HƯƠNG SEN VẠN ĐỨC

 

TẠI SAO LẠI NIỆM “NAM MÔ A MI ĐÀ PHẬT”?

 

Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc).

 

Hai chữ đầu (Nam mô) nguyên âm là Namo, ta quen đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).

 

Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta quen đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác).

 

Ba chữ giữa (A Mi Đà) là biệt danh của đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ ). Như trong kinh A Di Đà, đức Bổn sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy, quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên vô số kiếp”.

 

Trong Quán Kinh, nói: “Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh…”.

 

Chư Phật Hộ Niệm trong kinh A Di Đà nói: “Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghinh tiếp…”.

 

Kinh Văn Thù Vấn Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh tam muội và chóng thành Phật…”.

 

Xem như lời của đức Bổn Sư Thích Ca, đấng chân thật ngữ phán trên đây, thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết quả to tát như lời trong kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm, và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp gọi danh từ Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.

 

Ba chữ A Mi Đà, nguyên là Phạn âm. Người Tàu đọc là A-mi-thô, và họ tụng xuôi là Á-mi-thồ. Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu. Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A Di Đà. Như đọc Nã-phá-luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc Ba-lê để kêu kinh đô Paris (Pari).

 

Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Giá như ta gặp Hoàng đế Pháp và gọi ông ta là Nã-phá-luân thời thật là đáng buồn cười. Với A Di Đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.

 

Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam mô A Di Đà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữ a lúc đó, tiếng “Di” là chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng hồng danh. Đồng thời, lời của Tổ Vân Thê trong Sớ Sao nói: “Hồng danh Nam mô A Mi Đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.

 

Với vần La tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy bộ Phật Học Đại Từ Điển.

 

Tôi đem ba chữ A Mi Đà ra hỏi, thời các sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi: “A-mi-thô.”

 

Hai tiếng đầu “A” và “Mi” đã nhất định, và đồng thời quyết chắc đọc “di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu đọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện:

 

          1. Nghe không nghiêm và không êm.

          2. Quá khác với thông lệ từ xưa.

 

Một học giả Pā-li và Phạn ngữ giải thích: chữ “đà” của Tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:

 

          1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người Tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.

          2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha).

 

Với giọng “đa” để đọc chữ “thô”, nó mở đường cho tôi ghép ba chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A Mi Đà.

 

Ghép luôn cả sáu tiếng Nam mô A Mi Đà Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên âm, dù vẫn chưa được toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng, và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi “di” thành “mi” thôi.

 

Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nam mô A Mi Đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả.

 

          1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.

          2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở nên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh. Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.

          3. Niệm ra tiếng với A mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.

 

Người chuyên niệm danh hiệu của Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục. Nếu khi niệm mà bị trệ , và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thời mới có hy vọng đến đích.

 

Biết rằng niệm A Mi Đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghị , diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A Mi Đà được khỏe hơi, nhờ đó nên niệm được lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm.

 

Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của đức Giáo chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.

 

Nhưng trong kỳ kiết thất 49 ngày ở tịnh thất nơi chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ: “Mình dù thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại gì, song rồi đây, tất có người vì tin tưởng nơi mình, mà họ sẽ tự noi theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A Mi Đà. Một người như thế, lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi điều thắc mắc:

 

          1. Bàng quan sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.

          2. Đem sự ngờ vực cho người niệm A di khi những người này chưa hiểu thế nào là A di và thế nào là A mi. Và sự ngờ là điều rất chướng của pháp môn niệm Phật”.

 

Tôi tự giải thích: “Cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với sự thị phi phê bình của bàng quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình”.

 

Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.

 

Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần giống như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tấc Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn.

 

Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A Mi Đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ ! Câu Nam mô A Mi Đà Phật, tưởng là chỉ riêng của mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi!”. Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.

 

Do hai điềm trên đây (chữ A mi hiện giữa trời và chiêm bao nghe xướng hòa Nam mô A Mi Đà Phật), bao nhiêu nỗi thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh nắng trưa hè…

 

Từ hồi nào, dù với hàng đệ tử, tôi chưa từng bảo ai bỏ niệm A di mà niệm A mi. Song, do ảnh hưởng ngấm ngầm mà lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm A Mi Đà. Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế! Và cũng vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.

 

Tôi viết bài này chỉ với mục đích giúp thêm sự nhận chơn về câu Nam mô A Mi Đà Phật cùng lịch sử của nó, cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi giữa các bạn đây thôi.

 

Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A Di Đà Phật, nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các bạn nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải.

 

TRÍ TỊNH TOÀN TẬP




CÁCH THỨC TRỢ NIỆM

 

Theo ngài Ấn Quang, nên niệm bốn chữ A Di Đà Phật để cho bịnh nhơn dễ thâu nhận trong khi tinh thần thể chất quá suy yếu. Nhưng ý kiến của Hoằng Nhứt đại sư, thì muốn niệm bốn chữ hay sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật, tốt hơn nên hỏi bịnh nhơn, để thuận với tập quán ưa thích thuở bình nhựt của người bịnh, khiến cho họ có thể niệm thầm theo. Nếu trái với tập quán ưa thích, tức là phá hoại chánh niệm của người bịnh, tất mình cũng có tội.  (Câu Nam mô A Mi Đà Phật cũng vậy.)

 

Lại cách trợ niệm, không nên niệm to tiếng quá, vì mình sẽ tổn hơi khó bền; không nên niệm nhỏ quá, vì e người bịnh tinh thần lờ lạc, khó thâu nhận. Cũng chẳng nên niệm quá mau, bởi làm cho bịnh nhơn đã không nghe nhận được rõ ràng, lại không thể theo kịp; chẳng nên niệm quá chậm, bởi có lỗi tiếng niệm rời rạc khiến người bịnh khó liên tục nhiếp tâm. Đại khái tiếng niệm phải không cao không thấp, chẳng chậm chẳng mau, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu niệm trải qua tai đi sâu vào tâm thức của người bịnh, như thế mới đắc lực.

 

Lại có điều nên chú ý, khi bịnh nhơn tâm thức quá hôn trầm, niệm ở ngoài tất họ nghe không rõ. Trong trường hợp ấy, phải kê miệng sát vào tai họ mà niệm, mới có thể khiến cho người bịnh được minh tâm.

 

Về pháp khí để dùng trong khi trợ niệm, thông thường nên đánh khánh. Bởi tiếng mõ âm thanh đục, không bằng tiếng khánh trong trẻo, dễ khiến cho bịnh nhơn tâm thần thanh tỉnh. Nhưng vấn đề đó cũng tùy, vì theo kinh nghiệm riêng, Hoằng Nhứt đại sư đã dạy: "Những kẻ suy yếu thần kinh, rất sợ nghe tiếng khánh và mõ nhỏ. Bởi âm thanh của mấy thứ này chát chúa đinh tai, kích thích thần kinh khiến cho người bịnh tâm thần không an.

 

Theo thiển ý, chỉ nên niệm suông là thỏa đáng hơn hết. Hoặc nếu có, thì chỉ nên đánh thứ chuông mõ lớn. Những món này âm thanh hùng tráng, khiến cho người bịnh sanh niệm nghiêm kính, thật hơn đánh khánh và mõ nhỏ nhiều. Thứ mõ âm thanh đục cũng không nên đánh, vì làm cho bịnh nhơn tâm thần hôn trược.

 

Tuy nhiên, sở thích của mỗi người không đồng, tốt hơn là nên hỏi trước bịnh nhơn. Nếu có chỗ nào không hợp, phải tùy cơ cải biến, chớ nên cố chấp."

 

Trên đây là mấy điểm nên lưu ý về cách thức trợ niệm.



NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT


( Chuyên tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)




ẨN TU NGẪU VỊNH



 100.-Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu

Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu

Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm

LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

 

 NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN NGUYỆN HẠNH với sự CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.

 

Đạo NHO bảo:

 

“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,

Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”

(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,

Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)

 

 

Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.

 

Thưa các Vị,

 

Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả  hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH. 

 


101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa

Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra

Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn

Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

 

 

102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình

Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình

Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới

Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

 

 

103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê

Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !

Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa

Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

 

 

104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô

Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ

Phật tử đến thăm như hỏi đạo

A Di Đà Phật lại NAM MÔ.

 

105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên

Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm

Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết

Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

 

 

106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua

Chim nước đều như tự tại hoà

Di Lặc trao cho xem túi vải

Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

 

 

107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!

Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn

Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa

Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.

 

 

108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua

Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ

Tin-tức ngày nay vừa thấy được

Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !

 


TỰ CẢM

 


Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi ch
í không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.


Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.


Kệ rằng :


Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,

Trần thế vinh-hư sá kể gì.

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,

Mừng nay được thấy đức A-DI.



TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG!


Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng

TRÚC LIÊN BỔN THẤT

CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ

Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng



HƯƠNG QUÊ CỰC LẠC

 

"ĐÃ TỪNG trôi nổi riêng thương khách

Muốn nhủ đồng nhơn lại CỐ HƯƠNG!"

  

Xin mượn hai câu thơ trên để bày tỏ tâm sự tôi vậy.

 

Mùa an cư năm Canh Tý (1960) 

Dịch giả: Liên-Du kính ghi


Hòa Thượng THÍCH THIỀN-TÂM

 

 

PHẬT THUYẾT 

KINH A DI ĐÀ



ĐỀ KINH

 

Vì nhận thấy cơ duyên của chúng sanh cõi Ta bà rất hợp với bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, và tất cả chúng sanh có thể nương nơi nguyên lực của Đức Giáo chủ cõi Tây phương Cực Lạc mà bảo đảm được sự giải thoát thành Phật, nên Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, vì đại chúng hiện diện trong pháp hội cũng như tất cả chúng sanh ở đời sau, mà thuật rõ chánh báo cũng như y báo của Đức Phật A Di Đà nơi Cực Lạc thế giới, để lập thành “Pháp môn trì danh niệm Phật A Di Đà" cầu vãng sanh về cõi trang nghiêm Tnh độ. Vì thế nên kinh này gọi đủ là: “Phật thuyết A Di Đà kinh", tức là kinh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói về Đức Phật A Di Đà còn gọi thông thường hơn là kinh A Di Đà Ngày xưa còn gọi là Tiểu bổn A Di Đà kinh (còn Đại bổn A Di  Đà kinh là tựa đề kinh Vô Lương Thọ).

 

Ở đầu để kinh có hai chữ "Phật thuyết”, nghĩa là “Phật nói”. Đức Phật nói kinh này đây là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo chủ cõi Ta bà thế giới. Trước khi vào chánh đề, chúng ta nên biết hai điều đại khái sau đây:


1. Lược sử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

2. Ý nghĩa chữ Phật.



LƯỢC SỬ CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

 


Chúng ta cần phải biết "lược sử" Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để nhận rõ Ngài có thật hiện thân ra đời, có tu, có chứng và có thuyết pháp giảng đạo để giáo hóa chúng sanh.

 

Nghĩa là Ngài cũng mang cái thân huyết nhục giả tạm, cũng có gia đình vợ con, và cũng đi lần đến sự già chết như chúng ta vậy. Chớ không phải như những người hay thần thánh hóa, lầm tưởng rằng Ngài tự nhiên ở trên trời sa xuống, liền tự xưng là “Phật” như thế đâu. Vì nguyên nhơn trên mà chúng ta nên nhận xét “sơ lược lịch sử” của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật như sau đây:

 

Trên 2.500 năm về trước, vì thấy cơ duyên của chúng sanh đã đến thời kỳ cần phải giáo hóa, nên đức Hộ Minh Bồ tát từ nơi cung trời Đâu Suất nội viện, giáng thần xuống nước Ca Tỳ La Vệ tại miền Trung xứ Thiên Trúc, làm con của vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da. Tên của Thái tử là Sĩ Đạt Ta. Khi lớn lên, nhận thấy sự khổ nhọc của nhơn dân, Ngài phát tâm từ bi muốn cứu tế. Hơn nữa, nhìn thấy nhân loại ở trong vòng sanh, già, bệnh, chết, nên Thái tử quyết chí tìm đạo giải thoát cho muôn loài. Năm 19 tuổi, Ngài cố gắng vượt qua khỏi biết bao nhiêu sự ngăn trở của gia đình để xuất gia tầm đạo và đến tu ở núi Tuyết. Năm 30 tuổi, sau 49 ngày kiết già phu tọa dưới cội Bồ đề. Thái tử đại ngộ chứng quả “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. 

 


Ý NGHĨA CHỮ “PHẬT” 

 

Phật là tiếng Phạn, nói đủ là “Phật Đà". Tàu dịch là Giác giả, nghĩa là một đấng đã hoàn toàn giác ngộ. “Giác ngộ hoàn toàn" nói đây có 3 điều: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

 

1. Tự giác: Chính Đức Phật đã dứt phiền não, hết vô minh, thấu triệt bản thể của tự tâm (tâm tính). Đó là tự giác.

 

2. Giác tha: Khi thấu triệt bản thể của tự tâm và đồng thời nhận thấy tất cả chúng sanh, tất cả pháp đều viên dung một thể tính chân thường thanh tịnh. Đó là giác tha.

 

3. Giác hành viên mãn: Khi sự tự giác và giác tha trên đây đến mức cùng tột viên mãn, tức là chính mình đã thành tựu được “Giác hạnh viên mãn”.

 

Vậy ba hạnh đã có trên đây đưa Phật đến quả vị như sau:

 

Chánh giác (giả): Vì Đức Phật đã tự giác ngộ và đưa mình đến quả vị hoàn toàn giải thoát, nên gọi là "Chánh giác giả” (hay là bậc chánh giác - tức nhiên là bậc tự giác).

 

Chánh đẳng giác: Vì thấu triệt được tất cả pháp, tất cả chúng sanh đồng một thể tánh thanh tịnh, và có đủ năng lực đưa tất cả chúng sanh đến quả vị hoàn toàn giải thoát, nên gọi là bậc "Chánh đẳng giác” (tức nhiên là bậc giác tha).

 

Vô thượng giác: Tức là công hạnh tự giác và giác tha của Đức Phật đã được rốt ráo (đến mức hoàn toàn) viên mãn. Nghĩa là chính Ngài đã đến cái quả vị vô thượng cứu cánh và cũng đủ năng lực đưa chúng sanh đến quả vị vô thượng cứu cánh ấy, nên gọi Ngài là đấng “Vô thượng giác”.

 

Như vậy, nếu muốn gọi Phật cho đầy đủ ý nghĩa, thời phải nói là đấng “Vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Và theo tiếng Phạn gọi là: Anuttarasamyaksambodhi "A-Nậu-Đa-La Tam-Miệu Tam-Bồ-Đề."

 

A-Nậu-Đa-La : Vô thượng (Giác hạnh viên mãn)

Tam-Miệu : chánh đẳng (Giác tha)

Tam-Bồ-Đề : chánh giác (Tự giác)

 


THÍCH NGHĨA :

 

1. Phật : Là tiếng Phạn, nói đủ là Phật-Đà. Tàu dịch là Giác-giả, nghĩa là: một đấng đã hoàn toàn giác ngộ. Tiếng Phạn gọi Giác là Bồ-đề, Giác-giả là Bồ-đà.

 

2. Phật thuyết : Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo. Ngài bèn đem cả giáo pháp đã tu đã chứng mà hóa độ chúng sanh. Cũng vì đại chúng mà Ngài giảng nói Kinh A Di Đà, bởi thế nên mới có hai chữ "Phật thuyết” nơi đầu để kinh này.

 

3. Kinh : tiếng Phạn là Tu Đa La. Tàu dịch là “Khế Kinh”, có nghĩa là chánh pháp chơn thường (pháp lý thường hằng không sửa đổi được) , Khế chơn lý (không trái với chơn lý, chơn tánh), hiệp căn cơ (có lợi ích) của chúng sanh. Chữ kinh lại có nghĩa là “nhiếp trì”, nhiếp trì giáo, lý, hạnh, quả, như dây xâu (tuyến) những hột chuỗi làm cho dính lại với nhau không rời rạc. Tất cả lời Phật dạy, hoặc của Bồ Tát giảng, hoặc đệ tử Phật nói đã được Phật ấn chứng, đều gọi là kinh, Tu Đa La còn có nhiều nghĩa đen khác nữa.

 

4. A Di Đà: Danh hiệu của Đức Phật, giáo chủ cõi Tây Phương Cực Lạc Thế giới.

 

5. Thiên trúc: Tên của xứ Ấn Độ khi xưa. Tại sao Thái Tử phải tu Khổ hạnh ?

 

Vì thời kỳ xưa tu theo lối “Khổ hạnh" của ngoại đạo rất được dân chúng chú trọng đến. Để đánh đổ những lạc lầm nguy hại ấy, nên Thái Tử phải ép xác hành thân rồng rã sáu năm. Mỗi ngày, Ngài chỉ ăn một ít mè hoặc bắp. Thân thể chỉ còn da bọc xương, quá kiệt sức đến nỗi một ngày kia, Ngài ngã quỵ suýt chết. Ngài cố ý làm thế để cho ngoại đạo thấy rằng “Khổ hạnh" chỉ làm hại cho thân xác, chớ không phải là cái nhơn giải thoát. Vậy Thái Tử đã làm gương và cảnh tỉnh những ai là nạn nhân của sự tu mù quáng ấy.

