Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Đại Bảo-Tích Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
ĐẠI BẢO TÍCH
QUYỂN 101
PHÁP HỘI HIỀN HỘ TRƯỞNG GIẢ
THỨ BA MƯƠI CHÍN
Như vậy tôi nghe một lúc dức Phât ở thành Vương Xá tại tinh xá Trúc Viên của trưởng giả Ca Lan Đà cùng
chúng Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, dều là bực việc làm dã xong chẳng thọ thân sau, Trưởng lão Xá Lợi Phất làm thượng thủ. Chư Tỳ kheo bao quanh
đức Thế Tôn muốn nghe pháp thân tâm họ diều thuận chẳng có ngủ nghỉ.
Bấy giờ đức Như Lai Thế Tôn diện mạo dung sắc như mặt nhựt mọc, như hoa sen nở, đoan nghiêm rạng rỡ vui vẻ mỉm cười. Chư Tỳ Kheo nghĩ rằng nay dấng Già Bà muốn tuyên nói pháp
môn gì mà sắc mặt rực rỡ như vậy.
Lúc ấy có một đại phú trưởng giả tên Hiền Hộ cùng quyến thuộc một ngàn người vây quanh, oai lực dường như chấn động đại địa, an tường chậm rãi đi về phía Thế Tôn.
Hiền Hộ trưởng giả do phước đời trước nên nay thọ quả báo trời, thân thể nhu nhuyến như cành hoa búp non. Ông dến trước Phật thấy dức Như Lai dung sắc tối thắng tối diệu, thân công đức tạng tịch tĩnh như cội cây vàng chói sáng rực rỡ khắp cả rừng trúc. Ông sanh lòng tịnh tín dối với Phật chắp tay suy nghĩ như vầy : Trong thế gian được đại danh xưng thiệt chẳng hư thuyết, cho rằng nhứt thiết trí Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác là chơn thiệt vậy. Ông liền cúi đầu lạy chưn Phật. Ông quỳ gối cất đầu nhứt tâm nhìn kỹ Thế Tôn mắt chẳng tạm nháy. Lúc chiêm
ngưỡng Như Lai thân ông nghiễm nhiên chẳng nghiêng chẳng động.
Thấy lòng Hiền Hộ khát ngưỡng như vậy, đức Như Lai lại phóng diệu quang nơi thân. Lúc diệu quang chiếu ra. Hiền Hộ liền được vô úy, đứng dậy đi hữu nhiễu ba vòng quanh Phật rồi lại đảnh lễ chưn Phật quỳ dài chắp tay bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Xin Phật thương xót tôi, xin Phật dạy bảo tôi. Đại Thánh thế Tôn ! Ở bên Phật tôi sanh lòng tin
chưa lâu, vì thế đức Phật chỉ nên vì tôi mà theo
sự hiện tại nói một pháp môn, nay tôi khát ngưỡng muốn nghe pháp, vì
trong sanh tử bị phiền não bức ngặt có nhiều nghi hoặc tâm luôn phân biệt, do đó duy nguyện Thế Tôn từ bi xót thương thuyết pháp khiến tôi quyết nghi Đại Thánh Thế Tôn ! Tôi không
chánh tri nên có mê hoặc chẳng biết ra khỏi mé biển sanh lão bịnh tử phiền não, Như Lai Thế Tôn là đấng Nhứt thiết trí thế gian hi hữu như châu ma ni có thể ban cho tất cả chúng sanh những điều vui. Đức Thế Tôn lại như cha mẹ làm cho tất cả chúng sanh được quả báo lành đó là căn bổn ».
Đức Phật dạy : « Nầy Hiền Hộ ! Nếu ông có nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ phân biệt giải thuyết cho ».
Trưởng giả Hiền Hộ được Phật hứa khả, lòng ông vui mừng muốn hỏi điều nghi trong lòng, ông liền đứng dậy ở qua một bên , thân ông oai quang viên mãn đầy đủ.
Trưỡng lão A Nan thấy Hiền Hộ như vậy liền bạch rằng : « Hi hữu Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ nầy thân quang oai lực hơn các đại vương, đẹp lạ tuyệt quần đoan chánh khả ái, trong thế gian độc nhứt vô song ».
Đức Phật dạy : « Nầy A Nan ! Nay ông có muốn nghe những sự vui đẹp trong nhà của
trưởng giả Hiền Hộ chăng ? Nếu nói đủ quả báo sung sướng của Hiền Hộ thì daé-u Đế Thích Thiên Vương tại trời Đao Lợi còn chẳng bằng huống là nhơn gian nơi Diêm Phù Đề nầy ! Duy trừ một người là trưởng giả tử Chơn Nguyệt”.
Trưởng lão A Nan bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ
nầy trong nhà có gì thù thắng mà đức Thế Tôn khen ngợi”.
Đức Phật dạy : “Nầy A Nan ! Ông nên lắng nghe, trưởng giả nầy có những của cải căn lành rộng lớn, nay ta vì ông mà
thứ đệ tuyên nói.
Nầy A Nan ! Trưởng giả Hiền Hộ nầy có sáu vạn tối đại thương chủ thường theo sau ông. Mỗi thương chủ ấy đều có vô lượng của báu kỳ dị.
Trong nhà Hiền Hộ thường trần thiết sáu vạn giuờng nằm lục hiệp thượng diệu, trên trải mền nệm tạp sắc, có gối dựa lụa tạp sắc để cặp hai bên.
Diệu y tạp sắc bằng lụa kiều xa gia v.v…, mỗi nơi đều đủ bốn bộ, và những vật đẹp lạ sản xuất từ bốn phương dều có đủ trang nghiêm nhà ấy. Những y phục ấy đều mịn nhuyễn sạch sẽ bóng sáng.
Nhà Hiền Hộ khắp mọi nơi đều treo chơn châu anh lạc để trang sức.
Còn có sáu vạn thể nữ đoan chánh đẹp tuyệt, thân thể nhu nhuyến trơn mịn, giỏi cười đùa khéo nói năng, tư thái diễm mỹ chiều tiếp ý người. Kẻ giận phiền thấy họ đều vui vẻ, kẻ lo rầu gặp họ thì thơ thới, lời nói thanh âm cợt đùa của họ làm cho người nở lòng đẹp mắt, họ đều thảo luận chiêm ngưỡng chồng mình đủ lễ làm vợ, xa lìa dục tâm đối với nam tử khác. Hoặc có lúc họ tự biết hổ thẹn chắp tay ngó xuống khom mình cung
kính chuyên hướng nơi chồng mà không còn ngó chỗ khác. Hoặc có lúc vì yêu riêng đối với chồng mà họ ghen ganh tranh đấu ghét nhau nhíu mày nhăn trán, họ giả bộ để đùa kỳ thiệt họ không có lòng ganh ghen. Ngón móng của họ thon dài tròn đều, cườm tay mắt chưn đầy đặn nhỏ kín, thân như say lả liếc nhìn đắm đuối, bước đi tường tự đứng ngồi đoan trang, tóc màu xanh biếc mịn láng dịu mềm chải gỡ khéo làm mê hoặc người. Các thể nữ ấy hoặc hầu hoặc nưng đều chuyên cung phụng chồng mình tiếng đồn trong sạch lưu bố khắp xứ. Các thể nữ ấy dòng họ rất lớn ở trong nhà họ cũng có tiếng tốt đều kham làm vợ chánh các nhà quyền quí. Có những sự trang nghiêm như vậy trong nhà to rộng của Hiền Hộ chẳng thể kể hết.
Lúc Trưởng giả Hiền Hộ muốn ăn thì có sáu vạn thứ cơm canh thơm ngon vi diệu như thức ăn cõi trời. Thực phẩm ấy sắc vị hoàn hảo đủ tám công đức, tùy ý ăn, vào miệng liền tiêu, ăn rồi thuận thích không làm chướng ngại, vì quả báo lành chiêu cảm nên tự nhiên vừa lòng, thân thể sáng sạch không hôi dơ.
Trong nhà Hiền Hộ còn có sáu vạn kiệu và xe đều trang nghiêm với những trân kỳ châu báu, đều có diệu y giăng che bên trên. Mặt đất rải hoa thơm đẹp nước thơm tưới khắp không có bụi bặm sạch sẽ bóng láng.
Trong nhà Hiền Hộ còn có những âm nhạc tối thượng : tay đánh ngón
khảy miệng thổi thanh âm vi diệu thảnh thót nhập thần ca khúc đúng đắn người nghe thích ý. Những thứ vi diệu như vậy trang nghiêm nhà ấy
Nơi nhà Hiền Hộ còn có vườn rừng cây cối tươi tốt sum sê cỏ lạ hoa thơm đủ màu tươi sáng . Trong vườn cây có nhiều chim lạ phát ra âm thanh hòa nhã như nhạc trời. Cảnh trí thanh âm
không khác Thiên cung gom các báu Tu Di hiệp thành long quật.
