Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 93
PHÁP HỘI VÔ CẤU THÍ BỒ TÁT ỨNG HIỆN
THỨ BA MƯƠI BA
PHẨM TỰ
Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Cấp Cô Độc cùng đại Tỳ Kheo ngàn người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, ở trong các pháp đều được tự tại, chỗ làm đã xong xả bỏ gánh nặng đã được tự lợi hết kiết sử ba cõi được chánh trí giải thoát tâm thiện giải thoát huệ thiện giải thoát, tâm điều phục như đại tượng vương tâm được tự tại đến bỉ ngạn nhập bát giải thoát chỉ trừ một mình A Nan.
Lại có chư đại Bồ Tát đều là đại trang nghiêm mà mọi người đều biết, được bất thối chuyển nhứt sanh bổ xứ. Các Ngài hiệu là BửuThủ Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Huệ Nghiêm Bồ Tát, Xứng Ý Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Duyệt Âm Pháp Vương Tử, Bất Tư Nghị Giải Thoát Hạnh Pháp Vương Tử, Tư Duy Chư Pháp Vô Chướng Ngại Pháp Vương Tử, Di Lặc Bồ Tát, Thí Vô Ưu Bồ Tát, Vô Sĩ Kiến Bồ Tát, Ly Ác Thú Bồ Tát, Vô Si Hành Bồ Tát, Đoạn U Minh Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Biện Nghiêm Bồ Tát, Bửu Đức Trí Oai Bồ Tát, Kim Hoa Quang Minh Đức Bồ Tát, Tứ Vô Ngại Bồ Tát, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát như vậy câu hội.
Một sáng sớm tám đại Bồ Tát và tám đại Thanh Văn : Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Vô Si Kiến Bồ Tát, Bửu Tướng Bồ Tát, Ly Ác Thú Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Biện Nghiêm Bồ Tát, Vô Si Hành Bồ Tát, Đại Đức Xá Lợi Phất, Đại Đức Đại Mục Kiền Liên, Đại Đức Ma Ha Ca Diếp, Đại Đức Tu Bồ Đề, Đại Đức Phú lâu Na Di Đa La Ni Tử, Đại Đức A Na Luật và Đại Đức A Nan, các Ngài đắp y cầm bát muốn vào thành Xá Vệ khất thực. Giữa đường các Ngài tự nghĩ và cùng tuyên
bố. Đại Đức Xá Lợi Phất nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện tất cảchúng sanh trong
thành được nghe bốn thánh đế. Đại Đức Mục Kiền Liên nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện tất cả chúng sanh trong thành rời lia ma sự. Đại Đức Ma Ha Ca Diếp nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho người cúng thí tôi được phước báu vô tận nhẫn đến được Niết bàn. Đại Đức Tu Bồ Đề nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho chúng sanh nào thấy tôi thì sẽ được thọ hưởng khoái lạc trong người trên trời được dứt hết khổ tế. Đại Đức Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho trong thành tất cả ngoại đạo phạm chí ni kiền tử v.v…đều được chánh kiến. Đại Đức Ly Việt nói :Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện trong thành tất cả chúng sanh được sự vui vô tránh. Đại Đức A Na Luật nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện trong thành tất cả chúng sanh biết nghiệp báo đời trước. Đại Đức A Nan nói : Tôi sẽ nhập định như vậy rồi đến thành Xá Vệ khất thực nguyện cho trong thành tất cả chúng sanh với pháp đã được nghe đều hiện tiền.
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử quan niệm như vậy : Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ tất cả nhà cửa tường vách khí vật cây cối nhánh lá bông trái y phục anh lạc đều phát xuất tiếng không vô tướng vô nguyện vô sở hữu vô ngã vô hí luận vô tánh. Vô Si Kiến Bồ Tát quan niệm như vầy :Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ những chúng sanh đáng được Vô thượng Bồ đề thấy vật gì liền biến thành tượng Như Lai và khiến họ quyết định nơi Vô thượng Bồ để. Bửu Tướng Bồ Tát quan niệm như vầy :Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ trong tất cả nhà cửa của hàng tộc tánh bửu tạng đầy đủ bảy báu từ đất vọt ra. Ly Ác Thú Bồ Tát quan niệm rằng : Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ những chúng sanh đáng phải đọa ác đạo đều làm cho hiện đời chịu tội nhẹ mau thoát khổ não. Trừ Chư Cái Bồ Tát quan niệm rằng : Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ chúng sanh trừ hết ngũ cái. Quan Thế Âm bồ Tát quan niệm rằng : « Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ chúng sanh bị tù giam xiềng xích mau được thoát khỏi, kẻ sắp bị giết sẽ được cứu mạng, kẻ bị khủng bố liền được vô úy. Biện Nghiêm Bồ Tát quan niệm rằng : Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kế vấn đáp nhau. Vô Si
Hành Bồ Tát quan niệm rằng : Tôi sẽ khiến trong thành Xá Vệ ai thấy tôi đều không ngu si tà kiến và quyết định nơi Vô thượng Bồ đề.Tám đại Bồ Tát và tám dại Thanh Văn cùng luận sự trên rồi dến của thành Xá Vệ.