 

Tại sao Thái Tử Sĩ Đạt Ta phải đi Khất thực ? Vì Ngài thực hành cái thuyết “Trung đạo", là mỗi ngày ăn một bữa (Ngọ), nghỉ một lần. Không ăn uống và ngủ nghỉ nhiều, cho vừa đủ để xác thân khỏi run rẩy, để tu được lâu dài, bền vững. Ngài đã làm kiểu mẫu cho giới xuất gia ngoại đạo thấy mà tránh hai cái cực đoan “sống dật lạc" và "Khổ hạnh ép xác". Lại nữa, đi khất thực, Ngài cũng muốn tạo duyên lành cho giới tại gia Phật tử lập hạnh từ bi, bố thí và hành thiện. Và khất thực cũng là một phương tiện để gần gũi dân chúng hằng ngày mà tùy duyên hóa độ.

 

6. Thích Ca: là tiếng Phạn. Tàu dịch là “Năng Nhơn”. Năng là có đủ cái năng lực trí huệ. Nhơn là từ bi cứu vớt muôn loài. Đây tức là "Giác tha, Độ tha”.

 

7. Mâu Ni: là tiếng Phạn. Tàu dịch là “Tịch mặc" có nghĩa là an trụ ở hai chơn thể bất động tịch tịnh. Đây chính là Tự giác, tự độ”.

 

8. Giác tha: tỷ dụ: Lấy cặp mắt Phật mà nhận xét, thời chúng sanh toàn là Phật. Còn dùng mất chúng sanh mà nhìn thì tất cả đều là chúng sanh.

 

9. Chánh giác: tức là “Giác ngộ chơn chánh”. Nguyên nhân (bằng cớ) của sự giải thoát hoàn toàn.

 

10. Đại Bồ Tát: chữ đại của Tàu, tiếng Phạn là Ma Ha Tát. Đại Bồ tát là Bồ tát Ma Ha Tát. Nên biết phải từ “Pháp vân Bồ Tát" sắp lên mới được gọi là “Đại Bồ Tát".

 

11. Đại từ: nơi chư Phật và Bồ tát có đức “Đại từ” (Từ lớn vô lượng), vì các Ngài không dụng tâm tác ý mà vẫn không ngớt ban vui cho tất cả chúng sanh (bình đẳng). Nhưng nơi Bích Chi Phật và A La Hán không được dùng “chữ đại”, vì các vị này còn dụng tâm tác ý khi thương xót đến chúng sanh.

 

12. Y báo: Chỗ mà chúng sanh nương ở (Y là nương. Báo là đến trả, đáp lại, thuộc về “Quả”, tức là đến trả một cái "Nhơn” gì đó). Quả báo: kết quả đền đáp, trả lại cái nghiệp “Nhơn" đã gây ra.


13. Chánh báo: Thân mạng của chúng sanh, của một người.

 

14. Y báo của Đức Phật: Cảnh trang nghiêm Cực Lạc thế giới.

 

15. Chánh báo của Đức Phật: Thân tướng quang minh, thọ mạng của Đức Phật. Quả báo: theo pháp tướng phân tách thì “Quả” là tổng thể của cái kết quả; Báo là chi tiết ở trên cái “Quả”.

 

16. Sĩ Đạt Ta: Thành tựu tất cả nghĩa ( nhứt thiết nghĩa thành). Nên biết Các vị A La Hán chưa được gọi là chánh giác. Chỉ có Phật mới được gọi như thế mà thôi. Bởi vậy Tàu mới gọi Ngài là “Giác giả”.


 

Hán dịch, nhà Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.



PHIÊN DỊCH

 

Lịch sử phiên dịch kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà đây do Ngài Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch từ văn Phạn ra chữ Tàu trong thời kỳ nhà Dao Tần thời Đông Tấn (sau Tam Quốc) bên Tàu. Cuối đời nhà Tấn, nước Tàu chia ra nhiều nước nhỏ. Bây giờ có ông Phù Kiên xưng làm vua, lấy hiệu nước là Tần, tức là Phù Tần. Nghe đồn bên nước Quy Tư (thuộc xứ Ấn Độ) có Ngài Cưu Ma La Thập là bậc thánh nhơn, ông bèn sai đại tướng Lữ Quang đem quân qua đánh nước Quy Tư và dặn rằng: “Ta chẳng ham chi một miếng đất xa xôi, nhưng chỉ mong muốn được ông Cưu Ma La Thập mà thôi".

 

Nguyên vua nước Quy Tư có người em gái gả cho ông Cưu Ma La Viêm, sanh một người con trai tên là Cưu Ma La Thập, Tàu địch là “Đồng Thọ", vì năm lên 8 tuổi. Ngài đã có một tài đức như một vị kỳ cựu tuổi già (8 tuổi là đồng tử và tài đức như ông thọ (ông già). Năm lên 8 tuổi. Ngài xuất gia theo mẹ học pháp Tiểu thừa. Đến lớn lên Ngài bỏ Tiểu thừa học pháp Đại thừa (Tiểu thừa là giáo pháp mà lúc đầu Ngài đã được một pháp sư chỉ dạy. Sau vì quá sáng suốt tài giỏi. Ngài thấy phải truyền giáo pháp Đại thừa lại cho vị thầy Tiểu thừa ấy). Vua Quy Tư và toàn dân chúng quý trọng Ngài như là một quốc bảo (của quý báu trong nước).

 

Khi Lữ Quang đem quân đến đánh, đòi rước Ngài Cưu Ma La Thập, vua Quy Tư và toàn dân liều chết chống cự, chớ không bằng lòng cho Ngài Cưu Ma La Thập đi. Lữ Quang vây đánh gần suốt một năm. Quân đội Quy Tư thua lớn, nhân dân chết hại rất nhiều. Ngài Cưu Ma La Thập thấy vậy động mỗi từ tâm, mới năm ba phen yêu cầu vua Quy Tư cho mình qua Trung Quốc. Khi rước được Ngài, Lữ Quang liền rút quân về. Giữa đường, nghe tin Đạo Trành đã giết Phù Kiên chiếm ngôi và lấy hiệu nước là Dao Tần, bèn dừng quân và tự xưng làm vua. Dao Trành chết, con là Dao Hưng lên ngôi. Nghe tiếng Ngài Cưu Ma La Thập, Dao Hưng muốn rước về, nhưng Lữ Quang không cho. Thành ra hai bên đem quân đánh nhau cả mấy năm trời. Lữ Quang Chết, con là Lữ Mông lên làm vua. Lữ Mông thất trận, bèn đầu hàng Dao Hưng và buộc lòng phải để Dao Hưng rước Ngài Cưu Ma La Thập về nước Dao Tần ở trong nội cung, đặng giao cho Ngài phiên dịch các kinh điển được gần 300 bộ, kinh A Di Đà đây là một.



THÍCH NGHĨA :

 

1. Tam tạng: Ba tạng Kinh, Luật, Luận. Trong ba tạng này lại chia ra làm hai tạng “Tiểu thừa tạng" và "Đại thừa tạng”. Như kinh A Di Đà đây là thuộc về tạng kinh đại thừa Bồ Tát giới thời ở trong tạng luật Đại thừa bởi thế nên bên tiểu thừa không có kinh A Di Đà và Bồ Tát giới. Trong giới Tỳ kheo của Tiểu thừa, Phật không bảo ăn trai, nhưng ở nơi Đại thừa, trong "giới Bồ Tát", Phật lại cấm ăn thịt. Vậy nên biết, Tiểu thừa và Đại thừa đều có riêng “ba tạng”.

 

2. Pháp sư: Người lấy chánh pháp làm thầy của mình và có thể lấy chính pháp ấy chỉ dạy lại cho người khác.

 

Nên biết: Nơi Tiểu thừa, vì giới hạnh tinh nghiêm, các vị “Sư” (Tỳ kheo) thường được sánh ví như “Trụ trì Tăng” thời mạt pháp này.



KINH A DI ĐÀ GIẢNG NGHĨA

 

TỰA


THÔNG TỰ


Tại sao gọi là THÔNG TỰ “Phần Tự chung”?

 

- Vì Phần Tự chung này các kinh đều có y “6 phần chứng tín như vậy".