Trong nhà Hiền Hộ còn khắp các thứ đèn sáng không bị gió thổi lay sáng thấu khắp nơi đêm như ngày không khác.
Lại cõi nước nơi nhà Hiền Hộ có sáu vạn thành đường sá lâu đài đều trang nghiêm đầy đủ. Những thành ấy mọi nơi đều có thương nhơn các nước tụ tập, nhiều hình dạng, nhiều ngôn ngữ, nhiều trân kỳ, nhiều hàng báu cùng đổi chác nhau, chợ búa trăm ngàn vạn nhơn chúng không thể đếm kể.
Giáp vòng bốn phía thành ấy có vườn tược cây cối trăm ngàn thứ, hoa trái sum suê cành lá rậm rạp, bầy ong đua bay lấy mật lấy phấn.
Các thành ấy có nhiều voi ngựa và xe cộ.
Trong các thành ấy có bao nhiêu đại phú trưởng giả cư sĩ thương chủ và thương nhơn thường nhứt tâm cùng ca ngợi công đức của trưởng giả Hiền Hộ, họ đồng chắp tay đảnh lễ tán thán, huống là danh tiếng của Hiền Hộ họ đều vui được nghe, muốn được mắt thấy Hiền Hộ trưởng giả.
Chúa nước ấy là vua Ba Tư Nặc thấy sự giàu có hình thế phước đức của Hiền Hộ, tự thấy mình thua kém
không khác bần nhơn, nhà vua khen của báu của Hiền Hộ.
Nầy A Nan ! Ông trưởng giả Chơn Nguyệt mỗi lúc ăn có ngàn thứ trân vị, sớm tối tả hữu đồ dùng tự nhiên, còn có năm ngàn thể nữ vây quanh thừa phụng vui thú. Sánh với Thiên Đế Thích thì Trưởng giả Chơn Nguyệt hưởng thọ sung sướng hơn ngàn lần, nhưng so với Trưởng giả Hiền Hộ thì chẳng bằng một phần trăm về dung mạo của báu cũng như hưởng thọ sung sướng.
Nầy A Nan ! Trưởng giả Hiền Hộ có một cỗ xe vi diệu tên là Đoạt Ý Kỳ xảo tinh lệ nhơn gian không có. Trong xe ấy có tòa thiên bửu, xe ấy thuần trang hoàng với những châu báu cõi trời. Những thiên bửu mã não kim cương chơn châu trân bối ánh sáng chói lòa
như các tinh tú trên không
gian. Xe ấy đi mau như gió.
Nầy A Nan ! Lúc ý của Hiền Hộ muốn đến trong biển lượm châu báu, ngồi lên xe ấy tùy ý liền đến, thọ khoái lạc xong, muốn về nhà thì liền về đến nhà”.
Trưởng lão A Nan đảnh lễ chưn Phật bạch rằng : “ Hi hữu Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ thuở trước tạo thiện căn gì mà đời nay thọ quả báo nầy ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Ông muốn biết thì phải lắng nghe. Nhơn duyên nầy đều do quá khứ ở bên Phật tạo thiện căn nay được quả báo thắng thượng như vậy.
Nầy A Nan ! Ta nhớ thuở xưa có Phật xuất thế hiệu Lạc Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Lúc ấy Hiền Hộ ở bên Phật làm Tỳ Kheo tên Pháp Kế trì giới chẳng trọn có nhiều thiếu sót mà giỏi tuyên nói giáo pháp của Phật khai thị người chưa nghe. Đại pháp sư ấy đa văn tổng trì tạng tu đa la cũng
trì luật tạng thường thuyết pháp yếu cho các chúng
sanh, hiểu rộng biện tài nghĩa vị thậm thâm âm thanh rành rẽ người đều thích nghe. Người được nghe pháp đều sanh lòng hoan hỉ chẳng còn bị đọa ác đạo.
Nầy A Nan ! Do nhơn duyên pháp thí như vậy nên ông ấy trong chin mươi mốt kiếp hằng sanh lên trời trong người đoan chánh giàu sang.
Nầy A Nan ! Nhơn duyên được báo xe vi diệu ta sẽ nói cho ông.
Lúc làm pháp sư thời kỳ Phật Lạc Quang, ông ấy thấy các Tỳ Kheo tu phạm hạnh trì giới mà ốm gầy bịnh hoạn thì cung cấp tất cả đồ dùng luôn cả giày dép đều vui vẻ bố thí , do đó mà nay
được quả báo xe vi diệu như ý.
Nầy A Nan ! Thuở xưa có Phật hiệu Ca Diếp Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đức Phật Ca Diếp ấy bảo trưởng giả : Đời vị lai có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sẽ thọ ký cho ông.
Nầy A Nan ! Nay ta cần dạy cho Hiền Hộ được tỏ ngộ”.
Trưởng lão A Nan bạch rằng :” Hi hữu Thế Tôn ! Ông trưởng giả nầy giàu có lớn như vậy mà tánh nhu hòa
chẳng cống cao, ở trong ngũ dục mà lòng chẳng nhiễm”.
Đức Phật dạy ;”Nầy A Nan ! Phàm là người trí thì chẳng vì giàu có mà
kiêu ngạo và nhiễm ngũ dục.
Trưởng giả Hiền Hộ nầy do nhơn duyên diệu pháp mà nhiều đời thọ phước báu vô tận”.
Bấy giờ trưởng giả Hiền Hộ đã được Phật hứa khả muốn thỉnh hỏi chỗ nghi, liền nhứt tâm ở trước Phật quỳ dài chắp tay bạch rằng : “Đại từ Thế Tôn nhiếp thọ tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh. Nay lòng tôi có chỗ nghi muốn hỏi xin đức Thế Tôn giải thuyết cho tôi được hết nghi”.
Đức Phật dạy :” Nầy Hiền Hộ ! Nếu lòng ông có nghi mà muốn dứt trừ thì nay là phải lúc, ta cho phép ông hỏi, ta vì ông mà phân biệt giải nói”.
Trưởng giả Hiền Hộ bạch rằng :”Bạch đức Thế Tôn ! Các chúng
sanh biết mình có thần thức. Mà thần thức nầy như là cái trắp báu lúc chưa mở ra chẳng biết trong ấy có báu gì ?
Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức ấy tướng mạo ra sao ? Do duyên
gì gọi là thần thức ?Lúc mạng chung các căn sắp diệt tứ đại sắp phân tán, thần thức ấy không tay chưn mặt mắt làm sao từ trong thân dời ra được. Thần thức ấy màu gì hình gì ?Từ trong thân làm sao rời lìa được thần thức ấy ? Thế nào xả bỏ thân nầy mà thành tựu thân khác ? Thế nào xả bỏ các đại các nhập nầy mà hướng đến đời sau ? Thế nào thành tựu nhiều thân sai khác ? Nay người đã chết các nhập vị lai thế nào tùy thuận ? Thế nào đời nầy tạo căn lành đời vị lai thọ quả báo ? Thế nào đời nay các ấm nhập nầy tạo các căn lành mà đời sau các ấm nhập khác thọ lấy quả báo ? Thế nào thần thức nầy được thân nơi chỗ kia ? Thế nào các nhập hình thể theo chỗ kia ?”
Đức Phật dạy : “Lành thay lành thay, đúng như lời ông hỏi. Nầy Hiền Hộ ! Nay ông nên chí
tâm lãnh thọ. Ta sẽ vì ông mà nói thần thức đến đi dời dứt.
Nầy Hiền Hộ ! Ví như phong đại không hình sắc chẳng nhìn thấy được , nhưng do nhơn duyên mà hiện hình sắc. Nó hiện hình sắc thế nào ? Như gió thổi động các cây cối, thổi chạm vách núi bờ sông phát ra tiếng, do nhơn duyên lạnh nóng sanh ra gió nên có thể cảm thọ được, mà hình thể gió ấy chẳng thấy được , cũng chẳng thấy được tay chưn mặt mắt ra sao, nhưng trên các hình sắc nó có tác dụng tăng ích hơn lên hoặc đen hoặc trắng.
Thần thức giới nầy cũng vậy, chẳng thể dùng màu sắc thấy được cũng chẳng đến hình sắc, chỉ do chỗ sở nhập làm ra hình thể mà hiện màu sắc.