Bấy giờ Vô Cấu Thí con gái vua Ba Tư Nặc lên tám tuổi dung mạo xinh đẹp đoan nghiêm nhàm
mùng tám tháng hai ngày sao Phất xuất hiện cùng với năm trăm Bà La Môn cầm bình đầy nước xuất thành để tắm gội Thiên tưọng. Chư Bà La Môn thấy chư Tỳ Kheo đứng ngoài cửa thành. Họ cho là chẳng tốt, vì trưởng túc Bà La Môn tuổi trăm hai mươi tên Phạm Thiên bảo Vô Cấu Thí rằng : « Nay chư Tỳ Kheo đứng ngoài cửa thành là sự chẳng tốt, chúng ta nên trở vào thành chẳng nên gặp họ.Nếu gặp họ thì sự tế tự đáng lẽ lành tốt lợi ích sẽ thành chẳng tốt chẳng lành vậỷ.
Vô Cấu Thí liền nói kệ đáp Bà La Môn rằng :
« Tỳ Kheo không ái nhiễm
Đệ nhứt đáng khen ngợi
Hay vì các chúng sanh
Rửa trừ tất cả ác
Các Ngài đây thanh tịnh
Đều thấy tứ thánh đế
Ngoại đạo chẳng thanh tịnh
Bị si tối che đậy
Ruộng phước Lưỡng Tùc Tôn
Cúng thí được báo lớn
Gieo giống vào ruộng nầy
Hưởng phước lạc vô tận
Đầy đủ tịnh giới hạnh
Ra khỏi bùn không nhiễm
Ở đời như lương y
Cứu trị bịnh chúng sanh
Phật tối thắng trong đời
Là vua của các pháp
Chúng đây là Phật tử
Thành xong A la Hán
Thật hành Bồ Tát đạo
Người đời nên khen ngợi
Trí huệ hành diệu hạnh
Nên gần sao lại tránh
Chúng đây là huệ nhơn
Lâu xa thường bố thí
Phạm chí kính chúng đây
Các sự quyết định tốt
Khen chúng đủ tướng nầy
Tâm tịnh ruộng phước tốt
Phạm Chí nếu tin được
Vui mừng không lo khổ ».
Các Phạm Chí nói kệ đáp Vô Cấu Thí rằng :
« Chớ theo lòng ngu dại
Cúng thờ và cầu phước
Chớ thấy và chớ gần
Sa Môn cạo râu tóc
Cha mẹ cô chẳng vui
Chúng ta cũng hổ thẹn
Nếu cô muốn bố thí
Sự ấy cũng chẳng tốt
Lành thay chớ cung kính
Các chúng Tỳ Kheo nầy ».
Vô Cấu Thí nói kệ đáp chư Phạm Chí rằng :
« Nếu tôi đọa ác đạo
Cha mẹ cùng quyến thuộc
Của báu và thế tục
Đều không thể cứu được
Trừ chúng oai đức nầy
Ai có thể cứu tôi
Vì kính Phật Pháp Tăng
Nên xả bỏ thân mạng
Trừ ngoài Tam bửu ra
Không còn chỗ nương tựa ».
Chư Phạm Chí nói Vô Cấu Thí rằng : « Cô chưa từng thấy Phật và Tăng cũng chưa từng nghe pháp, do
đâu mà cô có lòng tin như vậy ? ».
Vô Cấu Thí đáp : « Lúc tôi sanh được bảy ngày đang ở tại giường chưn bằng vàng trên điện cao thấy năm trăm Thiên Tử bay trên hư không nói vô lượng công đức ca ngợi Phật Pháp Tăng, lúc ấy tôi được nghe. Đồng thời lại có một Thiên Tử chưa từng thấy Phật nghe Pháp cũng chưa từng thấy chúng Tăng hỏi chư Thiên Tử : Phật là ai và như thế nào ? Chư Thiên Tử biết tôi chí tâm và để đáp lời hỏi ấy cho được sự vui đẹp nên nói kệ rằng :
Tóc Phật màu biếc xanh
Trong sạch xoắn phía hữu
Mặt Phật như trăng tròn
Màu hoa sen trăm cánh
Bạch hào như ngọc tuyết
Xoắn phía hữu rất đẹp
Ong đen nhiểu sen xanh
Mày mắt Phật cũng vậy
Má tròn như sư tử
Mắt nháy như ngưu vương
Môi như trái tần bà
Răng trắng khít đều bằng
Đi như bạch nga vương
Lưỡi rộng trùm khắp mặt
Phát âm rất thanh tịnh
Người nghe đều vui mừng
Tiếng khổng tước nga nhạn
Tiếng đờn cầm lưu ly
Tiếng khẩn na chuông vàng
Tếng chim ca lăng tần
Tiếng chim câu na la
Cộng mạng chim cát la
Tiếng âm nhạc vi diệu
Âm thanh Phật cũng vậy
Phật hống như sư tử
Hay dẹp trừ tranh cãi
Trừ bỏ các nhơ khổ
Thiệt ngữ dứt kiến chấp
Phật ở giữa đại chúng
Hay giải quyết nghi vấn
Chẳng sai mà nhu hòa
Làm vừa đẹp lòng chúng
Bỏ lìa cả hai bên
Chánh thuyết đúng trung đạo
Hằng nói lời thích ý
Người nghe đều vui mừng
Lời Phật không siểm khúc
Người nghe đều được hiểu
Lời Phật huệ trang nghiêm
Như vòng hoa thơm đẹp
Cổ tròn tay dài thẳng
Bàn tay bằng luân tướng
Ngón tay vót dài đẹp
Móng như màu đồng đỏ
Thân Phật vững đầy ngay
Eo nhỏ hông sư tử
Tròn đẹp và đầy đặn
Âm tàng như mã vương
Vóc hình như núi vàng
Một lỗ mọc một lông
Hữu truyền hướng lên trên
Ví dụ như long tượng
Vế bắp như lộc vương
Chưn bằng xương câu tỏa
Mắt cá đầy chưn luân tướng
Rành rẽ đủ ngàn chia.
Nầy chư Phạm Chí ! Lúc ấy chư Thiên nói kệ như vậy để ca ngợi đức Như Lai. Lại nữa, đức Như Lai Ứng Cúng độ tất cả chúng sanh đến bỉ ngạn, có đại từ bi như đại y vương cứu hộ vcác chúng sanh chẳng nhiễm tắng ái như hoa sen trong nước. Nơi công đức của đức Như Lai, tôi chỉ ca ngợi phần it thôi.
Nầy chư Phạm Chí ! Tôi so sanh
bảy ngày được nghe công đức của đức Như Lai như vậy, từ đó đến nay hằng không ngủ nghỉ, cũng không có
lòng tham dục, lòng sân hận, lòng tổn não, từ đó đến nay với cha mẹ anh chị em thân thuộc của báu anh lạc y phục thành ấp vườn tược và thân mạng của mình tôi đều không có lòng luyến ái, chỉ trừ niệm Phật. Nơi nào xứ nào đức Như Lai thuyết pháp, tôi đều nhiếp tâm đến nghe và đều thọ trì hoặc văn hoặc nghĩa chẳng mất một câu.
Nầy chư Phạm Chí ! Ngày đêm chưa có lúc nào chẳng thấy đức Thế Tôn. Tôi quán Phật không chán , nghe pháp không đủ , cúng Tăng không mỏỉ ».
Nghe Vô Cấu Thí ca ngợi công đức của Phật Pháp và Tăng , năm trăm Phạm Chí đều phát vô thượng Bồ đề.
Vô Cấu Thí xuống xe đi bộ đến trước chư Bồ Tát và chư Thanh Văn đảnh lẽ chưn các Ngài, dùng lòng cung kính tôn trọng đến đứng trước Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng : « Tôi là nữ nhơn trí huệ cạn ít nhiều phiền não và nhiều phóng dật ưa sự ti tiện bị những tư tưởng chẳng thuận tốt nó kéo dắt. Lành thay Đại Đức Xá Lợi Phất ! Vì thương xót tôi mà nói
diệu pháp, tôi được nghe xong mãi mãi
lợi ích thêm nhiều an vuỉ ».
Vừa lúc ấy vua Ba Tư Nặc đến nghe lời trên, vua bảo Vô Cấu Thí rằng : « Đối với con các khoái lạc đều không hề thiếu, sao con có các
lo mà chẳng ngủ nghỉ chẳng ưa sự vui trong đời ? ».
Vua Ba Tư Nặc vì con gái mình
mà nói kệ rằng :
« Đoan nghiêm như thiên nử
Tắm gội ướp hương thơm
Anh lạc đều đầy đủ
Lo gì mà chẳng ngủ
Nước giàu nhiều của báu
Cha mẹ được tự tại
Có gì mà chẳng vui
Mà chẳng ngủ nghỉ vậy
Con đẹp lòng song thân
Mọi người đều kính vọng
Cha trang nghiêm mọi thứ
Cớ sao con chẳng vui
Con thấy nghe sự gì
Mà ôm lòng buồn lo
Lành thay con cầu gì
Con nói cha sự ấy ».
Vô Cấu Thí nói kệ bạch Phụ Vương :
« Cha chẳng rõ trong nhà
Ấm giới nhập các pháp
Thế gian như huyễn hóa
Mạng sống không tạm dừng
Uống độc ai ngủ được
Sắp chết ai vui được
Sa hố đâu mong sống
Sự đời đều như vậy
Như người ở gần rắn
Nào còn ngủ với ham
Tứ đại như rắn độc
Nào có lòng hoan lạc
Bi kẻ thù vây quanh
Như đói nào có vui
Bị các nước thù địch
Phụ Vương đâu có vui
Từ con thấy Thế Tôn
Phát tâm nguyện thành Phật
Con chưa hề nghe thấy
Bồ Tát tạm phóng dật ».
PHẨM THANH VĂN
Bấy giờ Vô Cấu Thí bạch Tôn giả Xá Lợi Phất rằng : « Bạch Đại Đức ! Tôi có ít lời hỏi xin Ngài thương mà giải thích. Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đệ nhứt trong hàng trí huệ. Vậy trí huệ ấy là hữu vi hay là vô vi ?
Nếu là hữu vi thì là pháp hư dối không thiệt, nếu là vô vi thì là
pháp vô vi không có sanh, pháp không sanh thì không có khởi , vì là không khởi thì trí huệ ấy là vô sở hữu ».
Tôn giả Xá Lợi Phất yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói với Tôn giả Xá Lợi Phất : « Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí ? ».
Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Cô ấy chẳng hỏi pháp hữu vi mà hỏi đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhứt nghĩa không có ngôn thuyết, nên tôi không thể dùng ngôn thuyết để đáp ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Đại Mục Kiền Liên : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thần túc đệ nhứt. Lúc Đại Đức thừa thần túc là tưởng niệm chúng sanh hay là
tưởng niệm nơi pháp ? Nếu an trụ chúng sanh tưởng thì chúng sanh
không thiệt thần túc ấy cũng không thiệt, nếu an trụ nơi pháp tưởng thì pháp không biến dị, nếu không biến dị thì vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì vô phân biệt ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên yên lặng.Thấy vậy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hỏi : « Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí ? ».
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : « Cô ấy chẳng hỏi phân biệt thần túc mà hỏi pháp chư Phật. Pháp chư Phật vô tác vô phân biệt không ngôn thuyết được ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đầu đà đệ nhứt. Đại Đức vì thương chúng sanh đã nhập bát giải thoát rồi mà họ cúng thí, nhẫn một niệm thọ người cúng thí.
Vậy Đại Đức dùng thân báo ơn hay dùng tâm báo ơn họ. Nếu dùng thân báo ơn thì thân tánh vô
ký không khác cỏ cây tường vách ngói sạn tất không thể báo ơn cúng thí, Nếu dùng tâm báo ơn thì tâm niệm niệm chẳng dừng cũng chẳng báo ơn được, nếu trừ thân tâm thì là
pháp vô vi, ai có thể báo ơn được ?
Tôn giả Ma Ha Ca Diếp yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Tu Bồ Đề hỏi : « Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí ? ».
Tôn giả Ma Ha Ca Ca Diếp nói : « Cô ấy hỏi pháp chơn tế, lý ấy chẳng thể dùng lời để đáp ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Tu Bồ Đề : « Bạch Đại Đức : « Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đệ nhứt vô tránh. Hạnh vô tránh ấy nhập hữu tánh hay nhập như tánh ? Nếu nhập như tánh thì như chẳng phải tướng sanh tướng diệt, nếu chẳng có tướng sanh diệt thì là bình đẳng, nếu bình đẳng thì là như vậy, nếu như vậy thì là vô tác, nếu vô tác thì không ngôn thuyết, nếu không ngôn thuyết thì là bất khả tư nghị, nếu bất khả tư nghị thì là chẳng thể tuyên bày được. Còn nếu nhập tại hữu tánh thì là hư dối chẳng phải thánh hạnh ».
Tôn giả Tu Bồ Đề yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử hỏi : « Sao Đại Đức chẳng đáp ? ».
Tôn giả Tu Bồ Đề nói : « Ở nơi lý tôi chẳng nên có đối đáp chỉ có yên lặng là chỗ mà tôi thích. Cô ấy hỏi pháp không hí luận, nếu có ngôn thuyết thì sanh lỗi, pháp tánh vô
thuyết là hạnh vô tránh vậy ».
Vô Câu Thí hỏi Tôn giả Phú Lâu Na : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là thuyết pháp đệ nhứt. Lúc Ngài thuyết pháp là thuyết pháp có cảnh giới hay thuyết pháp không cảnh giới. Nếu thuyết pháp có cảnh giới thì đồng với phàm phu, tại sao ? Vì phàm phu nói pháp có cảnh giới vậy, thế nên Đại Đức chẳng rời pháp phàm phu. Còn nếu pháp không cảnh giới thì là vô sở hữu, lấy gì gọi là đệ nhứt trong hàng người thuyết pháp ? ».
Tôn giả Phú Lâu Na yên lặng. Thấy vậy Tôn giả Ly Việt bảo rằng : « Sao Đại Đức chẳng đáp ? ».
Tôn giả Phú Lâu Na nói : « Cô ấy chẳng hỏi pháp hữu vi mà hỏi đệ nhứt nghĩa. Trong đệ nhứt nghĩa không có ngôn thuyết , thế nên không có lý để đáp ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả Ly Việt : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là người hành thiền đệ nhứt. Lúc Đại Đức hành thiền là y nơi thiền có tâm hay thiền không tâm ? Nếu y như tâm nhập thiền thì tâm như huyễn hóa chẳng thiệt, định ấy cũng chẳng thiệt, còn nếu vô tâm nhập thiền thì cỏ cây v.v…cũng lẽ ra đắc thiền, vì nó cũng đồng vô tâm vậy ».
Tôn giả Ly Việt yên lặng. Thấy vậy Tôn giả A Na Luật hỏi : « Sao Đại Đức chẳng đáp ? ».
Tôn giả Ly Việt nói : « Cô ấy hỏi chỗ sở hành của chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn giải đáp ».
Vô Cấu Thí nói : « Chư Phật pháp cùng Thanh
Văn pháp có khác chăng ? Nếu có khác nhau thì vô vi có hai chăng ? Chư Hiền Thánh đều hành vô vi, pháp vô vi không có sanh , nếu không có sanh thì
không có hai, nếu không có hai thì như vậy, như vậy không hai, thế sao Đại Đức Ly Việt lại nói lời như trên ư ! ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả A Na Luật : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài thiên nhãn đệ nhứt.Chỗ Ngài dùng thiên nhãn thấy là có vật hay không có vật ? Nếu thấy có vật thì là kiến thường, còn thấy không có vật thì là kiến đoạn. Nếu rời cả hai bên thì là
không có thấy ».
Tôn giả A Na Luật yên lặng. Thấy vậy Tôn giả A Nan hỏi : « Sao Đại Đức không đáp ? ».
Tôn giả A Na Luật nói : « Lời cô ấy hỏi là để phá giả danh nên không thể dùng giả danh để đáp ».
Vô Cấu Thí hỏi Tôn giả A Nan : « Bạch Đại Đức ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là đa văn đệ nhứt. Đa văn ấy là thiệt nghĩa hay là văn tự ? Nêu là thiệt nghĩa thì nghĩa ấy chẳng thể nói, nếu là pháp chẳng thể nói thì chẳng phải chỗ nghe biết của nhĩ thức, nếu chẳng phải nhĩ thức nghe thì lại là chẳng thể nói. Còn nếu do văn tự , như lời đức Thế Tôn dạy « y theo liễu nghĩa chẳng y theo văn tự ». Thế nên Đại Đức A Nan chẳng phải đa văn cũng chẳng phải liễu nghĩa ».
Tôn giả A Nan yên lặng. Thấy vậy Văn thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi : « Sao Đại Đức chẳng đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí ? ».
Tôn giả A Nan nói : « Chỗ hỏi đa văn của cô ấy rời lìa văn tự, đây chẳng thể dùng âm thanh để đáp vấn nơi bình đẳng, bình đẳng chẳng phải tâm thức vì rời lìa tướng của tâm vậy. Đây chẳng phải là pháp của hàng học địa, tôi đâu đáp được, đây là chỗ mà đức Như Lai Pháp Vương đến bỉ ngạn vậy ».
PHẨM BỒ TÁT
Bấy giờ Vô Cấu Thí hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Bạch Ngài Văn Thù Sư Lợi ! Đức Thế Tôn thọ ký Ngài là tối đệ nhứt trong hàng Bồ Tát thâm giải. Ngài lấy thập nhị nhơn duyên thâm làm
thâm hay lấy chơn thâm làm thâm ?
Nếu lấy thập nhị nhơn duyên thâm làm
thâm thì không có chúng sanh thành thập nhị nhơn duyên thâm, tại sao, vì thập nhị nhơn duyên thâm không lai không khứ chẳng phải chỗ biết của sáu thức nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, trong
thâm ấy thập nhị nhơn duyên chẳng phải là hành pháp .
Còn nếu lấy chơn thâm.làm thâm thì
chơn chẳng phải thâm cũng không
ai được chơn thâm ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Do thỉ tế thâm nên thâm ».
Vô Cấu thí nói : « Thỉ tế thì chẳng phải tế. Thế nên sự biết của Ngài cũng chẳng phải biết ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Do vô
tri mà được vô đắc nên nói là thỉ tế vậy ».
Vô Cấu Thí nói : « Trong vô đắc ấy không có ngôn ngữ, quá đường ngôn ngữ không có chỗ nóỉ ».
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nói là
mượn văn tự để nói ».
Vô Cấu Thí nói : « Chư Phật Bồ đề quá văn tự ngôn thuyết thế nên Bồ đề thì chẳng thể nói được ».
Bấy giờ Vô Cấu Thí hỏi Ngài Vô Si Kiến Bồ Tát : « Bạch Ngài Vô Si Kiến Bồ Tát ! Ngài nói tôi quan niệm đến thành Xá Vệ nguyện cho trong thành những ai đáng được Vô thượng Bồ đề phàm họ thấy vật chi đều biến thành tượng Phật cả và khiến họ quyết định nơi Vô thượng Bồ đề.
Bạch Ngài nếu thấy Như Lai là dùntg sắc thân thấy hay dùng pháp
thân thấy ? Nếu do sắc thân thì không thấy Phật, tại sao, vì như đức Thế Tôn từng dạy « Nếu thấy sắc thân ta nghe âm
thanh ta người nầy biên kiến chẳng phải thấy ta ». Còn nếu do pháp thân thì
pháp thân chẳng thể thấy được, tại sao ? Vì pháp
thân rời kiến văn chẳng thể lấy được, thế nên chẳng thể thấy nghe pháp thân Phật ».
Vô Si Kiến Bồ Tát liền yên lặng, Bửu tướng Bồ Tát hỏi : « Sao Ngài chẳng đáp ? ».
Vô Si Kiến Bồ Tát nói : « Cô ấy hỏi nơi pháp vô tánh,
pháp vô tánh ấy chẳng thể nói nên tôi không đáp ».
Vô Cấu Thí nói : « Bạch Ngài ! Tôi không hỏi pháp vô tánh, pháp vô tánh chẳng thể hỏi. Học rồi mà đáp thì không có ngại gì ».
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Bửu Tướng Bồ Tát : « Bạch Ngài Bửu Tướng Bồ Tát ! Ngài quan niệm rằng lúc tôi vào thành nguyện cho trong thành những nhà của hàng tộc tánh bửu tàng vọt lên đầy đủ bảy báu. Tâm bố thí bảy báu của Ngài có nhiễm trứơc hay không nhiễm trước ? Nếu có nhiễm trước thì đồng với kẻ phàm phu, tại sao, vì phàm phu
có ái trước vậy. Còn nếu không ái trước thì trong ái trước không có bố thí bảy báu ».
Bửu Tướng Bồ Tát liền yên lặng.
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Ly Ác Thú Bồ Tát : « Bạch Ngài Ly Ác Thú Bồ Tát ! Ngài quan niệm rằng lúc tôi vào thành, nguyện cho trong thành những ai đáng đọa ác đạo đều khiến thọ tội nhẹ tại hiện đời mau thoát khổ não. Bạch Ngài ! Đức Như Lai nói nghiệp bất tư nghị. Nghiệp bất tư nghị nầy có thể mau dứt chăng. Nếu dứt được thì trái với lời của đức Như Lai. Còn nếu chẳng dứt thì sao lại thọ nhẹ mau dứt. Nếu có thể dứt thì trong pháp
không có chủ thì Ngài là chủ. Và nếu có thể dứt thì cũng chẳng thể dứt ».
Ly Ác Thú Bồ Tát nói : « Vì tôi dùng nguyện lực nên hay khiến thọ nhẹ dứt mau ».
Vô Câu Thí nói : « Bạch Ngài ! Các pháp như tánh chẳng thể dùng nguyện lực mà thọ được ».
Ly Ác Thú Bồ Tát liền yên lặng.
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Trừ Chư Cái Bồ Tát ! « Bạch ngài Trừ Chư Cái Bồ Tát ! Ngài quan niệm tôi nguyện cho chúng sanh trong thành đều trừ hết ngũ cái. Ngài quan niệm nhập định ấy rồi có thể khiến chúng sanh chẳng bị ngũ cái che chướng ».
Bạch Ngài ! Ở trong định ấy, mình tự tại hay là người tự tại ?, Nếu mình tự tại thì không do đâu
đến người, tất cả pháp không pháp
nào đến kia cả, sao Ngài thập thiền định trừ được ngũ cái cho người. Nếu là người khác tự tại thì chẳng thể lợi ích cho ngườỉ ».
Trừ Chư Cái Bồ Tát nói : « Hạnh nầy dùng từ làm đầu ».
Vô Cấu Thí Bồ Tát nói : «Bạch Ngài ! chư Phật đều thực hành tử hạnh. Bạch Ngài ! Vã có đức Phật nào nhơn nơi chúng sanh chẳng lấy ngũ cái làm lo đó
chăng ? ».
Trừ Chư Cái Bồ Tát liền yên lặng.
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Quan thế Âm Bồ Tát : « Bạch Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát ! Ngài quan niệm rằng nguyện cho chúng sanh trong thành những kẻ bị tù ngục trói nhốt mau được giải thoát, kẻ sắp bị giết được cứu sống, kẻ bị khủng bố được vô úy. Bạch Ngài ! Xét về nói rằng bố úy ấy là có nắm lấy hay không nắm lấy. Nếu là có nắm lấy thì kẻ phàm phu cũng có nắm lấy vì thế nên chẳng phải. Còn nếu là không nắm lấy thì không chỗ bố thí. Trong pháp
không bố thí đâu được có trừ dứt ».
Quan Thế Âm Bồ Tát liền yên lặng.
Biện Nghiêm Bồ Tát hỏi Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát : « Sao Ngài không giải đáp lời hỏi của Vô Cấu Thí ? ».
Quan Thế Âm Bồ Tát nói : « Cô ấy chẳng hỏi pháp sanh diệt nên không thể đáp được ».
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát : « Bạch Ngài ! Chúng có vô sanh vô diệt hỏi chăng ? ».
Quan Thế Âm Bồ Tát nói : « Không có ».
Vô Cấu Thí nói : « Trong vô sanh vô diệt bèn không văn tự ngôn thuyết. Người trí huệ ở nơi không văn tự mượn văn tự nói mà không trước văn tự, pháp tánh vô ngại. Vì thế người trí huệ chẳng ngại văn tự ».
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Biện Nghiêm Bồ Tát : « Bạch Ngài Biện Nghiêm Bồ Tát ! Ngài quan niệm rằng tôi nguyện người trong thành ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kệ hỏi đáp nhau. Bạch Ngài ! Biện tài được Ngài thí cho ấy là do giác mà khởi hay do ái mà khởi ! Nếu do giác khởi thì tất cả pháp hữu vi đều do giác quán khởi thế nên chẳng phải tịch tĩnh. Nếu do ái khởi thì chỗ thí cho ấy luống hư ».
Biện Nghiêm Bồ Tát nói : « Đó là lúc tôi ban sơ phát tâm Bồ đề nguyện ai thấy tôi đều được biện tài dùng diệu kệ hỏi đáp nhau ».
Vô Cấu Thí hỏi : « Bạch Ngài ! Hiện nay chính Ngài có tâm nguyện Bồ đề chăng ? Nếu chính hiện có thì là thường kiến. Còn nếu hiện nay không có thì
chẳng thể đem thí cho người, thì sở nguyện luống hư ».
Biện Nghiêm Bồ Tát liền yên lặng.
Vô Cấu Thí hỏi Ngài Vô Si Hành Bồ Tát : « Bạch Ngài Vô Si Hành Bồ Tát ! Ngài quan niệm nguyện cho chúng sanh trong thành ai thấy tôi thì được vô si kiến quyết định nơi Vô thượng Bồ đề. Bạch Ngài ! Bồ đề ấy là có hay là không ? Nếu là có thì là hữu vi Bồ đề chấp nơi biên kiến. Nếu là không thì là hư vọng cũng sa vào biên kiến ».
Vô Si Hành Bồ Tát nói : « Bồ đề ấy gọi là trí ».
Vô Cấu Thí nói : « Trí ấy gọi là sanh hay gọi là vô sanh ? Nếu gọi là sanh thì chẳng phải khéo thuận tư duy mà sanh, là hữu vi trí chỗ biết của phàm phu. Nếu gọi là vô sanh thì
trong vô sanh vô sở hữu, nếu vô sở hữu là vô phân biệt. Bồ đề của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Như Lai đều vô phân biệt, kẻ phàm phu phân biệt Bồ đề, người trí huệ thì vô phân biệt ».
Vô Si Hành Bồ Tát liền yên lặng .
Bấy giờ Tôn giả Tu Bồ Đề bảo chư đại Thanh Văn và chư đại Bồ Tát rằng : « Nầy các Ngài ! Chúng ta nên trở về mà chẳng nên vào thành Xá Vệ khất thực. Tại sao ? Vì nàng Vô Cấu Thí nầy nói tức là pháp thực của người trí huệ. Nay chúng ta vui
thích pháp thực mà chẳng cần đoàn thực ».
Vô Cấu Thí nói với Tôn giả Tu Bồ Đề : « Bạch Đại Đức ! Như nói các pháp không
thượng không hạ, trong pháp ấy sẽ cầu mong gì mà đi
hành khất ư ?
Bạch Đại Đức ! Pháp chẳng hí luận là sở hành của Tỳ Kheo, chẳng nên ưa hí luận. Đây là pháp vô y
chẳng phải sở hành của người y chỉ, đây là sở hành của Hiền Thánh không có thối chuyển ».
Bấy giờ tám đại Thanh Văn, tám đại Bồ Tát, năm trăm Bà La Môn Phạm Thiên v.v…Vô Cấu Thí, vua Ba Tư Nặc và hàng đại chúng đều đồng đến chỗ đức Phật, đảnh lễ chưn đức Phật hữu nhiễu ba vòng, rồi ngồi một phía.
Vô Cấu Thí riêng nhiễu bảy vòng lễ chưn Phật chắp tay đứng nói kệ hỏi Phật :
« Tôi hỏi đấng vô Đẳng
Ứng Cúng Vô Thượng Giác
Ban cam lộ chúng mừng
Bồ Tát hành thế nào
Thế nào tại đạo thọ
Phá ma hàng lao oán
Thế nào động trời đất
Núi đồi và rừng cây
Thế nào phóng quang minh
Hiển phát vô lượng xung
Nguyện đại bi ThếTôn
Nói đúng hạnh Bồ Tát
Thế nào được tổng trì
Như Lai diệu âm thanh
Thế nào hay tu trì
Định thắng diệu thanh tịnh
Thế nào các người tu
Hay được sức thần túc
Nay khuyến thỉnh Thế Tôn
Nói Bồ Tát thiệt hạnh
Thế nào được chuyên niệm
Và cùng tâm kiên cố
Thế nào được ứng biện
Vi diệu thành cụ túc
Thế nào được thuận lý
Gồm đầy đủ các nghĩa
Khá nói pháp vi diệu
Trí giả không chỗ ngại
Thế nào ưa bố thí
Tịnh giới và nhẫn nhục
Khéo tinh tiến thiền định
Trí huệ soi thế gian
Thê nào nhớ túc mạng
Thiên nhãn minh thấy rõ
Thiên nhĩ tha tâm trí
Thần túc đến các cõi
Thế nào chẳng ở thai
Hóa sanh trong hoa sen
Hằng ở trước chư Phật
Khen pháp không vô ngã
Thế nào oan thân đồng
Dứt ái và nhiễm uế
Chí hành không cao hạ
Dường như là gió đất
Lợi suy cùng hủy dự
Xưng cơ và khổ lạc
Thế nào bỏ tám pháp
Ở đời như mặt nhựt
Thế nào chẳng siểm tránh
Trừ ngã bỏ kiêu mạn
Tịch tĩnh ở thiền định
Trí giả ưa thiệt nghĩa
Thế nào chẳng ưa thích
Vợ con và tài bửu
Thế nào người tu hành
Thích ở chỗ vắng lặng
Thế nào như chim bay
Cũng như lân một sừng
Thế nào ưa chánh pháp
Và ưa tâm hỷ duyệt
Thế nào các người trí
Quán địa, thủy, hỏa, phong
Không khuynh động phân biệt
Trụ thiền như hư không
Chẳng làm hạnh phi pháp
Chẳng ưa nhìn việc người
Thà xả bỏ thân mạng
Trọn chẳng bỏ lìa pháp
Thề nào nơi Bồ đề
Tưởng niệm như Thế Tôn
Tưởng như Thế Tôn rồi
Hay phát nguyện Bồ đề
Thế nào được Tịnh độ
Và cùng thanh tịnh Tăng
Trí giả được trường thọ
Danh xưng và an lạc
Phương tiện đến bỉ ngạn
Thấy đế không thủ chứng
Hay độ vô lượng chúng
Khuyên ưa tu căn lành
Thế nào được đoan chánh
Và được nơi hóa sanh
Được trí huệ tài bửu
Hay biết tâm mọi người
Thế nào nhớ đời trước
Thường hội cùng chư Phật
Trong ngàn vạn ức kiếp
Hằng chẳng sanh chỗ nạn
Thế nào được tùy hảo
Ba mươi hai tướng tốt
Thế nào được từ biện
Và được nơi ứng biện
Thế nào tu Tịnh độ
Thành tụ chúng Tỳ Kheo
Tùy thích nguyện nước nào
Hay được sanh nước ấy
Bồ Tát tu hạnh gì
Hay được sắc danh xưng
Được lực tinh tiến thẩy
Thế nào được bất hoại
Thế nào chẳng dụ dự
Hay làm hạnh Bồ Tát
Bỏ lìa các diệu hối
Vì chúng sanh thuyết pháp
Ở trong Phật Pháp Tăng
Thế nào được tối thắng
Thà xả thân mạng mình
Mà chẳng hủy báng pháp
Phật không gì chẳng biết
Đời nay và vị lai
Nguyện đại trí Thế Tôn
Tuyên nói hạnh Bồ Tát ».
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment