện luôn cho các vong ấy được
tiêu trừ ác nghiệp, thêm lớn căn lành, nhờ sức từ của Phật vãng sanh về Tây phương. Như thế, các vong kia sẽ được lợi ích, không luống uổng một phen khổ sở mong cầu.
Người
tu hành tâm phải có chủ tể, khi thấy cảnh giới xấu không nên sợ hãi, thấy cảnh giới tốt cũng không nên vui mừng. Được
như thế thì các cảnh giới trải qua đều là những thắng duyên trợ đạo. Nếu tâm không chủ định thì các cảnh đều là chướng duyên. Lại, người tu hành phải lấy sự cung kính chí thành làm gốc, lấy
từ bi khiêm tốn làm lòng. Như thế thì dù tâm hạnh chưa được hoàn toàn cùng Phật hợp
nhau, cũng không đến nỗi trái với tâm hạnh của Phật, có thể gọi là người chơn tu, là đệ tử Phật.
43/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Hoàng Tụng Bình
Bệnh
do thân sanh, thân do nghiệp sanh, muốn
cho bệnh mau lành, các hạ nên tha thiết
sám hối để tiêu trừ túc nghiệp. Với việc phòng thất, cũng phải tự răn cấm thì bệnh mới khỏi tăng thêm. Bất luận bệnh gì, nếu không răn chừa sự vợ chồng chung chạ, tất nhiên khó được lành.
Hàng ngoại
đạo rất nhiều có đến trăm ngàn phái, nhưng cách dụng
công của họ đều không ngoài việc vận khí luyện đơn. Bên ngoại đạo dù có bảo người xem kinh niệm Phật, cũng là việc bề ngoài, chính họ cũng không cho đó là đạo. Khi truyền
giáo, các ngoại đạo thường lựa vào lúc ban đêm, đóng kín các cửa lớn
cửa sổ, bên ngoài phái người qua lại
canh tuần, chỉ để một người thọ giáo vào thất. Trước khi được điểm đạo, người thọ giáo phải phát lời thề rất độc địa thảm ác. Nếu kẻ nào trái với lời dạy bảo của họ, sẽ phải chịu kết quả của lời thề ấy. Khi phát thệ rồi, họ lại chỉ khiếu điểm huyệt hoặc ở đầu, ở mặt, ở thân. Những huyệt nơi thân cần phải cởi áo mới chỉ điểm được. Việc làm như thế thật là một bức sáo để mê hoặc người. Họ lại thêm rằng một phen truyền qua, không tu cũng có thể đắc
quả. Giả sử bỏ hẳn những việc chỉ điểm bí mật cùng phát lời thề, mà đem công bố rõ ràng ra cho mọi người
tự do lựa chọn, tất hạng ấy không còn căn cứ đứng
vững. Trong Phật pháp không có việc bí mật
truyền lén nhau, cũng không dạy người
phát lời thề độc ác, kẻ nào tin thì theo, không tin thì thôi.
Các hạ
đã niệm Phật mà còn sợ lạc vào ngoại đạo, ấy cũng bởi chính mình không phân minh sự tà chánh giữa
đôi bên, chỉ bắt chước theo người phát sanh tín tâm, thật ra chưa
có lòng tin chân thật. Nếu có lòng tin chân thật thì chỉ
gắng sức tu trì, cần gì phải lo ngoại đạo đông nhiều và sợ mình đi lạc lối? Các hạ đã tự nhận có nhiều túc nghiệp nên mang bệnh dữ, thế thì cần phải ăn chay niệm Phật và vì những oan gia đời trước mà làm việc siêu độ. Nói siêu độ đây, cũng không cần phải
thỉnh Tăng chúng làm Phật sự,
chỉ tự mình thành thật khẩn thiết niệm Phật và niệm Quán Âm mà thôi. Các hạ chớ
nên nghĩ rằng; chỉ niệm một đức Phật, một vị Bồ tát sợ e không lành bệnh. Nên biết niệm Phật là pháp rất tròn mau thẳng tắt trong Phật pháp, sự lợi ích vượt hơn tất cả pháp môn. Nếu có sai biệt là do tâm mình chí thành cùng không chí thành, chẳng
phải pháp có linh nghiệm hoặc
không linh nghiệm.