Tại sao nơi chỗ kia thức giới nầy được tên là thọ xúc pháp giới ư ? Lại thế nào thức giới nầy bỏ thân nầy rồi sau đó thọ ái xúc v.v…ư ?
Ví như phong giới hay dời hơi hương nên biết mùi hoa nầy theo gió thổI lạI nhưng thiệt ra phong giới ấy chẳng mang mùi hoa đến cũng chẳng phải không gió mà mùi hoa bay đến. Hương ấy không có sắc, gió ấy cũng không có sắc, căn ngửi mùi kia cũng
không sắc.
Cũng vậy người chết kia thần thức sắp dời giữ lấy xúc thọ v.v…và các giới rồi có đời kia, do phụ mẫu hòa hiệp rồi sau biết được có thức, do có thức thì biết có thọ có xúc hòa hiệp mà thành.
Ví như người khỏe mạnh thức cường thắng nên có căn ngửi hương, vì căn ngửi hương mạnh nên có hương mạnh. Vì có hai xứ thắng nên có hai sự thắng có thể thấy được. Hai sự thắng là sắc và xúc.
Vì gió kia nhiều nên mùi hoa cũng nhiều. Cũng vậy, vì thức lớn nên thọ cũng lớn, vì thọ lớn nên thức cũng lớn, vì thức lớn nên các giới cũng lớn mà biết đây là thiện đây là ác vậy.
Ví như họa sư đã thành tựu giỏi tốt rồi thì bản họa tùy ý muốn phát xuất để làm liền có thể thành ý hiểu biết tốt nên tùy màu sắc đều làm được . Nhưng họa sư ấy nếu không có màu sắc thì không thể hiện thành màu sắc.
Cũng vậy, thức ấy thành tựu sáu sắc căn : những là nhơn nhãn thấy sắc mà có thức biết, nhơn nhãn thấy sắc ấy thiệt ra không có sắc,. Nhơn nhĩ nghe thanh ấy cũng không có sắc , nhơn tỷ ngửi hương ấy cũng không có sắc, nhơn thiệt nếm vị ấy cũng không có sắc, nhơn thân giác xúc ấy cũng không có sắc, nhơn ý có các đại ấy cũng không có sắc, những cái được biết ấy cũng không có sắc. Nên biết trong cảnh giới cũng không có sắc. Theo thứ đệ như vậy nên biết thức ấy cũng không có sắc. Phải quan sát như vậy.
Nầy Hiền Hộ ! Ông hỏi thức nầy bỏ thân đến đời kia thế nào ?
Nầy Hiền Hộ ! Lúc chưa mạng chung, thức nầy do nghiệp nắm giữ . Lúc nghiệp và mạng ấy hết, ví như người nhập tịch diệt tam muội có thức thân thể, thức thân thể nầy diệt rồi sau nhập ở trong tịch diệt định, cũng vậy, thức nầy ở bên người chết xả thân và các đại xả rồi , chỉ có niệm lực biết như vậy : tôi là mổ giáp ấy. Phàm khi người xả thân có hai thứ
xúc chánh niệm : một là chánh niệm, hai là xúc, mà lúc người ấy mạng chung nên thân
có xúc hai thọ : một là thân thọ , hai là niệm thọ, sau khi chết niệm có xúc.
Lại nữa ông hỏi thức ấy nghĩa là gì ?
Nầy Hiền Hộ ! Như có một hột giống hay mọc mầm , từ trí sanh thức nên gọi là niệm. Thế nên trí hay sanh gọi là thức rồi sau trờ lại thọ nơi xúc. Vì trí biết khổ lạc nên gọi là thức, sau lại thọ thiện ác, cũng có thể biết cảnh giới thiện ác nên gọi là thức, như hột mọc mầm thân ấy thành tựu, nên gọi là thức.
Lại nữa, thức nầy thế nào bỏ thân rồi dời đến kia ?
Nầy Hiền Hộ ! Ví như trong gương soi hiện thân hình, lại như trong khuôn đất đúc ra thân hình,
lại như lúc mặt nhựt mọc hay diệt trừ tối tăm mặt nhựt ấy lặn thì tối trở lại, nhưng mà tối ấy không có chỗ thường định, nhưng tối ấy không có sắc không thọ chẳng thấy được. Cũng vậy thức nầy sanh thân rồi như tối rời sáng, thân sanh cũng vậy, người ấy chẳng thấy thức nầy mà thức thọ thân nầy. Ví như phụ nhơn thọ thai mà chẳng biết thai tôi mang đây
lá nam là nữ, là đen là trắng, các căn đủ hay chẳng đủ, tay chân ngay thẳng hay chẳng ngay, mà kẻ ở tại trong thai hoặc vì ăn nóng chạm xúc nên liền máy động. Cũng vậy, thức nầy đến đi co ruỗi cùng chung với mắt mở nhắm, do các nghiệp được tạo từ trrước nên có những cảnh giới, tức nơi cười nói v.v... các việc phát sanh mà biết được thức an trụ, trong sắc thân. Nhưng các chúng sanh chẳng biết thức ở trong sắc thân ta có hình
thể gì .
Nầy Hiền Hộ ! Vì thức nầy khéo thành tựu nên dời đến các cõi mà chẳng nhiễm trước cá cõi.
Nầy Hiến Hộ ! các cõi và thức cảnh giới sáu căn là sáu giới xứ, có bốn đại xứ, có năm ấm xứ. Ông nên biết cảnh giới thức v.v... như vậy.
Nầy Hiền Hộ ! Ví như người gỗ do một cơ quan mà tác động tất cả việc chạy nhảy và hiện ra các thứ múa men. Ý ông thế nào, có duyên cớ gì mà người gỗ làm các sự ấy ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Chỗ hỏi của đức Như Lai chẳng phải cảnh giới của tôi, tôi không có
trí để đáp được.
Nầy Hiền Hộ ! Sự kia là do sức trí huệ khéo mà làm ra các
sự việc, mà việc khó ấy không có sắc do trí sanh ra. Cũng vậy, thân người nầy do thức khéo mà sanh , mà
các thứ thân do thức làm ra, thức nầy tạo thân nên sanh ra, nhưng thức nầy không thể cùng tận. Như do pháp giới huân tu nên các thân xưa trước ý ức niệm thành tựu. Ví như ánh sáng mặt nhựt soi đến các tử thi tanh hôi dơ dáy ấy chẳng lìa ánh sáng mặt nhựt. Cũng vậy thức nầy sơ sanh tại hôi dơ ăn uống các vật bất tịnh, lại ở trong bụng chó heo mà thọ thai, mà thức nầy chẳng bị ô nhiễm, nhưng hôi dơ ấy chẳng lìa ánh sáng mặt nhựt. Cũng vậy, thức nầy sơ sanh tại hôi dơ ăn uống các vật bất tịnh, lại ở trong bụng chó heo mà thọ thai, mà thức nầy chẳng bị ô nhiễm.
Lại nầy Hiền Hộ ! Thức nầy xả thân rồi tùy theo nghiệp thiện ác đã làm. Nghĩa nầy là sao ? Sau khi bỏ thân thể nầy, thức liền thọ lấy tội phước kia. Ví như phong giới từ đầu núi phát xuất đến rừng chiêm bặc, vì xúc chạm nên gió ấy thọ mùi hương vị diệu rồi đến chỗ hôi dơ chỗ các tử thi, tùy đến nhiều chỗ gió ấy nhận lấy nhiều mùi đến kia thành nhiều. Như gió ấy mang các mùi kia
đi qua, mà gió ấy không sắc. Cũng vậy, xả thân nầy rồi thức ấy mang thiện ác mà dời đến thứ đệ mà đi. Thức ấy muốn dời đi, dường như người chiêm bao biết có tất các vật mà thân chẳng dời bổn xứ. Cũng vậy, có phước cũng sanh, lúc thức muốn dời đi, dường như chiêm bao thấy có các sự vật, nhưng thức ấy chẳng từ yết hầu đi ra, chẳng từ lỗ lông đi ra, lúc thức ấy ra cũng chẳng tìm các lỗ ».
Trưởng giả Hiền Hộ đảnh lễ chưn Phật bạch rằng : » Bạch đức Thế Tôn ! Như trứng gà trứng ngỗng, thức ở trong vỏ, vỏ ấy không có lỗ , làm sao biết có thức riêng khác , thức ấy không vỡ làm sao dời đi ? ».
