Nam mô Hoa-Tạng Giáo-Chủ Tỳ-Lô-Giá-Na Phật
Biến Pháp-giới Tam-Bảo
Nam-Mô Bát-Nhã Hội Thượng Phật Bồ-Tát Ma-Ha-Tát (3 lần)
KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
QUYỂN 2
PHẨM VÃNG SANH
THỨ TƯ
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật có thể tu tập tương ứng như vật, những vị ấy từ cõi nào chết rồi sanh đến cõi nầy, từ cõi nầy chết rồi sẽ sanh về đâu?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Những đại Bồ Tát ấy hoặc từ cõi khác sanh đến cõi nầy, hoặc từ cung trời Đâu Suất sanh xuống đây, hoặc có vị vẫn từ nhơn gian sanh trở lại nhơn gian đây.
Nầy Xá Lợi Phất! Những Bồ Tát từ cõi khác sanh đến đây mau tương ứng với Bát nhã ba la mật. Vì tương ứng với Bát nhã ba la mật nên khi sanh đến cõi nầy, những pháp thâm diệu đều hiện ra lại tương ứng với Bát nhã ba la mật. Bồ Tát nầy sanh đến đâu cũng thường gặp được chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Có bực Bồ Tát nhất sanh bổ xứ từ cung trời Đâu Suất sanh xuống đây. Bồ Tát nầy chẳng mất sau môn ba la mật, tùy sanh đến chỗ nào, tất cả môn đà la ni, tất cả môn tam muội đều hiện ra.
Nầy Xá Lợi Phất! Có bực Bồ Tát từ nhơn gian sanh trở lại nhơn gian, Bồ Tát nầy căn tánh chậm lụt, trừ bực bất thối chuyển, chẳng thể mau chóng tương ứng với Bát nhã ba la mật, các môn đà la ni, các
môn tam muội chẳng thể mau hiện ra.
Nầy Xá Lợi Phất! Như lời ông hỏi, đại Bồ Tát tương ứng với Bát nhã ba la mật, từ cõi nầy chết sẽ sanh về đâu? Ông nên biết rằng những đại Bồ Tát nầy từ một Phật độ chết sẽ sanh đến một Phật độ khác, luôn luôn chẳng xa rời chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát chẳng dùng phương tiện mà nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và cũng thật hành sáu ba la mật. Vì đắc thiền nên đại Bồ Tát nầy sanh lên Trường Thọ Thiên. Rồi từ cung trời ấy sanh xuống nhơn gian gặp chư Phật. Hàng Bồ Tát nầy căn tánh không được lanh lẹ.
Nầy Xá Lợi Phất! Có bực đại Bồ Tát nhập sơ thiền đến tứ thiền và cũng thật hành Bát nhã ba la mật, vì chẳng dùng phương tiện nên xả thiền sanh xuống Dục giới. Hàng Bồ Tát nầy căn tánh cũng châm lụt.
Nầy Xá Lợi Phất! Có bực đại Bồ Tát chập sơ thiền đến tứ thiền, nhập từ tâm đến xả tâm, nhập hư không xứ định đến phi phi tưởng xứ định, tu tập tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, thật hành thập lực, đại từ, đại bi. Hàng đại Bồ Tát nầy dùng sức phương tiện chẳng sanh theo sắc thiền, chẳng sanh theo vô lượng tâm, chẳng sanh theo sắc định, mà sanh nơi nào có Phật xuất thế, thường chẳng rời hạnh Bát nhã ba la mật. Bồ Tát nầy sẽ thành Phật trong Hiền kiếp.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát nhập sơ thiền đến tứ thiền, nhập từ tâm đến xả tâm, nhập hư không xứ định đến phi phi tưởng xứ định. Vì dùng sức phương tiện nên chẳng sanh theo thiền mà sanh trở lại Dục giới để thành tựu chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát nhập sơ thiền đến tứ thiền, nhập từ tâm đến xả tâm, nhập hư không xứ định đến phi phi tưởng xứ định. Vì dùng sức phương tiện nên chẳng sanh theo thiền mà sanh vào các cõi trời Dục giới, như cõi Tứ Vương hoặc cõi Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa để thành tựu chúng sanh trong các cõi
nầy và cũng để thanh tịnh Phật độ, gần gũi chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, dùng sức phương tiện nhập sơ thiền, ở cõi nầy mạng chung sanh trời Phạm Thiên làm Đại Phạm Vương, rồi đến các Phật độ mới thành Vô thượng Chánh giác mà chưa chuyển pháp luân thời khuyến chuyển pháp luân.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát bực nhứt sanh bổ xứ thật hành Bát nhã ba la mật, dùng sức phương tiện nhập sơ thiền đến tứ thiền, nhập từ tâm đến xả tâm, nhập hư không xứ định đến phi phi tưởng xứ định, tu tứ niệm xứ đến bát thánh đạo, nhập không tam muội, vô tướng tam muội, vô tác tam muội, chẳng sanh theo thiền mà sanh nơi có Phật xuất thế, tu phạm hạnh, hoặc sanh cung trời Đâu Suất, lúc mạng chung chẳng mất chánh niệm, đủ thiện căn, cùng vô số trăm ngàn ức vạn chư Thiên cung kính vây quanh
đến sanh nơi đây mà được thành Vô thượng Bồ đề
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát được lục thần thông chẳng sanh Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, mà từ một Phật độ, cung kính cúng dường tôn trọng tán thán chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát du hí thần thông từ một Phật độ đến một Phật độ. Nơi nào mà Bồ Tát nầy đến thời không có Thanh Văn và
Bích Chi Phật thừa, cũng không có danh từ Nhị thừa.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát du hí thần thông từ một Phật độ đến một Phật độ, chỗ nào có Bồ Tát nầy đến thời cõi đó thọ mạng vô lượng.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát du hí thần thông từ một Phật độ đến một Phật độ, nơi không có Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng thời tán thán công đức của Phật, Pháp và Tăng. Chúng sanh
nơi đó thời được nghe danh của Phật, của Pháp và của tăng, nên sau khi mạng chung sanh trước chỗ chư Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc sơ phát tâm được sơ thiền đến tứ thiền, được tứ vô lượng tâm, được tứ vô sắc định, tu tứ niệm xứ đến bát thánh đạo nhẫn đến mười tám pháp bất cộng. Bồ Tát nầy không sanh trong tam giới mà thường sanh nơi chúng sanh có lợi ích.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc sơ phát tâm thật hành sáu ba la mật lên ngôi Bồ Tát được bực bất thối chuyển.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc sơ phát tâm bèn được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân, sau khi đem sự lợi ích cho chúng sanh xong
liền nhập Niết Bàn, chánh pháp trụ thế hoặc một kiếp hoặc dưới một kiếp.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc sơ phát tâm liền tương ứng với Bát nhã ba la mật, cùng vô số trăm ngàn ức Bồ Tát từ một Phật độ đến một Phật độ để thanh tịnh Phật độ.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật được tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, rồi du hí trong đó: nhập sơ thiền, xuất sơ thiền, nhập diệt tận định, xuất diệt tận định, nhập nhị thiền nhẫn đến tứ thiền, nhập diệt tận định, xuất diệt tận định, nhập hư không xứ định nhẫn đến phi phi tưởng xứ định, nhập diệt tận định. Đó là đại Bồ Tát dùng sức phương tiện, lúc thật hành Bát nhã ba la mật, nhập siêu việt định.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, tu tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng mà chẳng trụ lấy những quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La
Hán, Bích Chi Phật. Bồ Tát nầy dùng sức phương tiện để độ chúng sanh nên phát khởi bát thánh đạo phần, đem bát thánh đạo phần nầy làm cho chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn đến quả Bích Chi Phật.