 

(1). Phần thủ tín (Tin thành tựu)

(2). Phần nghe (Văn thành tựu)

(3). Phần thời gian (Thời thành tựu)

(4). Phần chủ (Phật) nói kinh (Chủ thành tựu)

(5). Phần chỗ nơi (Xứ thành tựu)

(6). Phần thính chúng (Chúng thành tựu)


“Sáu phần chứng tín" này trong tất cả đầu kinh đều đồng có, nên gọi là " Phần Tự chung”.



KỲ VIÊN ĐẠI HỘI

 


Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Ðộc nước Xá-Vệ, 



GIẢNG NGHĨA:

 

1. Ta nghe như vầy: Câu này có nghĩa: Tôi nghe đúng như vậy và thuật lại đúng như vậy, không sai sót thêm bớt chút nào.

 

2. Ta: Là Ngài A Nan tự xưng, bởi vì đại chúng cử Ngài trùng tuyên lại kinh tạng trong thời kỳ kiết tập. Ngài được lựa chọn để đảm nhận phận sự này. Nguyên nhân là Ngài đã được cùng Phật đồng một tâm khi thuật lại những kinh của Phật đã nói. Tỷ dụ như thế vì sau khi kiểm duyệt lại những lời mà Ngài A Nan đã trùng tuyên, thời đại chúng không thấy thiếu sót, sai lầm chỗ nào. Vậy lời của Ngài đã tự thuật trên đây: “Chính tôi nghe như vậy” dùng để thủ tín cho đời sau này.

 

3. Một thuở nọ: Đây không nói rõ thời buổi nào, vì khi ấy xứ Ấn Độ chưa có dùng “lịch thống nhất" được. Có thể biết là thời kỳ đó vua Ba Tư Nặc trị vì.

 


LỜI BÀN:

 

Đức Phật có khi thuyết pháp ở tại nhơn Gian, có khi ở tại cung Trời…mà thời gian ở mỗi nơi không giống nhau, nên trong kinh chỉ nói là “MỘT THUỞ NỌ”.

 

Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao-Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp:

 

Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

 

Lại nghe Tây Vức Truyện nói: Có ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định quyết chí đồng sanh về Đâu Suất. Ba vị đó cùng ước hẹn, nếu ai sanh lên Nội Viện được thấy đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết.

Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường; khi lâm chung, Vô Trước Bồ Tát dặn rằng: “Sau khi em bái kiến đức Di Lặc, phải trở xuống cho anh biết ngay”. Thế Thân Bồ Tát tịch rồi ba năm sau mới trở lại báo tin. Ngài Vô Trước hỏi: “Tại sao em thông báo trể như thế?”.

Thế Thân đáp: “Sau khi lễ kiến đức Di Lặc, vừa nghe Ngài thuyết pháp chỉ dạy xong, em cung kính đi vi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây báo tin liền. Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm nơi hạ giới, nên mới trể đến ba năm”. Vô Trước lại hỏi: “Còn Sư Tử Giác hiện ở đâu?”. Thế Thân đáp: “Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, đang say đắm cảnh ngũ dục, từ khi sanh lên đến nay, chưa được thấy đức Di Lặc”.

Xem thế thì biết các bậc tiểu Bồ Tát sanh về Đâu Suất còn bị mê lạc, huống nữa là phàm phu. Cho nên người tu muốn chắc chắn được bất thối chuyển, nên cầu về Cực Lạc, chớ nguyện sanh lên Đâu Suất.


TỊNH ÐỘ THẬP NGHI LUẬN


THÍCH NGHĨA :

 

1. Cấp Cô Độc: cung cấp cho người côi cút bơ vơ.


2. Ông Cấp Cô Độc rước Ngài Xá Lợi Phất cùng đi về kiếm chỗ và chỉ cách thức cất tinh xá cho hợp pháp. ("Kinh Hin Ngu Nhơn Duyên" có nói rõ Ngài Xá Lợi Phất đã thắng phục được ngoại đạo khi cất tinh xá).


3. Đón: chờ chực trước.

 

4. Thái tử: con trai lớn của vua.


5. Phương tiện dựng tinh xá:

 

- Không chướng: đi lại dễ dàng, không có sông rạch cách trở.

- Không nạn: Không nhiều muỗi, ruồi, kiến, mối, không có thú độc dữ.

- Tịch tịnh: Không gần chợ, thành thị; xa chỗ ồn ào náo nhiệt.

- Thuận tiện: Không quá xa dân chúng, chừng 5 dặm (2 cây số ngoài).


Vì người xuất gia tu hành phải cần đến sự giúp đỡ của đàn na thí chủ, nếu ở quá xa thời không thuận tiện cho sự tiếp trợ ấy. Đây nói “thuận tiện” cho việc đi "trì bát" vậy. Nếu nói “trì bình” thì không đúng, vì cái bình dùng đựng nước uống, còn cái bát thời đựng cơm. Ngoài ra lại có suối nước cùng cây to mát mẻ. Nhưng đó chỉ là những chi tiết thôi. Đáng để ý nhứt là 4 điều kiện trên.

 

6. Ông Cấp  Độc có 4 cái kho chánh, không bao giờ lưng. Khi lấy vàng ra xài bao nhiều thì những kho ấy đầy lại bấy nhiêu. Ông giàu đến nổi giúp được vua Ba Tư Nặc chỉnh đốn lại đại đội hùng binh để chiến thắng được vua A Xà Thế. Vậy nên biết: “người tạo nhiều phước đức cũng như để của vào kho vậy”.

 

7. Kỳ thọ Cấp Cô Độc Viên tinh xá: “Cây của Thái tử Kỳ Đà mà “vườn" của ông Cấp Cô Độc. Thường gọi tắt là “Kỳ Viên tinh xá”.



THANH VĂN CHÚNG

 

cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là:


 

GIẢNG NGHĨA:

 

Đây cũng còn ở trong đoạn THÔNG TỰ về phần THANH VĂN CHÚNG. Trong lúc Phật nói kinh A Di Đà nơi Kỳ Viên tinh xá thì có một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo hiện diện nghe pháp. Những vị này đều là bậc chứng quả A La Hán và đều gồm tu Đại thừa Bồ Tát hạnh, nên gọi là “Đại A La Hán”. Những vị này chẳng những tài đức gồm đủ, mà cũng là những người thay thế Đức Phật để truyền pháp khắp nơi. Vì vậy mọi người đều biết tên, quen mặt nên gọi là "đều quen biết".


 

THÍCH NGHĨA :

 

1. Câu hội: Ở chung một chỗ.

2 . Đều quen biết: Ai cũng biết mặt, biết tên.

3. Tỳ kheo: Là tiếng Phạn, Tàu dịch là Tỳ kheo, Tỷ khưu, Bí sô. Có 3 nghĩa: Bố ma, Phá ác, khất sĩ. Người đệ tử Phật về phái xuất gia thọ 250 giới, thì đều gọi là Tỷ kheo.

 

Bố ma: Khi vị Tỳ kheo giữ đủ giới luật oai nghi thì sẽ được giải thoát ra khỏi 3 cõi. Vì vậy Thiên ma kinh sợ, nên gọi là "Bố ma". (Thiên ma là chúa cõi Dục. Thiên ma kinh sợ đây là sợ mất một người dân. Lại nữa, người ấy sẽ dẫn dắt những người khác tu hành theo Phật. Mất một người dân là Thiên ma sẽ bị giảm bớt một phần lực lượng)

 

Phá ác: (Phá: trừ, đẹp lần lần; ác: Phiền não nghiệp chướng). Tu hành tinh tấn, thời những phiền não nghiệp chướng tiêu tan lần. Đó là nghĩa “Phá ác”.

 

Khất sĩ: vị nầy trên thời xin chánh pháp để nuôi huệ mạng, dưới xin ăn để dưỡng nhục thân, nên gọi là “khất sĩ” (khất sĩ: người đi xin, đi khất thực). Vài điều lợi ích của sự khất thực :

 

- Cho được rảnh rang, chẳng kinh doanh sự nghiệp khỏi phải tự làm ra miếng (món) ăn và cũng là giải thoát sự ăn mặc.

- Để trừ cái ngã mạn, đẹp lòng sân si.

- Cũng là dịp để tiêu biểu tướng hạnh oai đức của người xuất gia tu hành cho người đời bắt chước.