44/
Thơ Đáp Cư
Sĩ Trạch Phạm
Hàng phụ
nhân khi sanh sản, nên niệm
Quán Thế Âm Bồ tát, vì đức Quán Âm tâm cứu khổ rất ân cần. Lúc ấy phải ra tiếng niệm to lên, không nên niệm thầm,
vì niệm thầm năng lực đã yếu, sự cảm thông cũng kém. Hơn nữa,
trong khi dùng sức cho đứa con ra, nếu niệm thầm tất phải tổn hơi mang bệnh. Chẳng những sản phụ tự mình niệm lớn, mà những người giúp đỡ trong phòng sanh cũng niệm to lên. Và hàng quyến
thuộc tuy ở nơi nhà, song cũng phải vì sản
phụ niệm danh hiệu Bồ tát cầu nguyện giúp.
Rất
không nên cho rằng: khi sanh sản lõa lồ không sạch, niệm sợ có tội. Nên biết, lý tuy hữu định, nhưng sự phải tùy cơ, chỉ căn cứ theo sự mà luận lý, chẳng nên chấp riêng bên lý để luận bàn. Ví như khi con cái té vào hầm phẩn
hoặc nơi nước, lửa, kêu cha mẹ cầu cứu, cha mẹ liền chạy tới kéo lên, không khi nào ngại
rằng con mình thân thể chẳng
sạch, áo mũ không chỉnh tề,
mà không chịu cứu vớt để mặc cho nó chết. Lòng từ bi của Bồ tát còn thâm thiết hơn
cha mẹ đối với con vô lượng muôn ngàn lần. Đang lúc chúng sanh bị khổ,
cầu cứu, Bồ tát chỉ có niệm cứu khổ, tuyệt
không có niệm so chấp về thân hình. Vả lại việc sanh sản dĩ nhiên phải như thế, là lúc quan hệ đến mạng căn, không thuộc vào trường
hợp có thể tỏ bày sự nghiêm kính sạch sẽ, thế thì còn chấp chi sự nghiêm sạch cùng không? Nếu ở trường hợp làm được mà không làm, thì thật là có tội.
Trái lại, trong cảnh ngộ không thể tỏ bày tướng cung kính, thì chỉ nên luận
sự quy hướng, chí thành nơi tâm, không nên chấp những
lễ mạo nghi thức trên hình tích. Bồ tát không sự
khổ nào chẳng cứu vớt, không tai nạn nào chẳng giúp đỡ xót thương, đâu có lý đối với hàng sản phụ mà bỏ sót ư? Dù trong kinh không nói rõ về việc
này, ta cũng phải cứ theo lý suy hiểu tâm cứu khổ, để dứt sự khổ nạn lớn cho nhân sanh, và làm thỏa mãn lòng từ
bi của Bồ tát. Huống chi trong Kinh Dược Sư,
Phật đã từng bảo người nữ nên niệm danh hiệu đức Dược Sư Như Lai trong khi sanh sản ư?
Kinh văn ấy nói: “Hoặc có người nữ đang khi sanh sản chịu nhiều sự khổ, nếu có thể chí tâm xưng danh lạy khen cung kính cúng dường đức Như Lai kia, (xưng danh thì sản phụ có thể làm được, còn lạy khen cung kính cúng dường là thuộc về việc người thân quyến làm thay thế) thì các sự khổ đều trừ. Đứa con sanh ra thân phần đầy đủ, hình sắc đoan chính, lợi căn thông minh, an ổn ít bệnh, người trông thấy đều vui mừng, sản phụ không bị loài phi nhân cướp đoạt tinh khí...” Thế
thì biết, khi sanh sản niệm danh hiệu Phật, Bồ tát chẳng những không tội, mà mẹ con được an toàn, đã gieo trồng căn lành, lại
có lợi ích lớn. Niệm Phật Dược Sư đã như thế, thì niệm Quán Thế Âm Bồ tát cũng như vậy. Hàng sản phụ niệm đã được lợi ích như trên, thì các người khác suy ra có thể
biết.