Nầy Xá Lợi Phất! tất cả những quả A La Hán, Bích Chi Phật và trí huệ của các bực nầy đều là vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ Tát đây.
Nầy Xá Lợi Phất! Phải biết rằng đại Bồ Tát như đây thật hành Bát nhã ba la mật như vậy, an trụ trong bực bất thối chuyển như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát an trụ sáu ba la mật mà trang nghiêm cung trời Đâu Suất. Nên biết đây là Bồ Tát trong Hiền kiếp.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát tu tứ thiền đến mười tám pháp bất cộng mà chưa chứng tứ đế. Nên biết đây là bực Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát tu hành đạo Vô thượng Bồ đề trong vô lượng a tăng kỳ kiếp.
Có đại Bồ Tát an trụ sáu ba la mật thường siêng tinh tấn lợi ích chúng sanh, chẳng nói bàn đến sự vô ích.
Có đại Bồ Tát an trụ sáu ba la mật thường siêng tinh tấn lợi ích chúng sanh, từ một Phật độ đến một Phật độ để dứt diệt ba ác đạo của chúng sanh.
Có đại Bồ Tát an trụ sáu ba la mật lấy Đàn na làm đầu để đem sự lợi lạc cho tất cả chúng sanh, ban cho họ những thức ăn uống, y phục, giường phòng, hương hoa, đèn đuốc, châu ngọc, tùy theo chỗ đáng cần dùng mà cung cấp cho chúng sanh.
Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật biến thân hình như Phật để vì chúng sanh trong địa ngục, trong súc sanh, trong ngạ quỷ mà thuyết pháp.
Có đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật biến thân hình như chư Phật đến khắp mười phương hằng sa thế giới để thuyết pháp cho chúng sanh, cũng
để cúng dường chư Phật và nghe Phật pháp, cũng để xem xét lựa lấy những tướng dạnh thanh tịnh tốt đẹp của các cõi nước hầu phát khởi quốc độ của mình cho được siêu thắng, hàng đại Bồ Tát trong đây đều là bực nhứt sanh bổ xứ.
Có đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật thành tựu ba mươi hai tướng tốt, sáu căn tịnh lợi. Vì sáu căn của Bồ Tát đây tịnh lợi nên được chúnh sanh mến kính. Do chúng sanh đã mến kính, Bồ Tát nầy bèn lần lần đem pháp tam thừa cứu độ họ.
Nầy Xá Lợi Phất! Vì cớ trên đây, lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát phải học thân thanh tịnh và khẩu thanh tịnh.
Có đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật được các căn thanh tịnh vẫn không từ cao, cũng chẳng khinh người.
Có đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm an trụ Đàn na ba la mật nhẫn đến bực bất thối chuyễn trọn chẳng sa vào ba ác đạo.
Có đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm nhẫn đến bực bất thối chuyển thường chẳng bỏ rời hạnh thập thiện.
Có đại Bồ Tát an trụ trong Đàn na và Thi la ba la mật mà làm Chuyển Luân Thánh Vương, đặt chúng sanh nơi thập thiện đạo và cũng đem tài vật bố thí cho chúng sanh.
Có đại Bồ Tát an trụ trong Đàn na và Thi la ba la mật, trong vô lượng ngàn muôn đời làm Chuyển Luân Thánh Vương, gặp vô lượng ngàn muôn đức Phật và đều cung kính cúng dường tôn trọng tán thán tất cả.
Có đại Bồ Tát thường đem chánh pháp để soi sáng cho chúng sanh cũng được lợi ích tự soi sáng, nhẫn đến lúc thành Vô thượng Bồ đề trọn chẳng rời sự soi sáng đó.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát như vậy đã được tôn trọng ở trong Phật pháp. Thế nên đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật, thân, khẩu và ý đều thanh tịnh chẳng để vọng khởi”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đại Bồ Tát nghĩ rằng đây là thân, là khẩu, là ý. Thấy có tướng dạng tác dụng như vậy thời gọi là thân, khẩu, ý bất tịnh.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thấy có thân, chẳng thấy có khẩu, chẳng thấy có ý.
Nếu thấy có thân, khẩu, ý, thời do vì thấy có, nên thân, khẩu, ý có thể sanh những tâm niệm xan tham, phạm giới, sân khuể, giả đãi, tán loạn, ngu si. Phải biết Bồ Tát như đây, lúc thật hành Bát nhã ba la mật, chẳng có thể trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát dứt trừ thô nghiệp của thân, khẩu và ý?”
Đức Phật nói: “Nếu chẳng thấy có thân, khẩu và ý, đại Bồ Tát nầy có thể dứt trừ thô nghiệp của thân, khẩu và ý.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm thật hành thập thiện đạo, chẳng móng tâm Thanh Văn, chẳng móng tâm Bích Chi Phật, thời có thể dứt trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý.
Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật thanh tịnh Phật đạo, mà thật hành Đàn na, Thi na, Sằn đề, Tỳ lê gia và Thiền na ba la mật, Bồ Tát trừ được thô nghiệp của thân, khẩu và ý”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Phật đạo của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chẳng thấy có thân, khẩu và ý, chẳng thấy có Đàn na, Thi na, Sằn đề, Tỳ lê gia, Thiền na và Bát nhã ba la mật, chẳng thấy có Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật, đây gọi là Phật đạo của đại Bồ Tát. Chính đó có nghĩa là vì tất cả pháp đều bất khả đắc.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật không ai có thể phá hoại được.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! thế nào là đại Bồ Tát lúc thật hành sáu ba la mật không ai phá hoại được?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có sắc, thọ, tưởng, hành và thức, chẳng nghĩ rằng có nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân và ý, chẳng nghĩ rằng có sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, chẳng nghĩ rằng có nhãn gới, nhĩ giới, tĩ giới, thiệt giới, thân giới, ý giới, sắc giới, thanh giới, hương giới, vị giới, xúc giới, pháp giới, nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tĩ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới và ý thức giới, chẳng nghĩ rằng có tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, chẳng nghĩ rằng có Đàn na ba la mật, Thi la ba la mật, Sằn đề ba la mật, Tỳ lê gia ba la mật, Thiền na ba la mật, Bát nhã ba la mật, chẳng nghĩ rằng có thập lực, tứ vô úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp, chẳng nghĩ rằng có những quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Vô thượng Bồ đề, thật hành tăng ích sáu ba la mật như vậy thời không ai phá hoại được.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát an trụ trong Bát nhã ba la mật đầy đủ trí huệ, nhờ trí huệ nầy mà không sa vào ác đạo, cũng chẳng sanh vào trong loài người tệ ác, nghèo cùng. Thân thể của Bồ Tát nầy cảm thọ chẳng bị hàng Thiên Nhơn và A tu la chê ghét”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Những gì là trí huệ của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nhờ trí huệ ấy mà đại Bồ Tát thấy hằng sa chư Phật ở mười phương và cũng nghe Phật thuyết pháp cùng thấy Tăng chúng và thấy Phật độ nghiêm tịnh.
Do trí huệ ấy mà đại Bồ Tát chẳng có cảm tưởng Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, Thanh Văn, cũng chẳng có cảm tưởng ngã và quốc độ.
Nhờ trí huệ ấy mà đại Bồ Tát thật hành Đàn na đến Bát nhã ba la mật mà chẳng thấy có Đàn na đến Bát nhã ba la mật, thật hành tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng mà chẳng thấy có tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng.
Trên đây gọi là trí huệ của đại Bồ Tát. Nhờ trí huệ ấy mà đại Bồ Tát có thể đầy đủ tất cả pháp mà vẫn không thấy có tất cả pháp.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật thanh tịnh được nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Đây cũng gọi là ngũ nhãn thanh tịnh”.
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là nhục nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?”
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát nhục nhãn thấy xa trăm do tuần, có vị thấy toàn thể Diêm Phù Đề, có vị thấy hai thiên hạ hoặc ba bốn thiên hạ, có vị thấy khắp Tiểu Thiên thế giới, có Bồ Tát nhục nhãn thấy suốt Đại Thiên thế giới. Đây là nhục nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát”.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thiên nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát thiên nhãn thấy như tứ Thiên Vương đã thấy, hoặc như Đao Lợi Thiên, như Dạ Ma Thiên, như Đâu Suất Thiên, như Hóa Lạc Thiên, như Tha Hóa Thiên, như Phạm Thiên Vương nhẫn đến như Sắc Cứu Cánh Thiên đã thấy.
Thiên nhãn của đại Bồ Tát lại thấy chúng sanh trong hằng sa thế giới chết nơi đây sanh nơi kia. Chỗ thấy nầy chư Thiên và Tứ Vương đến cõi Sắc Cứu Cánh Thiên chẳng biết, chẳng thấy được và cũng chính là thiên nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là huệ nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy Xá Lợi Phất! Huệ nhãn của đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng có những pháp là hữu vi, là vô vi, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu, mà không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng hay, không pháp nào chẳng biết. Đây là huệ nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là pháp nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy Xá Lợi Phất! Do nơi pháp nhãn, đại Bồ Tát biết người nầy là tùy tín hành, người nầy là tùy pháp hành, người nầy là vô tướng hành, cũng biết người nầy tu môn không giải thoát, người nầy tu môn vô tướng giải thoát, người nầy tu môn vô tác giải thoát, người nầy được ngũ căn, do được ngũ căn mà được vô gián tam muội. do được vô gián tam muội mà được trí giải thoát, do được trí giải thoát mà dứt trừ tam kiết, là thấy có ngã, nghi ngờ và giới thủ, người nầy được gọi là quả Tu Đà Hoàn. Bồ Tát cũng biết người nầy được tư duy đạo làm mỏng bớt tham sân si, được quả Tư Đà Hàm, người nầy tăng tấn tư duy đạo dứt tham sân si Dục giới, được quả A Na Hàm, người nầy tăng tấn tư duy đạo dứt tham sân si mạn Sắc giới và Vô sắc giới, được quả A La Hán. Bồ Tát cũng biết người nầy tu môn giải thoát không vô tướng, vô tác được ngũ căn, được vô gián tam muội mà được trí giải thoát, do trí giải thoát biết rõ bao nhiêu phiền não nghiệm nhơn tích tập đều là pháp tịch diệt, được quả Bích Chi Phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ Tát thấy như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Do nơi pháp nhãn, đại Bồ Tát biết người nầy sơ phát tâm bồ đề thật hành sáu ba la mật thành tựu tín căn và tinh tấn căn, người nầy thiện căn thuần hậu, vì dùng sức phương tiện mà thọ thân để lợi ích chúng sanh: hoặc sanh lòng Sát Đế Lợi, hoặc sanh dòng Bà La Môn, hoặc sanh dòng Cư Sĩ, hoặc sanh cõi trời Tứ Vương, trời Đau Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa, luôn giáo hóa
thành tựu chúng sanh và cấp thí cho họ đầy đủ mọi thứ cần dùng, đồng thời thanh tịnh Phật độ, cung kính cúng dường chư Phật mãi đến đạo Vô thượng Bồ đề chẳng sa vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Pháp nhãn thanh tịnh của Bồ Tát thấy biết như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Do nơi pháp nhãn, đại Bồ Tát biết vị Bồ Tát nầy thối chuyễn nơi đạo Vô thượng Bồ đề, vị Bồ Tát nầy không thối chuyễn, vị Bồ Tát nầy đã được thọ ký làm Phật, vị Bồ Tát nầy chưa được thọ ký, vị Bồ Tát nầy đã đến bực bất thối chuyễn, vị Bồ Tát nầy chưa đến bực bất thối chuyễn, cũng biết vị Bồ Tát nầy đầy đủ thần thông bay đến mười phương hằng sa thế giới, cung kính cúng dường chư Phật, cũng biết vị nầy chưa được thần thông rồi sẽ được thần thông, cũng biết vị nầy thanh tịnh Phật độ, vị nầy chưa thanh tịnh Phật độ, vị nầy thành tựu chúng sanh, vị nầy chưa thành tựu chúng sanh, vị nầy được chư Phật khen ngợi, vị nầy chưa được chư Phật khen ngợi, vị nầy hầu hạ chư Phật, vị nầy không hầu hạ gần chư Phật, vị nầy thọ mạng vô lượng, vị nầy thọ mạng hữu lượng, vị Bồ Tát nầy lúc thật hành Phật chúng Tỳ Kheo hữu lượng, vị nầy chúng Tỳ Kheo vô lượng, vị nầy lúc thật hành Phật dùng Bồ Tát làm Tăng, vị nầy không dùng Bồ Tát làm Tăng, vị nầy tu khổ hạnh khó làm, vị nầy không tu khổ hạnh khó làm, vị nầy là nhứt sanh bổ xứ, vị nầy chưa nhứt sanh bổ xứ, vị nầy thọ thân tối hậu, vị nầy chưa thọ thân tối hậu, vị nầy ngồi đạo tràng, vì nầy không thể ngồi đạo tràng, vị nầy có phá ma, vì nầy không có ma. Những sự thấy biết nầy là pháp nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Phật nhãn thanh tịnh của đại Bồ Tát?
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát từ nơi tâm cầu Phật đạo tuần tự nhập Kim cang tam muội được nhứt thiết chủng trí, bấy giờ thành tựu thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp, đại từ, đại bi. Dùng nhứt thiết chủng trí, trong tất cả pháp, không pháp nào chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết. Nên biết đây là Phật nhãn thanh tịnh lúc đại Bồ Tát được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Muốn được ngũ nhãn thời phải học Bát nhã ba la mật.
Tại sao vậy? Vì trong sáu ba la mật nhiếp tất cả thiện pháp, những là Thanh Văn pháp, Bích Chi Phật pháp, Bồ Tát pháp và Phật pháp.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiệt ngữ có thể nhiếp tất cả thiện pháp, thời chính đó là Bát nhã ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Bát nhã ba la mật hay phát sanh ngũ nhãn. Bồ Tát học ngũ nhãn thời được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật tu thần thông ba la mật, do đây được những sự như ý. Như là chấn động đại địa, biến một thân làm vô số thân, vô số thân hoàn lại một thân, hoặc ẩn hoặc hiện đều tự tại, đi qua núi vách cây đá không chướng ngại như đi trong hư không, đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, đi trong không gian như chim bay,
vào ra trong đất đá như trồi hụp trong nước, trong thân tuôn lửa, tuôn nước như đống lửa to, như nguồn suối trên núi tuyết, có thể lấy tay rờ mặt nhựt, mặt nguyệt, có thể rờ đến Phạm Thiên, thân thể luôn được tự tại. Dầu hiện những thần thông như ý mà đại Bồ Tát nầy chẳng thấy có thần thông, chẳng thấy có sự thần thông cũng chẳng thấy có thân, tất cả đều bất khả đắc, vì là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh. Thế nên đại Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta được như ý thần thông, trừ khi vì tâm nhứt thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát được như ý thần thông trí chứng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Vì thiên nhĩ thanh tịnh hơn nhơn nhĩ, Bồ Tát nầy nghe hai thứ tiếng: tiếng của cõi trời và tiếng của loài người. Dầu như vậy nhưng Bồ Tát nầy cũng chẳng thấy có thiên nhĩ thần thông. Thiên nhĩ cùng âm thanh và thân mình đều bất khả đắc. Vì là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh nên Bồ Tát chẳng nghĩ rằng ta có thiên nhĩ, trừ khi vì tâm nhứt thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật Bồ Tát nầy được thiên nhĩ thần thông trí chứng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nầy biết đúng như thiệt tâm của những chúng sanh khác. Nếu là dục tâm, sân tâm, si tâm,
khác ái tâm, thọ tâm, tán tâm, loạn tâm, tiểu tâm, bất giải thoát tâm, hữu thượng tâm, thời Bồ Tát nầy biết đúng là dục tâm nhẫn đến biết đúng là hữu thượng tâm. Nếu là ly dục tâm, ly sân tâm, ly si tâm, vô khác ái tâm, vô thọ tâm, nhiếp tâm, định tâm, đại tâm, giải thoát tâm, vô thượng tâm, thời Bồ Tát nầy biết là đúng là tâm ly dục nhẫn đến biết đúng là tâm vô thượng. Dầu biết đúng như thiệt nhưng Bồ Tát nầy chẳng thấy có những tâm ấy. Tại sao vậy? Vì tâm ấy chẳng phải có thiệt tâm tướng, vốn là chẳng thể nghĩ bàn. Vì là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh nên Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta được tha tâm trí chứng, trừ ki vì tâm nhứt thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, Bồ Tát nầy được tha tâm thần thông trí chứng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát dùng túc mạng trí chứng thần thông nhớ một ngày, một tháng, một năm, một kiếp nhẫn đến nhớ vô số trăm ngàn muôn ức kiếp ta ở chỗ đó, tên họ đó, sanh hoạt ăn uống như vậy, sống bao lâu, bị khổ hưởng vui như vậy, từ chỗ đó chết sanh đến chỗ kia, từ chỗ kia chết sanh đến chỗ đó, có tướng dạng, có nhơn duyên như vậy nhưng Bồ Tát nầy chẳng thấy có túc mạng thần thông, chẳng thấy có sự túc mạng thần thông và thân mình. Tất cả đều bất khả đắc. Vì là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh nên Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta có túc mạng thần thông, trừ lúc vì tâm nhứt thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, Bồ Tát nầy được túc mạng thần thông trí chứng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nầy dùng thiên nhãn thấy những chúng sanh lúc sau, lúc tử thân đẹp hay xấu, chỗ ở tốt hay xấu, hoặc thân lớn hoặc thân nhỏ, cũng thấy chúng sanh theo nhơn duyên của nghiệp, có những chúng sanh vì thân khẩu ý ác nghiệp thành tựu nên hủy báng hiền thánh, do nhân duyên tà
kiến mà khi chết phải đọa ác đạo sanh trong địa ngục, có những chúng sanh thân, khẩu, ý thiện nghiệp thành tựu mà kính tin hiền thánh, do nhân duyên chánh kiến mà khi chết được vào thiện đạo sanh lên các cõi trời. dầu thấy biết như vậy mà Bồ Tát nầy chẳng thấy có thiên nhãn thần thông cùng sự thiên nhãn thần thông và thân mình. Tất cả đều bất khả đắc. Vì là tự tánh không, tự tánh lý, tự tánh vô sanh nên Bồ Tát nầy chẳng nghĩ rằng ta có thiên nhãn thần thông, trừ lúc vì tâm nhất thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, Bồ Tát nầy được thiên nhãn thần thông trí chứng như vậy.
Bồ Tát nầy cũng thấy rõ chúng sanh trong hằng sa thế giới ở mười phương chết đây sanh kia nhẫn đến sanh lên các cõi trời, tất cả bốn thần thông đều có công năng thấu suốt như vậy. Đây là lậu tận thần thông của Bồ Tát. Dầu được lậu tận thần thông mà Bồ Tát nầy chẳng sa vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, mãi đến quả vô thượng Bồ đề vẫn chẳng y cú pháp nào khác ngoài
Bát nhã ba la mật. Bồ Tát nầy cũng chẳng thấy có lậu tận thần thông cùng sự lậu tận thần thông và thân mình. Tất cả đều bất khả đắc. Vì là tự tánh không, tự tánh ly, tự tánh vô sanh nên Bồ tát nầy chẳng nghĩ ta được lậu tận thần thông, trừ lúc vì nhất thiết trí.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, Bồ Tát nầy được lậu tận thần thông trí chứng như vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát đầy đủ thần thông ba la mật, do đây mà quả vô thượng Bồ đề được tăng ích.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Đàn na ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, chẳng sanh tâm xan lẫn vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Thi la ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, chẳng dích mắc nơi có tội cùng chẳng có tội vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Sằn đề ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, chẳng sân hận vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Tỳ lê gia ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, thân tâm luôn tinh tấn, chẳng trễ lười thôi nghĩ vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Thiền na ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, chẳng loạn động, chẳng say sưa thiền vị vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Có đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật an trụ trong Bát nhã ba la mật để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, chẳng sanh tâm ngu su vậy.
Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc thật hành bát nhã ba la mật an trụ trong sáu ba la mật như vậy để thanh tịnh nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, vì chẳng đến chẳng đi, vì chẳng thí chẳng thọ, vì chẳng phải giới cấm chẳng phải phạm tội, vì chẳng phải nhẩn chẳng phải sân, vì chẳng phải siêng năng chẳng phải lười, vì chẳng định chẳng loại, vì chẳng trí chẳng ngu vậy. Bấy giờ đại Bồ Tát chẳng phân biệt bố thí cùng chẳng bố thí, chẳng phân biệt trì giới cùng phạm giới, chẳng phân biệt nhẫn nhục cùng sân khuể, chẳng phân biệt tinh tấn cùng giải đãi, chẳng phân biệt định tâm cùng loại tâm, chẳng phân biệt trí tuệ cùng ngu si, chẳng phân biệt hủy hại khinh mạn cùng cung kính tôn trọng.
Tại sao vậy? Vì trong pháp vô sanh chẳng có ai lãnh thọ sự hủy hoại, không có ai lãnh thọ sự khinh mạn hay cung kính.
Nầy Xá Lợi Phất! Thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát dược những công đức như vậy. hàng Thanh Văn và Bích
Chi Phật không có được những công đức nầy. Do đây đại Bồ Tát đầy đủ thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, được nhất thiết chủng trí.
Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, ở trong tất cả chúng sanh đại Bồ Tát sanh tâm bình đẳng. Đã sanh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, Bồ Tát được pháp bình đẳng. Đã được tất cả pháp bình đẳng, Bồ Tát đặt để tất cả chúng sanh trong pháp bình đẳng đó.
Đại Bồ Tát nầy hiện đời được chư Phật mười phương yêu mến, cũng được tất cả Bồ Tát, Bích Chi Phật, Thanh Văn kính mến.
Bất luận thọ sanh ở chỗ nào, đại Bồ Tát nầy, trong nhãn căn thẳng thấy có sắc cũng chẳng ái sắc, nhẫn đến trong ý căn chẳng biết có pháp cũng chẳng ái pháp.
Nầy Xá Lợi Phất!? Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật như vậy chẳng tổn giảm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc đức Phật giảng thuyết phẩm Bát nhã ba la mật, trong pháp hội có ba trăm Tỳ Kheo đứng dậy dâng y cúng dường đức Phật và phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Đức Phật mỉm cười, từ miệng Phật chiếu ra những ánh sáng nhiều màu.
Ngài A Nan liền đứng dậy sửa y phục quỳ gối chắp tay bạch đức Phật hỏi duyên cớ mà đức Phật mỉm cười.
Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Sáu mươi mốt kiếp sau, ba trăm Tỳ Kheo nầy sẽ thành Phật hiệu là Đại Tướng. Sau khi bỏ thân nầy, ba trăm Tỳ Kheo đây sẽ sanh về cõi nước của đức Phật A Súc, cùng với sáu vạn thiên tử Dục giới đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề, sẽ xuất gia tu hành Phật đạo trong chánh pháp của đức Phật Di Lặc.
Bấy giờ do oai thần của Phật mà hàng tứ chúng trong pháp hội thấy ngàn đức Phật ở mỗi phương trong mười phương, quốc độ trong mười phương ấy đều nghiêm tịnh hơn cõi Ta Bà nầy. Có mười ngàn người phát nguyện tu tịnh hạnh để sanh về thế giới của chưu Phật đó.
Đức Phật biết tâm nguyện của chúng thiện nam tử nầy nên lại mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra những ánh sáng.
Ngài A Nan bạch đức Phật hỏi duyên cớ. Đức Phật nói mười ngàn người ấy sẽ sanh về các thế giới mười phương, mãi không rời chư Phật. Sau đây sẽ đều thành Phật, đồng hiệu là Trang Nghiêm Vương Như Lai.
PHẨM TÁN THÁN BA LA MẬT
THỨ NĂM
Bấy giờ các Ngài Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Diếp cùng chúng đại Tỳ Kheo, chúng đại Bồ Tát, chúng Ưu Bà Tắc, chúng Ưu Bà Di đứng dậy quỳ gối chấp tay thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ma ha ba la mật là Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát. Tôn ba la mật, đệ nhứt ba la mật, thắng ba la mật, diệu ba la mật, vô thượng ba la mật, vô đẳng ba la mật, vô đẳng đẳng ba la mật, như hư không ba la mật đều là Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn! Tự tướng không ba la mật, tự tánh không ba la mật, chư pháp không ba la mật, vô pháp hữu pháp không ba la mật, khai nhứt thiết công đức ba la mật, thành tựu nhứt thiết công đức ba la mật, bất khả hoại ba la mật đều là Bát nhã ba la mật của đại Bồ Tát
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật nầy làm vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ vô đẳng đẳng Đàn na ba la mật, được vô đẳng đẳng thân và vô đẳng đẳng pháp, đây chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như Đàn na ba la mật, năm ba la mật kia cũng vậy.
Đức Thế Tôn cũng vốn đã thật hành Bát nhã ba la mật nầy mà đầy đủ sáu ba la mật, được vô đẳng đẳng pháp được vô đẳng đẳng sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thành Phật chuyển vô đẳng đẳng pháp luân.
Quá khứ chư Phật cũng thật hành bát nhã ba la mật nầy mà đầy đủ vô đẳng đẳng bố thí nhẫn đến chuyển vô đẳng đẳng pháp luân.
Vị lai chư Phật cũng thật hành Bát nhã ba la mật nầy sẽ đầy đủ vô đẳng đẳng bố thí nhẫn đến sẽ chuyển vô đẳng đẳng pháp luân.
Vì thế nên chư đại Bồ Tát muốn vượt đến tất cả pháp bỉ ngạn phải thật hành Bát nhã ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả thế gian, hàng Trời, Người và A tu la đều phải lễ kính cúng dường đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật.
Đức Phật nói: "Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nầy các thiện nam tử! Tất cả thế gian hàng Trời, Người và A tu la đều phải lễ kính cúng dường người thật hành Bát nhã ba la mật. Tại sao vậy? Vì nhơn nơi Bồ Tát nầy qua lại mà thế gian xuất sanh các thiện đạo như loài Người, loài Trời từ Tứ Thiên Vương đến Sắc Cứu Cánh Thiên, cũng xuất sanh Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A
Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật và chư Phật. Nhơn nơi Bồ Tát nầy qua lại mà thế gian xuất sanh những thứ cần dùng như đồ uống ăn, y phục, đèn đuốc, phòng nhà , châu báu.
Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả những thứ vui thích của thế gian hoặc là dục lạc hay ly dục lạc trong nhơn gian hay trên các cõi trời đều là do Bồ Tát nầy mà có.
Tại sao vậy? Vì lúc thật hành Bồ Tát đạo, đại Bồ tát nầy an trụ nơi sáu ba la mật, tự làm bố thí cũng đem sự bố thí để thành tựu chúng sanh, nhẫn đến tự làm Bát nhã ba la mật và cũng đem Bát nhã ba la
mật để thành tựu chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế nên vì an lạc tất cả chúng sanh mà đại Bồ Tát xuất hiện thế gian vậy.
PHẨM TƯỚNG LƯỠI
THỨ SÁU
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài trùm khắp Đại Thiên thế giới. Từ nơi tướng lưỡi phóng ra vô số ánh sáng, vô lượng màu chiếu suốt hằng sa thế giới ở mười phương.
Đông phương, trong hằng sa thế giới có vô lượng vô số Bồ Tát thấy ánh sáng nầy đều bạch hỏi đức Phật của mình về ánh sáng ấy. Chư Phật bảo đó là từ tướng lưỡi của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở Ta Bà thế giới phương Tây phóng ra ánh sáng ấy để vì chư đại Bồ Tát mà thuyết Bát nhã ba la mật.
Như phương Đông chín phưong kia chư Bồ Tát bạch hỏi và chư Phật giải đáp cũng vậy.
Chư Bồ Tát ở mười phương đều bạch cùng đức Phật của mình cầu được đến Ta Bà để kính lễ Thích Ca Mâu Ni Phật cùng gặp gỡ chư đại Bồ Tát và nghe Bát nhã ba la
mật. Chư Phật đều bằng lòng.
Chư Bồ Tát ở mười phương đem theo những hoa báu, hương báu, tràng phan bửu cái, vàng bạc, châu ngọc đến Ta Bà thế giới. Chư Thiên ở cõi Tứ Vướng đến Sắc Cứu Cánh Thiên cũng đem những hoa trời, hương trời, cây trời, lá trời cùng nhiều loại hoa sen cõi trời, đồng đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật.
Những hoa của chư đại Bồ Tát và của Chư Thiên rải cúng dường đều dừng ở không gian hóa thành đài báu có bốn trụ nhiều màu sắc rất trang nghiêm.
Trong chúng hội của Thích Ca Mâu Ni Phật có mười vạn ức người đều đứng dậy chấp tay thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Đời vị lai, chúng tôi cũng sẽ được những pháp như Thích Ca Mâu Ni Phật, chúng hội đệ tử và thuyết pháp cũng vậy”.
Vì biết đại chúng nầy chí tâm nơi pháp bất sanh, bất diệt, bất xuất, bất tác đã được pháp nhẫn nên đức Phật mỉm cười, từ miệng đức Phật phóng ra những ánh sáng nhiều màu.
Ngài A Nan bạch Phật hỏi duyên cớ.
Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Mười vạn ức người nầy đã được vô sanh nhẫn, sáu mươi tám ức kiếp sau sẽ được thành Phật nơi kiếp Hoa Tích, đồng hiệu là Giác Hoa Như Lai"
PHẨM TAM GIẢ
THỨ BẢY
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: "Ông nên dạy chư đại Bồ tát về Bát nhã ba la mật đúng như chư đại Bồ Tát đáng phải thành tựu”.
Liền đó toàn thể chúng hội Bồ Tát, Thanh Văn, chư Nhơn, Thiên đều nghĩ rằng Ngài Tu Bồ Đề sẽ tự dùng trí tuệ của Ngài hay là nương thần lực của đức Phật mà giảng thuyết Bát nhã ba la mật cho chư đại Bồ Tát?
Biết quan niệm của chúng hội, Ngài Tu Bồ Đề nói với Ngài Xá Lợi Phất:
"Phàm hàng Thanh Văn đệ tử có thuyết pháp, có giáo thọ đều là nương thần lực của đức Phật cả”.
Lời của Phật giảng dạy chẳng trái với pháp tướng, như ngọn đèn sáng. Các thiện nam tử tu học theo pháp ấy được chứng pháp ấy.
Hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật thiệt không có khả năng giảng thuyết Bát nhã ba la mật cho chư đại Bồ Tát.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát đã nói đó, pháp gì gọi là Bồ Tát?
Chúng con chẳng thấy pháp chính xác nào gọi là Bồ Tát, thời thế nào dạy Bồ Tát về Bát nhã ba la mật?
Đức Phật nói: "Nầy Tu Bồ Đề! thật ra chỉ có danh tự gọi là Bát nhã ba la mật. Bồ Tát cùng tên Bồ Tát cũng chỉ có danh tự mà thôi. Danh tự nầy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nói ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, tri giả, kiến giả, tác giả, khởi giả, đều là những pháp do hoà hiệp mà có. Những tên gọi đây vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Cũng vậy Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, cũng vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói.
Ví như thân thể do hòa hiệp mà có, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng do hòa hiệp mà có, đều là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn giới, nhĩ giới nhẫn đến ý thức giới, tất cả thập nhị xứ cùng thập bát giới ấy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Những thứ ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian.
Cũng vậy, Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian,
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nội thân gọi là đầu, cổ, vai, cánh, lưng, hông, vế, chân, ngoại vật gọi là cỏ, cây, nhánh, lá, cọng, mắt, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian.
Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Ví như danh hiệu của chư Phật quá khứ do hòa hiệp mà có, cũng là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian. Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy.
Ví như bóng vang,
mộng ảo, diệm hóa đều do hòa hiệp mà có, chỉ dùng danh tự để nói, những thứ ấy cùng danh tự vốn là bất sanh, bất diệt, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải trung gian. Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, là bất sanh, bất diệt, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở trung gian.
Nầy Tu Bồ Đề! Phải học tập như vầy: Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, danh tự của Bát nhã ba la mật cùng sự nhẫn thọ Bát nhã ba la mật và chính pháp Bát nhã ba
la mật đều là giả thi thiết cả.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thấy sắc danh tự cùng thọ, tưởng, hành, thức danh tự là thường, là vô thường, là khổ, là lạc, là ngã, là vô ngã, là cấu, là tịnh, cũng chẳng thấy danh tự năm uẩn nầy là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch diệt, là sanh, là diệt, là ở trong, ở ngoài, ở trung gian.
Như năm uẩn, nhãn căn, sắc trần, nhãn thức, nhãn xúc sanh ra những cảm thọ, nhẫn đến ý căn, pháp trần, ý thức, ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra những cảm thọ cũng vậy. Đại Bồ Tát đều chẳng thấy là thường, là vô thường nhẫn đến chẳng thấy ở trung gian.
Tại sao vậy? Vì lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát ở trong tánh hữu vi, trong tánh vô vi đều không thấy Bát nhã ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát. Đối với những pháp nầy, đại Bồ Tát chẳng móng niệm phân biệt.
Thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát nầy an trụ trong bất hoại pháp, lúc tu tứ niệm xứ cho đến lúc tu mười tám pháp bất cọng, chẳng thấy Bát nhã ba la mật cùng danh tự của Bát nhã ba la mật chẳng thấy Bồ Tát cùng danh tự của Bồ Tát.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chỉ biết thiện tướng của các pháp. Thiệt tướng nầy là chẳng cấu, chẳng tịnh.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật đại Bồ Tát phải biết danh tự là giả thi thiết. Đã biết danh tự là giả thi thiết rồi thời chẳng chấp trước nơi sắc, thọ tưởng, hành, thức, chẳng chấp trước nơi nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng chấp trước nơi nhãn giới đến ý thức giới, chẳng chấp trước nơi nhãn xúc cùng nhơn duyên của xúc đến ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra sự cảm thọ hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc bất khổ, bất lạc, chẳng chấp trước tánh hữu vi, tánh vô vi, chẳng chấp trước Đàn na, Thi la, Sằn đề, Tỳ lê gia, Thiền na và Bát nhã ba la mật, chẳng chấp trước ba mươi hai tướng, chẳng chấp trước thân Bồ Tát, chẳng chấp trước nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, chẳng chấp trước trí ba la mật, thần thông ba la mật, chẳng chấp trước nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, chẳng chấp trước thành tựu chúng sanh, chẳng chấp trước thanh tịnh Phật độ? , chẳng chấp trước pháp phương tiện.
Tại sao vậy? Vì những pháp nầy đều là rỗng không nên chẳng có người chấp trước, chẳng có pháp bị chấp trước, chẳng có chỗ chấp trước.
Lúc thật hành Bát nhã ba la mật, đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp bèn tăng ích sáu ba la mật lên bực Bồ Tát bất thối chuyển, đủ đại thần thông đến Phật độ nầy đến Phật độ kia để cúng dường chư Phật, độ thoát chúng sanh, thanh tịnh Phật quốc, cũng để nghe chư Phật thuyết pháp. Nghe xon nhớ mãi đến lúc thành Vô thượng Bồ đề vẫn chẳng quên, được những môn đà la ni cùng những môn tam muội.
Thế nên đại Bồ Tát lúc thật hành Bát nhã ba la mật phải biết rõ các pháp danh tự là giả thi thiết.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Như như tướng của ngũ uẩn nhẫn đến như như tướng của thập nhị nhơn duyên có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Rời ngoài như như tướng ấy có phải là Bồ Tát chăng?
Không phải. Bạch đức Thế Tôn!
Nầy Tu Bồ Đề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp ấy không phải là Bồ Tát như vậy?
Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là Bồ Tát. Sắc còn bất khả đắc huống là sắc hay rời sắc là Bồ Tát, huống là như như tướng của sắc hay rời như như tướng của sắc là Bồ Tát. Nhẫn đến thập nhị nhơn duyên hay rời thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát, huống là như như tướng hay rời như như tướng của thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát.
Lành thay, lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì đại Bồ Tát và chúng sanh bất khả đắc nên Bát nhã ba la mật cũng bất khả đắc. Cần phải học như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thường vô thường, lạc, khổ, ngã vô ngã có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng?
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phi không, tướng? Vô tướng, tác vô tác có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng? Nhẫn đến lão, tử cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Không phải.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông thấy những nghĩa gì mà cho rằng ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên không phải nghĩa của Bồ Tát, ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên, thường vô thường nhẫn đến tác vô tác đều không phải nghĩa của Bồ Tát?
Bạch đức Thế Tôn! Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của Bồ Tát. Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên, thường đến vô tác còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của Bồ Tát.
Lành thay, lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật, nghĩa của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến nghĩa vô tác đều bất khả đắc. Phải học Bát nhã ba la mật như vậy.
Nầy Tu Bồ Đề! Ông nói rằng ông không thấy có pháp chính xác nào gọi là Bồ Tát.
Phải biết rằng các pháp chẳng thấy các pháp. Các pháp chẳng thấy pháp tánh. Pháp tánh cũng chẳng thấy các pháp. Pháp tánh chẳng thấy địa chủng, địa chủng chẳng thấy pháp tánh, nhẫn đến thức chủng cũng như vậy. Pháp tánh chẳng thấy nhãn và sắc cùng nhãn thức tánh nhẫn đến ý thức tánh, nhãn sắc, nhãn thức tánh nhẫn đến ý thức tánh cũng chẳng thấy pháp tánh.
Nầy Tu Bồ Đề! Hữu vi tánh chẳng thấy vô vi tánh, vô vi tánh cũng chẳng thấy hữu vi tánh. Tại sao vậy? Vì rời hữu vi chẳng thể nói vô vi, rời vô vi chẳng thể nói hữu vi.
Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thật hành Bát nhã ba la mật đối với các pháp đều không chỗ thấy. Bấy giờ Bồ Tát không kinh sợ, chẳng hối tiếc, tâm cũng chẳng trầm một.
Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát nầy chẳng thấy ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới nhẫn đến chẳng thấy thập nhị nhơn duyên, chẳng thấy ngã chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả, chẳng thấy Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng thấy Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng thấy Bồ Tát và pháp của Bồ Tát, chẳng thấy Phật, Phật pháp và Phật đạo.
Vì tất cả pháp đều chẳng thấy nên Bồ Tát chẳng kinh sợ, chẳng hối tiếc, chẳng trầm một.
Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ Tát nầy chẳng hối tiếc, chẳng trầm một?
Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả tâm và tâm sở của đại Bồ Tát đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên tâm của Bồ Tát chẳng trầm một, chẳng hối tiếc.
Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ Tát chẳng kinh sợ?
Nầy Tu Bồ Đề! Ý và ý thức của Bồ Tát nầy đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên Bồ Tát chẳng kinh, chẳng sợ.
Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp bất khả đắc nên đại Bồ Tát phải thật hành Bát nhã ba la mật.
Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả nơi chỗ đại Bồ Tát chẳng Bát nhã ba la mật, chẳng thấy Bồ Tát, chẳng thấy danh dự Bồ Tát, cũng chẳng thấy tâm Bồ Tát. Đây chính là dạy hàng đại Bồ Tát.
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam-mô thập phương thường trụ Tam-Bảo (3 lần)
Lạy đấng tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh Bát-Nhã
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm
Khi mãn báo-thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Vạn Đức đường thượng, từ Lâm Tế Gia Phổ, tứ thập nhất thế, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng TRÍ hạ TỊNH thùy từ minh chứng (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
HÒA NAM THÁNH CHÚNG
NIỆM PHẬT
LỜI KHAI THỊ.- Tất cả pháp của Phật dạy đều có tông chỉ, y theo tông chỉ mà thực hành mới có kết quả. Tông chỉ của môn niệm Phật là TÍN, NGUYỆN và HẠNH.
Thế nào là TÍN ? - Tin chắc cõi Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm ở cách đây mười muôn ức Phật độ về phương Tây là chỗ mình nguyện sẽ về. Tin chắc nguyện lực của Phật A Di Đà, nhiếp thọ người niệm Phật văng sinh. Tin chắc mình niệm Phật đây quyết sẽ được vãng sinh về Cực Lạc thế giới ở bậc Bất thối chuyển Bồ Tát. Được như vậy gọi là TIN SÂU.
Thế nào là NGUYỆN ? - Mong mỏi được về Cực Lạc thế giới như viễn khách nhớ cố hương. Mong mỏi được ở gần Phật A Di Đà như con thơ nhớ từ mẫu, ngày ngày ngưỡng vọng Tây phương mà lòng mãi ngậm ngùi. Phút phút trông chờ Từ phụ mà mắt luôn trông ngóng. Nguyện rời cõi trược ác. Nguyện về Tịnh độ an lành. Nguyện thành Phật. Nguyện độ chúng sinh. Như trên đây gọi là NGUYỆN THIẾT.
Thế nào là HẠNH? - Dùng lòng tin và chí nguyện ở trên mà xưng niệm hồng danh “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm đều được cả miễn là khi niệm phải đủ bốn điều dưới đây mới gọi là thực hành đúng pháp.
1) RÀNH RÕ.- Rành là từng chữ, từng câu rành rẽ không lộn lạo. Rõ là mình tự nhận lấy tiếng niệm rõ ràng không trại không mờ.
2) TƯƠNG ỨNG.- Tiếng hiệp với tâm, tâm duyên theo tiếng. Tâm và tiếng hiệp khắn với nhau.
3) CHÍ THIẾT.- Chí thành tha thiết nhớ tưởng đến Phật. Như con thơ mắc nạn mà kêu cầu từ mẫu cứu vớt.
4) NHIẾP TÂM.- Để tâm vào tiếng niệm Phật, không cho tạp niệm xen vào. Nếu xao lãng thời liền thâu lại, chăm chú nhận rõ lấy tiếng niệm Phật của minh.
Lòng tin sâu chắc và nguyện vọng tha thiết mà niệm Phật chuyên cần như trên, đó là NIỆM PHẬT ĐÚNG PHÁP. Niệm Phật đúng pháp rồi chí tâm hồi hướng cầu sinh, thời quyết định vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc thế giới ở chung với chư Bồ Tát thượng thiện nhân, gần gũi Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trụ bậc Bất thối chuyển, một đời sẽ thành Phật.
Kệ rằng :
Nam mô A Di Đà
Không gấp cũng không hưởn
(Hạ Thủ Công Phu)
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
(Tương Ưng với Giới, Định, Huệ)
Nhiếp tâm là Định học
Nhận rõ chính Huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
(Sự Nhất Tâm)
Nhất tâm Phật hiện tiền
Tam-muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
(Lý nhất Tâm)
Chứng lý pháp thân hiện
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà
Cố gắng hết sức mình
(Phát Nguyện Vãng-sanh Cực-lạc)
Cầu đài sen thượng phẩm.
(Giảng Giải Kinh Pháp Bảo Đàn - HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ-TỊNH)
Tâm Nguyện Của Dịch Giả
Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích
…
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại VÀI DÒNG NÀY, CHÍNH TÔI, PHẢI CHÍNH TÔI, KHÔNG DÁM ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa Vạn Ðức
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ .
(08-10-1989)
Thích Trí Tịnh
Cẩn Chí
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
MỘT TRĂM BÀI KỆ NIỆM PHẬT
Tế Tỉnh Đại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường
27.
Nhứt cú Di Ðà |
Một câu A Di Ðà |
Có một độ, bút giả vừa tụng xong bộ kinh Hoa Nghiêm, tâm niệm bỗng vắng lặng quên hết điều kiến giải, hồn nhiên viết ra bài kệ sau:
Vi trần phẫu xuất đại thiên kinh
Nghĩ giải thiên kinh không dịch hình!
Vô lượng nghĩa tâm toàn thể lộ
Lưu oanh hựu chuyển tịch thường thinh.
Bài kệ này có ý nghĩa: Chẻ hạt bụi cực vi để lấy ra tạng kinh rộng nhiều bằng cõi Ðại Thiên thế giới. Tạng kinh ấy đã từ điểm bụi cực vi nơi Không Tâm diễn ra, thì tìm hiểu nghĩa lý làm chi cho mệt tâm hình? Tốt hơn là nên trở về chân tâm, bởi tâm này đã sẵn đầy đủ vô lượng vô biên diệu nghĩa, lúc nào cũng lồ lộ hiện bày. Kìa chim oanh bay chuyền trên cành cây kêu hót, đang nói lên ý nghĩa chân thường vắng lặng ấy!
Câu niệm Phật cũng thế, nó bao hàm vô lượng vô biên nghĩa lý nghiệm mầu, đâu phải chỉ một Ðại Tạng Kinh? Gọi một Ðại Tạng Kinh chỉ là lời nói ước lược mà thôi. Khi niệm Phật dứt hết vọng tưởng, đi thẳng vào chân tâm hay vô lượng nghĩa tâm thì ánh sáng tự tâm phát hiện dọc ngang chói suốt bốn bề. Tâm cảnh ấy dứt hết sự đối đãi, u linh nhiệm mầu không thể diễn tả!
VÔ NHẤT Thích Thiền-Tâm
Comments
Post a Comment