 

4. Một ngàn hai trăm năm mươi vị: Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, đầu tiên Đức Phật đến thành Ba La Nại nơi “vườn hưu” độ 5 anh em Kiều Trần Như thành bậc A La Hán. Kế đến Ngài độ bọn ông Gia Xá gồm 50 người, thầy trò của anh em ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp gồm 1.000 người, thầy trò của Ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên gồm 200 người. Cộng tất cả lại là 1.255 người ( nhưng đây chỉ nói số chẵn chỉ tính có 1.250 vị). Những vị này trước theo tà giáo, nhờ Phật mà được giác ngộ chứng Thánh quả, cảm thâm ăn của Phật, nên thường theo bên Phật.

 

5. A La Hán: (Phạn ngữ) có 3 nghĩa: Vô sanh, Sát tặc, Ứng cúng.


Vô sanh: Người tu hành vì đã sạch phiền não, nên không còn sanh tử luân hồi. Đó là nghĩa vô sanh.

Sát tặc: Là giết giặc phiền não. Người tu hành giết sạch kiến hoặc và tư hoặc, tức là đã diệt trừ hết phiền não, nên gọi là “sát tặc”.

Ứng cúng: Khi chứng quả vô sanh, ấy là bực thánh đáng được trời, người cúng dường nên gọi là “Ứng cúng”.

 

Như thế, 3 nghĩa của Tỳ kheo thuộc “Nhơn", 3 nghĩa của A La Hán thuộc “Quả”:

 

- Có nhơn “bố ma” thành cái quả “vô sanh”.

-  Có nhơn “phá ác” thành cái quả “sát tặc”.

- Có nhơn “khất sĩ" thành cái quả “ứng cúng”.

 

A La Hán có 2 hạng: Định tánh A La Hán và Bất định tánh A La Hán.

 

- Định tánh A La Hán: A La Hán mà trụ mãi nơi Niết bàn của A La Hán thì gọi là “Định tánh A La Hán”.

- Bất định tánh A La Hán: Còn A La Hán tu quả Bồ Tát hạnh để cầu thành Phật tức là “Bất định tánh A La Hán".

 

A La Hán còn có 2 hạng nữa: Thiệt A La Hán và Quyền A La Hán.

 

- Thiệt A La Hán: nghĩa là những vị thiệt chứng Quả A La Hán.

- Quyền A La Hán: nghĩa là những vị Bồ tát quyền hiện A La Hán để độ sanh.


Trên văn kinh để “Đại A La Hán" là chỉ cho bậc như: định tánh A La Hán" và "Quyền A La Hán" (hay là Đại thừa A La Hán).

 

6. Tăng: (Phạn ngữ). Nói đủ là Tăng già, là một nhóm người xuất gia phải giữ 6 điều hòa kính:

 

- Thân hòa đồng ở chung.

- Miệng hòa không cãi lẫy.

- Ý hòa đồng vui vẻ.

- Giới hòa đồng tu.

- Kiến hòa đồng học.

- Lợi hòa đồng thọ dụng

 

Từ 4 vị Tăng hoặc Ni sắp lên mới được gọi là “Tăng già”.



Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ðại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða, Châu-Lợi-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Ðề, Tân Ðầu-Lư-Phả-La-Ðọa, Ca-Lưu-Ðà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Ðà, những vị đại đệ tử như thế.



GIẢNG NGHĨA:


1. Trưởng lão: (trưởng: lớn, lão: già) là những người đạo hạnh cao, tuổi hạ xuất gia cũng lớn. Tiếng trưởng lão dùng cho tất cả 16 vị sau đây, đại diện cho 1.255 vị Đại A La Hán theo hầu Phật

 

2. Mười sáu vị Đại A La Hán (đại diện cho 1.255 vị đại A La Hán):

 

(1). Ngài Xá Lợi Phất: Ở trong hàng thanh văn đệ tử Phật, Ngài là trí huệ thứ nhứt, nên gọi “trí huệ bậc nhứt”.

 

(2). Ngài Ma Ha Mục Kiền Liên: Trong hàng Thanh văn đệ tử của Phật, Ngài là thần thông thứ nhứt, nên gọi là “Thần thông bậc nhất”. Ngài cũng chính là đã cầu Phật nói “kinh Vu Lan” để cứu mẹ thoát khỏi địa ngục A Tỳ.

 

(3). Ngài Ma Ha Ca Diếp: Ngài tu khổ hạnh “đầu đà” bậc nhứt. Suốt đời, mỗi ngày Ngài chỉ dùng một bữa cơm ngọ. Khi Ngài trở về già ốm yếu, Phật có khuyên Ngài giảm bớt sự "khổ hạnh" ấy, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí của Ngài. Nên Phật có khen Ngài là bậc tu hạnh “đầu đà" tinh tấn nhứt trong hàng Thanh văn đệ tử của Phật. Vì vậy, sau khi Phật nhập diệt, Ngài được chọn làm sơ tổ để truyền trì chánh pháp của Đức Như Lai

 

(4). Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên: là bậc “Luận nghị (biện qua biện lại) thứ nhứt trong hàng đại đệ tử Phật.

 

(5). Ngài Ma Ha Câu Hy La: là bậc “Vấn đáp” giỏi thứ nhứt trong hàng Thanh văn đại đệ tử Phật.

 

(6). Ngài Ly Bà Đa: trụ ở nơi "Chánh định" vững vàng bậc nhất trong hàng đại đệ tử của Phật.


(7). Ngài Châu Lợi Bàn Đà Già: cũng gọi là "Bàn Đặc”. Trong hàng Thanh văn để tử của Phật, Ngài là bậc “Nghĩa trì” thứ nhứt (giữ được nghĩa lý vững vàng mà mình đã ngộ). Sự tích nói Ngài trước kia, vì bỏn xẻn pháp nhũ mà phải bị dốt 3 năm. Phật dạy 2 chữ “chổi quét” mà Ngài không nhớ được trọn. Mãi đến khi nghiệp vô minh dứt, sau khi nghe một thời thuyết pháp của Phật, Ngài được tỏ ngộ vì thấu hiểu được nghĩa sâu xa của “chổi quét” là dùng thánh đạo của Phật (Giới-Định-Huệ) để quét sạch bụi trần lao phiền não. Rồi từ đó, mỗi lần thuyết pháp Ngài chỉ dùng ý nghĩa 2 chữ “chổi quét” ấy mà làm bài giảng. Lắm khi có người hỏi, Ngài cứ lặp đi lặp lại mãi như vậy có đến 10 lần. Bởi thế nên gọi Ngài là “nghĩa trì” thứ nhất.

 

(8). Ngài Nan Đà: là em ruột của Phật, có oai nghi cử chỉ giống Phật, nên gọi là “Nghi dung" bậc nhứt. Ngài rất mến gia đình, Phật phải phương tiện dùng kế dẫn dắt Ngài đến Tịnh xá mà xuống tóc cho Ngài để tu hành. Ngài giống Phật đến nỗi, nếu không đắp y đen, đại chúng không thể phân biệt được Ngài với Phật.

 

(9). Ngài A Nan Đà: em chú bác của Phật, là thị giả của Phật và lại “Đa văn tổng trì” bậc nhứt trong hàng đại để tử của Phật. (chính Ngài đã trùng tuyên kinh tạng trong thời kỳ kiết tập kinh điển).

 

(10). Ngài La Hầu La: con trai của Phật, có công hạnh tu hành, trừ Phật ra không ai thấy biết được, nên gọi Ngài là "Mật hạnh" bậc nhứt trong hàng Thanh văn đệ tử của Phật.

 

(11). Ngài Kiều Phạm Ba Đề: có tập quán nhơi như trâu, sau khi chứng quả A La Hán, chỉ trừ mấy kỳ Phật thuyết pháp. Ngài ở luôn trên cung trời, không dám ở trên nhơn gian, vì e người mang tội hủy báng. Bởi thế, Ngài rất có nhân duyên với chư Thiên, thường được cúng dường, nên gọi “Thọ Thiên cúng dường” bậc nhứt trong hàng đại đệ tử của Phật.

 

(12). Ngài Tân Đầu Lư Phả La Đoạ: ngài nghe lời phạt ở luôn trong nhơn gian, không nhập diệt, để làm phước điền cho nhơn loại, nên gọi là “Phước điền” thứ nhứt. Ngài có nhơn duyên với nhơn loại như vậy, bởi trước kia Ngài có dùng phép thần thông để hàng phục ngoại đạo. Vô tình Ngài đã làm cho dân chúng xôn xao, sợ hãi. Vì vậy, Phật cũng thấy Ngài rất có nhơn duyên với nhơn loại, nên Phật đã phạt Ngài ở luôn trong nhơn gian, không cho nhập diệt.