Đức Phật dạy : » Nầy Hiền Hộ ! Ví như dùng các thứ hoa chiêm bặc v.v… ướp mè đen cho thục rồi ép lấy dầu mà gọi là dầu hoa chiêm bặc v.v… Hơi hương của hoa chẳng phá hoại bột mè mà hơi hương dời vào, hương ấy chẳng dính lấy mè, nhơn nơi mè và hoa cùng
hòa hiệp mà hơi hương dính lấy nhau mà hơi hương chẳng tìm lỗ bên hột mè để chui vào . Nhơn nơi hai thứ hoa và mè mà hơi hương dời đổi. Cũng vậy, thức nầy chẳng phá hoại vỏ trứng mà nó chuyển dời, ông phải biết như vậy.
Lại thức ấy chẳng dời đổi, ví như ánh sáng của mặt nhựt lửa và ma ni bửu v.v…, phải thấy biết như vậy.
Lại thức ấy dời đổi dường như hột giống gieo trong đất mọc ra mầm cây lá hoa quả hoặc trắng hoặc đỏ hoặc đen đều riêng tự có vị lực thành thục, mà địa giới ấy vẫn là một, thủy hỏa và phong vẫn là một. Cũng vậy thức nầy có một pháp giới mà thành tựu thân trong tất cả các cõi rồi sau mới sanh hoặc đen hoặc trắng hoặc đỏ các màu sắc, hoặc bổn tánh cang cường , hoặc bổn tánh điều nhu.
Lại lúc mạng chung, thần thức nầy xả thân rồi thành chủng tử của thân sau sắp làm thành thân thể tay chưn v.v… mà đương thời chưa có thân phần, nó bỏ địa phần mà lấy pháp giới phần, các gìới ấy cùng hòa hiệp với niệm, nhưng niệm ấy do sức tín kính nên hòa hiệp với niệm pháp giới, giữ lấy thức chẳng rời lìa thức mà pháp giới có thể lấy được, cũng chẳng rời pháp giới mà thức có nhơn , nhưng thức ấy được phong lực trợ giúp tự có các pháp giới khác đều là vi diệu, đó là niệm giới, thọ giới, pháp giới, sắc giới vậy.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy thế nào có sắc ?
- Nầy Hiền Hộ ! Phàm có hai thứ sắc : là nội với ngoại. Nội sắc là gì ? Đó là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý vậy. Ngoại sắc là gì ? Đó là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý vậy. Ngoại sắc là gì ? Đó là sắc thanh hương vị xúc và pháp vậy.
-
Nầy Hiền Hộ ! Như người sanh manh ban đêm trong chiêm bao thấy những sắc đẹp tối thắng tối thượng cõi trời, thấy rồi người nầy sanh lòng hỉ lạc tối thắng. Thức giấc không còn thấy, đến sáng nói với mọi người rằng : trong đêm rồi tôi chiêm bao thấy thân hình phụ nữ đoan chánh tối diệu tối thượng lại thấy trượng phu số đông trăm ngàn, tôi còn thấy vườn hoa rừng cây v.v… Người sanh manh ấy thuật rõ cảnh tượng người vật đã được thấy trong chiêm bao
mà mọi người chẳng thấy ? Ý ông thế nào ? Người sanh manh ấy ngủ chiêm bao tại sao được thấy ?
- Lành thay, bạch đức Thế Tôn ! Xin vì tôi mà nói sự ấy, tại sao được thấy.
- Nầy Hiền Hộ ! Bởi nhục nhãn nhơn trí lực mà người sanh manh ấy ở trong chiêm bao được thấy, chẳng phải thiệt mắt thấy.
Nầy Hiền Hộ ! Như người chiêm bao thấy sắc chánh niệm chốc lát, người chết thấy nội sắc cũng như vậy.
Nầy Hiền Hộ ! Ta lại vì ông mà giải nói thần thức người chết dời đổi như chủng tử.
Ví như chủng tử gieo xuống đất thọ lấy tứ đại, thần thức nầy thọ chánh niệm rồi, thọ xúc thọ rồi, thọ thiện và bất thiện rồi, xả thân rồi sau đó mới dời.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào thần thức nầy thọ thiện và bất thiện rồi sau đó thần thức nầy mới dời ?
- Nầy Hiền Hộ ! Ví như ma ni bửu theo bóng sắc mà biến đổi. Nếu để nơi bóng đen thì hình ma ni biến thành đen, nếu để trong bóng trắng thì nó biến thành trắng. Tùy ở chỗ bóng hình thế nào thì ma ni bửu ấy liền biến đồng màu sắc ấy. Thần thức nầy thọ thiện và ác mà liền dời đi cũng như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức nầy thể chất gì mà hiện ?
- Nầy Hiền Hộ ! Thần thức nầy vô hình không có chỗ tụ họp không có chỗ tích trữ, cứu cánh không thể được có chẳng thể nói được. Thần thức nầy có sanh có diệt có khổ não cũng chẳng thể nói được.
Ví như từ hột sanh mầm cũng chẳng thể được. Chẳng phải hột mục hột hư sanh mầm mà hột tốt kia mới sanh mầm được. Ý ông thế nào ? Hột sanh mầm ấy vốn ở chỗ nào ? Là ở tại thân cây hay ở tại lá hay ở tại rễ hoặc ở tại nhánh ? Cũng vậy, thần thức nầy ở tại thân thể không có nương ở chỗ nào, nó chẳng ở tại nhãn, chẳng ở tại nhĩ, chẳng ở tại tỷ thiệt thân hay ý.
Cũng như từ hột sanh mầm, hột sanh mầm ấy lấy thủ thọ làm gốc, vì chỗ kia thủ nên liền thọ thai, thọ thai rồi liền có xúc. Như sanh mầm rồi y theo thời tiết mà có nhánh lá quả liền có hột. Cũng vậy thần thức nầy trước tiên thành tựu thân thể, thân thể được thành tựu rồi thần thức nầy không có chỗ an trụ mà cũng chẳng rời lìa thần thức có thân thể.
Như từ trái chin có hột giống chẳng phải từ trái sống. Cũng vậy, lúc thân nầy mạng chung, từ trong thân thể thần thức nầy hiển hiện. Do thọ hòa hiệp , do ái trói buộc, do niệm nắm lấy cùng hòa hiệp với thiện phan duyên hay với bất thiện phan duyên, do
phong giới giữ lấy, trí huân theo nghiệp, nhơn phụ mẫu hòa hiệp sau đó thần thức hiển hiện.
Ví như gương sáng tốt soi thấy hình mặt, chẳng phải không có mặt mình mà thấy được hình mặt, cũng vậy chẳng phải không gương sáng mà có được hình mặt. Do gương sáng và mặt hai duyên hòa hiệp nên có bóng mặt , mà bóng mặt ấy không có sắc cũng không có thọ không có thức. Tùy theo thân chuyển động thì bóng hình trong gương cũng chuyển động, như thân nói năng dời đổi chuyển động duỗi co cúi ngửa, tùy theo động tác của thân bóng hình trong gương cũng có những tướng dạng như vậy hiển hiện.
Nầy Hiền Hộ ! Ý ông thế nào, bóng mặt ấy do sự gì mà hiện trong gương ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Do thân thể người đối với gương nên có bóng hình hiện trong gương. Tùy theo thân diện có sắc như vậy, bóng hình cũng sắc như vậy, hoặc các căn đủ hay chẳng đủ, trong gương cũng hiện ra bóng hình như vậy.
- Nầy Hiền Hộ ! Như trong gương sáng hiện có bóng hình, do vì có thân người mà bóng
hình hiện ra trong gương sáng. Cũng vậy thân nầy do nơi thức mà có thọ có thủ có thức có các hành tư niệm thành tựu thân thể.
Nói gương sáng ấy là nói duyên nơi phụ mẫu hòa hiệp.
Nên biết như thân diệt rồi không có thức hình, như gương sáng kia đã hiện bóng mặt xong rồi ở nơi nước trong lại thấy bóng mặt, cũng vậy, thức nầy xả thân nầy rồi đến nơi kia lại thọ các ấm khác.
Ví như hột cây ni câu đà hoặc hột cây ưu đàm bà la v.v… dầu hột ấy nhỏ bé mà hay sanh ra
cây nhánh rất lớn. Sanh ra cây nhánh rất lớn rồi hột lại bỏ rời cây ấy mà đến sanh cây chỗ khác. Cũng vậy, thức nầy vi tế không có hình sắc nhứt định sanh ra thân rồi lại bỏ để sanh ra các thân thể khác nữa.
Ví như các thứ hột lớn đại mạch tiểu mạch mè đen v.v… tùy
gieo tại địa phương nào, nó liền ở nơi địa phương ấy bén rễ ? Cũng vậy, thức nầy ở trong thân chúng
sanh dời đến chỗ kia liền có thủ có thọ mà ở tại đó, hoặc thọ phước, hoặc thọ tội, từ đời nầy dời đến đời kia.