Ở
tỉnh Hồ Nam, vợ chồng cư sĩ Mã Thuấn Khanh và năm người con đều
là đệ tử quy y của tôi. Năm Dân Quốc thứ
18, Mã có gởi thơ cho tôi thưa rằng: vợ y sanh năm đứa con gái, khi sanh hai lần trước
còn bình an, đến lần thứ ba thì bị huyết băng; lần thứ tư, thứ năm lại càng nhiều hơn nữa. Nay người vợ lại sắp sanh, thảng như có huyết băng, chắc là khó sống, cầu xin tôi chỉ bày phương pháp cứu tế và vì đứa trẻ còn trong thai dự đặt
pháp danh. Tôi liền bảo vợ chồng phải chí thành niệm Quán Thế Âm Bồ tát, dù khi sanh sản lõa lồ
không sạch cũng vẫn cứ niệm, lại phải niệm ra tiếng không nên niệm thầm. Khi thơ tôi gởi đến, vợ chồng xem rồi vâng lời, người vợ qua ngày sau thì sanh, khi sanh cũng vẫn
niệm, rốt cuộc mẹ con đều được mạnh khỏe bình yên. Sau khi vợ sanh, Mã liền
hồi âm cho tôi biết; sự kết quả tốt đẹp ngoài ý định, Bồ tát thật là đấng đại từ đại bi.
Lại,
một đệ tử quy y của tôi, vài năm trước ở
tỉnh Tứ Xuyên, nhân đến thăm người bạn, nghe trong nhà có đàn bà rên khóc bi thương,
liền hỏi duyên cớ. Người bạn tỏ thật vợ y chuyển bụng muốn sanh đã hai ngày mà sanh không được, sợ
e khó sống. Đệ tử tôi bảo: “Nên khuyên
chị mau niệm Thánh hiệu Quán Âm, còn anh phải lập bàn trước nhà, đốt hương quì niệm cầu Bồ tát cứu độ.” Người
bạn nhất nhất y theo lời. Kết quả, trong giây phút vợ y sanh được,
khi sanh cũng không tự biết, đến chừng nghe tiếng đứa trẻ khóc mới hay mình đã sanh. Sau khi ấy, sản
phụ thuật lại rằng: “Lúc tôi muốn sanh, thấy có người dùng vải nịt chặt dưới hạ thể nên sanh không được. Đến khi niệm Thánh hiệu Quán Âm thì thấy miếng vải sút ra, đứa bé lọt lòng hồi nào không tự biết.”
Thế
thì biết, người nữ khi sanh sản niệm Quán Thế Âm Bồ tát thật có lợi ích vô cùng. Vì đang lúc ấy, hoặc
do trong mình đã đau yếu sẵn, hoặc do oan gia đời trước theo ám hại, sản phụ ở vào hoàn cảnh thập tử nhất sanh; nếu không tha thiết chí thành cầu Bồ tát cứu độ, tất mẹ con khó được an toàn. Ấn Quang tôi, từ mùa thu năm Dân Quốc thứ
15 trở đi, khi bộ Tăng Quản Văn Sao đã in rồi, bất
luận văn tự gì, đều không giữ bản thảo để khỏi sự hao tốn về ấn phí. Gần đây, nhân biết rõ cái tệ chấp nhất của phụ nhân trong khi sanh sản, nên tôi thường
đem việc lợi hại ấy nói với tất cả mọi người, mong cho kia đây truyền nhau, để dự cứu sự khổ sở cùng tánh mạng của sản phụ và sanh nhi. Nếu có ai không lượng xét, cho rằng tôi ưa nói việc đàn bà sanh sản, riêng tôi cũng không lấy chi làm ngại,
chỉ mong cho mọi người đều sanh lòng chánh tín, bỏ sự
cố chấp, được khỏi tai họa mà thôi.
45/
Đáp 20 Câu Hỏi Của
Cư
Sĩ Khúc Thiên Dương
1. Hỏi: Đệ
tử tin đạo Phật, nguyên nhân do nghiên cứu thuật
thôi miên. Thuở trước, đệ tử nghe lời tục nói: “Tu trời chín kiếp, tu Phật mười đời”, hằng nghĩ rằng mười đời quá lâu xa, e nửa chừng lỡ dở mà uổng phí công trước. Nếu sớm biết niệm Phật một đời được giải thoát, thì đệ tử đã thật hành lâu rồi. Nay nhìn lại mình đã hai mươi bảy tuổi, nghĩ tự hối phát tâm trễ muộn!
Đáp: Lời tục
ngữ ấy do những kẻ không hiểu Phật pháp nói sai. Người hiểu Phật pháp không bao giờ thốt
ra lời ấy. Niệm Phật một đời được giải thoát là do lòng tin sâu nguyện thiết,
quyết định cầu khi lâm chung sanh về Tây phương,
nên nhờ sức Phật tiếp dẫn lên ngôi Bất thối. Nếu không nhờ Phật lực mà muốn thoát sanh tử, e cho ngàn muôn kiếp cũng không được,
huống nữa là mười đời!
2. Hỏi: Theo chỗ
đệ tử tin hiểu: “Có tịnh tâm mới thành Phật”, cũng như
người học thôi miên trước phải trầm tịnh rồi sau mới có những hiện tượng không thể nghĩ bàn?
Đáp: Dùng tâm thanh tịnh niệm Phật
quán Phật thì dễ cùng Phật tương ưng. Nếu thêm vào đó lòng tín nguyện chơn
thiệt, tất sẽ được vãng sanh, rồi lần lượt tiến tu cho đến khi thành Phật. Đừng hiểu lầm rằng, đời nay tịnh tâm, liền được thành Phật.
3. Hỏi: Về
sự nương nhờ sức Phật, theo chỗ hiểu của đệ tử; như nhà thôi miên tự thôi miên lấy mình, so lại khó hơn để cho người khác thôi miên. Tự lực
không bằng tha lực có phải giống như thế chăng?
Đáp: Tất cả
pháp môn khác đều nương nhờ sức mình để dứt hoặc chứng chơn, như người què chân tự đi, mỗi ngày khó được trăm dặm. Pháp môn Tịnh độ nương sức từ của Phật, nên có thể đới nghiệp vãng sanh, như người què kia nương theo luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương, một ngày đi khắp bốn châu thiên hạ. Đem việc thôi miên để so sánh chứng minh rất không hợp
lý.
4. Hỏi: Miệng
niệm Phật, tâm tưởng Phật, sự tưởng ấy có đồng với pháp quán thứ tám trong Quán Kinh chăng?
Đáp: Chỉ nên tha thiết
nhớ Phật thôi. Còn về quán tưởng nên y theo pháp quán thứ mười
ba mà dụng công. Nhưng cảnh Phật tinh tế, tâm phàm thô phù, sợ e quán khó thành tựu, có khi dụng
tâm không đúng, lại khởi ra các việc ma.
5. Hỏi: Như
lúc nguy cấp, không thể trong một lúc gồm tụng các thần chú, vậy nên ứng dụng phương pháp gì?
Đáp: Gặp
tai nạn rất nguy cấp, chỉ nên niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm. Như thế đã đỡ phí tâm lực lại cảm ứng rất lẹ làng.
6. Hỏi: Chuyên niệm
danh Phật, hiệu lực so với sự trì chú thế nào?
Đáp: Phật hiệu
cùng chú công đức đồng nhau, duy cần phải chí thành mới được cảm cách. Nếu trong tâm trước có một niệm xem khinh hiệu Phật, tất không được sự lợi ích chân thật. Lỗi ấy do tâm không chí thiết và nghi ngờ.
7. Hỏi: Phật
Di Đà tự tánh, cõi Tịnh độ duy tâm cùng với cõi tịnh và Phật ở Tây phương là hai hay một?
Đáp: Có Tịnh độ
duy tâm mới sanh về Tây phương Tịnh độ. Nếu tâm mình không tịnh thì đâu có thể vãng sanh. Dù cho kẻ tội
nghịch ác dùng mười niệm được vãng sanh cũng phải do tịnh
tâm niệm Phật mới cảm sanh về cõi tịnh phương Tây. Người đời phần nhiều cho rằng: đã duy tâm thì không Tịnh độ.
Đó là sự hiểu biết của hàng ma ngoại. Thứ tà kiến tợ phải mà quấy ấy chiếm hơn phân nửa, khiến cho người niệm Phật không được thật ích.
Do đức
Di Đà tự tánh, nên hành giả cần
phải niệm Phật Di Đà Tây phương cầu được vãng sanh, để lần lượt tiến tu thân chứng Phật Di Đà tự tánh. Nếu chỉ chấp riêng Phật Di Đà tự tánh mà không niệm đức
Di Đà Tây phương, dù cho được chân thật tỏ ngộ cũng chưa thể thoát ngay đường sanh tử, huống chi kẻ thốt ra lời ấy phần nhiều là hạng tự thị nói suông ư?
Đến
như vấn đề đồng dị: Một mà hai là trước khi chưa thành Phật, hai mà một là sau khi đã thành Phật.
8. Hỏi: Câu “Sanh thì quyết định sanh, về thì thật không về” là ý gì?
Đáp: “Sanh thì quyết định sanh” là nói ước
về sự“về thì thật không về” là nói ước về lý. Nhưng, kẻ chưa thông sự lý, chỉ nên y theo sự tướng mà niệm
Phật cho già giặn là được. Chẳng thế thì thành ra lỗi chấp lý bỏ sự của hàng ma ngoại.
9. Hỏi: Có người
niệm Phật khi lâm chung bỗng nói: “Cõi Tịnh độ ở tại góc sân trước nhà.” Thế thì cõi này tức
là Tịnh độ chăng?
Đáp: Đó chính là cảnh phát hiện của duy tâm Tịnh
độ. Nhưng Tịnh độ duy tâm của người kia là cảnh giới riêng của kẻ ấy, ngoài ra đều là duy tâm uế độ. Vậy đâu nên căn cứ theo chỗ thấy riêng của một người mà quyết đoán.
10. Hỏi: Tụng
kinh có phải để cho chính mình vui theo mùi đạo, chán việc
hồng trần, hay có tác dụng gì khác?
Đáp: Ngươi tụng
kinh chỉ biết cầu sự vui riêng cho mình. Rất tiếc
vô biên nghĩa mầu nhiệm bị ngươi xem không đáng giá một đồng
tiền!
11. Hỏi: “Hiểu nghĩa thứ nhất” là ý nói gì?
Đáp: “Hiểu nghĩa thứ
nhấtõ là ngộ suốt lý mầu thật tướng, tự tánh duy tâm.
12. Hỏi: Phật
dạy tu quán chính là lập giáo cho chúng sanh bị
sự khổ bức bách trong đời ngũ trược về sau. Nếu y theo thuyết phát hiện thiên nhãn thông của thuật
thôi miên, thì muốn thấy cõi Cực lạc cũng không phải là việc khó. Thế thì thuật thôi miên cũng là một nhu yếu
trong sự niệm Phật, tại sao nhiều vị bảo tu quán là khó, không muốn khuyên mọi
người thật hành?
Đáp: Thôi miên chỉ là năng lực
nhỏ của huyễn thuật, đâu phải chính thật thiên nhãn thông? Những vị
quả thật có thiên nhãn đâu chịu vì người
làm công việc thôi miên? Nay ngươi đã học
Phật, chỉ nên chuyên chí học Phật.
Muốn hiển hiện cõi Cực lạc, nên duy tâm tịnh thì trong một niệm sẽ thấy. Ví như lau gương, lau cho cùng cực tự
nhiên phát quang. Nếu dùng thuật thôi miên muốn hiển hiện, thì tự tâm trước đã không tịnh, niệm cũng không quy nhất, ví như
đem phấn trắng thoa trên gương muốn được phát ánh sáng, không ngờ lại
làm cho gương tối thêm.
13. Hỏi: Tu quán pháp
là quán, là tưởng, hay dụng cả quán tưởng. Và quán tưởng nên lấy cảnh gần hay xa?
Đáp: Hai chữ quán tưởng
đâu nên chia làm hai, nhiếp tâm mà tưởng tức là quán. Ngươi cho là hai thì thành ra chỉ biết
có một cái mười mà không biết hai cái năm. Lại quán tưởng đâu nên phân biệt xa gần!
14. Hỏi: Tu môn quán
ban đầu, nên nhất tâm tưởng mặt trời hay cần phải mặc trì danh hiệu?
Đáp: Quán cùng trì danh vẫn
là một việc. Ngươi cho rằng khi quán tưởng thì không thể trì danh và không nên trì danh ư?
15. Hỏi: Lúc ngồi
thì tu quán, còn các thời khác thì trì danh, sự kiêm tu như
thế so với sự chuyên tu một pháp, bên nào hơn kém?
Đáp: Những tâm trầm
tịnh thuần túy, muốn kiêm hay chuyên tu về quán tưởng
hoặc trì danh, cũng đều tốt.
Như chẳng thế thì chuyên trì danh có phần yên ổn
hơn, vì người tâm chí phù bạc rộn ràng mà tu quán tất sanh nhiều
ma chướng.
16. Hỏi: Khi quán tưởng
thấy cõi Cực lạc, đó là cảnh thật hay hiện tượng giả?
Đáp: Quán tưởng thấy
cõi Cực lạc là duy tâm hiện ra, nếu cho rằng giả, đó là kẻ ở ngoài cửa.
17. Hỏi: Quán thấy
cõi Cực lạc lại có thể nghe pháp, đó có phải là thiên nhãn thông và
thiên nhĩ thông chăng?
Đáp: Đó là do sức quán xui khiến,
nếu thiên nhãn thiên nhĩ dù không quán cũng có thể
thấy nghe.
18. Hỏi: Có kẻ
nói: “Thấy Phật là Phật tự tâm, không phải Phật Tây phương.” Thế
thì khi vãng sanh, Phật tự tâm hiện
hay là đức A Di Đà đến tiếp dẫn?
Đáp: Khi lâm chung thấy Phật
là do tự tâm chiêu cảm, không nên đem về tự
tâm mà cho rằng không có Phật Tây phương đến tiếp dẫn.
19. Hỏi: Vãng sanh về
bậc thượng, dường như không phải là vị vãng sanh của kẻ tu quán. Chẳng biết vị vãng sanh của kẻ tu quán như thế nào?
Đáp: Phẩm vị
vãng sanh sai khác muôn ngàn, trong kinh chỉ lấy
chín phẩm để gồm nhiếp. Ngươi do đâu mà đoán Thượng phẩm
không phải là vị vãng sanh của kẻ tu quán? Nên biết căn tánh chúng sanh không đồng, cũng như
trong một pháp tu mà có cao thấp khác xa. Vậy
không nên khăng khăng luận riêng về bên pháp, bởi đó còn do tâm lực của
mỗi người. Như đức Văn Thù, Phổ Hiền, ngươi cho rằng hai vị ấy không dùng quán pháp sao?
20. Hỏi: Pháp ký số
niệm Phật, hơi thở vào niệm sáu câu, hơi thở ra niệm bốn câu, có phải thế chăng? Đã ký số và niệm Phật, lại cần nên tưởng Phật chăng?
Đáp: Niệm Phật
Ký Số do từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười, đâu có quy định vào hơi thở? Ngươi là người học phép luyện đơn vận khí, nên vừa thấy một hai chữ giống với phép ấy, liền cho đó là công phu của bên kia. Pháp Niệm
Phật Ký Số vì những kẻ khó ngăn tâm vọng mà lập ra. Nếu có thể niệm, ghi nhớ và nghe rõ ràng như thế,
quyết định tâm sẽ lần lần điều phục. Trong ấy ai cho ngươi thêm hai chữ “tưởng Phật” vào? Đây vẫn
là pháp niệm tùy tiện, không nên luận theo hơi thở. Nếu thở ra vào quá lâu, tất sẽ
mang bệnh tổn hơi. Điều này cần phải lưu tâm và hiểu rõ.
LỜI BẠT
Trong quyển nầy, ta thấy Ấn Quang Pháp Sư, về cách khuyến hóa, chỉ dùng lời lẽ bình thường chân thật, mà điểm cốt yếu duy ở một chữ thành. Người học đạo biết đặt chân từ chỗ bình thật đi vào, thì không còn vọng cầu xa xôi; có chí thành khẩn thiết tất dễ cảm thông với Phật. Sự huyền diệu của đạo chính là ở chỗ đó. Cho nên thuở xưa, một vị Tổ Sư đã bảo: 'Tâm bình thường là đạo.' Nhưng, trên đường giải thoát, các tông khác tuy cũng dùng
tâm bình thường thanh tịnh làm căn bản, song chỉ nương ở tự lực, riêng môn Tịnh Độ đã chuyên dùng tự lực lại kiêm chú
trọng về tha lực. Như bên tông
Thiền tuy tham cứu câu niệm Phật, nhưng chỉ dùng đó để ngăn làn sóng vọng tưởng, trở về tâm thanh tịnh; bên tông Mật như phái Lạt Ma giáo ở Tây Tạng, cũng có người chuyên trì
danh hiệu của một đức Phật, một bậc Bồ Tát hay một vị thần, song họ chỉ xem đó là một câu chú,
hoặc một đấng ủng hộ mà thôi. Tuy nhiên, nếu đem so sánh, ta thấy bên Mật có điểm thắng hơn bên Thiền, vì bên Mật trong khi tu niệm đã biết giữ ba nghiệp thanh tịnh (tam mật tương ưng) để tiêu trừ vọng tưởng đồng thời lại dùng công
đức, năng lực của chân ngôn hay hiệu Phật, giúp sức phá tan hoặc nghiệp, để mau chứng quả Bồ Đề. Nhưng đó là những lối tu hành của bậc thượng căn, hơn nữa chúng sanh từ kiếp vô thỉ đến nay gây nên nghiệp chướng vô lượng vô biên, dù có tu được, cũng khó hy vọng trong một đời phá hết phiền hoặc, thoát đường sanh tử. Và một khi nghiệp hoặc còn chừng một mảy tơ, cũng bị luân hồi, mà đã luân hồi tất dễ quên mất túc căn, bị trần cảnh mê mờ lôi cuốn vào trong lục đạo! Khác hơn thế, môn Tịnh Độ bậc căn cơ thượng, trung, hạ đều có thể tu; cách tu chỉ dùng tâm thanh tịnh làm nền tảng, rồi từ nơi đó khởi công năng
chí thành khẩn thiết niệm danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu đủ lòng tín
nguyện trì danh,
không luận người đã dứt hết phiền não, dù cho kẻ nghiệp nặng như biển cả non cao,
trong một đời cũng được Phật tiếp dẫn sanh về Tịnh Độ. Khi niệm Phật chí thành, trong ấy có ba năng lực: sức Phật, sức Pháp và sức công đức không thể nghĩ bàn của tự tâm. Sức Phật là được Phật phóng
quang nhiếp thọ, thường thường hộ trì. Sức Pháp là hồng danh A Di Đà vẫn đầy đủ muôn đức, chí thành niệm một câu tất sẽ tiêu tội nặng sanh tử trong tám mươi ức kiếp, phước huệ tăng thêm. Sức công đức của tự tâm là tâm
ta có đủ mười pháp giới, trong khi ta niệm Phật thành khẩn, thì pháp
giới ác bị tiêu ngưng, pháp giới lành biến chuyển lớn mãi cho đến khi thành thục, kết quả lúc mạng chung sẽ hóa sanh trong liên bào nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cần nên phân biệt có hai lối niệm Phật tương tợ như Tịnh Độ mà không phải thuộc về tông Tịnh Độ:
1/ Niệm Phật tương tục mong đàn áp vọng tưởng chứng ngộ bản tâm, không cầu vãng sanh, giống như tông Thiền.
2/ Niệm Phật như trì một câu thần chú, mong Phật ủng hộ cho xa lìa ma chướng, tiêu hoặc nghiệp, hiện đời phước huệ tăng thêm, mà không cầu vãng sanh, giống như tông Mật.
Niệm Phật như thế là lạc với đường lối của Tịnh Tông, chỉ được kết quả nhỏ mà mất sự lợi ích lớn. Nếu người biết trì niệm hiệu như giữ gìn bổn mạng, chỉ tha thiết cầu sanh Tây Phương, thì tuy
không cầu dứt phiền não mà phiền não tự tiêu, không cầu sanh phước huệ mà phước huệ tự nhiên thêm lớn, cho đến không cầu chứng ngộ mà hoặc sớm hoặc chầy cũng được chứng ngộ; kết quả trong một đời sẽ thoát vòng luân chuyển, lên vị Bất Thối nơi cõi bảo liên. Thế thì chỉ thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh,
trong ấy đã có đủ Thiền và Mật rồi. Cho nên Ấn Quang Đại Sư thường nói: 'Pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, cao siêu hơn Thiền, Giáo, Luật.'
Môn Niệm Phật xem giản dị mà có công năng rất huyền diệu như thế, nên một hạng người học Phật vì nhận thức không thấu đáo, sanh
tâm tự cao, bài
báng, khinh thường. Bởi thế, có kẻ dẫn câu niệm Phật đem về lý tánh,
cho lời nói trong
các kinh Tịnh Độ là tượng trưng. Lại có một hạng người nhiều chủng tử ngoại đạo, đem sáu
chữ niệm Phật bố khắp chi thể, hoặc hợp câu niệm Phật với phép luyện khí cho đi tuần hoàn trong châu thân, hoặc dùng câu niệm Phật tụ hỏa nơi ấn đường. Họ lại lầm cho đó là quí báu, chỉ mật thọ nhau trong
phòng kín không dám tuyên dương, sợ e lạm truyền. Sự lầm lạc ấy khiến cho nhiều người mang chứng lớn bụng, mờ mắt, đau đầu, kết cuộc chỉ có tổn hại không được lợi ích. Nên biết pháp môn Tịnh Độ chính do đức Thích Ca
Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Phật đều khen ngợi; các bậc Đại Bồ Tát, Đại Tổ Sư như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều tuân giữ; các Kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã đều tuyên dương. Kẻ ngoại đạo vì tà kiến, hủy báng môn Tịnh Độ, vẫn không đáng nói; hàng Phật tử nếu sanh tâm tự cao hủy báng, tức là vô tình
hủy báng ngôi
Tam Bảo, ngăn lấp con đường giác ngộ của mọi người. Tại sao thế? Vì môn Tịnh Độ là cửa mầu giải thoát duy nhất, yên ổn nhất của chúng sanh
đời mạt pháp; chính đức Phật đã từng có lời huyền ký thuở xưa.
Trên đây,
không phải tôi cố ý phân biệt môn Tịnh Độ giữa các tông
phái, hay thiếu mỹ cảm với những kẻ đã lầm lạc, mà chính vì tưởng niệm ân sâu của Phật, muốn cho mọi người đồng được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đạo, sở thích của mỗi người có khác
nhau, khúc nhạc hương quê chưa dễ cảm được lòng du khách! Xem quyển nầy, ai có mến Ấn Quang
Pháp Sư, cũng nên
theo Ngài mà đọc bài ca quy
khứ:
Phải nên phát nguyện, nguyện vãng sanh,
Đất khách sơn khê mặc người luyến?
Tự không muốn về, về sẽ được,
Quê xưa trăng gió
có ai tranh?
NGƯỜI BẠN SEN
CHUNG
MẤY LỜI BÀY TỎ
Trong các hành môn của đức Phật đã chỉ dạy, môn nào cũng có pháp nghi riêng biệt, từ cách thờ cúng, lễ bái, trì tụng, sám hối, phát nguyện v.v... Như Mật Tông lại còn sự lập đàn, kiết ấn nữa.
Riêng về tông Tịnh Độ, tôi thấy có nhiều người không biết nghi thức hành trì cho đúng pháp. Lại có những vị không hiểu nghĩa chữ Hán, thành ra khi trì tụng chỉ đọc suông theo
thông lệ, khó phát
lòng thành khẩn, không thể chuyển hướng tâm niệm của mình y như lời văn. Nghĩ vì dòng đời cứ mãi trôi qua, người sau càng ngày lại càng ít am hiểu văn từ Hán Việt, nên theo lời yêu cầu của một số đông, tôi soạn dịch nghi thức tu Tịnh Độ ra Việt văn để giúp bạn đồng tu.
Về pháp nghi Tịnh Độ, có ba bậc: thượng, trung, hạ. Để không quá đơn giản và khỏi phiền toái, tôi căn cứ theo pháp nghi của ngài Từ Vân trong Tịnh Độ Thập Yếu, soạn dịch nghi thức theo bậc trung. Về cách trì danh, vẫn có nhiều đường lối, theo chỗ kinh nghiệm và so với thời cơ, tôi chọn pháp Thập Niệm Ký Số.
Về pháp nghi Tịnh Độ, thuở xưa chia làm
năm môn, tôi ước kết lại thành ba môn: lễ bái, trì tụng và phát
nguyện hồi hướng. Vả lại, pháp môn Tịnh Độ có chuyên tu và kiêm tu; có vị chuyên niệm Phật, có vị lại kiêm tụng kinh, trì
chú, sám hối hoặc tham thiền. Theo Ấn Quang Pháp Sư, thì người tu tịnh nghiệp phải lấy sự niệm Phật làm phần chính, mấy món kia làm phần phụ, phần chính cố nhiên phải giữ cho nhiều hơn. Riêng về tụng kinh, trì chú, nếu dùng để giúp cho phần niệm Phật và chí tâm
hồi hướng, cầu vãng sanh, cũng có thể gọi là chuyên
tu.
Trên pháp môn trì danh, sự hơn kém thật ra không
phải ở nơi nghi thức, mà ở chỗ: âm thanh rành rõ hay lờ mờ, tâm niệm thành khẩn hay thờ ơ tán loạn, công trì
tụng sâu nhiều hay cạn ít. Nếu người biết tu thì một lượt chiêm lễ, một câu xưng danh, công đức cũng hơn kẻ không biết tu rất nhiều. Tuy nhiên, nếu không có
pháp nghi cho đúng, thì công đức hành trì
thì cũng khó phát huy đến chỗ viên mãn. Và vì thế tôi mới soạn ra nghi thức nầy.
Xưa và nay
cách nhau, chúng sanh căn cơ sở thích đều sai khác, tôi không dám gọi việc làm nầy là hợp với mọi người, cũng không dám cho nghi thức đây là hơn những pháp nghi đã có, chỉ tùy chỗ mong cầu mà lạo thảo viết ra vậy thôi.
Liên Du
Thích Thiền-Tâm







Comments
Post a Comment