 

(13). Ngài Ca Lưu Đà Di: thường được Phật sai đi giáo hóa chỗ nọ, chỗ kia, nên gọi là “Giáo hóa” bậc nhứt trong hàng Thanh văn đệ tử Phật, bởi Ngài rất có duyên thuyết pháp được nhiều người nghe.

 

(14). Ngài Ma ha Kiếp Tân Na: rất rành về thiên văn nên gọi: “Biết tinh tú" bậc nhất.


(15). Ngài Bạc Câu La: có cái báu là không bịnh, sống lâu trong nhiều đời. Bởi tiền kiếp Ngài có nuôi một người xuất gia chơn teo bịnh, và nhiều đời Ngài không sát sanh, nên được phước báo: thân không bịnh, không chết (mặc dù là té xuống nước, rơi vào lửa, uống thuốc độc). Nên gọi Ngài là “Thọ mạng" bậc nhứt trong hàng đệ tử của Phật.

 

(16). Ngài A Nậu Lâu Đà: em nhà chú của Phật vị hay ngủ, Ngài bị Phật quở. Ngài tức mình không nhắm mắt 7 ngày, phải mù. Do tinh tấn nên Ngài được thiên nhãn hơn người. Ngài có thể thấy một Đại thiên thế giới như thể một trái cây chín trên cành. Nên gọi Ngài là “Thiên nhãn” bậc nhứt trong hàng Thanh văn đệ tử Phật

 

Như thị đẳng chư đại đệ tử: các đệ tử lớn như vậy v.v... (ý nói: Các vị đại A La Hán như trên vừa kể là những đại diện cho 1.255 vị đại A La Hán thường theo bên Phật).



THÍCH NGHĨA :

 

1. Các vị thánh: có thể thấy vô lượng thế giới.


2. Phật: thấy khắp cả pháp giới không gian. Trong một niệm, Ngài biết có tất cả bao nhiêu giọt nước khi mưa rơi xuống.

 

3. Xá Lợi Phất: cũng gọi theo Tàu là Xá Lợi Tử, vì Phất là tiếng Phạn, Tàu dịch là Tử: con trai, Xá Lợi Bà Thu. Xá Lợi Phất: con trai của Bà Thu. Người ta gọi bà mẫu của Ngài như thế vì cặp mắt của bà đẹp như con chim Thu.

 

4. Ca Diếp: (Phạn ngữ), Tàu dịch là Ẩm Quang (Ẩm: uống, Quang ánh sáng). Nghĩa là: ánh sáng vàng chói nơi thân Ngài Ca Diếp lấn áp cả ánh sáng của đại chúng ở chung quanh Ngài. Tỷ như khi ánh trăng chiếu ra, thời các ngôi sao phải lu mờ. Ngài được sắc thân tốt đẹp như vậy là nhờ phước báo tiền kiếp Ngài có phết một tượng Phật bằng vàng y. Hiện giờ Ngài Ca Diếp nhập đại định ở núi Kê Túc (tại ranh giới Vân Nam).

 

5. Đa văn tổng trì: nghe nhiều và ghi nhớ không sót. (Đa văn: nghe nhiều, Tổng trì: giữ lại không mất).



BỒ TÁT CHÚNG


Và hàng Ðại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Ða Bồ Tát, Càn-Ðà-Ha-Ðề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Ðại Bồ tát như thế 



GIẢNG NGHĨA:

 

1. Bồ Tát: tiếng Phạn, nói đủ là “Bồ Đề Tát đỏa". Bồ đề: trí giác (trí huệ giác ngộ), giác ngộ. Tát đỏa: hữu tình (chúng sanh). Nghĩa là những vị này có trí huệ giác ngộ và có thể làm cho loài hữu tình giác ngộ, tức là “tự giác” và “giác tha”.

 

2. Ma Ha Tát: (Phạn ngữ) nói đủ là “Ma Ha Tát đỏa". Ma Ha: lớn; Tát đỏa hữu tình. Tức là chỉ cho các vị Bồ Tát lớn. Trong hội thuyết pháp nơi Kỳ Viên Tinh xá cũng có rất đông bậc Đại Bồ Tát dự hội và sau đây kể tên 4 vị Đại Bồ Tát:

 

- Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử: Là bậc đại trí huệ trong hàng Bồ Tát. Pháp Vương: Phật, tử: con trai. Tức là: con trai của Phật. Đây nói các vị “Đại Bồ Tát" vậy.

 

- A Dật Đa Bồ Tát : tức là Đức Di Lặc Bồ Tát. Ngài đã được Phật thọ ký sau này sẽ ra đời thành Phật hiệu là “Di Lặc Phật”.

 

- Càn Đà Ha Đề Bồ Tát: tức là “Bất Hưu Tức” Bồ Tát (chẳng thôi nghỉ), vì Ngài đã từng trong một thời gian dài, nhiều kiếp tu Bồ Tát hạnh không thôi nghỉ nên được gọi tên này.



THÍCH NGHĨA :

 

1. Y bát của Phật: Chẳng ai đặng dùng.

 

- Y: Kim lũ ca sa, dệt bằng chỉ vàng ở cõi trời.

- Bát: Bằng đá quý (như ngọc) do trời Tứ Thiên Vương dâng.

 

Hiện nay, Ngài Ca Diếp nhập đại định tại núi Kê Túc, để chờ Ngài Di Lặc Bồ Tát giáng sanh trong “kiếp thành", đặng giao lại "y bát" của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà nối truyền chánh pháp tiếp độ chúng sanh.

 

Nên biết : hàng đệ tử Phật không được dùng bát bằng đá (vì chỉ có Phật dùng thôi); bát bằng gỗ (vì ngoại đạo dùng); bát bằng vàng, bạc, pha lê... (vì người thế tục dùng). Đúng pháp đệ tử Phật dùng bát sắt, thiết và sành (đất hầm).



2. Mười hai "Hạnh Đầu đà”: MẶC, ĂN, Ở.

 

MẶC:  CÓ 2

- Y phấn tảo (bằng vải người ta bỏ, giặt rồi khâu lại).

- Chỉ có 3 y (Tỷ kheo) thôi.

 

ĂN: CÓ 5

- Ăn vừa no (không ráng, không thêm).

- Giữa ngọ một bữa ăn.

- Chiều không uống nước phi thời (nước đường, sữa, nước trái cây ép). CHỈ uống nước lã thôi.

-  Thường khất thực (nếu ăn tại chùa hoặc người ta sẵn cho ăn, thời phạm)

-  Thứ tự khất thực (từ nhà kế cận nhau không được bỏ sót)

 

Ở : CÓ 5

- Ở chỗ vắng vẻ.

- Ở chỗ trống (không cây cối, nhà cửa).

- Ở gốc cây .

- Ở gò mả.

- Ngồi luôn không nằm.

 

Nên biết: Đây chỉ là “hạnh”, chẳng phải “giới”. Tùy lượng sức mình mà thọ 1, 2, 3 v.v... hạnh nào cũng được. Về phần thọ, thì điều nào phạm, phải thọ lại. Muốn thọ hay muốn xả tùy ý, nếu có phạm cũng không sao. Cách thọ cũng dễ dàng : đối trước tượng Phật, tượng Ngài Ca Diếp hoặc vị Tăng nào tu theo hạnh đầu đà cũng được.

 


 THIÊN, NHÂN CHÚNG


Và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.



GIẢNG NGHĨA:


Trong pháp hội còn có rất đông thính chúng phàm phu là những hàng Trời, Người, Thiên Long, Bát Bộ v.v.. nơi  câu trên đây, trong hàng chư thiên kể tên một vị Thích Đế Hoàn Nhơn tức là tên của vua trời Đao Lợi, thông thường gọi là Đế Thích (Thiên Vương). Người tục thường gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế.

 

Chư Thiên trong đây là chỉ cho những vị trời ở cõi Dục và cõi Sắc. Mỗi khi Phật thuyết pháp, chẳng những các bậc thánh như Bồ Tát và A La Hán… đồng dự hội, vua quan, nhơn dân bổn xứ cho đến thiên long, bát bộ ở mười phương cùng đồng đến nghe pháp.


Đức Phật có một đại nhơn tướng gọi là "Viên Âm”. Nhờ vậy mà trong pháp hội dẫu rằng rất đông thánh chúng và đủ cả phàm, thánh, trời, người, quỷ thần, nhưng tất cả đại chúng đều nghe rõ lời Phật thuyết pháp và đều nhận hiểu (theo ngôn ngữ, thanh âm và căn tánh của mỗi loài).



THÍCH NGHĨA :

 

1. Người: đây tức là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, quốc vương, đại thần, nhân dân.

 

2. Tích ông vua Trời Thích Đế Hoàn nhơn: Thuở Đức Phật Ca Diếp, có một người đàn bà phát tâm tạo 1 cái tháp, cùng với 32 người đàn bà khác phụ tiếp để hoàn thành cái công đức này. Do nhơn duyên ấy, để đền đáp lại cái phước báo, bà chủ trương tạo tháp được sanh về cõi Trời Đao Lợi làm vua, tức ông Thích Đế Hoàn Nhơn, còn 32 người phụ tạo tháp kia lại được làm 32 vị Thiên Vương ở 4 phía cõi Trời Đao lợi.

 

3. Cõi trời Đạo lợi: Ở chót núi Tu Di với 32 nước trời ở 4 phương chung quanh. Còn cõi trời Tứ Thiên Vương ở giữa(eo) núi Tu Di. Núi này bề cao 84.000 do tuần (mỗi do tuấn = 18 cây số, tức là 1.512.000 cây số và ở giữa biển rộng mênh mông). Cho nên khi Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời, ông Thích Đế Hoàn Nhơn thường theo hầu một bên Phật và được Phật độ cho chứng quả Tu Đà Hoàn. Vậy đối với các bậc Đại A La Hán (đại đệ tử của Phật), vị Ngọc Hoàng Thượng Đế nói trên mà người đời thường gọi, còn thấp kém hơn nhiều.


4. Đế Thích: tức là ông Thích Đề Hoàn Nhơn. Đế: Vua Trời, Thích: họ của Thích Đề Hoàn Nhơn.

 

5. Viên âm: “giọng” của Phật nói ra hòa nhã và người đứng xa cũng như người ngồi gần, đều nghe đồng nhau, không có lớn nhỏ sai khác. Còn “tiếng" nói thời tùy theo mỗi hạng, mỗi loài đều tự nhận hiểu và đều cho là Phật nói tiếng của mình. Thậm chí đến khi Ngài Mục Kiên Liên vận thần thông bay qua một thế giới xa xôi(mà người thì cao lớn như hòn núi), Ngài cũng nghe được tiếng Phật thuyết pháp. Đó chính là có “duyên”, đầu ở xa mấy cõi thế giới cũng vẫn được nghe tiếng Đức Phật nói. Còn không “duyên” thời ở gần thế mấy (như những người chăn dê ở chung quanh) cũng vẫn không nghe được  “viên âm" của Phật.

 

6. Đều nhận hiểu: Vì ai cũng nghe được rõ bằng tiếng nói của mình và đều hiểu được lời Phật nói.



PHỤ CHÚ:

 

Chư thiên ở các cõi trời đi đến cõi Nam Diêm Phù Đề bằng cách nào để được nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp? Bằng pháp “thần thông”, tức là “sanh thông”. Thần thông có nhiều phép, nhưng tóm lại chỉ có hai loại: Phàm Thánh.

 

1. Phàm:


- Chư Tiên (ngoại đạo): luyện chú hoặc một bửu bối gì đó, để nương gió cưỡi mây mà bay đi.

- Chư Thiên và quỷ Thần: thời có “sanh thông". Cách đi (bay) mau chóng, không phải tu luyện mới có, chính là cái báu tự nhiên của họ khi sanh ra đã sẵn có. Khi muốn đến đâu thân liền xẹt đến đó.

 

2. Thánh: 


Từ A La Hán cho đến Bồ Tát và Phật các Ngài không luyện thần thông, nhưng vẫn có, do sự tu tập dứt trừ phiền não. Nếu thắng được giặc này, thần thông liền phát hiện, vì đó là công dụng sẵn có của từ tâm. Nên khi tâm lặng thời nó hiện, còn nếu vô minh dứt, thời thần thông càng cao thêm. Như vậy con người có sẵn thần thông nơi tâm, không bao giờ mất. Nhưng vì vô minh nghiệp chướng che lấp chơn như bổn tánh, nên thần thông chưa phát hiện được. Vậy khi các bậc thánh đã đắc quả “vô sanh" rồi, thời nghiệp chướng vô minh dứt, thần thông phát hiện mãi không bao giờ mất.

 

Còn“sanh thông”của Chư Thiên, quỷ Thần, nếu hết phước báo rồi, sẽ bị tiêu mất, bởi bùa chú hết đắc lực, đã phai màu linh nghiệm (cũng ví như một viên ngọc mà vị tiên ấy bao bọc bằng một lớp giấy vàng quý giá, để viên ngọc được đẹp. Nhưng khi bọc giấy đã rách, thời viên ngọc ấy chẳng khỏi lu lờ, vì bụi nhơ). Trái lại, theo Phật pháp, thì viên ngọc ấy (tức là tự tâm) phải thường được lau chùi mới hết bợn nhơ bụi bậm, thời ánh sáng chiếu sẵn có của nó mới được lộ bày (bụi đây ví như phiền não trần lao tham, sân, si, ngã ái...) Vậy khi dứt sạch phiền não vô minh, thời “tâm” mới được vắng lặng sáng tỏ, thấu tất cả pháp, chứng đắc “lục thông” tự tại vô ngại.



KẾT LUẬN:

 

Đến đây đã hết phần“duyên khởi chung”của kinh A Di Đà. Trong phần này có đủ cả 6 điều chứng tín (bằng chứng để thủ tín cho đời sau) là:

 

1)“Tín”thành tựu.

2)“Phần nghe” (người nghe) thành tựu.

3)“Thời gian” thành tựu.

4)"Chủ” thành tựu (ông chủ thuyết pháp là Đức Phật).

5)“Chỗ nơi” thành tựu.

6)“Chúng” thành tựu (chúng nghe pháp). Chúng thành tựu có hai hạng: thánh và phàm.

 

Thánh: -Thánh tiểu thừa (A La Hán) và Thánh đại thừa (Bồ Tát, Đại A La Hán).

Phàm: Thiên, Long, Bát Bộ (quỷ thần) và người.

Thành tựu: trọn nên, đã xong, hoàn mãn.

 

Trong các kinh khác, sau phần duyên khởi chung, lại có phần duyên khởi riêng, như:

 

Kinh Pháp Hoa: Phật nhập định phóng quang.

Kinh Kim Cang: Phật đắp y, trì bát, khất thực.

Còn trong Kinh A Di Đà đây, Đức Phật tự kêu Ngài Xá Lợi Phất để giảng nói về Y BÁO và CHÍNH BÁO của Tây phương Tịnh độ, nên không có phần duyên khởi riêng. Lại nữa, trong các kinh, có khi do trong đại chúng thưa hỏi, rồi Phật mới giảng nói, như:


Kinh Kim Cang do Ngài Tu Bồ Đề hỏi.

Phẩm Phổ Môn do Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi.

Còn Kinh A Di Đà đây, không có ai thưa hỏi, Đức Phật tự ý nói ra. Nên kinh này, ở trong 12 bộ kinh, thuộc về bộ “vô vấn tự thuyết”, “Trường Hàng” và “Phương Quảng”. Tất cả các kinh của Đức Phật thuyết giáo, chia tách ra từng loại thời có 12 phần :

 

1. Phần "Trường Hàng" (văn xuôi).

2. Phần “Trùng Tụng" (văn vần, lập lại những điều đã giảng).

3. Phần “Cô Khởi" (văn vẫn đi riêng).

4. Phần “Nhơn Duyên" (nhơn duyên gợi Phật thuyết pháp, cũng gọi là Duyên Khởi).

5. Phần "Bổn Sanh" (những đời trước của Phật, Bồ Tát).

6. Phần "Bổn Sự” (những việc trong thời quá khứ của Phật, Bồ Tát).

7. Phần "Vị Tằng Hữu" (sự hay lý nghĩa làm đại chúng ngạc nhiên vì thuở giờ chưa từng có).

8. Phần “Tỷ Dụ” (mượn dụ để chỉ pháp).

9. Phần “Luận Nghị" (biện luận chính nghĩa).

10. Phần “Tự Thuyết" (không ai thưa thỉnh, Phật tự giảng nói).

11. Phần “Phương Quảng" (giáo lý đại thừa).

12. Phần “Thọ Ký" (Phật thọ ký cho chư Bồ Tát hay đệ tử bao giờ thành Phật hiệu gì, ở đâu ).

 

Trong 12 phần kinh thì 3 phần Trường Hàng, Trùng Tụng và Cô Khởi là thể thức của văn kinh. Ngoài ra 9 phần kia là những điều, những sự trong kinh văn mà phân loại ra.



LỜI BÀN:



Đức PHẬT THÍCH-CA khi xưa thuyết KINH  không có phần THÔNG-TỰ và TÊN KINH.


Có  PHẦN THÔNG-TỰ, gồm những AI tham dự PHÁP HỘI, Ở ĐÂU...là do ngài A-NAN y theo lời dạy của PHẬT mà thuật lại đúng những gì ngài đã NGHE THẤY (NHƯ THỊ NGÃ VĂN...)


Còn TÊN KINH thì ngài A-NAN y theo lời dạy của PHẬT trong PHẦN CHÁNH-TÔNG mà đặt TÊN KINH để cho người đời sau Y GIÁO PHỤNG HÀNH.


Thông thường thì khi  PHẬT THUYẾT KINH XONG, thì Ngài  XÁ-LỢI-PHẤT hay người ĐƯƠNG-CƠ phải thưa hỏi PHẬT  “TÊN KINH, CÁCH THỌ-TRÌ và LƯU-THÔNG NHƯ THẾ NÀO?”


Nhưng vì đại chúng không “AI” biết CẢNH GIỚI CỦA KINH A-DI-ĐÀ  nầy, cho nên chư PHẬT Ở 6 PHƯƠNG PHẢI LÀM  CHÚNG ĐƯƠNG-CƠ cho  PHẬT THÍCH-CA  TỰ nói ra TÊN KINH  là:



“ Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm KINH”. 




KINH NẦY CÓ 2 BẢN DỊCH :



-PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ 

(NGÀI CƯU-MA-LA THẬP DỊCH)


-XƯNG TÁN TỊNH-ĐỘ PHẬT NHIẾP THỌ KINH 

(NGÀI HUYỀN-TRANG DỊCH )


LÀ VÌ NIỆM PHẬT (KINH A-DI-ĐÀ), THÌ THÀNH TỰU ĐƯỢC "NHIỀU" THIỆN-CĂN, CÔNG-ĐỨC, NHƠN-DUYÊN  và ĐƯỢC CHƯ PHẬT HỘ NIỆM. TÊN KINH TUY KHÁC MÀ "Ý" VẪN NHƯ NHAU  điều là:


“ Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức

Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm KINH”.



 BIỆT TỰ


Tại sao gọi là BIỆT TỰ “Phần Phần Tự riêng?

 

-Vì trong các kinh khác, sau Phần Tự chung lại có phần Phần Tự riêng, nghĩa là: Ngoài 6 phần chứng tín của phần “Phần Tự chung” lại có một phần khác nữa thêm vào. Ví như:

 

Kinh Pháp Hoa có: Phật phóng quang nhập định (nghĩa là: Do nhập định phóng quang rồi, đại chúng có hỏi thì Phật mới nói).

Kinh Kim Cang có: Phật đấp y trì bát.

Kinh Lăng Nghiêm có: Ngài A Nan mắc nạn.



VÔ VẤN TỰ THUYẾT

Y BÁO, CHÁNH BÁO CỦA TÂY PHƯƠNG TỊNH ĐỘ



Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Ðà hiện nay đương nói pháp. 


( Hiện nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật quá khứ, còn Đức Phật A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp nơi cõi Tây phương Cực Lạc thế giới - phía mặt trời lặn)



GIẢNG NGHĨA:


Ở đây cần phải giải thích từ đoạn những lời Phật giảng nói về “Y BÁO” và “CHÁNH BÁO” của Tây phương Tịnh độ.

 

Từ đây: là từ ở nơi cái thế giới này, tức là thế giới Ta bà.

Ta bà thế giới: là cõi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiện làm Giáo Chủ. Theo như trong kinh giải rành rẽ thời mỗi một Thái Dương Hệ có một cái núi Tu Di.

 

1. Núi Tu Di: cao 8 muôn do tuần, đường kính cũng 8 muôn do tuần (1 do tuần=18 cây số). Trên đỉnh là cõi trời Đao Lợi. Giữa núi bốn phía là trời Tứ Thiên Vương. Núi này bằng 4 chất báu: vàng, bạc, lưu ly (ngọc thủy tinh), pha lê hiệp thành (mỗi phía núi đều có 1 chất báu riêng, sáng chói hơn mặt trời). Chơn núi ở tận đáy biển sâu cũng 8 muôn do tuần. Biểu này nước ngọt mà thơm gọi là Hương Thủy hải (biển nước thơm). Ngoài biển có một vòng núi vàng bao bọc. Ngoài núi có một từng biển cũng gọi là Hương Thủy hải.


Như vậy cứ mỗi từng biển có 1 lớp núi vàng. Ngoài vòng núi vàng thứ bảy (gọi là Thất Kim sơn) thời là biển nước mặn gọi là Đại Hàm hải. Trong biển này, phương đông thời có Đông Thắng Thần Châu(châu là cù lao lớn), phương Tây thời có Tây Ngưu Hóa Châu, phương Nam lại có Nam Thiện Bội Châu (tức là quả địa cầu chúng ta đang ở), phương Bắc thời có Bắc Cu Lô Châu. Ngoài Đại Hàm hải thời có vòng núi Thiết Vi (núi sắt) bao bọc. Qua khỏi núi này là chỗ mà ánh sáng mặt trời không chiếu tới, cũng chính là Hàn Băng địa ngục.

 

Bề cao của các dãy núi chung quanh núi Tu Di:


-Vòng núi vàng thứ nhất cao 4 muôn do tuần, nghĩa là phân nửa bề cao núi Tu Di -Vòng núi vàng thứ hai cao 2 muôn do tuần, nghĩa là phân nửa của vòng núi thứ nhất. Cứ theo đó mà lấy số phân nửa bề cao mà tính các vòng núi ngoài. Vậy vòng núi vàng thứ bảy tức là thất kim sơn bề cao được phỏng độ như dưới đây:

 

625 do tuần= 25.000 dặm= 12.500 cây số.

1 do tuần = 40 dặm.

1 dặm = 500 thước.


Đề cao núi Tu Di 0,5 x (40 × 80.000)= 1.600.000 cây số.

Vùng núi thứ nhất 0,5 x (40 × 40,000)= 800.000 cây số.

 






CHÁNH TÔNG

 

 TÍN sanh Cực-lạc


 

1. Y báo trang nghiêm.



Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?

Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?

Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Ðà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. 

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.

Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.



2. Chánh báo vô lượng thù thắng. 


Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðức Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà?

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Ðà.

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà. 

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.



NGUYỆN sanh Cực-lạc



Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.



HẠNH sanh Cực-lạc



Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.

Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà. 

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.



LƯU THÔNG


Sáu phương Phật đồng khuyên TÍN sanh Cực-lạc.


Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Ðà, phương Ðông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Ðại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Ðăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Ðăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Ðạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Ðức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”. 

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.



Sáu phương Phật đồng khuyên NGUYỆN sanh Cực-lạc.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Ðà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.



Sáu phương Phật đồng khuyên HẠNH sanh Cực-lạc.

 

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: “Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.

Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!


 

TIN NHẬN THỌ TRÌ


Ðức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.



PHẬT THUYẾT 

KINH A DI ĐÀ


CHUNG



PHẬT THUYẾT 

KINH A DI ĐÀ


Hán dịch, nhà Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.



THÔNG TỰ

Kỳ viên đại hội


Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Ðộc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là:

Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ðại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða, Châu-Lợi-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Ðề, Tân Ðầu-Lư-Phả-La-Ðọa, Ca-Lưu-Ðà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Ðà, những vị đại đệ tử như thế.

Và hàng Ðại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Ða Bồ Tát, Càn-Ðà-Ha-Ðề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Ðại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.



 BIỆT TỰ

Y báo, chánh báo


Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Ðà hiện nay đương nói pháp.


CHÁNH TÔNG

 

 TÍN sanh Cực-lạc


 

1. Y báo trang nghiêm.



Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?

Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.

Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.

Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.

Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?

Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Ðà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. 

Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.

Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.



2. Chánh báo vô lượng thù thắng. 


Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðức Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà?

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Ðà.

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà. 

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.



NGUYỆN sanh Cực-lạc



Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.

Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.



HẠNH sanh Cực-lạc



Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.

Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.

Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà. 

Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.



LƯU THÔNG


Sáu phương Phật đồng khuyên TÍN sanh Cực-lạc.


Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Ðà, phương Ðông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Ðại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Ðăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Ðăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Ðạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Ðức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”. 

Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.



Sáu phương Phật đồng khuyên NGUYỆN sanh Cực-lạc.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Ðà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.



Sáu phương Phật đồng khuyên HẠNH sanh Cực-lạc.

 

Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: “Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.

Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!


 

TIN NHẬN THỌ TRÌ


Ðức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.



PHẬT THUYẾT 

KINH A DI ĐÀ


CHUNG

Comments

Popular posts from this blog