Như con ong mật, nó tìm mật trong hoa lấy mật rồi bỏ hoa ấy dời đến hoa khác, hoặc bỏ hoa xấu dời đến hoa tốt, đậu trên hoa rồi, vui say hoa ấy lấy vị mật của hoa. Cũng vậy, thần thức nầy do nhiều thiện căn hoặc thọ thân trời rồi do nghiệp ác hoặc thọ các thân địa ngục súc sanh ngạ quỉ, thọ rồi lại thọ thân khác nữa.
Nhưng thần thức nầy phải quan sát nó thế nào ?
Như bột uất kim hương hay hột hoa hồng lam hay hoa phân đà lợi, hình thể nó tùy theo phần sắc bất định, mà trong hột nó chẳng thể thấy mầm cũng không sắc nhứt định. Nhưng hột ấy xuống đất được nước thấm nhuần liền sanh mầm, có mầm cây rồi sau mới sanh hoa, mà sắc hoa không thể thấy được nơi hột, cũng chẳng rời lìa hột mà có mầm cây và màu sắc.Cũng vậy, thần thức nầy xả thân nầy rồi sắp thành thân kia,
trong khối thịt kia còn chưa có các căn huống là có các nhập, đã không các căn
các nhập đâu được có thiên nhãn
thiên nhĩ và thể chất hương vị xúc để được có biết. Đâu có thể biết rằng tôi ở lúc ấy làm nghiệp như vậy thân thể quá khứ của tôi như vậy, chỉ nhơn nơi thúc mà thọ
Như con tằm, từ thân miệng nó nhả ra chỉ tơ làm kén bọc vấn thân nó rồi bỏ thân tằm đổi thân khác. Cũng vậy, thức nầy sanh thân rồi trở lại tạo nghiệp liền tự diệt thân dời đến nơi kia.
Như hoa sen sanh trong
nước có sắc đẹp hương thơm, nhưng trong hoa không có thể chất nước ấy có thể thấy được. Hoa sen ấy diệt rồi có địa phương nào đặt hột nó trong đó thì có sắc hương ở đó. Cũng vậy, chỗ thần thức nầy được dời, các căn cảnh giới chẳng cùng nó dời thọ cũng không dời, cái được dời ấy chỉ có pháp giới.
Như châu như ý, tùy đến chỗ nào có cần vật gì thì tùy ý được có. Như ánh sáng mặt nhựt tự theo mặt nhựt, mặt nhựt đến đâu ánh sáng ấy cũng đến đó. Cũng vậy, chỗ mà thần thức nầy được dời đến thì pháp giới của thọ tưởng v.v…cũng theo nó chẳng rời lìa.
Lại nữa, thần thức nầy bỏ thân nầy rồi lấy tất cả các hữu tụ họp lại, lấy rồi không thịt không xương dời đến thân sau. Nó lấy các hữu và các xúc v.v…
các việc, dùng thiên nhãn xem thấy thọ và thủ thiện ác.
Ví như những trái tiểu táo, thiên niên
táo, am ma la, ca tì đà v.v…lúc nó thành tựu đều riêng có một vị, hoặc đắng hoặc chua hoặc ngọt hoặc mặn v.v…Những trái ấy chin rồi tùy ở tại địa phương nào thì vị nó ở trong trái ấy. Cũng vậy, thần thức nầy dời đến chỗ nào thì nó tự có xúc theo dõi,
phước và vô phước do hữu và niệm tự theo nó mà dời.
Lại nữa, thần thức nầy lúc xả thân nó nghĩ như vậy : “Nay tôi bỏ thân nầy”, nên gọi niệm thức nầy là thức. Vì biết nghiệp thiện nghiệp bất thiện, biết nghiệp nầy theo tôi mà đi, biết tôi theo nghiệp nầy mà đi, do vì biết như vậy nên gọi là thức. Lại vì thân nầy biết tạo tất cả nghiệp nên gọi là thức.
Ví như phong giới, hoặc có lúc lạnh có lúc nóng, hoặc có lúc theo hôi
mà có mùi, hoặc nhơn thơm mà có mùi, nên biết đó là gió. Cũng vậy, thể chất của thức nầy không có sắc, hoặc do sắc do thủ sắc làm nhơn , hoặc dục thủ làm nhơn, hoặc kiến thủ làm nhơn, hoặc trì giới cầu báo thủ làm nhơn nhẫn đến hữu và thọ, nhơn nơi thọ mà thọ thân thể sắc thành tựu nên gọi là thức”.
Bấy giờ trong đại chúng có một trưởng giả tên Chơn Nguyệt đứng dậy đảnh lễ chưn Phật chắp tay bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Cần phải quan sát sắc ấy, thủ ấy, dục thủ ấy, kiến thủ ấy và giới thủ ấy thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Chơn Nguyệt ! Phàm là người trí muốn biết những điều ông hỏi, thì nên biết như vầy :
Nầy Chơn Nguyệt ! Nếu có thiện sắc hay có phi thiện sắc từ nơi khối thịt phải quan sát gân, máu, mạch và khí mạch, sọ đầu túm lấy óc, ruột già, ruột non, phổi, tim, gan cật, tì, mật các tạng phủ, mỡ thịt, tủy, máu, đàm, nước mũi, nước bọt, hôi thúi dơ bẫn phi thường đáng sợ, long tóc râu ria da thứa gói che tụ họp, tụ rồi tất cả các sắc đều do bốn đại làm thành. Bốn đại ấy nắm lấy sắc để làm thành thân thể nên gọi là thủ sắc.
Nầy Chơn Nguyệt ! Thân thể ấy do phụ mẫu hòa hiệp thành cứng rắn đó là địa đại, chất ướt lỏng đó là thủy đại, hơi ấm nóng đó là hỏa đại, động tác chuyển lay co duỗi đó là phong đại, có bị hay biết đó gọi là thanh hương vị xúc các giới, hay nhớ biết nên gọi là thức.
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào lúc chết xả sắc giới ấy ? Thế nào thức ấy ra khỏi từ thân ấy ? Thế nào thân ấy lúc xả rồi nó biết như vầy : đây là thân của tôi ?
-
- Nầy Chơn Nguyệt ! Thọ thân nầy lúc đương còn, thân nghiệp đã hết thì xả các đại.
Ví như đem sữa hòa với nước dùng lửa đun nấu. Do vì được hơi nóng mà sữa và nước đều riêng biệt, nhưng nước ấy có vị mỡ nhờn, nó không có sắc. Cũng vậy, người chết thân khác, các đại khác, thần thức cũng có khác, nhưng thần thức ấy nắm lấy các đại và nắm lấy pháp giới rồi dùng pháp giới huân nơi niệm nắm lấy thiện và bất thiện đến nơi đời kế sau.
Ví như thuốc dầu tô ma ha ca lương na, lấy dầu tô cùng các thứ vị thuốc dùng lửa đun nấu, trong ấy hoặc có cay có đắng, hoặc có chát có mặn, hoặc có lạt có ngọt; nấu lấy các vị rồi nhập vào dầu tô thành có các vị sắc hương v.v… dầu tô ấy bỏ dời tự thể mà thành vị thuốc.
Cũng vậy, xả thân rồi thần thức nắm lấy thiện và ác và nắm lấy pháp giới dời đi đến đời kế sau.
Nói thể chất dầu tô là để ví dụ cho thân thể. Nói các vị thuốc kia hòa hiệp tự lập là ví dụ các căn. Nói dầu thuốc sắc hương vị xúc là nói ví dụ thức ấy dời đi.
Nói sắc sai khác là thiện sắc và ác sắc. Nếu uống thuốc vào thân mà tiêu hóa lành mạnh là dụ cho thiện nghiệp. Nếu uống thuốc dầu tô ấy vào thân mà hiện ra héo vàng là dụ cho ác nghiệp.
Nên quán sát thức nầy như thuốc dầu tô ma ha ca lương na.
Như dầu tô nắm lấy sắc vị của các món thuốc, lấy xong thành thuốc dầu tô ma ha ca lương na, nhưng dầu tô không có tay
chưn vậy, thức nầy xả thân rồi và xả các giới chỉ lấy pháp giới, thủ thọ rồi mang lấy thiện và ác mà đi.
Nầy Chơn Nguyệt ! Người ấy xả thân rồi ở đời kế sau được chánh niệm được thiện niệm, hoặc thấy Lục Dục Thiên, hoặc thấy thập lục đại địa ngục, hoặc thấy thân thể các căn đầy đủ. Lúc ấy họ biết như vầy: đây là thân của tôi vậy.
Lúc người ấy mạng chung, họ nhớ thấy các sự tướng : hoặc thấy xe cộ vi diệu, hoặc thấy vườn rừng vi diệu, trong vườn rừng ấy có các thứ cây mới sanh sum suê khả ái, hoặc có ao nước vi diệu, hoặc thấy các sự thành tựu, thấy rồi họ sanh lòng hoan hỉ rồi họ an ổn như pháp thọ sanh mạng chung, mà thần thức của họ dường như cỡi ngựa, nên quan sát như vậy.
Nói cỡi ngựa ấy, ví như có người ở nơi chiến trường, thân mặc giáp chắc tốt, giỏi cầm cương ngựa ruỗi chạy nhanh lẹ. Cũng vậy, thần thức nầy mặc giáp phan duyên
thiện quả báo nhanh lẹ, cỡi hơi thở ra vào, xả các giới các nhập, xả rồi thọ sanh Phạm Thiên nhẫn đến Sắc Cứu Cánh Thiên, các xứ vi diệu vậy”.
Bấy giờ trong đại chúng có một đại Bồ Tát, Vương Tử Đại Dược, đứng dậy chỉnh y phục chắp tay bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức nầy từ thân nầy dời đi, nó sẽ có màu sắc gì ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy Vương Tử Đại Dược ! Sự nghĩa được ông hỏi ấy rất sâu chỉ có chư Phật là biết được thôi, thức ấy trừ Phật ra không còn có
ai biết được”.
560
Trưởng giả Hiền Hộ bạch rằng : “ Bạch dức Thế Tôn ! Rất hi hữu Vương Tử Đại Dược nầy có thể hỏi sự thậm thâm tối vi tối tế thậm thâm thâm mật”.
Đức Phật dạy : “Đúng như vậy. Nầy Hiền Hộ ! Vì Đại Dược đây thuở xưa đã từng cúng dường Phật Tì Bà Thi gieo trồng căn lành vậy.
Nầy Hiền Hộ ! Xưa năm trăm đời Vương Tử Đại Dược đây từng làm ngoại đạo, thuở ấy đã từng hỏi nghĩa của thức nầy, nhưng ông ấy cũng chẳng biết được thức nầy đến đâu đi đâu. Nay
ta sẽ vì ông ấy mà quyết rõ nghĩa đó”.
Trưởng giả Hiền Hộ khen Vương Tử Đại Dược : “ lành thay,
lành thay, Vương Tử Đại Dược có trí tuệ quảng đại không có biên tế mới có thể hỏi nghĩa thậm thâm nơi đức Thế Tôn. Nay tôi khuyến thỉnh Đại Dược xin ngài hỏi đức Thế Tôn về nghĩa ấy. Chớ để ông Chơn Nguyệt vui sướng chút việc mà hỏi Phật trước. Tại sao ? Vì ông ấy luôn luôn não loạn chẳng khéo hỏi đức Thế Tôn. Chỉ do đức Phật Thế Tôn xuất thế rất khó, nơi thế gian mà tụ họp pháp hội như vầy lại càng khó , nên
nay Ngài phải khuyến thỉnh đức Thế Tôn giải thích nghĩa xứ thậm thâm ấy”.
Đại Dược Bồ Tát chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, thấy đức Thế Tôn vui vẻ thanh tịnh như đầu mùa thu hoa sen vừa nở. Thấy rồi lòng vui mừng bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Vì tôi khát
ngưỡng nên thích nghe
chánh pháp, lo sợ đức Thế Tôn chẳng nói đủ pháp yếu cho tôi, chẳng quyết nghi cho tôi. Lại lo sợ chẳng bao lâu đức Thế Tôn sẽ nhập Niết bàn. Lại lo sợ các chúng sanh chẳng biết nghiệp báo thiện ác hằng thọ sanh tử phiền não chẳng bỏ rời được”.
Đức Phật nói : “ Nầy Đại Dược ! Thuở xa xưa, vì một bài kệ mà ta gieo mình từ gộp núi lớn để bố thí, ta lại thật hành vô lượng vô biên khổ hạnh khó làm trăm
ngàn ức các thứ sự việc.
Nầy Đại Dược ! Ông có điều gì nghi nên hỏi Phật chớ có ngần ngại, ta theo ý ông mà
phân biệt giải nói”.
Đại Dược Bồ Tát lại bạch hỏi : “Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức ấy màu sắc gì ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy Đại Dược ! Thức ấy như lửa ảo thuật sư, như bóng người trong
nước, như luồng gió vô định, không có sắc nhứt định như chúng sanh mắt thấy hư không giống như ái.
- Bạch đức Thế Tôn ! Ái ấy thế nào ?
- Nầy Đại Dược ! Ví như người bắn cung, do có nhãn
căn nên thấy lúc tên bay đi, như người cầm gương sáng, trong gương thấy bóng mặt mình, nếu bỏ gương thì chẳng thấy bóng. Cũng vậy, thức nầy từ thân người dời đi, thức giới ấy chỉ thấy tội phước.
Như người sanh manh chẳng thấy mặt nhựt lúc mọc lúc trưa lúc chiều, ban đêm cũng chẳng thấy mặt nguyệt lúc mọc lúc lặn. Cũng vậy, thần thức nầy ở trong thân cũng
không thấy được.
Nầy Đại Dược ! Trong thân nầy, về ái trước và thủ cùng tưởng trí ấy chỉ có thức . Thân nầy chỗ có hòa hiệp tụ tập các giới các nhập các ấm v.v…những nhãn nhĩ thiệt và sắc thanh hương vị v.v… các thọ hoặc khổ hay lạc ý v.v… bao nhiêu những sắc ấy, đây gọi là thức vậy.
Nầy Đại Dược ! Như người do thiệt căn mà biết các vị : hoặc đắng hoặc cay, mà lưỡi kia có sắc còn các vị thì không sắc. Trong thân nầy những xương tủy máu thịt là có sắc còn cảm thọ kia thì không sắc, đây gọi là thức. Là cái lãnh thọ tội phước vậy”.
Trưởng giả Hiền Hộ đảnh lễ chưn Phật rồi bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Cái thọ tội phước ấy là ai?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Hiền Hộ ! Ông lắng nghe nhận kỹ, ta sẽ nói cho ông. Người thấy chơn thiệt thì họ thấy thức nầy, mà thức nầy chẳng thể được thấy như trái am bà la trong bàn tay có thể thấy được. Thức nầy chẳng ở nơi cảnh của nhãn căn, cũng chẳng phải dùng nhãn căn thấy được nó không có sắc thấy được.
Như hằng hà sa số Như Lai thấy thức nầy ta cũng vậy, chỉ vì hàng phàm phu ngu si chẳng biết chẳng thấy nên ta vì họ mà nói chỉ có tên thức chẳng thể thấy nó được.
Nầy Hiền Hộ ! Thức nầy thọ tội phước, ta sẽ nói cho ông, ông
nên lắng nghe.
Ví như có người mắc âm quỉ, hoặc dương điên quỉ? hoặc Càn Thát Bà quỉ, hoặc Thiên Thần. Nầy Hiền Hộ ! Ý ông thế nào, trong mình người bịnh ấy có thể thấy được các âm quỉ thần ấy chăng?
- Bạch đức Thế Tôn ! Quỉ thần ấy ở trong thân người bịnh hoặc nội hoặc ngoại thiệt không thể thấy, ở trong thân người bịnh các quỉ thần ấy cũng không có sắc.
- Nầy Hiền Hộ ! Như thiên thần tối thắng ở trong thân người bịnh lấy hoa hương tối diệu hương hoa hương bột và các vòng hoa, đến ăn uống đều lấy món tối thượng thù thắng. Thiên thần linh ở trong thân người bịnh thọ tế tự tối thắng, hoặc thọ vương vị hơặc thọ giàu có nhuận thân người bịnh khiến khoái lạc hoan hỉ. Thần thức nầy thọ phước quả báo cũng như vậy, lúc thân nầy lấy nghiệp lành tối thắng, do thức nên thọ hoặc lấy vương vị trị dân tự tại, hoặc lấy giàu có làm nhà trưởng giả, hoặc lấy quả báo chư Thiên.
Nầy Hiền Hộ ! Như quỉ dơ hôi Tỳ Xá Xà nương ở trong thân người bịnh lấy các vật dơ hôi, hoặc thọ tế tự tại nhà xí, được tế tự rồi sanh vui mừng. Người bịnh bị quỉ lực nên thường thích chỗ hôi dơ, vì lòng ưa thích nên khi được vật hôi dơ thì sanh vui mừng. Thần thức nầy thọ ác quả báo cũng như vậy, lúc thân nầy lấy nghiệp ác ti tiện, do thức nên thọ, hoặc sanh nhà bần tiện, hoặc sanh nhà hạ liệt, hoặc sanh loài ngạ quỉ, hằng ăn vật hôi dơ lòng sanh vui mừng.
Nầy Hiền Hộ ! Như thiên thần kia linh, dầu không sắc hình mà thọ tế tự tối thắng tối thượng. Cũng vậy, thức nầy dầu không sắc mà thọ quả báo tối thắng tối diệu theo nghiệp thọ thân.
Nầy Hiền Hộ ! Như quỉ Phú Đơn Na kia dầu không sắc mà thích ăn các vật dơ hôi. Cũng vậy, thức nầy ở tại nghiệp bất tịnh thì hằng ưa chỗ hạ tiện.
Nầy Hiền Hộ ! Như quỉ thần kia ở trong thân người mà không có sắc. Thức nầy thọ quả báo thiện hay bất thiện cũng như vậy ?”
Đại Dược Bồ Tát bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức thọ dục thế nào ?”.
Đức Phật dạy : “Nầy Đại Dược ! Sẽ thấy có người người hòa hiệp nên sanh ý tưởng dục.
Ví như dùng gỗ cọ ra lửa, do sức nơi thân người rồi sau mới phát lửa. Dục thọ ở nơi dục do nơi nam tử ý cảm nơi xúc rồi sau sanh dục sự.
Ví như do nơi hoa thành hột, nhưng trong hoa ấy ban sơ không có hột, vì có hoa nên sau hết hột có thể thấy được. Cũng vậy, thân nầy sanh rồi sau thức ấy có thể thấy được, mà trong thân ấy cũng không có thức có thể thấy. Do có thức nên trong thân có xương tủy máu thịt v.v…các vật bất tịnh.
Ví như hột giống kia, gieo trồng rồi sanh hoa, do hoa
mà thọ sắc hương vị v.v…đã thành quả rồi trở lại diệt. Cũng vậy, thức nầy thành thân rồi cũng trở lại diệt, chỉ mang lấy thiện ác thọ tâm tưởng ý thức đến nơi đời khác.
Như nam nữ kia hòa hiệp sanh lòng hoan hỉ. Nhơn họ hòa hiệp trì nhau xuất bất tịnh, xuất bất tịnh rồi trở lại rời lìa nhau. Nhưng hai kẻ kia lúc thọ lạc lòng sanh hoan hỉ, đã thọ dục rồi không còn ý tưởng dục trở lại rời lìa nhau, hoặc sanh chán lìa dục tưởng. Cũng vậy, thức nầy do thân phan
duyên sanh lòng hoan hỉ tăng trưởng thọ tưởng.
Dường như thân người do thấy nữ sắc liền sanh dục tưởng cùng tham trước nơi thân, thọ dục xong rồi trở lại chán lìa bỏ đi . Cũng vậy, thức nầy là thọ thân rồi trở lại chán lìa bỏ đi.
Lại nữa, do dục sự của phụ mẫu cảm nghiệp phan duyên thọ thân của trung ấm, thức hữu nầy theo trung ấm nhập vào dục, do đó thành tựu thân thể. Nhưng nghiệp ấy không có sắc, dục sự của nam nữ ấy cũng không có sắc, chỉ do thọ phan duyên nên
sanh dục tưởng mà bèn có sắc, nên gọi là thọ dục tưởng vậy. Sắc thọ dục tưởng nên gọi là thọ dục.
Lại nữa, nầy Đại Dược ! Do trì giới phan duyên nên thọ quả báo sau. Sự ấy thế nào ta sẽ nói cho ông .
Nói trì giới là : Thân dứt sát sanh chẳng trộm vật của người chẳng làm tà dâm, miệng chẳng vọng ngữ chẳng uống rượu đấu loạn, cẩn thận chẳng phóng dật, đây là phan duyên : muốn thọ đời sau lấy quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm bèn thọ thân đời sau hoặc thân Trời thân Người, mà họ có thiện nghiệp hoặc hữu lậu hoặc vô lậu thành tựu các ấm v.v…nhuận chỗ ấy, thức thọ trì các nghiệp thiện và bất thiện thành tựu, thức v.v…thọ các dục sự rồi trở lại tự chán lìa. Thế nên gọi đây là do trì giới nên thọ quả báo sau vậy”.
Đại Dược Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Thức nầy thế nào thọ thân Trời ? Thế nào thọ thân địa ngục ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Đại Dược ! Nay ông lắng nghe ta sẽ vì ông giải nói sự ấy.
Nầy Đại Dược ! Thức nầy do pháp giới trì nên sanh tâm
thấy cung trời, nhưng thấy cung trời ấy chẳng phải là nhục nhãn thấy, thể chất được thấy của sự thấy ấy tức là thọ nhơn nên gọi là kiến thọ nhơn vậy. Thiên cung được người nầy thấy đó tức là phước phan duyên thiện thành tựu liền thấy Thiên cung , ở trong cung trời cõi Dục thọ các thứ vui ngũ dục, thấy như vậy rồi thì sanh dục tâm, do như vậy bèn khởi niệm trí rằng : Nay tôi cần phải đến chỗ ấy. Họ sanh dục tâm như vậy rồi phát sanh nhiễm trước niệm tâm thủ lấy hữu tướng.Họ lại thấy thân cũ của họ vất bỏ trong rừng thây ma. Thấy rồi họ nghĩ rằng : Đây là tâm thức cõi trời của tôi, đã tu tạo thiện căn rồi tôi nên muốn hướng đến cõi trời.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy đã chấp trước thấy cũ như vậy, tại sao nó chẳng liền nhập vào thây cũ ?
- Nầy Đại Dược ! Ví như có người cạo râu tóc rồi, người ấy thấy râu tóc đã rơi xuống đất thì nghĩ rằng : râu tóc nầy của tôi đen tốt thơm sạch nguyện nó lại dính trên đầu tôi như cũ. Nầy Đại Dược ! Ý ông thế nào ? Râu tóc ấy có thể lại dính trên đâu họ chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Không được.
- Nầy Đại Được ! Cũng vậy, người ấy thần thức đã bỏ thân họ rồi mà muốn nó trở lại nhập vào ở trong thân cũ thì không bao giờ có.
-
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức nầy rất vi tế không có sắc chánh quảng đại vô biên , sao nó có thể đến thân đại bạch tượng, nó lại có thể phá thân kim cương, nó đã không có sắc ngàn voi sao người sanh ra bèn có được sức ngàn voi ?
-
- Nầy Đại Dược ! Ví như phong giới không có sắc thấy được, mà lúc gió ấy phát xuất có thể làm ngã gãy lở sập cả thảy, cho đến núi chúa Tu Di nó
cũng có thể làm lở sụp.
-
Nầy Đại Dược ! Ý ông thế nào ? Gió ấy có sắc gì ? Núi ấy lại là sắc gì ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Gió ấy mềm yếu lại không có sắc thân, nên thấy biết như vậy.
-
- Nầy Đại Dược ! Gió ấy thể chất yếu mềm lại không sắc thể. Cũng vậy, thức ấy cũng mềm yếu lại không sắc thân nhưng nó không ngại có thể thành tựu thân lớn, có thể thành tựu thân rất nhỏ, mà nơi thân muỗi , thân với thức ấy vẫn một thứ không khác.
Nầy Đại Dược ! Ví như ánh sáng đèn đuốc nhỏ hoặc trong nhà hoặc bên vách nó có thể diệt phần lớn tối tăm. Cũng vậy, thức nầy vi tế mà có thể thành tựu hình sắc nhỏ hay lớn, nhưng mà đều do nghiệp mà thọ vậy.
- Bạch đứcThế Tôn ! Nghiệp ấy có sắc gì có thể gì, bao nhiêu thứ nhơn do phải nên quan sát ?
- Nầy Đại Dược ! Cảnh giới của các nghiệp ấy là vi diệu thọ khoái lạc, thọ uống ăn cõi trời.
-
Ví như có hai người cùng du hành đến đồng hoang, trong hai người ấy, một người bỗng gặp nước trong mát và được uống, và người kia đói khát mạng chung, mà nước ấy chẳng thể tự nó chảy vào miệng người kia, nó cũng
không ở nơi người nầy mà chẳng cho uống, chỉ do vì nhơn duyên nên một người gần nước trong mát và uống, còn người kia chẳng gặp nên đói khát và chết. Cũng vậy, các pháp thiện và bất thiện cũng như vậy.
Ví như đêm trăng và đêm tồi, pháp thiện và bất thiện nên thấy biết như vậy.
Ví như trái sống khi chín rồi biến đổi thành sắc khác, nhưng sắc ấy do sức nóng nhiều khiến nó thành thục. Cũng vậy, thân nầy do sức phước nhiều nên sanh vào nhà
đại trưởng giả có dư của báu, hoặc hiện thọ khoái lạc tại thiên cung, hiển hiện thọ khoái lạc cõi trời rồi sau đó mất thế lực tự tại cõi trời thì lại hiển hiện thế lực vô phước.
Ví như hạt giống gieo nơi đất sau khi mọc lên cây, trên cây ấy không hiện có hột giống ấy, chẳng có nơi cành cây chẳng hiện trong thân cây
cũng không có ai cầm hột giống ấy đặt trên cây ấy, cũng chẳng ở nơi rễ cây hiện hột giống ấy. Cũng vậy, các nghiệp nầy hoặc thiện hoặc ác nương ở trong thân mà chẳng hiển hiện.
Như từ hột giống rồi sau có hoa, từ hoa rồi sau có trái có hột. Hoa ấy chẳng ở trong hột giống, trái hột ấy chẳng ở trong hoa, trái hột và hoa không có
hai thể riêng. Cũng vậy, trong thân nầy có nghiệp, từ nghìệp có thân. Thân ấy chẳng ở trong nghiệp thấy được, nghiệp ấy chẳng ở trong thân thấy được.
Như hoa thành thục rồi mới thành hột. Cũng vậy, thân thành thục rồi các nghiệp có thể hiện.
Như hột giống có chỗ đất để gieo, có chỗ đất để gieo rồi thì có hoa, có
hoa rồi sau đó mới có hột. Cũng vậy thân nầy có chỗ sanh rồi ở nơi chỗ ấy thấy thiện thấy ác thì có nghiệp hiện, nhưng các nghiệp căn ấy không có sắc.
Như người do thân hình mà có bóng, mà bóng ấy không định không sắc trở lại theo người mà đi, nhưng bóng ấy chẳng nương ở nơi người, cũng chẳng rời thân có bóng hiển hiện. Cũng vậy, thân nầy trong ấy hiện thiện ác theo nhau mà chẳng lìa nhau, thân đến đâu nghiệp theo đó, nghiệp ấy theo khắp nơi chẳng rời thân mà có, cũng
chẳng rời thân mà nghiệp ấy có thể hiện.
Như các vị thuốc hoặc cay hoặc ngọt hoặc đắng, người uống thuốc rồi có thể trừ các bịnh, đã trừ các độc của thân thành êm dịu hiện nhan sắc tốt, mọi người nhìn thấy có thể biết được hình tướng, người nầy thân gặp thuốc hay, nhưng vị và công lực của thuốc ấy không có sắc, màu sắc của vị lực thuốc ấy chẳng thể hiển hiện, chỉ ở thân người hình sắc đoan chánh có thể thấy thôi. Cũng vậy, thiện nghiệp nầy không có sắc mà đến thân người, do ăn uống tốt, mặc y phục tốt, các căn đầy đủ nên thân thọ khoái lạc, lại dùng vàng bạc châu báu trang
nghiêm thân nầy nên có hình thế giàu sang. Đây đều là cảnh giới của thiện nghiệp vậy.
Người mất thế lực không có phước nghiệp nghèo cùng khốn khổ xa lìa của cải thường thiếu thốn rình tìm vật người khác ăn uống thô xấu đi đứng nằm ngồi đều hạ liệt không phước báu tốt dưỡng dục thân thể sanh ra xấu xí. Đây đều là cảnh giới của nghiệp bất thiện vậy.
Ví như gương sáng, do nó sáng nên hình mặt dẹp xấu hiển hiện rõ ràng, mà trong
gương ấy không có sắc,. Cũng vậy, do sức thiện ác nên thức nầy hiển hiện trong thân người, hoặc trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Nầy Đại Dược ! Các nghiệp nầy theo nơi thức nầy. Ông nên biết như vậy, thấy như vậy”.
Đại Dược Bồ Tát bạch rằng :” Bạch đức Thế Tôn ! Thức nầy thế nào thành tựu các căn thọ thân to lớn, thế nào xả các căn ?”.
Đức Phật dạy : “ Nầy Đại Dược ! Ví như thợ săn vào núi rừng sâu, tay cầm cung cứng liền lấy thuốc độc thoa vào đầu mũi tên để bắn voi lớn. Giọt thuốc ấy dầu thấm vào da voi đến máu chút ít mà khí độc lưu hành khắp trong thân đến các căn làm cho
các căn bế tắc rút gãy các lóng đốt làm cho máu biến sắc khắp các thân phần thì voi chết, khí độc ấy trở lại đến chỗ nó vào thì tự nhiên thoát ra ngoài.
Nầy Đại Dược ! Độc dược ấy chỉ có một giọt rất nhỏ ít, thân voi ấy rất lớn, mà khí độc dời đi khắp thân thể.
Cũng vậy lúc thần thức nầy xả thân xả các căn xả các giới theo thứ đệ cũng như vậy.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức nầy thế nào thọ thân to rộng mà chẳng sợ khó?
-
- Nầy Đại Dược ! Như núi Tu Di cao tám vạn bốn ngàn do tuần. Núi ấy có hai Long vương : Nan Đà và Bạt Nan Đà vấn núi ấy ba vòng giữ chặt núi ấy. Hơi thở của Long vương ấy nước biển không chứa nổi. Khi Long vương ấy thở hút thì núi Tu Di rung động. Các Long vương Bà Tu Cát và Đức Xoa Ca thân thể to rộng nhiều sức lực cũng như vậy. Ý ông thế nào, thức của Long vương cùng thức của con muỗi có đồng bằng nhau chăng ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Như chỗ tôi hiểu thì thức của Long vương và thức của con muỗi đồng bằng nhau không khác.
-
- Nầy Đại Dược ! Như có một thứ độc tên bà ta na bà, lại có một thứ độc tên ha la ha la, đem thứ độc nầy chừng bằng hột cải cho Long vương ấy ăn thì liền chết.
-
Nầy Đại Dược ! Độc của rồng, độc của thuốc, ý ông thế nào, độc rồng sức lớn hay độc thuốc sức lớn ?
- Bạch đức Thế Tôn ! Như chỗ tôi hiểu thì độc rồng nhiều mà độc thuốc ít.
-
- Nầy Đại Dược ! Cũng vậy dầu có thân to rộng sức lực địch chín ngàn voi
cũng không ngại, thức ấy dầu nhỏ không sắc không thể thấy, mà thức ấy do nghiệp duyên thành tựu thân lớn.
-
Ví như hột ni câu đà dầu nhỏ cũng không ngại, nó có thể thành tựu cây to nhánh nhóc
dài rộng che cả khu đất lớn. Ý ông thế nào, hột và cây ấy hình thể to nhỏ ra sao ?
-
- Bạch đức Thế Tôn ! Như đem lỗ lông so với hư không.
-
- Nầy Đại Dược ! Nhưng cây ấy chẳng thể thấy tại trong hột, mà cũng chẳng rời hột sanh ra cây.
-
Như hột nhỏ ấy sanh cây to rộng, cũng vậy, thức nầy không sắc mà thành tựu sắc to lớn, thân thể do thức mà hiện ra sắc, rời thức không có sắc thân hiển hiện để được thấy.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy bền chắc như kim cương sao lại thành tựu thân yếu mềm ?
- Nầy Đại Dược ! Ví như có người nghèo cùng bỗng gặp như ý bửu châu,.
cầm được châu ấy rồi mọi sự đều như ý, nào lâu đài nào ao suối cổng cao vườn rộng cây trái sum suê bông hoa đua đẹp của cải vật dụng đều tùy tâm tự nhiên hóa hiện. Các sự vật ấy mỏng manh mau hư chóng tan. Lúc sau bỗng thất lạc bửu châu như ý ấy, tất cả sự vui đẹp trên liền diệt chẳng còn.
Nầy Đại Dược ! Bửu châu như ý ấy rất kiên cố có công năng như vậy, dầu ngàn kim cương phá nó cũng chẳng làm hư nó được, có nó thì tùy ý muốn đều quả toại cả.
Cũng vậy, thức nầy bền vững như kim cương, mà thân được thọ thì chẳng bền vững.
- Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy yếu đuối làm sao phá được thân cứng rắn mà dời đến thân sau ?
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Đại Bảo-Tích
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment